



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 48302938 1 MỤC LỤC Đề mục Trang
Mục lục................................................................................................... 1
Mở đầu................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết...................................................................................... 3
2. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................... 3
5. Bố cục của Tiểu luận.......................................................................... 4
Chương I: Khái quát về phật giáo...................................................... 5
1.1. Nguồn gốc ra đời............................................................................. 5
1.2. Những tư tưởng cơ bản của Triết học Phật giáo............................. 6
1.3. Những điểm tích cực của Phật giáo.............................................. 10
1.4. Những hạn chế của Phật giáo....................................................... 13
Chương II: Một số ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội và con
người Việt Nam..................................................................................... 14
2.1. Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay................... 14
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến thế hệ trẻ........................................ 2.3. 17
Phát huy tính hợp lý của Phật giáo trong xây dựng đời sống văn
hóa hiện nay...................................................................................... 19
Chương III: Vận dụng phật giáo đối với xây dựng tư tưởng đời
sống văn hóa ở nước ta hiện nay......................................................... 20
KẾT LUẬN............................................................................................ 21 MỞ ĐẦU
Tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, có ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, văn
hóa, đạo đức, an ninh quốc phòng... của đất nước. Vì vậy khi đề cập đến sự tín
ngưỡng tâm linh, đời sống tinh thần của người Việt Nam thì không thể không nói
đến Phật giáo. Đa phần người dân Việt Nam điều tôn sùng đạo phật. Vì lẽ đó mà
Phật giáp trở thành quốc đạo ở các thời Đinh, Lý, Trần… hiện nay Phật giáo giữ
vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Đảng và nhà
nước ta đã công nhận những thành quả tốt đẹp và những cống hiến to lớn của Phật
giáo Việt Nam cho toàn dân, toàn xã hội và đang khuyến khích phát huy những giá trị tốt đẹp ấy.
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta gặp biết bao áp lực, trở ngại của cuộc
sống cũng như hiểm họa thiên tai từ thiên nhiên… nếu tâm hồn chúng ta không
có nơi nào để giải tỏa, để nương tựa để tin tưởng thì có lẽ không một ai có thể
vượt qua. Phật giáo như là chỗ dựa tinh thần vững chắc của mỗi người Việt Nam, lOMoAR cPSD| 48302938 2
như là người mẹ hiền, là ánh sáng soi đường cho những người con lầm lỡ, là sự
sống cho người chết và là trái tim lương thiện trong mỗi con người.
Vậy khi nghiên cứu về những tư tưởng cơ bản của Phật giáo Ấn độ cổ đại và
những ảnh hưởng tới đời sống tinh thần ở nước ta hiện nay cần quan tâm đến các
vấn đề thế giới quan triết học về thế giới, về con người, và về xã hội. Những tư
tưởng của Phật giáo, mối quan hệ giữa thế giới và con người, giữa cá nhân với
cộng đồng xã hội mang lại nhiều giá trị to lớn qua nhiều thế kỷ ở nhiều nền văn
hóa khác nhau và những ảnh hưởng đối với thế hệ trẻ hiện nay. Chương I
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO
1.1 . Nguồn gốc ra đời
Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng
ở miền Bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 trước công nguyên (TCN). Do được truyền bá
trong một thời gian dài ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của
đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu
học. Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một
giáo hội với các giới luật chặt chẽ.
Điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ: Ấn Độ là đất nước có điều kiện tự nhiên đa
dạng. Đất nước này vừa có dãy núi Hymalaya hùng vĩ ở phía Bắc, vừa có biển Ấn
Độ Dương rộng mênh mông; vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại có sông Hằng
chảy về phía Đông. Vì thế Ấn Độ có những vùng đồng bằng trù phú màu mỡ, có
vùng nóng ẩm mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những
vùng xa mạc khô cằn, nóng bức. Những điều kiên tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt
ấy là cơ sở để hình thành sớm những tư tưởng tôn giáo triết học.
Về kinh tế – xã hội: Từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tế – xã hội chiếm hữu
nô lệ Ấn Độ đã phát triển, thổ dân trên bán đảo Nam Á là người Dravidian và
Sumerian đã có nền văn minh khá cao. Đầu thế kỷ II TCN, một nhánh người
Aryan thâm nhập vào bán đảo Ấn Độ, dần dần chuyển sang định cư và sống bằng
nghề nông. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế – xã hội của Ấn Độ cổ đại, trung đại
là sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế – xã hội theo mô hình “công
xã nông thôn”. Mô hình này có đặc trưng là ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà
nước, gắn liền với nó là sự bần cùng hóa của người dân trong công xã và quan hệ
giữa gia đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội được phân chia
thành các đẳng cấp. Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là:
tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và nô lệ cung đình. Sự phân chia đẳng cấp đó làm
cho xã hội xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp lOMoAR cPSD| 48302938 3
giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường
phái triết học đã ra đời, trong đó có Phật giáo.
Đặc điểm văn hóa – khoa học: Văn hoá Ấn Độ cổ – trung đại được chia làm
ba giai đoạn. Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN gọi là nền văn minh sông Ấn, từ thế
kỷ XV – VII TCN gọi là nền văn minh Vêđa và từ thế kỷ VI – I TCN là thời kỳ
hình thành các trường phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là
chính thống và không chính thống. Tiêu chuẩn của chính thống và không chính
thống là có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bàlamôn hay không. Về khoa
học, ngay từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt được những thành tựu về khoa
học tự nhiên. Đặc biệt là các lĩnh vực thiên văn, toán học, y học…
Như vậy, tất cả những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội nói trên là
cơ sở cho sự nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ thời cổ,
trung đại với các hình thức phong phú đa dạng. Và Phật giáo ra đời trong làn sóng
phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi
khổ và tìm đường giải thoát cho con người khỏi nỗi khổ triền miên, đè nặng trong
xã hội nô lệ Ấn Độ. Vì chống lại sự ngự trị của đạo Bàlamôn đặc biệt là quan điểm
của kinh Vêđa nên Phật giáo được xem là dòng triết học không chính thống.
1.2 . Những tư tưởng cơ bản của Triết học Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết
thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng
kinh điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan
điểm về thế giới và con người.
1.2.1 Quan điểm của phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của
3 phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên.
a. Vô ngã (không có cái tôi chân thật)
Trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn và đa số các môn phái triết
học tôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao,
sáng tạo và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con
người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết
hợp của 2 yếu tố là “Sắc” và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có
thể cảm nhận được, nó bao gồm đất, nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh
thần, không có hình chất mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng
(suy nghĩ), hành (ý muốn để hành động) và thức (sự nhận thức).
Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao
gồm sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý lOMoAR cPSD| 48302938 4
thức), chúng tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự
tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn
tại mãi mãi. Do đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.
b. Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)
Đạo Phật cho rằng “Vô thường” là không cố định, luôn biến đổi. Các sự vật,
hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi không ngừng,
không nghỉ theo chu trình bất tận là “sinh – trụ – dị – diệt”. Nghĩa là sinh ra, tồn
tại, biến dạng và mất đi.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi không
ngừng.Với quan niệm này, Đức Phật dạy: “tất cả những gì trong thế gian đó là
biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong
một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành
đến biến dị rồi tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự
vât, hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng
không phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi
là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không phải là hết khổ
mà chết là điều kiện của một sinh thành mới.
c. Duyên (điều kiện cho nguyên nhân trở thành kết quả)
Bàlamôn Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ từ cái nhỏ
nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên
là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên
mà trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới.
Cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy
luật “NhânQuả”, nhân là cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân
và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương tựa vào nhau mà có. Nếu không có
nhân thì không thể có quả, nếu không có quả thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy.
Hạt lúa được gọi là “nhân” khi gặp “duyên” là điều kiện thuận lợi về không
khí, nước, ánh sáng, nhiệt độ…thì nhân sẽ phát triển thành “quả” là cây lúa.
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học
Phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng
tạo ra con người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu
thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong
quá trình liên hệ, vận động, biến đổi không ngừng. Nguyên nhân của sự vận động,
biến đồi nằm trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn lOMoAR cPSD| 48302938 5
mộc mạc chất phát nhưng rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan điểm duy vật
biện chứng về thế giới.
1.2.2 . Quan điểm của phật giáo về nhân sinh quan
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết
“Tứ Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi
hỏi mọi người phải nhận thức được. Tứ diệu đế là: a. Khổ đế
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não,
không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tính của
cuộc đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ
là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa
nhau), oán tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà
không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vậy, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của
hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương triết học, khổ
đau là một thực tại như thực đối với con người. Khổ đế là một chân lý khách quan
hiện thực. Khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng loạt nhân duyên được tạo tác
từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng mọi
hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ
đau, con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ hay quay mặt chạy trốn,
mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó,
con người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào
khác. Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới.
Phật ví sự khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước biển”.
b. Nhân đế (hay Tập đế)
Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết
tập lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thỏa mãn dục vọng, thỏa
mãn được trở thành, thỏa mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc
của luân hồi. Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do
“thập nhị nhân duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi
con người. 12 nhân duyên gồm:
- Vô minh ( không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng
suốt. Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường lOMoAR cPSD| 48302938 6
thoát khổ. Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu
Tứ diệu đế cũng được gọi là Vô minh.
- Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.
- Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.
- Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
- Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các
giác quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân, ý
để thiêu hủy, đón nhận.
- Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là
sắc, thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
- Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với
lục căn sinh ra cảm giác.
- Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động
của thế giới bên ngoài.
- Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm
lấy, giữ lấy không chịu buông ra.
- Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
- Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
- Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già, ốm đau rồi chết.
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung
đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho
cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời
giải thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn bản
là ái và thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân
và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không
thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương tựa vào nhau mà sinh khởi, đều
vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong
chúng. Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng
mình. Hay nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà
có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỷ hay phiền não lOMoAR cPSD| 48302938 7
khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc. c. Diệt đế
Là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt
được để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt
thì sự khổ cũng được tận diệt. Muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt
đầu từ diệt trừ vô minh.
Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực
tướng của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành động
tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ
được vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt
khi ấy mới hết luân hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ,
thì những nỗi lo âu, sợi hãi, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản,
đầu óc tỉnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn.
Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những
tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung nóng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng
sợ hãi mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật
hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng
xử của bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả
năng giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng
phần hạnh phúc đến mức độ ấy. d. Ðạo đế
Là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để hoàn
thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên và
một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử.
Chấm dứt luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8
con đường chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính đạo bao gồm:
- Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ
diệu đế và giáo lí vô ngã.
- Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa
của bốn chân lí một cách không sai lầm.
- Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
- Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc
xấu, nên làm việc thiện. lOMoAR cPSD| 48302938 8
- Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh.
- Chính tinh tiến: cố gắng nỗ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát
triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
- Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn
tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
- Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ diệu đế,
vô ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh,
đạt tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt,
chấm dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 điều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con
người và xã hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm
dục), bất vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu, chè)
và bất đạo (không trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo nguyên thủy có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư
tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghĩ thiện và làm
việc thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên trong triết lý
nhân sinh và con đường giải phóng của phật giáo vẫn mang nặng tính chất bi quan
không tưởng và duy tâm về xã hội. Và những tư tưởng xã hội phật giáo đã phản
ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ – trung đại và
nêu lên ước vọng giải thoát nỗi bi kịch cho con người lúc đó. Phật giáo cũng nói
lên được tự do bình đẳng trong xã hội nhưng triết lý nhân sinh vẫn còn mang nặng
tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về xã hội.
1.3 . Những điểm tích cực của Phật giáo
1.3.1 . Điểm tích cực trong Nhân – Sinh – Quan
Phật giáo như ánh sáng mặt trời mà nhìn ánh sáng ấy chúng ta chỉ có cặp mắt
nhỏ hẹp. Tuy nhiên chúng ta có thể căn cứ một vài điều sau đây mà biết tất cả đặc điểm của Phật giáo. a.
Đặc điểm thứ nhất, đặc điểm của Phật giáo là “in như sự thật” lý thuyết,
phương pháp cùng kết quả đều hợp lý, đều như thật. Phật giáo không chen chủ
quan của mình vào trước hay trong khi suy nghiệm sự thật và chân lý của đạo Phật
là lời kết luận sau sự suy nghiệm trung thực ấy. Đạo Phật chỉ thấy và chỉ nói những
sự thật mà sự vật có, không thêm, không bớt. Đạo Phật, nhân đó, cấm đoán những lOMoAR cPSD| 48302938 9
tín ngưỡng và những hành động không phát sinh từ sự hiểu biết như thật, luôn
theo, đạo Phật không công nhận những kết quả của tín ngưỡng mê muội, hành
động manh động là hợp lý. Cho nên đạo Phật cũng được gọi là Đạo Như Thật. b.
Đặc điểm thứ hai, là “tôn trọng sự sống”. Ăn chay, không sát sanh
là những điều tượng trưng cụ thể cho đặc điểm ấy. Đạo Phật xem sự sống trên tất
cả. Hết thảy cái gì gọi là có giá trị là phải bảo vệ sự sống ấy. Giết sự sống để nuôi
sự sống là mê muội, ham sống nên hại sự sống cũng là vô minh. Cho nên tôn trọng
sự sống không những bằng cách giúp nhau để sống mà còn phải hy sinh sự sống
để bảo vệ sự sống, nghĩa là có khi tiêu cực như ăn chay để cứu muôn loài. Đạo
Phật đặc biệt chú trọng và nêu cao chủ nghĩa lợi tha, nhưng chữ lợi ấy là phải
hướng về mục đích tôn trọng sự sống c.
Đặc điểm thứ ba, của đạo Phật là chỉ thừa nhận sự “tương quan sinh
tồn”. Đạo Phật dạy cho người ta thấy ở đời phải tự lập chứ không thể biệt lập.
Phật tử không thấy, không tạo nên một đối tượng. Vũ trụ là một lò tương quan;
không có gì là trung tâm, không có gì là phụ thuộc hay là ngược lại. Bởi thế cho
nên phân ly là tự tạo một ung nhọt, mà chiến đấu (theo nghĩa hẹp) chỉ là tương
đối. Chiến đấu phải là một hành động vì bảo vệ sự sinh tồn mà bất đắc dĩ phải áp
dụng trong trường hợp bất đắc dĩ. Nếu hợp bất đắc dĩ. Nếu biến sự bất đắc dĩ ấy
thành sự tuyệt đối cần thiết trong mọi trường hợp, thì chiến đấu sẽ trở thành chiến tranh. d.
Đặc điểm thứ tư, của đạo Phật là xác nhận “người là trung tâm điểm
của xã hội loài người”. Đạo Phật không nói duy tâm, không nói duy vật, mà tất cả
đều do người phát sinh và đều phát sinh vì người. Kết luận này thực tế ở đâu cũng
rõ rệt cả. Trên thế giới loài người này không có gì tự nhiên sinh ra hay từ hư không
rơi xuống, mà đều do năng lực hoạt động của con người tạo thành. Năng lực hoạt
động của con người tạo tác chi phối tất cả. Tất cả khổ hay vui, tiến hóa hay thoái
hóa, là đều do con người dã man hay văn minh. Người là chúa tể của xã hội loài
người, xã hội loài người không thể có chúa trời thứ hai. e.
Đặc điểm thứ năm, là đạo Phật chú trọng “đối trị tâm bệnh con
người trước hết”. Lý do rất dễ hiểu. Con người là trung tâm điểm của xã hội loài
người, xã hội ấy tiến hoá hay thoái hóa là hoàn toàn do hoạt động con người chi
phối; mà hoạt động con người lại do tâm trí con người chủ đạo, vậy xã hội là phản
ảnh trung thành của tâm trí con người. Cho nên muốn cải tạo xã hội, căn bản là
phải cải tạo con người, cải tạo tâm bệnh con người. Tâm bệnh con người nếu còn
độc tài, tham lam, thì xã hội loài người là địa ngục; tâm bệnh con người được đối
trị rồi thì hoạt động con người rất sáng suốt mà xã hội con người, kết quả của hoạt
động ấy, cũng rất cực lạc. lOMoAR cPSD| 48302938 10
f.Đặc điểm thứ sáu, mục đích đạo Phật là “đào luyện con người thành bi,
trí, dũng”. Bi là tôn trọng quyền sống của người khác. Trí là hành động sáng suốt
lợi lạc. Dũng là quyết tâm quả cảm hành động. Dũng không có bi và trí thì sẽ
thành tàn ác và manh động. Trí không có bi và dũng thì sẽ thành gian xảo và mộng
tưởng. Bi không có trí và dũng sẽ thành tình cảm và nhút nhát. Bi là tư cách tiến
hóa, trí là trí thức tiến hoá, dũng là năng lực tiến hoá. Con người như thế là con
người mới, căn bản của xã hội mới. g.
Đặc điểm thứ bảy, đạo Phật là “kiến thiết một xã hội mới” mà căn bản
là con người mới. Cho nên tranh đấu cho xã hội mới ấy, trở lại vấn đề, là phải
chiến thắng chính mình trước hết. Con người tự chiến thắng con người, nghĩa là
cái “nhân cũ” (bóc lột, đàn áp, độc tài, xâm lược) không còn nữa, thì kết quả được
cái “quả mới” là một xã hội mới. Trong xã hội ấy, quyền sống tuyệt đối bình đẳng
như sự sống: bình đẳng trong nhiệm vụ, bình đẳng trong hưởng thụ. h.
Đặc điểm thứ tám, đạo Phật là “tiến lên vô thượng giác”. Đào luyện
một con người mới, kiến thiết một xã hội mới rồi, không phải mục đích của đạo
Phật cứu cánh ở đó. Cao xa, đạo Phật còn hướng dẫn con người tiến dần lên chóp
đỉnh của sự tiến hoá là địa vị vô thượng giác, địa vị vô minh toàn diệt, trí tuệ toàn
giác, địa vị Phật đà.
i. Đặc điểm thứ chín, đạo Phật dạy phải “tự lực giải thoát”. Đấy là một tinh
thần tuyệt đối cần thiết. Đức Phật chỉ là một đạo sư dẫn đạo con đường sáng cho
chúng ta. Còn chúng ta phải tự thắp đuốc trí tuệ của mình mà soi đường, phải tự
động cặp chân năng lực của mình mà đi. Con người mới là phải tự rèn luyện; xã
hội mới là phải tự kiến thiết; vô thượng giác là phải tự tu, tự chứng. Tự lục giải
thoát là con đường duy nhất của mười phương các đức Phật Bồ-Tát. An lạc không
phải cầu xin, trí giác không do cầu hồ. Phật tử không có đứng vào hàng ngũ thông
minh mà phải hướng về lớp người ngu dốt dìu dắt họ.
k. Đặc điểm thứ mười, đạo Phật là “hiện chứng thể nghiệm”. Đức Phật chỉ
hướng dẫn chúng ta, chứ chân lý không phải là thứ đem quay phim cho người thấy
được. Đức Phật là đạo sư, nhưng trí giác không phải là thứ ai dạy khôn cho ai.
Cho nên đối với chân lý tối cao, ta phải tự lực thể nghiệm. Sự tự lực thể nghiệm
ấy, không những áp dụng với tinh thần tự lực giải thoát mà thôi, mà còn đặc biệt
chú ý đến sự biện chứng. Đức Phật tạo cho ta cái thang, nhưng không kéo dàn hoa
xuống hay đẩy thẳng ta lên được. Ta phải tự lực mà trèo từng nấc thang lên dàn
hoa chân lý. Trèo được nấc nào là tự thể nghiệm chân lý nấc ấy. Đối với chân lý
chưa biện chứng, chúng ta chỉ nói học, không nói biết. Tinh thần tu chứng đạo Phật là thế. lOMoAR cPSD| 48302938 11
Do tất cả đặc điểm trên đây, chúng ta thấy đạo Phật không phải chỉ là một
tôn giáo. “Đạo Phật là tất cả”, đó là một đặc điểm vừa cuối cùng vừa trước hết của
đạo Phật. Phật tử tự nhiên không thể không phủ nhận sự tàn sát, sự manh động và
sự nô lệ. Cho nên họ phải tự lực hành động để thượng thượng năng tiến. Và hành
động ấy không có lĩnh vực trong không gian, không có giới hạn trên thời gian,
không có phạm vi trong tổ chức, không có khu phân trong trường hợp. Ở đâu và
lúc nào, với ai và cảnh nào, Phật tử cũng áp dụng căn bản và tinh thần bi, trí dũng
của đạo Phật vào để hoàn thiện mình.
1.3.2 . Điểm tích cực trong lý luận triết học
Giới nghiên cứu đều thấy rằng, triết học phương Tây thường gắn với những
thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Còn triết học phương Đông
thường gắn với tôn giáo (Ấn Độ), với chính trị, xã hội, đạo đức (Trung Quốc). Dù
ra đời rất sớm (2500 năm trước) nhưng trình độ tư duy, phân tích của triết học đã
đạt đến mức cao: Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng
sự phân tích nhân – quả. Theo Phật giáo, nhân – quả là một chuỗi liên tục không
gián đoạn và không hỗn độn, có nghĩa là nhân nào quả ấy. Mối quan hệ nhân –
quả Phật giáo thường gọi là nhân duyên với ý nghĩa là một kết quả của nguyên
nhân của một kết quả khác. Bằng phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không
thể tìm nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là không có một đấng tối cao
nào sáng tạo ra vũ trụ.Với lý luận như vậy, Phật giáo nghiên hẳn về chủ nghĩa duy
vật. Người tu Phật đều có một định hướng duy nhất: giải thoát thân tâm ra khỏi
mạng lưới “thực tại” giả lập, nhìn thẳng vào thế giới trùng trùng duyên khởi, thấu
hiểu bản chất không tính của vạn hữu và phát khởi Bồ Đề Tâm đối với tất cả chúng
sinh còn đang vướng mắc trong vòng vây của ảo giác. ảo giác lớn nhất của con
ngườ là cho rằng có tồn tại một thế giới thực hữu hoàn toàn biệt lập với nhận thức
của chủ thể và thế giới đó hiện hữu, tồng tại như một đối tượng của ham muốn
chinh phục hoặc khao khát sở hữu. Triết học Phật giáo không phải là một chủ
thuyết duy tâm chủ quan giống như toàn bộ hệ thống triết học duy niệm Đức thế
kỷ XIX, cũng không phải là một chủ nghĩa duy thực ngây thơ (nave realism).
Trọng điểm chính trong thực tại luận Phật giáo xoay quanh lời khẳng định rằng
thế giới khách quan (cảnh/sắc) có mối quan hệ cộng sinh với thể cách nhận thức
của chủ thể (tâm/thức). Chính vì vậy về phương diện triết học Phật giáo cưu mang
tinh thần xã hội ở mức cao nhất: sự cải tạo thế giới khách quan là một tiến trình
gắn bó chặt chẽ với sự cải tạo bản thân, sự chuyển hóa nhận thức của chủ thể. Hai
tiến trình này liên lập và bổ sung cho nhau không ngừng.
1.4. Những hạn chế của Phật giáo
1.4.1 . Hạn chế chủ quan : lOMoAR cPSD| 48302938 12
Phật giáo thể hiện cách nhìn cuộc đời khá bi quan. “Nước mắt chúng sinh
nhiều hơn bể cả”. Trong kinh phật ta có thể thấy nhiều đoạn nói về cuộc sống khổ
đau mà con người phải chịu đựng. Vì cuộc sống là bể khổ như vậy nên tư tưởng
của Phật giáo là xuất thế và xa rời hiện thực. Những nhà chùa thường lui về những
nơi vắng vẻ, ít người qua lại. Phật giáo răn dạy con người cố gắng tìm đến cõi niết
bàn mà bỏ lại cuộc sống trần gian đầy rẫy bất công, đau khổ. Phật giáo răn dạy
con người biết chịu đựng mà không biết đấu tranh, phản kháng. Điều này đã phần
nào thủ tiêu tính chiến đấu của con người. Phật giáo quan niệm về hôn nhân rất
khai phóng. Phật tử không có lý do gì để hạn chế việc sinh đẻ. Quan niệm này
không còn phù hợp với thời đại hiện nay khi mà vấn đề dân số đang được nhắc tới nhiều.
1.4.2 . Hạn chế khách quan :
Khi xưa, trước khi nhập Niết Bàn, Phật tổ từng dặn dò đệ tử không được bói
toán, xem sao, xem tướng làm mê hoặc quần chúng. Nhưng một số kẻ lợi dụng
chùa làm nơi bói toán, lên đồng, xem sao, xem tướng, giải hạn… để kiếm tiền bất
chính. Trước cổng chùa bày bán đủ loại tử vi, cúng sao, giải hạn không có nguồn
gốc xuất xứ làm mê hoặc quần chúng. Lợi dụng lòng tốt của khách đến chùa, một
số người trẻ tuổi, lành lặn, khỏe khoắn, lười lao động ngồi dọc lối vào chùa làm
nghề ăn xin, níu khéo làm mất lòng khách. Biểu hiện móc túi, lừa đảo khách, bán
đồ giả có xu hướng gia tăng. Trong các ngôi chùa có trang bị thùng rác, nhưng
vẫn có nhiều người thiếu ý thức xả rác bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường. Những
năm gần đây, người đến chùa càng đông, đa số cử chỉ nhã nhặn, ăn mặc trang nhã,
thể hiện sự thành kính chốn trang nghiêm. Nhưng vẫn có hiện tượng một số người
ăn mặc hở hang không phù hợp với cảnh chùa. Vì vậy để xóa bỏ các hiện tượng
tiêu cực như đã nêu, khai thác những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo tới đạo
đức, lối sống nhân dân, chính quyền và các cơ quan chức năng cần có những biện
pháp nhằm loại trừ các tệ nạn trên, ổn định trật tự an toàn xã hội, giữ gìn sự tinh khiết của Phật giáo. Chương II
MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI VIỆT NAM
2.1 . Phật giáo với xã hội và con người Việt Nam ngày nay lOMoAR cPSD| 48302938 13
Phật giáo xây dựng hệ thống đạo đức trên cơ sở hệ thống giáo lý, đó là mối
quan hệ giữa giới, định, tuệ để đi đến giải thoát và giải thoát tri kiến, trong đó giới
có vai trò làm nền tảng cho việc giải thoát.
Đạo đức Phật giáo bao gồm các giới cùng các chuẩn mực và các phạm trù có
liên quan tới nhau một cách chặt chẽ. Phật giáo xây dựng một hệ thống đạo đức
hoàn chỉnh từ nhận thức, lý luận đến thực hành và việc áp dụng nó để xây dựng
một nếp sống tốt đẹp. Bên cạnh đó Phật giáo còn xây dựng mẫu người đạo đức đó
là con người từ bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha mà thâu tóm là đứng vững trên hai chân:
từ bi và trí tuệ. Đạo đức Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với đạo đức người
Việt. Những phạm trù cơ bản của đạo đức Phật giáo đã ảnh hưởng khá sâu đậm
vào đời sống người Việt. Ngày nay, với sự chấn hưng của Phật giáo Việt Nam,
đạo đức Phật giáo sẽ góp phần hết sức to lớn vào việc xây dựng một xã hội hài hòa, phát triển.
2.1.1 . Đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống của người Việt Nam
Đạo Phật đồng hành với dân tộc Việt Nam, từ khi du nhập vào Việt Nam đến
nay đã 2000 năm lịch sử, nên có thể xem nó như một phần tài sản văn hóa dân
tộc. Trong quá trình phát triển tại Việt Nam, đạo Phật không chỉ đơn thuần chuyền
tải niềm tin của con người mà còn có vai trò góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi
trần thế. Ngoài những điểm phù hợp với tình cảm đạo đức của con người, đạo đức
Phật giáo còn thực hiện thông qua tình cảm, tín ngưỡng, niềm tin vào giáo lý. Do
đó, tình cảm đạo đức Phật giáo được người Việt tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng
liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng.
Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của Phật giáo, người Việt đã sống và
ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày thêm tốt đẹp.
Đạo đức Phật giáo thông qua những giáo luật, giáo lý và các giá trị, chuẩn
mực đã đi vào cuộc sống của người dân Việt Nam. Sự ảnh hưởng của đạo đức
Phật giáo đến đời sống của người Việt Nam không chỉ là giáo lý qua kinh kệ, sách
vở mà đã trở thành phong tục, cách sống của dân tộc, của mọi gia đình. Người
Việt Nam truyền thống với tinh thần yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau,
phụng dưỡng cha mẹ, tri ân những người có công với cộng đồng, làm điều thiện…
đó cũng chính là những điều luân lý đạo đức cụ thể mà Phật giáo đã truyền dạy.
Đạo đức Phật giáo đã thực sự đi vào cuộc sống, đi vào tâm linh mỗi con người.
Trong suốt chiều dài của lịch sử, đạo đức Phật giáo đã có nhiều đóng góp đáng kể
đối với sự phát triển của dân tộc, những nhân tố quan trọng góp phần định hình
nên các quan niệm chuẩn mực, hệ giá trị đạo đức trong xã hội Việt Nam truyền thống và hiện đại.
2.1.2 . Đạo đức Phật giáo với kinh tế trong bối cảnh thị trường hiện nay lOMoAR cPSD| 48302938 14
Trong giáo lý “Bát chính đạo” đức Phật có đề cập đến “chính niệm” sinh
sống bằng nghề nghiệp chân chính. Người khuyên mọi người kiếm sống bằng
chính sức lao động và tiền vốn của mình, trí tuệ của mình chứ không được buôn
gian bán lận, buôn bán hàng quốc cấm và các loại hàng hóa có hại cho sức khỏe
con người và xã hội. Trong cuộc sống mỗi người phải lao động làm việc để tạo ra
nguồn của cải vật chất để nuôi sống mình và gia đình. Như vậy, trong nền kinh tế
thị trường ngày nay, đạo đức Phật giáo góp phần không nhỏ trong việc giáo dục
con người, hướng con người tới những điều thiện, từ đó giảm bớt thiệt hại cho
người tiêu dùng và đặc biệt là những nguy hiểm chết người. Đây chính là mặt tích
cực của đạo đức Phật giáo giúp con người và nhân loại có cuộc sống an lạc hạnh phúc.
“Chính mệnh” trong Bát chính đạo của Phật giáo còn có nghĩa là biết làm
chủ cuộc sống, không lãng phí, không bủn xỉn, biết làm phúc. Biết chăm lo cuộc
sống của người thân, quyến thuộc, biết tích lũy cho đời nay và chuẩn bị cho đời
sau. Đức Phật dạy rằng các cư sĩ sống bình thường ở gia đình có 4 điều lạc thú:
Một là được hưởng cảm giác an toàn do có của cải và cơ sở kinh tế có được bằng
phương pháp chính đáng; Hai là có thể khảng khái sử dụng của cải ấy cho mình,
cho người nhà và cho bạn hữu, đồng thời dùng nó để làm nhiều việc từ thiện; Ba
là không bị khổ sở vì nợ nần; Bốn là có thể sống cuộc đời thanh tịnh, không lỗi lầm.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cần coi trọng việc xây
dựng hoàn thiện đạo đức nhằm phát triển con người một cách toàn diện. Nền đạo
đức mà chúng ta đang xây dựng là sự kết tinh, kế thừa những giá trị đạo đức truyền
thống của nhân loại, của dân tộc. trong đó có những giá trị đạo đức Phật giáo.
2.1.3 . Đạo đức Phật giáo với văn hóa
Thực tế cho thấy Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ XX đã có những đóng góp vô
cùng to lớn cho nền văn hóa dân tộc – hiện đại. Trong triển vọng phát triển chung
của Tôn giáo thế giới, Phật giáo Việt Nam cũng đồng hành hướng tới giải quyết
những nhiệm vụ cơ bản đặt ra với con người hiện đại, đặc biệt ở bước đi tương
đồng với những quốc gia lân bang cùng điều kiện và hoàn cảnh.
Triết lý của Phật giáo về Từ bi, về tình thương yêu rất phù hợp với truyền
thống giàu lòng nhân ái vốn có của người Việt: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”;
“Một miếng khi đói bằng một gói khi no”; “Lá lành đùm lá rách”’ “Thương người
như thể thương thân”…sự kết hợp những nét độc đáo trong phương pháp tư duy,
trong văn học, nghệ thuật của người Việt Nam. Những giá trị, khuyến thiện, hướng
thiện không chỉ phát huy tác dụng trong hàng ngũ tín đồ mà còn ảnh hưởng rộng
rãi trong đời sống nhân dân, góp phần hình thành nên những quan niệm sống giàu tính nhân văn sâu sắc. lOMoAR cPSD| 48302938 15
Đồng hành cùng với sự phát triển của đất nước, đạo đức Phật giáo đã góp
phần tạo nên truyền thống văn hóa thực sự giàu bản sắc. Ngày nay, đạo đức Phật
giáo đã có vị trí vững chắc trong nền văn hóa dân tộc- hiện đại. Một thời đại mới
đang mở rộng ra cùng với những thách thức của hội nhập và phát triển, lợi ích cá
nhân và cộng đồng, phẩm chất vị tha và cạnh tranh thị trường đòi hỏi sự năng
động của đạo đức Phật giáo, yêu cầu phát huy và dung hợp những giá trị nhân bản
bền vững của Phật giáo Việt Nam trong nền văn hóa dân tộc – hiện đại. Có thể
khẳng định vị trí vững chắc của đạo đức Phật giáo Việt Nam trong nền văn hóa dân tộc.
2.1.4 . Đạo đức Phật giáo với xã hội Việt Nam hiện nay
Đức Phật dạy từ việc lớn như quốc gia, chính sự đến việc nhỏ như hòa khí
trong gia đình. Tư tưởng Từ bi, hỷ, xả, cứu khổ, cứu nạn của nhà Phật vẫn đang
được nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung tiếp thu và phát huy
trong đời sống xã hội. Một số quy tắc của đạo đức Phật giáo (Ngũ giới, Thập thiện,
…) có những nét tương đồng với các quy tắc, chuẩn mực của nền đạo đức xã hội
vẫn đang được nhiều người tin theo và khuyến khích phát huy. Đó là những quy
tắc sống mà xã hội nào cũng rất cần đến để duy trì một nền đạo đức, một nếp sống
lành mạnh và hạnh phúc cho con người (Kinh Thiện sinh – Gingalovada)
Cùng với thời gian, Phật giáo Việt Nam đã điểm vào trang lịch sử của mình
những nét vàng son. Những chuẩn mực của đạo đức Phật giáo vẫn đang có những
đóng góp cho việc duy trì một nền đạo đức xã hội, khơi dậy truyền thống yêu
nước, nhân nghĩa, tương thân tương ái trong cộng đồng, xây dựng con người Việt
Nam đạo đức và văn hóa tốt đẹp.
2.1.5 . Đạo đức Phật giáo với việc xây dựng đạo đức, lối sống của người Việt Nam
Với triết lý từ bi, hỷ xả, khuyến khích con người hướng thiện, đạo đức Phật
giáo đã dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức,
hướng con người đến lối sống, vị tha, bình đẳng, bác ái. Thực tế đã chứng minh,
đạo đức Phật giáo phù hợp với đạo đức lẽ sống của con người Việt Nam và nó đã
có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng một nền tảng đạo đức mới cho
xã hội trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra.
Tính hướng thiện của Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa
nhân đạo, tư tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo phù hợp với xu hướng hòa
đồng liên kết giữa các dân tộc trên thế giới trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay,
lòng từ bi, bác ái góp phần cứu giúp người hoạn nạn, giữ vững tinh thần lá lành
đùm lá rách của dân tộc, triết lý vô thường, vô ngã giúp con người giảm bớt cái
tôi vị kỷ…Những giá trị tích cực đó của đạo đức Phật giáo càng được nhân lên lOMoAR cPSD| 48302938 16
với những hành động cụ thể như kẻ đói được cho ăn, kẻ rách được cho mặc, người
ốm đau bệnh tật được chăm sóc…Đạo đức Phật giáo khuyên con người luôn nhớ
đến “đạo hiếu”, lấy chữ hiếu làm đầu: “hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm
Phật”, “muôn việc ở thế gian không gì hơn công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ”.
Thêm vào đó, những không gian chùa chiền của Phật giáo luôn thu hút con người
tìm về chốn tĩnh tâm, nơi chiêm nghiệm và cảm nhận…Tất cả những điều đó là
những giá trị đạo đức tích cực, thiết thực góp phần giáo hóa con người, giúp cho
thế hệ trẻ vững bước trước cám dỗ của cuộc đời, khích lệ họ quan tâm đến số phận
của cộng đồng, sống lương thiện, coi trọng tính nhân bản, coi trọng thiên
nhiên…Bên cạnh đó, lối sống Phật giáo nêu cao tinh thần “cư trần lạc đạo” đã góp
phần xây dựng lối sống có trách nhiệm với một ý thức không tham quyền cố vị,
không bám lấy lợi ích vật chất, sống thanh cao tự tại. Bởi theo định nghĩa của đức
Phật, tham và sân là hai năng lực tiêu cực mạnh mẽ nhất trong tâm thức con người,
chúng che khuất tầm nhìn và làm nhiễu loạn Phật tính của ta, cho nên, cũng theo
Ngài, diệt trừ được tham và sân đích thực là một thành tựu rất to lớn của con
người. Như thế đạo đức Phật giáo đã đóng góp những giá trị văn hóa tích cực vào
việc xây dựng đạo đức lối sống cho con người, nhất là cho tầng lớp trẻ hiện nay.
Đặc biệt, đạo đức Phật giáo còn góp phần rèn luyện một lối sống kham nhẫn, khắc
kỷ. Đó là những hình thức tu tập kiên nhẫn, vượt qua những cám dỗ của cuộc đời
để lòng được thanh cao, tâm hồn được giải thoát.
Ngày nay với phương châm Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội, đạo đức
Phật giáo đã góp phần tích cực vào các phong trào phát triển xã hội, bảo vệ môi
trường. Đặc biệt công tác từ thiện với tinh thần cứu khổ, cứu nạn của đạo Phật,
hòa cùng truyền thống lá lành đùm lá rách của dân tộc, tăng ni phật tử đã tổ chức
cứu trợ cho đồng bào bị thiên tai bão lụt, cho những vùng quê nghèo khó, cho
những mảnh đời bất hạnh…Những hoạt động từ thiện đó của đạo Phật cùng nhằm
điều chỉnh tính cách, lối sống, góp phần hình thành nhân cách của một con người có ích cho xã hội.
2.2 . Ảnh hưởng của Phật giáo đến thế hệ trẻ
Phật giáo là một tôn giáo lớn của thế giơi, được du nhập vào Việt Nam từ rất
sớm. Trong mỗi thời kỳ lịch sử của nước ta, Phật giáo luôn gắn bó mật thiết với
dân tộc và thấm sâu vào tiềm thức của nhiều người.
Tư tưởng Phật giáo và suy nghĩ của người Việt Nam có mối quan hệ mật
thiết, gắn bó. Phật giáo với những giá trị tích cực như từ bi, hỷ xả, cứu khổ, cứu
nạn, bình đẳng, bác ái dễ đi vào lòng người, phù hợp với phong tục, tập quán của
người Việt Nam. Từ lịch sử dân tộc Việt Nam với gần nghìn năm Bắc thuộc, chịu
nhiều đau khổ, khi được truyền bá vào Việt Nam, với những giá trị của mình, Phật lOMoAR cPSD| 48302938 17
giáo đã góp phần xoa dịu nỗi đau tinh thần đối với nhân dân ta. Sự dung hợp và
ảnh hưởng của Phật giáo được biểu hiện trên các vấn đề cơ bản sau. 2.2.1 . Ảnh
hưởng của đạo đức Phật giáo trong quan hệ ứng xử, giao tiếp
Đạo đức Phật giáo hòa nhập với các giá trị đạo đức của dân tộc trở thành
phương tiện diễn đạt quan niệm đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Các
thuật ngữ như “từ bi, hỷ xả”, “vô ngã, vị tha”, “cứu nhân độ thế”, “tu nhân tích
đức”, “sống nhân từ để phúc cho đời sau”… đã không còn nguyên nghĩa của riêng
Phật giáo, mà trở thành một phần trong lẽ sống của người Việt, trở thành ngôn
ngữ của đời sống thường ngày. Cách thức giao tiếp, ứng xử của người Việt Nam
cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các quan niệm Phật giáo. Nét phổ biến trong quan
hệ ứng xử và giao tiếp của Phật giáo là cái thật, cái thiện ở cả thân, khẩu, ý. Trong
bát chính đạo của Phật giáo, có chính ngữ (giữ cho lời nói được đúng mực), đó
chính là một trong các điều kiện để mỗi con người có những ứng xử phù hợp với
mọi người trong xã hội. Về ứng xử, giao tiếp trong gia đình, Phật giáo đề cao sự
hòa thuận và trách nhiệm của các bậc cha mẹ, anh em, vợ chồng… đề cao sự hiếu
thuận thông qua thực hiện Tứ ân. Điều này được thể hiện rất nhiều trong ca dao,
tục ngữ Việt Nam: “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra/Một lòng thờ mẹ, kính cha/Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”, hay như:
“Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ/Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng
cha” đã trở thành đạo lý, lẽ sống của người Việt.
2.2.2 . Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong sự công bằng, bình đẳng
Tư tưởng bình đẳng, công bằng của Phật giáo khi du nhập và phát triển ở
Việt Nam đã hòa nhập với tư tưởng, công bằng, bình đẳng của người Việt Nam.
Cơ sở của sự ảnh hưởng hòa nhập này dường như bắt nguồn từ tư tưởng bình quân
nguyên thủy của nền văn minh làng xã. Phật giáo chủ trương thiết lập quan hệ
công bằng, bình đẳng giữa mọi người và cho rằng mọi người đều bình đẳng như
nhau, trong mỗi người đều có phật tính; trong quan hệ với người khác, mỗi cá
nhân không được cầu lợi cho mình… có ảnh hưởng rất lớn đối với quan niệm sống
của người Việt, điển hình như: “Một người vì mọi người, mọi người vì một người”.
2.2.3 . Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo về tính trung thực
Trong giáo lý của nhà Phật, tính trung thực thuộc vào giới “không nói dối”
của ngũ giới. Thập thiện bao gồm: thực ở cả “thân, khẩu, ý”. Trung thực ở ý là
trung tâm điều chỉnh hành vi theo luật nhân quả, nhân nào quả ấy. Theo đó, sự dối
trá sẽ bị nghiệp báo. Thuyết nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo gặp gỡ với tín
ngưỡng của người Việt Nam đã lan tỏa thành nếp sống, nếp nghĩ “ở hiền gặp
lành”, “ác giả ác báo”… trong nhân dân. lOMoAR cPSD| 48302938 18
2.2.4 . Ảnh hưởng trong tính thiện, tình nghĩa và tình thương
Tính thiện, tình nghĩa và tình thương mang bản sắc Việt Nam được con
người Việt Nam hun đúc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Cái thiện của
con người Việt Nam mang tinh thần bình đẳng, vị tha, tôn trọng, yêu thương con
người. Phật giáo đã hòa đồng với tư tưởng truyền thống Việt Nam để xây dựng
tính thiện, tình nghĩa và tình thương. Đó là, tình “thương người như thể thương
thân”, “lá lành đùm lá rách”… Tình thương, tình nghĩa, tính thiện không chỉ thể
hiện trong quan hệ với hiện tại mà còn được thể hiện trong quan hệ với quá khứ
như: uống nước nhớ nguồn hoặc ăn quả nhớ kẻ trồng cây…
2.2.5 . Ảnh hưởng trong tấm lòng bao dung rộng lớn
Phật giáo đã góp phần cùng với dân tộc Việt Nam trong việc xây dựng tấm
lòng bao dung rộng lớn, vô ngã, vị tha. Tinh thần bao dung rộng lớn được thể hiện
trước lỗi lầm của con người. Trong cách ứng xử của người Việt thể hiện rất rõ
như: “biển cả mênh mông, quay đầu là bờ”, “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người
chạy lại”… Tinh thần bao dung còn được thể hiện trong cách ứng xử với kẻ thù
khi chúng bại trận, trong chính sách nhân đạo đối với tù binh, hàng binh...
2.2.6 . Ảnh hưởng trong tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người
Phật giáo khẳng định mỗi cá nhân là chủ nhân của chính mình, không phải
làm nô lệ của người khác kể cả nô lệ cho đức Phật, hãy “tự đốt đuốc mà đi”. Tư
tưởng này của Phật giáo khiến con người được giải phóng khỏi sự trói buộc của
thần quyền, nhờ đó mà được tự do. Chính con người phải tự quyết định số phận
và tiền đồ của chính mình. Quan điểm tự lực, tự chủ của Phật giáo đã góp phần
xác định thêm cho tinh thần tự lực, tự chủ của mỗi người Việt Nam.
2.3 . Phát huy tính hợp lý của Phật giáo trong xây dựng đời sống văn hóa hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, cần có sự đánh giá đầy đủ những giá trị và ảnh
hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với con người Việt Nam, từ đó kế thừa, phát
huy những giá trị của tư tưởng Phật giáo.
Tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, ngoài mặt tiêu cực còn có những
“hạt nhân hợp lý” hiện vẫn còn phù hợp với xã hội. Đó là mặt văn hóa, đạo đức
và đáp ứng được yêu cầu đời sống tâm linh của con người. Đảng ta đã khẳng định:
“Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”. Trong giai
đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Phật giáo vẫn giữ khả năng tự biến đổi và thích
nghi theo xu hướng đi cùng với dân tộc, sống “tốt đời đẹp đạo”, “đồng hành cùng
dân tộc”, “Đạo pháp - dân tộc - xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này của Đảng và
Nhà nước ta cần phải được phát huy thành các định hướng cụ thể trên tinh thần lOMoAR cPSD| 48302938 19
khai thác các yếu tố văn hóa, đạo đức, tinh thần tích cực của Phật giáo. Trong quá
trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế hiện nay, tư tưởng Phật giáo đang góp phần cùng pháp luật
chống lại những biểu hiện tiêu cực, phi nhân tính trong sản xuất, kinh doanh, phai
nhạt bản sắc dân tộc trong đời sống xã hội, góp phần phát huy những nét đẹp trong
quan hệ giữa con người với con người; xây dựng và điều chỉnh nhân cách con
người Việt Nam trong thời đại mới vừa hiện đại vừa giàu bản sắc dân tộc.
Những điều kiện về kinh tế, xã hội, nhận thức, tâm lý là cơ sở cho Phật giáo
phát triển vẫn còn tồn tại trong xã hội hiện đại. Hơn nữa, bản thân Phật giáo cũng
không ngừng tự vận động biến đổi cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện mới. Vì
vậy, cần phải có quan điểm khoa học để nghiên cứu một cách toàn diện những cơ
duyên tồn tại và phát triển của Phật giáo. Đây cũng là cơ sở để tiếp tục khái quát,
tìm ra những ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, từ đó có quan điểm, biện pháp
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của tư tưởng Phật giáo đến suy nghĩ,
lối sống của người Việt Nam hiện nay. Chương III
VẬN DỤNG PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI XÂY DỰNG TƯ TƯỞNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Hiện nay, Phật giáo là tôn giáo có đông tín đồ nhất trong các tôn giáo ở Việt
Nam, ước lượng khoảng 15 triệu tín đồ, Số Tăng ni các cấp được ghi nhận trong
cả nước vào khoảng 30.000 người, trong đó có một phần ba là sư sãi Khơme (trong
đó phần đông là đi tu nghĩa vụ trong thời gian ngắn). Trong tổng số 12.000 chùa
trong cả nước, có 440 chùa Khơ-me.
Phải nói rằng, Phật giáo đã ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của người Việt từ
triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học, nghệ thuật cho đến phong tục tập quán, nếp
sống, nếp nghĩ...Từ quan niệm nhân sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm mỹ cho
đến lời ăn tiếng nói của quảng đại quần chúng ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của
triết lý và tư tưởng Phật giáo. Những ngày đại lễ Phật giáo, ngày rằm, mùng một
hay lễ tết dân tộc mọi người dân dù bận rộn đến mấy cũng vài lần trong đời đến
viếng cảnh chùa để chiêm bái chư Phật, chung vui lễ hội hoặc để gần gũi, tìm hiểu
những di tích lịch sử văn hóa của dân tộc, Chùa làng một thời đã đóng vai trò
trung tâm trong sinh hoạt văn hóa tinh thần cộng đồng làng xã của người Việt. Tại
sao Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn, tình cảm, trong phong
tục tập quán và cảnh quan của dân tộc Việt Nam như vậy?
Người Việt vốn hiền lành, hiếu hòa, hiếu sinh, chân thật, yêu thương đồng
loại. Đạo Phật thì dạy con người biết ăn ở hiền lành, thấy rõ lẽ phải trái, bỏ ác làm lOMoAR cPSD| 48302938 20
lành, cải tà quy chánh trau dồi đức hạnh và thăng hoa trí tuệ, cho nên được quảng
đại quần chúng chấp nhận. Qua quá trình lịch sử, trải qua bao cuộc biến đổi thăng
trầm của đất nước, Phật giáo đã khẳng định mình và có một chỗ đứng vững chắc
trong lòng của dân tộc, tồn tại và phát triển cùng với dân tộc
Hiện nay tư tưởng chính thống ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Những tư tưởng này không chỉ có ý nghĩa trong đời sống
chính trị - xã hội mà còn được vận dụng và mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong
nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, cuộc sống luôn có những biến đổi và “con người là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội” cho nên việc giáo dục về đạo đức, lối sống cho
thế hệ trẻ là hết sức cần thiết.. Vận dụng tư tưởng đạo đức của Phật giáo có thể
mang lại những hiệu quả tích cực trước mắt và lâu dài cho việc giáo dục đạo đức
lối sống cho thế hệ trẻ ở Việt Nam trong thời đại hiện nay. Giáo dục đạo đức Phật
giáo là giáo hóa con người, giúp cho thế hệ trẻ vững bước trước những cám dỗ
của cuộc đời, khích lệ họ quan tâm đến số phận của cộng đồng, sống lương thiện,
coi trọng tính nhân bản, coi trọng thiên nhiên, bên cạnh đó góp phần xây dựng lối
sống có trách nhiệm với một ý thức không tham quyền cố vị, không bám lấy lợi
ích vật chất, sống thanh cao tự tạ.
Vấn đề ở đây là phải hướng đạo đức Phật giáo hướng đến các mục đích xa
hơn, rộng lớn hơn của xã hội - mục đích phát triển xã hội bền vững. Mặc dầu
trong sự nghiệp giáo dục con người, triết lý từ bi, vô vi xuất thế lấy bình yên làm
cứu cánh đã làm bớt đi tham vọng tiến thân, sống nhẫn nhịn, an phận thủ thường…
ít nhiều mang yếu tố tiêu cực, nhưng chúng ta phải phát huy yếu tố tích cực của
đạo đức Phật giáo trong việc giáo dục con người hướng thiện, góp phần duy trì và
phát huy những giá trị tốt đẹp và nếp sống đạo đức trong sáng của dân tộc. Làm
được điều đó, giáo dục đạo đức Phật giáo sẽ góp phần thúc đẩy bền vững xã hội
Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Đến đây, chúng ta có thể kết luận rằng những tư tưởng và hình ảnh của Phật
giáo nói chung và đạo đức của phật giáo nói riêng đã để lại những dấu ấn sâu đậm
trong tư tưởng, đạo đức, phong tục tập quán, nếp sống, ý nghĩ … của người Việt
Nam trong lịch sử và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng cái tinh hoa độc đáo của mình cho
dân tộc Việt nói riêng và cả nhân loại nói chung trong tương lai. KẾT LUẬN
Trong giai đoạn đất nước đang mở của để hòa nhập vào trào lưu phát triển
với thế giới, Việt Nam đã và đang giao lưu với bạn bè quốc tế tiếp thu và học tập
những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Điều đó sẽ dẫn đến sự du nhập nhiều
luồng văn hóa ngoại lai. Trong đó có cái tốt, có cái xấu, làm sao chúng ta có thể
phân biệt và tiếp thu cái tốt và giải trừ cái xấu và nó đã trở thành một vấn đề của
quốc gia chứ không phải chỉ là chuyên cá nhân hay riêng tư nữa. Lời giải đáp rõ