Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường, biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Các nhà kinh điển đều khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó trong quá trình vận động, phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: tư tưởng Hồ Chí Minh ( UEH )
Trường: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 47879361
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐHQG TPHCM Trương Quốc Thái 1713135 Nguyễn Trần Nguyên 1712389 Nguyễn Đình Chương 1811631 Trần Đức Huy 1711556 Phan Hữu Nhật 1813375 Huỳnh Minh Triết 1937045
TIỂU LUẬN MÔN: TƯ lOMoAR cPSD| 47879361
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường, biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Liên hệ đến vai trò của sinh viên trong việc nghiên cứu, sử dụng các
thành tựu về khoa học – kỹ thuật – công nghệ để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
GVHD: Phan Thị Thanh Hương Lớp A01. Nhóm 1 HỌ VÀ TÊN MSSV Năm 2020 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................4
Lý do chọn đề tài:...............................................................................................................5
NỘI DUNG........................................................................................................................5
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG, BIỆN PHÁP QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.........................................................................5
1.1 Đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam........5
1.1.1. Thực chất, loại hình và đặc điểm của thời kỳ quá độ....................................5
1.1.2. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.........6
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta trong thời kỳ quá độ............................................................................................7
1.2. Những chỉ dẫn có tính định hướng về nguyên tắc, bước đi, biện pháp thực
hiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội:...................................................15
2. LIÊN HỆ VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU, SỬ
DỤNG THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC - KĨ THUẬT - CÔNG NGHỆ ĐỂ PHỤC
VỤ CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
TIỂU LUẬN MÔN TTHCM – NHÓM 1 2 lOMoAR cPSD| 47879361
......................................................................................................................................18
2.1 Thực trạng của sinh viên trong việc nghiên cứu, sử dụng thành tựu KH-
KTCN vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam..............................................18
2.1.1 Vai trò của sinh viên trong việc nghiên cứu, sử dụng thành tựu KH-KT-CN
để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam............................................................18
2.2 Giải pháp tăng cường, thúc đẩy sinh viên về việc nghiên cứu, sử dụng những
thành tựu KH-KT-CN để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay:..........................................................................................................21
2.2.1 Giải pháp phát huy những ưu điểm và loại bỏ những mặt hạn chế trong việc
sinh viên nghiên cứu, sử dụng những thành tựu KH-KT-CN để phục vụ công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:..................................................21
KẾT LUẬN......................................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................25
TIỂU LUẬN MÔ N TTHCM – NHÓM 1 lOMoAR cPSD| 47879361 MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sang tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội,…
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và của thời đại, nó trường tồn, bất diệt,
là tài sản vô giá của dân tộc ta. Trong hệ thống tư tưởng của Người, tư tưởng kinh tế là mẫu
mực của sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và những
quy luật kinh tế khách quan vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những tư tưởng đó
đã chỉ đạo cho Đảng ta hoạch định đường lối, chính sách kinh tế trong từng thời kỳ, từng
giai đoạn của cách mạng nhằm đảm bảo kháng chiến thắng lợi và kiến quốc thành công.
Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta, trong đó tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội là một bộ phận hết sức quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội được bắt đầu hình thành từ khi Nguyễn Ái
Quốc phát hiện ra đường lối giải phóng dân tộc, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của
cách mạng vô sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội. Từ đó, trong cuộc đời
cách mạng phong phú vừa đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công
tác thực tế, nhận thức của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ngày càng hoàn thiện, sáng tỏ
hơn. Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ thêm những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về xây dụng chủ nghĩa xã hội, nhóm em xin trình bày đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về con đường, biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Liên hệ đến vai trò
của sinh viên trong việc nghiên cứu, sử dụng các thành tựu về khoa học – kỹ thuật –
công nghệ để phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”.
TIỂU LUẬN MÔN TTHCM – NHÓM 1 4 lOMoAR cPSD| 47879361
Lý do chọn đề tài:
Chủ tịch Hồ Chí minh cho rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại
cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn
kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh
phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà thế giới chân chính, xoá bỏ những biên giới tư bản chủ
nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới
hiểu nhau và yêu thương nhau”. Là những sinh viên của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
là những người chủ tương lai của đất nước, là những người sẽ thực hiện các mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội nên nhó mem đã quyết định chọn đề tài này để hiểu rõ hơn về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. NỘI DUNG 1.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG, BIỆN PHÁP QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1 Đặc điểm, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.1.1. Thực chất, loại hình và đặc điểm của thời kỳ quá độ
Các nhà kinh điển đều khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó trong quá trình vận động,
phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Có hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất là quá độ trực
tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Con đường thức
hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước tư bản chủ nghĩa phát triển còn
thấp, hoặc như Lênin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ
phát triển của tư bản chủ nghĩa cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được trong điều kiện cụ
thể nào đó, nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo
và được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mac – Lênin và xuất phát từ đặc điểm, tình hình thực tế Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 47879361
xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là quan niệm về một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể – quá độ từ một xã hội thuộc địa
nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa
xã hội. Chính ở nội dung cụ thể này, Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú thêm lý luận
Mac – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta có
đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác,
thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và là cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn.
Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời ký quá độ, đó là mâu
thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế
– xã hội quá thấp kém của nước ta.
1.1.2. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực chất của
quá trình cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go,
phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách mạng dân tộc dân
chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có những biến đổi. Điều này đòi hỏi phải
áp dụng toàn diện các hình thức đấu tranh cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm
chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch
sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:
+ Xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề
về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội
+ Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy
xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài. lOMoAR cPSD| 47879361
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tính chất phức tạp và khó khăn của nó được Người lý giải trên các điểm sau:
• Đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội, cả lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó
đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau. Như trong Di
chúc, Hồ Chí Minh đã coi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc chiến
đấu khổng lồ của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam.
• Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước và nhân dân ta chưa có kinh
nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng
ta nên phải vừa làm vừa học và có thể có vấp váp, thiếu sót. Xây dựng xã hội mới
bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ lỗi thời.
• Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn luôn bị các thế lực phản động
trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
Từ việc chỉ rõ tính chất của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng, tránh nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai
đoạn. Vấn đề cơ bản là phải xác định đúng bước đi và hình thức phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất, biết kết hợp các khâu trung gian, quá độ, tuần tự từng bước, tử thấp đến
cao. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một năng lực lãnh đạo mang tính khoa học,
vừa hiểu biết các quy luật vận động xã hội, lại phải có nghệ thuật khôn khéo cho thật sát
với tình hình thực tế.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta trong thời kỳ quá độ
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự nghiệp cách mạng mang tính
toàn diện, Hồ Chí Minh đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực:
Trong lĩnh vực chính trị: nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ
mới. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã trở thành đảng cầm quyền.
Mối quan tâm lớn nhất của Người về Đảng cầm quyền là làm sao cho đảng không trở thành lOMoAR cPSD| 47879361
Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất, làm mất niềm tin của dân, có thể dẫn đến nguy
cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt mối quan hệ máu thịt với nhân dân và để cho chủ nghĩa cá
nhân nảy nở dưới nhiều hình thức.
Đồng thời, củng cố và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng trở thành nhiệm vụ rất quan trọng.
Một nội dung chính trị quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là củng
cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính trị cũng
như từng thành tố của nó.
Nội dung kinh tế: Được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên
cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề
cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ.
Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp, lấy nông
nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa
các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng đều giữa
kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế miền
núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của đồng bào
vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối
và quản lý kinh tế. Quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử
dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất. Người chủ trương và chỉ rõ các điều kiện
thực hiện các nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao động, Hồ Chí Minh
bước đầu đề cập vấn đề khoán tròn sản xuất, “ Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ
nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. lOMoAR cPSD| 47879361
Làm khoán là ích chúng và lại lợi riêng…, làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”1
Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội: Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con
người mới. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học – kỹ
thuật trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất
định phải có học thức, cần phải học cả văn hóa, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội cộng
với khoa học chắc chắn đưa loài người đến hạnh phúc vô tận. Hồ Chí Minh rất coi trọng
việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa
trong đời sống xã hội.
Vậy trên đây là những đặc điểm và nhiệm vụ của quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, những quan điểm về các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội… của Bác được nêu
lên, Bác cũng đã khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại”
Vậy 1 câu hỏi được đặt ra là “Tại sao Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa mà lại trực tiếp quá độ lên chủ nghĩa xã hội”:
Thứ nhất, trong lịch sử xã hội loài người giữa hình thái kinh tế - xã hội
(HTKTXH) cũ và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một thời kỳ quá độ
(TKQĐ). Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của
các HTKTXH. Song, không phải HTKTXH này kết thúc hoàn toàn rồi HTKTXH tiếp sau
mới ra đời. Giữa HTKTXH cũ bị thay thế và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có
một giai đoạn chuyển tiếp, một TKQĐ. Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn
đầu là chủ nghĩa xã hội, một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội
trước đó lại càng đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách,
khó tránh khỏi những va vấp, đổ vỡ tạm thời. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gôta”, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, tr.341. lOMoAR cPSD| 47879361
một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là
một thời kỳ quá độ chính trị...”1
Thứ hai, học thuyết Mác - Lê-nin chứng minh rằng, loài người với tính cách một
chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không
gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên
trong chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp
đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Mà có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài
HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Sự bỏ qua này đã và đang diễn ra
trong lịch sử. Từ thực tiễn lịch sử xã hội loài người có thể rút ra ba nhận xét:
Một là, khi vạch ra một sơ đồ tiến hóa xã hội từ HTKTXH thấp lên HTKTXH cao
hơn là chúng ta đã trật tự hóa theo thời gian các trình độ phát triển của các nền văn minh
nhân loại nằm rải rác trong không gian.
Hai là, khi một HTKTXH đi đến chỗ kết thúc, thì xã hội có thể tiến lên một trong
nhiều HTKTXH cao hơn, chứ không nhất thiết chỉ tiến lên một HTKTXH cao hơn.
Ba là, nhận xét có tính chất khái quát: loài người nói chung thì nhất định phải trải
qua cả năm HTKTXH, nhưng từng nước cụ thể thì không nhất thiết phải tuần tự trải qua cả
năm HTKTXH, mà có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH, đi tắt để tiến lên HTKTXH cao
hơn, tùy thuộc điều kiện lịch sử - cụ thể đặc thù của từng nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp
quy luật khách quan. Lê-nin viết "... tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn
thế giới đã không loại trừ, mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những
đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó"2
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc
bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với
yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi:
1 C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 47
2 V. I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t. 45, tr.431. lOMoAR cPSD| 47879361
Một là, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện nay nước ta có những điều kiện khách
quan bên ngoài và bên trong để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Điều kiện bên
ngoài là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực
lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá
trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện
thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế
giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nếu chúng ta thực hiện hiệu quả
phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Trong điều kiện
kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát
triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức.
Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau
CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN. Bối cảnh, điều kiện
quốc tế mới nêu trên đã tạo khả năng để Việt Nam chúng ta thực hiện quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN. Điều kiện bên trong là nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính
quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử của 25 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo,
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày càng
quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết, quyết định con đường
quá độ lên CNXH ở nước ta.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà trình độ phát triển kinh tế - xã hội chưa vượt hoàn toàn
khỏi tiến trình phát triển của CNTB, tiến trình đó phải được tiếp tục đẩy mạnh dưới chính
quyền của nhân dân, mà hình thức thích hợp nhất là CNTB nhà nước và kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước XHCN theo định hướng XHCN. Đó cũng là tư tưởng cốt lõi
của Chính sách kinh tế mới (NEP) trong TKQĐ lên CNXH do Lê-nin vạch ra.
Hai là, hai xu hướng phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta và sự lựa chọn
một trong hai xu hướng đó. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nông
nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu lOMoAR cPSD| 47879361
cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng
hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Để
đáp ứng yêu cầu khách quan đó, nền kinh tế nước ta chứa đựng trong mình hai khả năng
phát triển, hai xu hướng vận động. Và nền kinh tế nước ta có thể lựa chọn một trong hai hướng sau đây:
Hướng thứ nhất, để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế TBCN,
trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị.
Nhưng, đi theo hướng này, CNTB ra đời, sẽ dẫn đến những hậu quả sau: Chính quyền do
chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải tốn bao xương
máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm
thuê và bị bóc lột. Đi theo con đường TBCN thì không thể thực hiện được mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta không đi theo con đường TBCN
vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB, mặc dù CNTB đang có sự điều chỉnh
để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc
phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo
quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB không thể không bị phủ định. Đó là xu thế khách
quan. CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay
thế bằng một chế độ xã hội mới, phát triển ở trình độ cao hơn, với giai đoạn đầu là CNXH.
Với sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa, chính CNTB cũng đã và đang tạo ra những
tiền đề vật chất - kỹ thuật để chuyển sang CNXH.
Hướng thứ hai, là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở
củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh
công - nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và
không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. "Động lực chủ
yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã
hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã lOMoAR cPSD| 47879361 hội..."1
Những thành tựu đã đạt được qua 25 năm đổi mới đã chứng tỏ: chọn con đường thứ
hai này là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của
nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Bởi lẽ, chỉ có CNXH mới giải phóng
được nhân dân lao động khỏi mọi áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của
cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chỉ có đi lên CNXH mới giữ
được độc lập, tự do cho dân tộc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Chỉ có
CNXH mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực tinh thần, mà
còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề
cả vật chất và tinh thần để có thể "rút ngắn" tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội.
Vì thế, trong sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ
lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả
về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế.
Nói "nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN" chỉ có nghĩa là trong lịch sử
nước ta không có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản
xuất TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. "Con đường đi lên của nước ta
là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công
nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại"2.
1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.23
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính
trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr. 66 lOMoAR cPSD| 47879361
Con đường đi lên CNXH ở nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải
qua một trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH
mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế.
TKQĐ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thực chất là Nhà nước ta tự đảm nhận nhiệm vụ
lịch sử phát triển sức sản xuất của xã hội, tự tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất
và những quan hệ xã hội tương ứng với điều kiện vật chất ấy, làm cơ sở hiện thực cho
CNXH. Nghĩa là, dù nước ta không qua giai đoạn phát triển TBCN với tư cách là một
HTKTXH thống trị, nhưng, về phương diện kinh tế phải tôn trọng quá trình phát triển tự
nhiên của nền kinh tế, không thể bỏ qua việc phát triển sức sản xuất xã hội, xã hội hóa sản
xuất trong thực tế. Song, những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện
đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng cho phép chúng ta tận dụng đại công
nghiệp của cả thế giới để có thể "rút ngắn" quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Sự phát triển "rút ngắn" chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch
sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực
kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên
CNXH. Hình thức kinh tế trung gian, quá độ điển hình - đó là CNTB nhà nước. Đồng thời,
phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta
chứng minh rằng, quá độ lên CNXH là con đường duy nhất để nước ta thoát khỏi ách đô hộ
của thực dân đế quốc, để thực hiện thành công cách mạng giải phóng dân tộc. Trước khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước chống Pháp diễn ra sôi nổi, không
ngừng khắp Bắc, Trung, Nam. Các phong ấy thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất,
song đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược.
Và như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước
theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường
tiểu tư sản, lập trường tư sản, đều đã áp dụng và trải qua khảo nghiệm của lịch sử, rốt cuộc
đều thất bại. Trong bối cảnh sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân đế lOMoAR cPSD| 47879361
quốc ở Việt Nam bị bế tắc về đường lối chiến lược, thì chính Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng
trúng nhu cầu lịch sử dân tộc, đưa đất nước đi vào đúng quỹ đạo thời đại mới. Nguyễn Ái
Quốc khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản”, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Người
lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội - đường lối đã đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên, không
thế lực nào ngăn cản nổi.
1.2. Những chỉ dẫn có tính định hướng về nguyên tắc, bước đi, biện pháp thực
hiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Hồ Chí Minh xác định rõ nhiệm vụ lịch sử, nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều trăn trở khôn nguôi của Người là tìm ra bước đi, biện pháp
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, biến nhận thức lý luận thành chương trình hành động,
thành hoạt động thực tiễn hàng ngày. Để xác định bước đi và tìm cách làm phù hợp với Việt
Nam, Hồ Chí Minh đề ra hai nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
• Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế, cần
quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lênin về xây dựng chế độ
mới, có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước anh em. Học tập
những kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhưng không được sao chép, máy
móc, giáo điều. Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam có thể làm khác Liên Xô, Trung
Quốc và các nước khác vì Việt Nam có điều kiện cụ thể khác.
• Xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất phát từ
điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
Trong khi nhấn mạnh hai nguyên tắc trên, Hồ Chí Minh lưu ý vừa chống việc xa rời
các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lênin, quá tuyệt đối hóa cái riêng, những đặc
điểm của dân tộc, vừa chống máy móc, giáo điều khi áp dụng các nguyên lý của chủ nghĩa
Mac – Lênin mà không tính đến những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và của thời đại. lOMoAR cPSD| 47879361
Quán triệt hai nguyên tắc phương pháp luận vừa nêu, Hồ Chí Minh xác định phương
châm thực hiện bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội: dần dần, thận trọng từng bước
một, từ thấp đến cao, không chủ quan nôn nóng và việc xác định các bước đi phải luôn luôn
căn cứ vào các điều kiện khách quan quy định, Hồ Chí Minh nhận thức về phương châm:
“Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” không có nghĩa là làm bừa,
làm ẩu, “đốt cháy giai đoạn”, chủ quan, duy ý chí mà phải làm vững chắc từng bước, phù
hợp với điều kiện thưc tế. Trong các bước đi lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt
lưu ý đến vai trò của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi đó là “con đường phải đi của
chúng ta”, là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; nhưng công
nghiệp hóa không có nghĩa là xây dựng những nhà máy, xí nghiệp cho thật to, quy mô cho
thật lớn, bất chấp những điều kiện cụ thể cho phép trong từng giai đoạn nhất định. Theo
Người, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thực hiện thắng lợi trên cơ sở xây dựng
và phát triển nền nông nghiệp toàn diện, vững chắc, một hệ thống tiểu thủ công nghiệp,
công nghiệp nhẹ đa dạng nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho nhân dân, các
nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho xã hội.
Cùng với các bước đi, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện pháp tiến hành
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Người đã chỉ đạo một số biện pháp cụ thể sau đây:
• Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng,
lấy xây dựng làm chính.
• Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở hai
miền Nam Bắc khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
• Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm để thực hiện tháng lợi kế hoạch
• Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội là đem của dân tài dân, sức dân, làm lợi cho dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng, phải huy động hết tiềm năng, nguồn lực có trong dân để đem
lại lợi ích cho dân. Nói cách khác, phải biến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành sự
nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập hợp lực lOMoAR cPSD| 47879361
lượng, đề ra đường lối, chính sách để huy động và khai thác triệt để các nguốn lực của dân,
vì lợi ích của quần chúng lao động.
Vậy trên đây là những chỉ dẫn có tính định hướng về nguyên tắc, bước đi, biện pháp
thực hiện trong quá trình chủ nghĩa xã hội mà Bác đã vạch ra. Theo Bác điều quan trọng
nhất trong quá trình này là chúng không được xa rồi chủ nghĩa Mác-Leenin, đi chậm mà
chắc, học tập có chọn lọc từ những nước anh em, học tập nhưng không sao chép máy móc. 2.
LIÊN HỆ VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU, SỬ
DỤNG THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC - KĨ THUẬT - CÔNG NGHỆ ĐỂ PHỤC VỤ
CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng để xây dựng những con người, đặc biệt là các
thế hệ sinh viên phát triển toàn diện, “vừa hồng, vừa chuyên”, có lý tưởng cách mạng, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), có đạo đức trong sáng, có nǎng
lực tiếp thu tinh hoa vǎn hoá nhân loại, có tư duy sáng tạo, làm chủ tri thức khoa học và
công nghệ hiện đại, có kỹ nǎng thực hành giỏi, có sức khoẻ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
là không ngừng giáo dục lý tưởng cách mạng cho họ.
2.1 Thực trạng của sinh viên trong việc nghiên cứu, sử dụng thành tựu KH-KTCN
vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1.1 Vai trò của sinh viên trong việc nghiên cứu, sử dụng thành tựu KH-KT-CN để
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Khái niệm khoa học công nghệ:
Theo cách hiểu chung nhất thì khoa học công nghệ là một tập hợp của những hoạt
động có hệ thống, và có sự sáng tạo với mục đích chính là phát triển kiến thức có liên quan lOMoAR cPSD| 47879361
đến con người tự nhiên và xã hội. ừ đó sử dụng các kiến thức này vào việc tạo ra những nguồn ứng dụng mới.
Hoạt động khoa học công nghệ chính là hoạt động nghiên cứu khoa học, triển khai
các thực nghiệm tiến hành phát triển công nghệ và các ứng dụng của công nghệ cùng với
ịch vụ khoa học- công nghệ. Từ đó có thể phát huy toàn bộ sáng kiến, hoạt động sáng tạo
để phát triển khoa học công nghệ.
Việc nghiên cứu khoa học chính là một hoạt động nhằm phát hiện và tìm hiểu những
hiện tượng sự vật cung như quy luật tự nhiên- xã hội và tư duy. Đồng thời đó còn là việc
sáng tạo những giải pháp để có thể ứng dụng vào hoạt động thực tiễn. hoạt động nghiên cứu
sẽ bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Phát triển công nghệ chính là hoạt
động tạo ra, hoàn thiện công nghệ mới. Đây là một hoạt động bao gồm hai nhiệm vụ là triển
khai thực nghiệm và sản xuất thực nghiệm. Triển khai thực nghiệm là việc áp dụng các kết
quả nghiên cứu khoa học vào thực nghiệm, mục đích là tạo ra nhưng công nghệ mới những
sản phẩm mới. Sản xuất thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả của việc triển khai từ
thực nghiệm đưa vào sản xuất thử với qui mô nhỏ, từ đó tiến tới với quy mô lớn hơn.
Ý thức được vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học và công nghệ (KH&CN) đối
với sự phát triển của đất nước Việt Nam. trong năm 2019, Sở KH&CN đã cụ thể hóa nhiều
chủ trương, chính sách về KH&CN để phù hợp với đặc thù của địa phương. Trong đó, đẩy
mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, gắn với việc chuyển giao
ứng dụng trong sản xuất, đời sống; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo; tổ chức tốt công tác quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực...
63 năm qua, kể từ ngày truyền thống 9/1/1950, sinh viên Việt Nam luôn tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng và tương lai tươi sáng của đất nước; xác định được nhiệm vụ cơ
bản của sinh viên là học tập, tích lũy kiến thức, rèn luyện về mọi mặt để có phong cách, lối
sống đẹp, ứng xử văn minh, thói quen tốt, từng bước đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Thành tựu của sự nghiệp đổi mới, quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế của
đất nước và chủ trương xã hội hóa giáo dục những năm vừa qua đã có tác động tích cực đến
sinh viên; thúc đẩy sinh viên Việt Nam đi đầu trong các phong trào hành động cách mạng, lOMoAR cPSD| 47879361
không ngừng phấn đấu, rèn luyện để trở thành những công dân hữu ích, đóng góp cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sinh viên Việt Nam luôn chủ động, mạnh dạn, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu
khoa học, tiếp cận nhanh với tri thức khoa học của thế giới, phương pháp, phương tiện học
tập, nghiên cứu khoa học hiện đại. Bên cạnh học tập, nghiên cứu lý thuyết, sinh viên đã tích
cực liên hệ thực tiễn, sáng tạo những sản phẩm khoa học, công nghệ thiết thực; ứng dụng
kiến thức vào thực tế; sinh viên có ý thức tự trang bị thêm các kiến thức bổ trợ, đặc biệt là
ngoại ngữ, tin học và các kỹ năng thực hành xã hội...
Cuộc vận động “Sinh viên Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt trong nhiệm vụ rèn luyện đạo đức, tác phong cho sinh viên, được các cấp bộ Hội triển
khai sâu rộng với nhiều cách làm mới. Điển hình như hoạt động đăng ký rèn luyện hành
động theo lời dạy của Bác, như: tác phong đi học đúng giờ, sáng tạo trong học tập, nghiên
cứu khoa học, tích cực rèn luyện thể dục thể thao; “Tủ sách Bác Hồ”; “Giờ học tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”; “Nhật ký làm theo lời Bác”; tổ chức tuyên dương danh hiệu “Sinh
viên học tập và làm theo lời Bác” các cấp; đăng ký đảm nhận công trình, phần việc sinh viên làm theo lời Bác...
Đồng thời, các hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên đã được các cấp
Hội tổ chức thường xuyên gắn với những vấn đề cụ thể mà xã hội, sinh viên quan tâm, như:
văn hóa học đưn Click không thuốc lá” thu hút 500.000 thanh niên, học sinh, sinh viên bày
tỏ sự ủng hộ đối với môi trường không khói thuốc, vì sức khỏe cộng đồng; Chương trình
đối thoại trẻ với chủ đề “Thuốc lá – Hãy nói không”; cuộc thi sáng tạo video clip về phòng
chống tác tại thuốc lá trong học sinh, sinh viên; in ấn, phát hành 80.000 poster với nội dung
phát huy thói quen tốt trong sinh viên.
Đặc biệt, dấu ấn thiết thực trong 5 năm qua là hoạt động tình nguyện bảo vệ môi
trường được triển khai tốt tại các trường với nhiều cách làm hiệu quả, thu hút sự hưởng
ứng tham gia của sinh viên. Trong đó, tiêu biểu như Chương trình “Triệu chữ ký, triệu
hành động vì môi trường”; tham gia các hoạt đông “Giờ trái đất”, “Ngày môi trường thệ́
giới”; “Ngày sáng tạo Việt Nam” có 500 Đề án tham gia đề xuất ý tưởng về chống biến
đổi khí hậu. Các cấp bộ Hội tổ chức 9.833 hoạt động bảo vệ môi trường; có 8.247 công lOMoAR cPSD| 47879361
trình, phần việc sinh viên; tổ chức 6.055 đội hình tập trung trong các Chiến dịch sinh viên
tình nguyện hè hàng năm.
2.2 Giải pháp tăng cường, thúc đẩy sinh viên về việc nghiên cứu, sử dụng những
thành tựu KH-KT-CN để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
2.2.1 Giải pháp phát huy những ưu điểm và loại bỏ những mặt hạn chế trong việc
sinh viên nghiên cứu, sử dụng những thành tựu KH-KT-CN để phục vụ công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
Về mặt tích cực: sinh viên Việt Nam luôn có những nghiên cứu hữu dụng và luôn
tìm tòi những cách để có thể áp dụng được những thành tựu KH-KT-CN của nhân loại để
đã và đang phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của chúng ta hiện
nay, chúng ta luôn có những cá nhân, những tập thể có suy nghĩ lớn, luôn tìm tòi nghiên
cứu những thứ mới mẻ và hữu dụng. Chúng ta phải tự hào vì có một thế hệ trẻ năng động,
tài năng luôn luôn tìm kiếm những điều mới mẻ để áp dụng vào nước nhà, để giúp chế độ
nước ta ngày càng vững mạnh. Mạnh về kinh tế, mạnh về chính trị, mạnh về tinh thần dân tộc.
Những mặt tích cực đó cần được chúng ta nêu lên và tuyên dương trước cộng đồng,
để cộng đồng, nhân dân có thể học tập theo.
Về mặt tiêu cực: sinh viên thường là những con người có tư duy chính chắn,trưởng
thành, nhưng cũng có một bộ phận cá biệt nhỏ cũng đang bị những thế lực thù địch mua
chuộc hoặc lợi dụng mà không hay, không những không áp dụng được những cái hay cái
mới của nhân loại mà còn có suy nghĩ, tư duy suy đồi, thoái hóa
Những mặt tiêu cực này nếu không có sự can ngăn của mọi người thì hậu quả sau
này là rất lớn, thứ lớn hơn cả là nó đánh vào suy nghĩ của những sinh viên này, làm những