







Preview text:
lOMoAR cPSD| 48302938 Mục lục
1 .MỞ ĐẦU ................................................................................... 1
2.NỘI DUNG ................................................................................ 2
2.1 .Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về hình thái kinh tế xã
hội. .............................................................................................. 2
2.1.1: Hình thái kinh tế xã hội là gì? ........................................... 2
2.1.2: Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế-xã hội. .................. 2
2.1.3: Các loại hình thái kinh tế-xã hội. ................................... 3
2.2: Phân tích quá trình lịch sử tự nhiên của hình thái kinh tế-xã
hội. .............................................................................................. 5
2.3: Ý nghĩa của hình thái kinh tế xã hội .................................... 6
3.KẾT LUẬN ................................................................................ 7
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 8 1 .MỞ ĐẦU
Lý thuyết hình thành kinh tế xã hội được Mác và Ăng-ghen phát hiện vào những
năm 1840. Lênin đã kế thừa, phát triển lý thuyết này và áp dụng vào Cách mạng
Tháng Mười Nga. Lý thuyết về sự hình thành kinh tế xã hội được tạo ra để tìm hiểu
những quy luật chung nhất về sự vận động và phát triển của con người. Nhờ học
thuyết về sự hình thành kinh tế xã hội, C.Mác lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã
chỉ rõ ràng nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, cũng như
bản chất của từng chế độ xã hội, đồng thời nghiên cứu cấu trúc cơ bản của kinh tế
xã hội. Cho phép phân tích đời sống vô cùng phức tạp của xã hội, chỉ ra những mối
quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó, chỉ ra những quy luật vận động
và phát triển xã hội, nó giống như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Lý luận này giúp
chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn, khoa học về sự vận hành của xã hội ở một
giai đoạn phát triển nhất định cũng như quá trình vận động lịch sử chung của xã hội loài người. 1 lOMoAR cPSD| 48302938 2.NỘI DUNG
2.1 .Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về hình thái kinh tế xã hội.
2.1.1: Hình thái kinh tế xã hội là gì?
- Khái niệm hình thức kinh tế xã hội:
Hình thức kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (còn gọi là
chủ nghĩa duy vật biện chứng) và được dùng để chỉ các giai đoạn khác nhau của xã
hội. Một mức năng suất nhất định và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng dựa trên những quan hệ sản xuất đó. Đó là những xã hội cụ thể được hình
thành bởi sự thống nhất biện chứng của mọi mặt của đời sống xã hội và tồn tại trong
một giai đoạn lịch sử nhất định. Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn
chỉnh, có cấu trúc phức tạp, bao gồm các mặt cơ bản như năng suất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi khía cạnh của sự hình thành kinh tế - xã hội đều
có vị thế riêng, tác động qua lại với nhau và thống nhất với nhau.
2.1.2: Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế-xã hội.
- Phương pháp phân tích các thành phần hình thành kinh tế - xã hội:
Xã hội là tổng hòa của nhiều lĩnh vực, các quan hệ xã hội vô cùng phức tạp. Các
nhà triết học Mác-Lênin đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng để phân tích đời sống xã hội, tiến hành trừu tượng hóa các quan hệ xã hội,
phân tách những quan hệ sản xuất, tức là nền kinh tế tồn tại khách quan và không
phụ thuộc vào ý chí con người, tiến nhành “giải phẫu” các quan hệ này. Đồng thời,
phân tích sự phụ thuộc của chúng vào sự phát triển thực tế của lực lượng sản xuất.
Phân tích những mối quan hệ này với tất cả các mối quan hệ xã hội khác, tức là
những mối quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng chính trị - xã hội, cho thấy rõ rằng
xã hội là một hệ thống cấu trúc với các lĩnh vực cơ bản. Bởi vậy Lênin từng nhấn
mạnh: “ Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đem
quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta
mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái
xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên”.
- Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là toàn bộ khả năng thực tế được sử dụng vào hoạt động sản
xuất xã hội trong một thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội
bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất, sức lao động mà con người sử dụng để
sản xuất, trong đó quan trọng nhất là sức lao động. Đây là nền tảng vật chất, kỹ thuật
cho các hình thái kinh tế, xã hội khác nhau. Các hình thái kinh tế xã hội khác nhau 2 lOMoAR cPSD| 48302938
có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự
hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế, xã hội. - Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là khái niệm về mối quan hệ giữa con người với nhau trong quá
trình sản xuất, là một trong những biểu hiện của quan hệ xã hội, giữ vai trò xuyên
suốt trong các quan hệ xã hội, là cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định mọi quan
hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có loại hình quan hệ sản xuất đặc thù.
Quan hệ sản xuất là tiêu chí khách quan để phân biệt các hệ thống xã hội, sự kết hợp
của quan hệ sản xuất tạo thành cái mà người ta gọi là quan hệ xã hội, cái gọi là xã
hội là xã hội trong một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, là xã hội có những đặc
điểm độc đáo, khác biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến và xã hội tư bản đều là
những tổng thể của loại quan hệ sản xuất này, chúng đại diện cho một giai đoạn phát
triển lịch sử cụ thể của loài người.
- Kiến trúc thượng tầng:
Kiến trúc thượng tầng là tập hợp các tư tưởng: chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết
học, tôn giáo, nghệ thuật... và các thể chế tương ứng: nhà nước, đảng phái chính trị,
nhà thờ, đoàn thể... có thể được xây dựng trên cơ sở hạ tầng nhất định. Kiến trúc
thượng tầng được hình thành và phát triển để phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó
là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó. Vì vậy, kiến
trúc thượng tầng là một hiện tượng xã hội, là sự biểu hiện tập trung của đời sống
tinh thần xã hội, là mặt tư tưởng của hình thái kinh tế - xã hội. Ngoài ra, các hình
thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác.
Nó còn bao gồm các lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực xã hội. Mỗi
lĩnh vực của hình thái kinh tế - xã hộivừa tồn tại độc lập với nhau, vừa tác động qua
lại, thống nhất với nhau gắn bó với quan hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến
đổi của quan hệ sản xuất.
2.1.3: Các loại hình thái kinh tế-xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác-Lenin thì trong lịch sử loài người đã sẽ tuần tự xuất hiện
5 hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao:
- Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy): là hình
thái kinh tế xã hội đầu tiên và sơ khai nhất trong lịch sử loài người. Một số đặc trưng
nổi bật của hình thái này là: Tư liệu lao động thô sơ, chủ yếu sử dụng đồ đá, thân
cây làm công cụ lao động; Cơ sở kinh tế là sự sở hữu chung về tư liệu sản xuất và
sản phẩm lao động; Là xã hội chưa có giai cấp, Nhà nước và pháp luật; Quan hệ sản
xuất là quan hệ bình đẳng, cùng làm cùng hưởng thụ. 3 lOMoAR cPSD| 48302938
- Hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ: Khi chế độ thị tộc tồn tại trong công
xã nguyên thủy tan rã và hình thành nên xã hội có Nhà nước, và cuộc cách mạng xã
hội đầu tiên trong lịch sử loài người đã hình thành nên hình thái KTXH chiếm hữu
nô lệ. Đặc trưng của hình thái này là đã thay thế chế độ công hữu (sở hữu chung) về
từ liệu sản xuất sang chế độ tư hữu chủ nô, thay thế xã hội không có giai cấp thành
xã hội có giai cấp đối kháng (chủ nô – nô lệ), thay thế chế độ tự quản thị tộc bằng
trật tự có nhà nước của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ nô dùng bộ máy cai trị của
mình bóc lột tàn nhẫn sức lao động của nô lệ, nô lệ trong xã hội này được coi như
một công cụ lao động biết nói. Hình thái này cũng tạo ra kiểu nhà nước đầu tiên: Nhà nước chủ nô.
- Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến (giai cấp phong kiến) gồm địa chủ và nông
dân: Giai cấp thống trị mới trong hình thái này là giai cấp quý tộc – địa chủ, giai cấp
bị trị là nông nô. Phương pháp bóc lột sức lao động trong xã hội chiếm hữu nô lệ
được thay thế bằng hình thức bóc lột địa tô – người nông dân được giao đất đai và
canh tác trên thửa ruộng của mình, đến kỳ hạn nộp tô thuế cho địa chủ. So với hình
thái chiếm hữu nô lệ, hình thức lao động trong thời kỳ phong kiến đã tiến bộ hơn
nhiều, tuy phải nộp tô thuế nhưng nông dân vẫn có thể được giữ lại phải của cải dư
thừa của mình. Đồng thời nhiều tầng lớp, giai cấp mới đã xuất hiện trong xã hội.
- Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa (giai cấp tư sản) gồm tri thức, tiểu tư
sản: Xuất hiện đầu tiên ở châu Âu, phôi thai và phát triển trong lòng xã hội phong
kiến châu Âu và chính thức xác lập như một hình thái KTXH đầu tiên ở Anh và Hà
Lan vào thế kỷ 17. Adam Smith (1723-1790) là người có đóng góp to lớn nhất xây
dựng một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự
do kinh tế. Những nét đặc trưng cơ bản của hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa: Quyền
sở hữu tư nhân và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo vệ và coi như quyền
thiêng liêng của con người; Cá nhân dùng sở hữu tư nhân để kinh doanh trong điều
kiện thị trường tự do: mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của
các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế; Gắn với nền sản xuất công nghiệp có
năng suất lao động cao; Bản chất sự “bóc lột” nằm ở giá trị thặng dư mà sức lao
động tạo ra khi các nhà tư bản thuê lao động và sử dụng sức lao động.
- Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (giai cấp công nhân): Dựa trên sự phân tích
trực tiếp những mâu thuẫn cơ bản của Chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đầu, đặc
biệt là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, dựa
vào triển vọng của phong trài công nhân, Mác và Ăng – ghen đã đưa ra dự đoán về
sự phát triển của xã hội loài người trong tương lai, đó là sự tất yếu của việc tiến tới
hình thái kinh tế – xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội.
Mác và Ăng – ghen cũng đã từng lưu ý về xây dựng Chủ nghĩa cộng sản “Chủ nghĩa
cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý 4 lOMoAR cPSD| 48302938
tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi Chủ nghĩa cộng ản là một phong
trào hiện thực, nó xóa bỏ mọi trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào
ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại”.
2.2: Phân tích quá trình lịch sử tự nhiên của hình thái kinh tế-xã hội.
- Khi phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo lý luận cấu trúc hình thái
kinh tế - xã hội, C.Mác đã cho rằng: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế xã
hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên".
- Theo đó, tính chất lịch sử, tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế
xã hội được thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau đây:
+ Một là, sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan
của con người mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính
bản thân cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,... Trong đó quan trọng và cơ bản nhất
là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. + Hai là, nguồn gốc
của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội suy đến cùng, xét đến cùng đều có nguyên
nhân trực tiếp hay gián gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội.
+ Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là
sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố
chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan.
- Dưới sự tác động của các quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính
chất toàn bộ của nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội:
hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy đến hình thái kinh tế - xã hội nô lệ, phong
kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất thuộc về hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Có thể nói, sự tác động của các quy luật
khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp
đến cao, đó là con đường phát triển chung nhất của nhân loại.
- Song tuy nhiên, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi
các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị,
về truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế,... Chính vì vậy, lịch sử phát triển
của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng
trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái 5 lOMoAR cPSD| 48302938
kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một
số hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo
một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Từ đó, tạo
nên tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất
đó có thể bao hàm những buớc phát triển "bỏ qua" một hay một vài hìnhthái kinh
tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự "bỏ qua" như vậy đều phải có những
điều kiện khách quan và chủ quan nhất định. Sự thống nhất giữa lôgic và lịch sử
trong tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người bao hàm cả sự phát triển
tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thếgiới và sự phát triển "bỏ qua" một hay
vài hình thái kinh tế - xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể. Đó là rút
ngắn các giai đoạn, bước đi của nền văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng trưởng
nhảy vọt của lực lượng sản xuất.
2.3: Ý nghĩa của hình thái kinh tế xã hội
Lần đầu tiên trong lịch sử, Mác là người đầu tiên nêu lên và giải quyết một cách
khoa học những vấn đề duy vật biện chứng về lịch sử. Học thuyết hình thái kinh tế
- xã hội chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự tồn tại, vận động và phát triển
của xã hội thông qua hệ thống các quy luật khách quan của xã hội. Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội đã phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình về lịch sử.
Cơ cấu và quy luật phổ biến tác động trong mọi hình thái kinh tế – xã hội nhất định
lại có tính đặc thù riêng biệt thông qua những điều kiện lịch sử xã hội khác nhau.
Học thuyết cơ sở để phân chia thời đại lịch sử hay phân kỳ lịch sử vì nó chỉ ra:
xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân,
mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan
hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Muốn nhận
thức đúng đời sống xã hội, phải phân tích các mặt của đời sống xã hội và mối quan
hệ lẫn nhau giữa chúng. Đặc biệt phải phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có thể
hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã hội. Chính quan hệ sản xuất cũng là tiêu
chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách đúng đắn, khoa học.
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội khẳng định, lịch sử-xã hội của con người là
quá trình lịch sử có quy luật cũng giống như những quy luật tự nhiên toàn bộ vấn
đề là ở chỗ nhận ra được quy luật đó hay không. Nó chỉ ra: sự phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy
luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức
đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội. 6 lOMoAR cPSD| 48302938
Đây là học thuyết mang tính cách mạng: Mác đã chỉ cho chúng ta làm cách nào
mà quy luật phát lịch sử quy định sự nối tiếp không tránh khỏi của các phương thức
sản xuất từ phương thức sản xuất nguyên thủy tới nô lệ, từ chế độ phong kiến đến
tư bản chủ nghĩa và lịch sử thế giới hiện trải qua những bước quanh co song, loài
người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của
lịch sử" vì "theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội"
Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác ra đời cho đến nay, loài
người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó
vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống
xã hội. Đương nhiên, học thuyết đó "không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả,
mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp... "duy nhất khoa học" để giải thích lịch sử" 3.KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là nền tảng chính của mọi quốc gia trên thế
giới vì nó chính là nền tảng kinh tế - xã hội của mọi nước, mà trong đó những yếu
tố để hình thành nên hình thái kinh tế - xã hội bao gồm lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất, kiến trúc thượng tầng,… là những nhân tố chính của hinh thái kinh tế - xã
hội. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên và năng
lực thực tiễn của con người. Lực lượng sản xuất làm ra tư liệu sản xuất cho xã hội,
từ lực lượng sản xuất này sẽ nảy sinh quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động
phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất.
Từ lực lượng sản xuất sẽ hình thành nên một tổng thể đó là kiến trúc thượng tầng
bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và
những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định
và đều có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng nhưng không tồn tại tách rời
nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh
cơ sở hạ tầng. Như vậy, để xây dựng hình thái kinh tế - xã hội ở nước ta một cách
có hiệu quả thì nhất thiết phải biết gắn kết các yếu tố lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và cấu trúc thượng tầng một cách đúng đắn. Biết tìm ra những phương
pháp có hiệu quả phù hợp với đất nước như xây dựng nền sản xuất hàng hoá nhiều
thành phần, xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân lao động, mở
rộng giao lưu quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... sẽ làm
cho hình thái kinh tế nước ta phát triển hơn. Chính những điều đó sẽ có ý nghĩa rất 7 lOMoAR cPSD| 48302938
tốt đối với các mặt trong tổng thể hình thái kinh tế xã hội với con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Nó sẽ thúc đẩy phát triển kinh tếlực lượng lao động sẽ có
việc làm và không bị dư thừa, đời sống văn minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Wikipedia: Hình thái kinh tế-xã hội
- Giáo trình triết học Mác-Lênin
- Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - sự thật Hà Nội, 2015 8