lOMoARcPSD| 58569740
lOMoARcPSD| 58569740
MỤC LC
LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NĂNG LƯỢNG I TẠO ............................................................ 2
1.Khái niệm về năng lượng tái tạo................................................................................................... 2
2.Phân loại các nguồn năng lượng tái tạo ....................................................................................... 3
2.1.Năng lượng gió ........................................................................................................................ 3
2.2. Năng lượng mặt trời .............................................................................................................. 3
2.3. Thủy điện ................................................................................................................................ 3
2.4. Năng lượng sinh học .............................................................................................................. 3
2.5. Năng lượng địa nhiệt .............................................................................................................. 3
2.6. Năng lượng chất thải rắn ....................................................................................................... 4
2.7. Năng lượng thủy triều ............................................................................................................ 4
2.8. Nhiên liệu hydrogen và pin nhiên liệu hydro ....................................................................... 4
3.Vai trò của năng lượng tái tạo trong phát triển bền vững và giảm nhẹ biến đổi khí hậu ....... 4
3.1. Đảm bảo an ninh năng lượng ................................................................................................ 4
3.2. Giảm phát thải khí nhà kính ................................................................................................. 4
3.3. Thúc đẩy phát triển bền vững ............................................................................................... 5
CHƯƠNG II: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO TRONG BỐI CẢNH
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, HIỆN TRẠNG CỦA VIỆT NAM TRÊN THẾ GIỚI ........................... 6
1.Xu hướng phát triển NLTT trên thế giới ..................................................................................... 6
2. Các chính sách hỗ trợ NLTT của một số quốc gia ..................................................................... 8
3.Thực trạng phát triển NLTT ở Việt Nam .................................................................................. 12
4.Thách thức và cơ hội phát triển NLTT tại Việt Nam................................................................ 13
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUẾT........................................................................................ 15
Phát triển thủy điện ........................................................................................................................ 15
Phát triển điện gió ........................................................................................................................... 16
Phát triển điện mặt trời .................................................................................................................. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................. 17
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang trở thành một trong những thách thức lớn nhất
đối với nhân loại. Các hiện tượng cực đoan như bão lũ, hạn hán, mực nước biển dâng
cao nhiệt độ tăng cao không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường mà còn gây
ra những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế đời sống của người dân. Trong bối
cảnh đó, một trong những giải pháp quan trọng để giảm thiểu tác động của biến đổi khí
hậu chính là năng lượng tái tạo.
lOMoARcPSD| 58569740
Tại Việt Nam, biến đổi khí hậu cũng đã và đang gây ra những hệ quả đáng lo ngại.
Nước ta là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu,
đặc biệt những tác động của mực nước biển dâng các hiện ợng thời tiết cực đoan.
Theo dự báo, nếu không các biện pháp ứng phó hiệu quả, mực nước biển thể dâng
lên từ 0,7 đến 1 mét vào cuối thế kỷ này, đe dọa hàng triệu người dân sống khu vực
đồng bằng sông Cửu Long và các thành phố ven biển.
Chính vậy, việc chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo không chỉ giúp
giảm phát thải khí nhà kính còn tạo ra hội phát triển kinh tế bền vững cho đất
nước. Thủy điện đã và đang nguồn năng lượng tái tạo chủ lực tại Việt Nam. Tính đến
cuối năm 2020, tổng công suất lắp đặt của thủy điện các nhà máy điện năng lượng
tái tạo đạt khoảng 43.126 MW, chiếm 55,2% tổng công suất hệ thống điện quốc gia.
Trong đó, thủy điện đóng góp một phần lớn vào con số này(tapchicongsan.org.vn)
Bên cạnh đó, như năng lượng mặt trờing lượng gió. Đặc biệt, Việt Nam có
bức xạ mặt trời trung bình lên đến khoảng 5 kWh/m²/ngày, rất thuận lợi để phát triển
điện mặt trời. Đường bờ biển dài hơn 3.000 km của Việt Nam cũng giúp chúng ta khai
thác được năng lượng gió, với tốc độ gió trung bình từ 6 đến 8 m/s, tiềm năng phát triển
điện gió rất lớn.(vietthink.vn)
Tuy nhiên, tiềm năng lớn, tỉ trọng năng lượng tái tạo trong tổng năng ợng
quốc gia vẫn còn khá thấp, với khoảng 9% (thông tin từ IEA) trong tổng nguồn cung
năng lượng sơ cấp vào năm 2020. Điều này yêu cầu Việt Nam phải đẩy mạnh các chính
sách khuyến khích đầu tư và nghiên cứu phát triển trong lĩnh vực năng lượng tái tạo để
góp phần vào cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, đồng thời bảo vệ môi trường và thúc
đẩy sự phát triển bền vững.
Năng lượng tái tạo không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc giảm phát thải khí
nhà kính, mà còn mở ra cơ hội phát triển bền vững cho nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên,
quá trình chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo cũng đi kèm với những thách thức
lớn về đầu tư, công nghệ chính sách. Vậy làm thế nào để tối ưu hóa việc ng dụng
năng lượng tái tạo, cũng như đánh giá các tác động kinh tế và môi trường của nó?
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO
1.Khái niệm về năng lượng tái tạo
Tại khoản 1 Điều 43 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định về khái niệm năng
lượng tái tạo như sau:
Theo đó, theo quy định của pháp luật thì năng lượng tái tạo năng lượng được khai
thác từ ớc, gió, ánh sáng mặt trời, địa nhiệt, sóng biển, nhiên liệu sinh học các
nguồn tài nguyên năng lượng có khả năng tái tạo khác.
Năng lượng tái tạo là năng lượng được tạo ra các nguồn hình thành liên tục, có thể
coi hạn. Năng lượng tái tạo còn được biết đến năng lượng sạch hoàn toàn hay
năng lượng tái sinh.
Tuy còn khá mới nhưng đây lại là nguồn năng lượng mang đến những chuyển biến
tích cực trong tương lai. Năng lượng sạch hoàn toàn đang nhanh chóng lan rộng cả
lOMoARcPSD| 58569740
quy mô lớn và nhỏ, dần thay thế cho các nguồn nhiên liệu truyền thống trong 4 lĩnh vực
quan trọng: nhiên liệu động cơ, làm mát, phát điện và hệ thống điện độc lập nông thôn.
2.Phân loại các nguồn năng lượng tái tạo
2.1.Năng lượng gió
Năng lượng gió là quá trình gió sử dụng hoạt động di chuyển của mình quay tuabin
gió để tạo ra năng lượng học. Tuabin gió là thiết bị giúp tạo ra một lượng tương đối
lớn nhờ o sức gió thổi. Khi tốc độ gió tăng, sản lượng điện cũng tăng lên đạt công
suất tối đa cho tuabin.
Những khu vực gió mạnh liên tục nơi tưởng cho các trang trại điện gió.
Thông thường, số giờ đầy tải của tuabin gió có thể thay đổi từ 16% đến 57% hàng năm
và sẽ cao hơn ở các vị trí ngoài khơi.
2.2. Năng lượng mặt trời
Năng lượng mặt trời sự chuyển đối năng ợng từ ánh sáng mặt trời thành điện
năng. Với năng lượng mặt trời, chúng ta thể khai thác được cả phần ánh sáng phần
nhiệt toả ra.
Ngày nay, con người còn sử dụng nguồn năng lượng tái sinh này theo nhiều cách
khác nhau như tạo ra điện cung cấp cho thiết bị điện, làm nước nóng,… để phục vụ nhu
cầu trong cuộc sống.
2.3. Thủy điện
Thủy điện nguồn năng lượng sạch hoàn toàn đang được ứng dụng nhiều hầu
hết các quốc gia. Thủy điện hoạt động dựa vào sức nước trong các dòng nước có tốc độ
nhanh để thiết lập tuabin máy phát điện.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng hệ thống các nhà máy
thủy điện, đập thủy điện. Tuy nhiên, những công trình y không được xem năng
lượng tái tạo. do là thủy điện cũng như các con đập này làm giảm dòng chảy tự
nhiên chuyển ớng dòng chảy. Bên cạnh đó, thủy điện đập thủy điện còn tác
động đến con người cũng như quần thể sinh vật sinh sống trong khu vực đó. Các nhà
máy thủy điện nhỏ sẽ được quản lý cẩn thận hơn để không gây ra các tác động đến môi
trường.
2.4. Năng lượng sinh học
Năng ợng sinh học (hay còn gọi năng ợng sinh khối) nguồn gốc từ động
vật, cây trồng. Nguồn năng lượng tái sinh này thể được sử dụng trực tiếp hoặc gián
tiếp nhờ vào quá trình đốt cháy để tạo ra nhiệt.
Gần đây, các nhà khoa học chỉ ra rằng đốt sinh khối có nguồn gốc từ thực vật tạo ra
lượng khí CO2 cao, gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường. vậy, sinh
khối đang dần không được coi là một nguồn năng lượng sạch hoàn toàn.
2.5. Năng lượng địa nhiệt
Năng lượng địa nhiệt của Trái Đất sinh ra từ sự hình thành của ban đầu hành tinh
sự phân rã phóng xạ của khoáng chất.
lOMoARcPSD| 58569740
Ở một số khu vực độ dốc địa nhiệt đủ cao sẽ khai thác được tạo ra điện. Tuy
nhiên, công nghệ để khai thác năng lượng địa nhiệt vẫn bị giới hạn một vài nơi. Ngoài
ra, vấn đề kỹ thuật cũng làm hạn chế tiện ích của loại năng lượng này.
2.6. Năng lượng chất thải rắn
Ngày nay, chuyển hóa chất thải rắn thành năng lượng biện pháp tái chế rác thải
hữu cơ hiệu quả. Hoạt động này không chỉ xử lý rác thải thành điện năng mà còn giảm
phát thải khí nhà kính.
Nhiều quốc gia đã giải quyết hiệu quả vấn đề rác thải, đặc biệt là chuyển hóa thành
nguyên liệu thô cho c hoạt động công nghiệp. thể kể đến như: các quốc gia khu
vực Bắc Âu, Singapore, Nhật Bản, Mỹ, Đức,...
các nước đang phát triển, số lượng mật độ rác đô thị còn tăng cao hơn các nước
phát triển. Tuy nhiên, việc xử lý rác thải lại gặp nhiều hạn chế hơn do thiếu vốn đầu tư
và công nghệ.
2.7. Năng lượng thủy triều
Thủy triều là dạng năng lượng sạch hoàn toàn, được sử dụng để tạo ra điện nhờ vào
sự chuyển đổi năng lượng. Nguồn năng lượng này mức chi phí đầu khá tốn kém. Hơn
nữa, chỉ thực hiện được ở những nơi có vận tốc dòng chảy lớn hoặc thuỷ triều đủ cao.
Năng lượng tái tạo từ thủy triều tồn tại một số nhược điểm đang được các nhà khoa
học tìm ra cách giải quyết trong cuộc khủng hoảng năng lượng sắp tới. vậy, năng
lượng từ thủy triều cũng chưa thực sự được sử dụng rộng rãi.
2.8. Nhiên liệu hydrogen và pin nhiên liệu hydro
Hydrogen được sử dụng trong pin nhiên liệu hydro, cung cấp năng lượng cho động
điện tương tự npin lưu trữ điện. Các loại xe chạy bằng hơi nước đều được ứng
dụng từ loại năng lượng này.
Khi sử dụng nhiên liệu đốt hydrogen, ô nhiễm trong thành phố được giảm một cách
đáng kể. Đây sẽ giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường
trong tương lai.
3.Vai trò của năng lượng tái tạo trong phát triển bền vững và giảm nhẹ biến
đổi khí hậu
3.1. Đảm bảo an ninh năng lượng
Năng lượng tái tạo giúp đảm bảo an ninh năng lượng bằng cách giảm sự phụ thuộc
vào nguồn năng lượng hóa thạch, từ đó giảm nguy cơ của việc gián đoạn cung cấp năng
lượng biến động giá năng lượng trên thị trường quốc tế. Năng lượng tái tạo giúp giảm
sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, vốn đang ngày càng cạn kiệt thể bị gián
đoạn bởi các yếu tố chính trị, kinh tế. Phát triển năng lượng i tạo giúp đa dạng hóa
nguồn cung cấp năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
3.2. Giảm phát thải khí nhà kính
Sử dụng năng lượng i tạo giúp giảm phát thải khí nhà kính, góp phần vào cuộc
chiến chống lại biến đổi khí hậu và làm giảm tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối
với môi trường và con người. Năng lượng tái tạo là nguồn năng lượng sạch, không tạo
ra khí thải nhà kính, góp phần bảo vệ môi trường chống biến đổi khí hậu. Sử dụng
lOMoARcPSD| 58569740
năng lượng tái tạo giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường sức khỏe con
người.
Hơn nữa, giảm thiểu phát thải khí nhà kính cũng mang lại lợi ích cho sức khỏe con
người. Khí thải từ các nguồn năng lượng hóa thạch có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe
như ô nhiễm không khí, bệnh về hấp và các vấn đề liên quan đến sự đổi mới khí hậu.
Sử dụng năng lượng tái tạo giúp giảm nguy cơ này, tạo ra một môi trường sống lành
mạnh và bền vững hơn cho tất cả mọi người.
3.3. Thúc đẩy phát triển bền vững
Năng lượng tái tạo đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững
bằng cách tạo ra hội việc làm, khuyến khích sự đổi mới công nghtăng cường sức
mạnh kinh tế cho các cộng đồng địa phương. Phát triển năng lượng tái tạo giúp nâng
cao chất lượng cuộc sống và hướng đến một tương lai bền vững.
Phát triển năng lượng tái tạo không chỉ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống hiện tại
còn hướng đến một tương lai bền vững hơn cho thế hệ tương lai. Sử dụng nguồn
năng lượng sạch giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường sức khỏe con
người, đồng thời tạo ra một môi trường sống lành mạnh bền vững cho tất cả mọi
người.
lOMoARcPSD| 58569740
CHƯƠNG II: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO TRONG
BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, HIỆN TRẠNG CỦA VIỆT NAM VÀ TRÊN
THẾ GIỚI
1.Xu hướng phát triển NLTT trên thế giới
Tốc độ sản xuất NLTT hằng năm có xu hướng tăng
Biến đổi khí hậu cùng với những hiện tượng thời tiết cực đoan đang diễn ra với tần
suất ngày một cao hơn khiến nhu cầu chuyển sang sử dụng NLTT trở nên cấp thiết hơn
bao giờ hết.
Trên thực tế, năng lượng hóa thạch hiện được sử dụng phổ biến nhất, từ lâu đã như
một phần không thể thiếu đối với hoạt động kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, nguồn dự trữ
nhiên liệu hóa thạch giới hạn, trong khi dân số nhu cầu tiêu thnăng lượng của
thế giới liên tục gia ng. Ngoài ra, việc khai thác, sản xuất sử dụng nhiên liệu hóa
thạch đã gây ra nhiều tác động xấu đối với môi trường.
Trong bối cảnh đó, năng lượng tái tạo từ gió, mặt trời... có thể khắc phục cả hai vấn
đề trên với nguồn cung gần như tận thân thiện môi trường. Điện sản xuất từ nguồn
năng lượng tái tạo này cũng có giá cạnh tranh hơn các nguồn điện nhiên liệu hóa thạch
truyền thống giúp tạo ra nhiều việc làm. Với những đặc trưng trên, xu hướng phát
triển năng lượng tái tạo có thể khiến bản đồ năng lượng toàn cầu được “vẽ lại”, thay đổi
đáng kể trong những năm tới.
Từ năm 1966 đến năm 2022, tốc độ tăng trưởng hằng năm của sản lượng NLTT dao
động với biên độ kmạnh, nhưng chủ yếu vẫn duy trì xu hướng tăng trưởng dương.
Đỉnh tăng trưởng của tốc độ sản xuất NLTT được ghi nhận vào năm 1974, dưới tác động
của cuộc khủng hoảng dầu mỏ thế giới, với mức tăng trưởng 9,67%. Một mức đỉnh khác
10,03% vào m 2008, trong bối cảnh bức tranh kinh tế toàn cầu phủ màu ảm đạm
do cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ và châu Âu. Cuộc khủng hoảng này đã bộc lộ rõ
tính thiếu bền vững của nền kinh tế thế giới cũng như các hình tăng trưởng tại nhiều
quốc gia, đặt ra yêu cầu cấp thiết về phát triển kinh tế xanh. Kể từ năm 2010 đến nay,
sản lượng NLTT toàn cầu bước vào giai đoạn tăng trưởng cao và ổn định, trên 4%.
Theo Báo cáo Năng lượng tái tạo 2021 Phân tích Dự báo đến năm 2026 của
quan ng lượng quốc tế (IEA), sản lượng điện tái tạo toàn cầu ước tính đạt 8300
TWh năm 2021, tăng khoảng 8% so với cùng kỳ năm trước và đánh dấu mức tăng hàng
năm cao nhất kể từ 1970.
Trong đó, điện mặt trời điện gió đóng góp khoảng hai phần ba mức tăng trưởng
năng lượng tái tạo. Công suất điện tái tạo được cho rằng sẽ tăng tốc trong giai đoạn dự
báo của Báo cáo IEA, chiếm gần 95% mức tăng công suất điện toàn cầu đến năm 2026.
Từ năm 2021-2026, mức bổ sung của công suất năng lượng tái tạo dự báo đạt trung
bình 305 GW/năm đối với kịch bản cơ sở, có thể đạt 380 GW/năm đối với kịch bản tăng
trưởng. Tuy nhiên, để thế giới có thể đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050, tăng
trưởng công suất năng ợng tái tạo hàng m cần tăng hơn 80% so với kịch bản tăng
trưởng đó.
lOMoARcPSD| 58569740
Điều này đồng nghĩa rằng các quốc gia cần tăng tốc hơn nữa trong việc theo đuổi
xu hướng năng lượng tái tạo, nỗ lực hơn nữa để giải quyết những vấn đề về chính sách,
thực thi cũng như nâng các cam kết khí hậu.
Gia tăng sức cạnh tranh của NLTT
Với tiềm năng sản ợng khai thác thời gian duy trì nguồn phát gần như không
giới hạn, thể thấy năng lượng mặt trời năng lượng gió là những nguồn NLTT ngày
càng phổ biến trên Trái đất. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào những năm 70 của thế kỷ
XX khiến nhiều quốc gia thay đổi suy nghĩ về việc tiêu thụ năng lượng, dẫn tới việc các
nước này triển khai một loạt chương trình nghiên cứu về năng lượng mặt trời năng
lượng gió nằm trong chiến lược phát triển NLTT. Nhờ những tiến bộ về kỹ thuật công
nghệ, giá thành của NLTT ngày càng trở n cạnh tranh so với nguồn năng lượng hóa
thạch.
Tuy sự khác biệt về chi phí công suất, nhưng sự vận động các chỉ số của những
loại NLTT này tương tnhau: chi phí lắp đặt trung bình chi phí năng lượng bình
đẳng xu hướng giảm, trong khi hệ số ng suất xu hướng ng theo thời gian.
Những tiến bộ về công nghệ kỹ thuật đã giúp giá thành năng lượng mặt trời năng
lượng gió thấp n, mang lại lợi ích kinh tế lâu dài, thúc đẩy gia tăng tỷ trọng của hai
nguồn này trong cấu tiêu thụ năng lượng. Từ đó, góp phần bảo đảm an ninh năng
lượng quốc gia, phát triển kinh tế bền vững, giảm ô nhiễm môi trường, chống biến đổi
khí hậu. Nghiên cứu của IEA chỉ ra rằng, đến năm 2025, NLTT sẽ trở thành nguồn điện
chính, đóng góp một phần ba tổng sản lượng điện trên thế giới.
Xu hướng điện khí hóa
Theo quá trình phát triển của kinh tế, hội, các loại máy móc thiết bị điện ra
đời đã đang góp phần rất lớn trong việc ng cao năng suất, tiết kiệm sức lao động
của con người. Để những máy móc này hoạt động hiệu quả thì điện năng là yếu tố không
thể thiếu. Tầm quan trọng của điện năng vẫn ngày càng tăng lên. Để thực hiện mục tiêu
trung hòa carbon vào giữa thế kỷ này, nhiều quốc gia đang thúc đẩy chuyển đổi từ sử
dụng nhiên liệu hóa thạch sang cung cấp năng lượng điện cho các thiết bị, tòa nhà
giao thông. Chẳng hạn như, việc điện khí a hệ thống sưởi một trong những kế
hoạch của Liên minh châu Âu (EU) nhằm giảm lượng khí thải từ các tòa nhà.
Hiện nay, các thiết bị lưới truyền tải điện ngày càng được cải thiện, thu hút thêm
nhiều người dùng mới thúc đẩy quá trình điện khí hóa diễn ra mạnh mẽ hơn trên
nhiều lĩnh vực, kể cả trong lĩnh vực vốn sử dụng nhiều nhiên liệu hóa thạch như giao
thông vận tải. Ô điện đang trở nên phổ biến. Theo Công ty phân tích thị trường
EVvolumes.com, doanh số bán xe điện toàn cầu sẽ tăng gấp ba lần, từ 10,5 triệu chiếc
vào năm 2022 lên hơn 31 triệu chiếc vào năm 2027. Với đà phát triển nhanh chóng như
hiện tại, con số này sẽ còn tăng hơn gấp đôi, lên 74,5 triệu chiếc vào năm 2035(3). Nhu
cầu xe điện đang tăng nhanh nhờ những ưu điểm, thuận lợi, như tiết kiệm chi phí về dài
hạn, chính sách ưu đãi thuế bảo vệ môi trường. Mặc giá thành ban đầu cao hơn,
nhưng về dài hạn, việc sử dụng ô tô điện có thể rẻ hơn ô tô chạy xăng do chi phí nhiên
liệu bảo dưỡng thấp hơn. Hơn nữa, những tiến bộ công nghệ kỹ thuật đang giúp hạ
giá thành sản xuất và tăng hiệu suất pin, qua đó làm tăng sức cạnh tranh của xe điện.
Có thể thấy, thúc đẩy NLTT đang trở thành xu hướng, chiếm vị trí quan trọng trong
chiến lược phát triển bền vững của các nước trên thế giới. Hằng năm, nhiều quốc gia
lOMoARcPSD| 58569740
trên thế giới đã đầu hàng trăm tỷ USD để chuyển đổi năng lượng, tái khởi động các
nền kinh tế giải quyết căn nguyên của cuộc khủng hoảng khí hậu tự nhiên(4).
Châu Âu đã nhanh chóng thúc đẩy tăng trưởng năng lượng sạch trong bối cảnh căng
thẳng do cuộc xung đột Nga - U-crai-na đặt ra bài toán tự chủ năng lượng. Mỹ cũng
đang tăng cường triển khai kế hoạch phát triển năng lượng sạch đến năm 2050, bằng
cách rót vốn đầu tư lớn cho xây dựng kết cấu hạ tầng nhà máy NLTT, cũng như thay thế
dần công nghiệp tiêu hao nhiều năng lượng gây ô nhiễm môi trường sang năng lượng
sạch. Trung Quốc được dự báo sẽ tiếp tục củng cố vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực này,
đóng góp tới 55% sản lượng NLTT toàn cầu tăng thêm trong năm 2023 năm 2024(5).
2. Các chính sách hỗ trợ NLTT của một số quốc gia
Trung quốc
Dẫn đầu cuộc đua tăng trưởng trong ngành năng lượng tái tạo Trung Quốc - chiếm
gần một nửa mức tăng trưởng toàn cầu về năng lượng tái tạo, Là quốc gia phát thải khí
nhà kính hàng đầu và dân số đông nhất thế giới, việc Trung Quốc chuyển đổi sang năng
lượng tái tạo có ý nghĩa đáng kể đối với mục tiêu khí hậu của toàn cầu nói chung.
Tháng 10/2021, nước này ban hành hướng dẫn theo đuổi mục tiêu đạt mức phát thải
đỉnh điểm đến 2030 trung hòa khí thải carbon trước 2060. Trung Quốc đặt mục tiêu
tăng dần tỷ lệ tiêu thụ năng lượng không hóa thạch lên khoảng 20% vào năm 2025,
khoảng 25% vào năm 2030 và trên 80% vào năm 2060.
Việc Trung Quốc cam kết trung hòa carbon trước năm 2060 cũng dẫn tới các mục
tiêu lâu dài mới như nâng tổng công suất năng lượng mặt trời và gió lên 1200 GW vào
năm 2030, tăng từ 530 GW năm 2020.
Theo dữ liệu từ Cơ quan Năng lượng Quốc gia Trung Quốc, thời gian gần đây, các
công ty sản xuất điện hàng đầu của Trung Quốc đã đầu hơn 662 tỷ Nhân dân tệ (tương
đương trên 92,3 tỷ USD) vào các dự án cung cấp điện, tăng 43,7% so với cùng kỳ năm
2022.Trong đó, đầu vào sản xuất năng lượng mặt trời đã tăng n 71%, còn đầu
vào điện gió cũng tăng 42,5%.
Sản xuất điện từ các nguồn năng lượng sạch tại Trung Quốc đã vượt lên trên sản
xuất từ dầu than đá, đóng góp quan trọng vào lưới điện quốc gia. Công suất lắp đặt
điện tích lũy của Trung Quốc trong 10 tháng qua đã tăng 12,6%, đạt 2,81 tỷ kW.
Một cuộc khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng Không khí Sạch
Helsinki, Phần Lan, cho thấy 2/3 số chuyên gia được hỏi tin rằng Trung Quốc sẽ đạt
đỉnh carbon trước năm 2030 tiếp tục giảm lượng khí thải carbon trong những năm
sau đó.
Với cam kết đặt ra trong thỏa thuận với Mỹ và sự đầu tư mạnh mẽ cho năng lượng
tái tạo, Trung Quốc nhấn mạnh sẽ nhanh chóng thay thế năng lượng từ than, dầu mỏ và
khí đốt để đảm bảo mục tiêu giảm phát thải của ngành điện trước năm 2030
Chính sách
Như một xu thế tất yếu, Luật Năng lượng Tái tạo của Trung Quốc (REL) đã ra đời
năm 2005 được sửa đổi năm 2009. Ngoài ra, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới còn
các luật liên quan đến vấn đề năng lượng tái tạo, chẳng hạn như Luật Năng ợng chung,
hoặc Luật bảo vệ Môi trường và khí hậu.
lOMoARcPSD| 58569740
Trong tầm nhìn 5 năm, trung hạn, dài hạn, Trung Quốc đã phát triển một loạt các kế
hoạch, đưa ra các hướng dẫn mục tiêu để thúc đẩy sự phát triển của năng ợng tái
tạo. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra những mục tiêu về tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo
từ 11% trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 đến 15% trong Kế hoạch lần thứ 12 cùng với
các ớng dẫn phát triển cho ngành công nghiệp năng lượng tái tạo. Các quy hoạch
quốc gia này vị trí đặc biệt trong hệ thống luật, cũng như chính ch về năng lượng
tái tạo. Cho đến nay, Trung Quốc đã hình thành một hệ thống pháp luật toàn diện về
NLTT, cơ bản dựa trên REL và được bổ sung bởi các luật, chính sách liên quan khác.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã đạt được những bước tiến đáng kể trong
việc phát triển NLTT. Ngoài việc ban hành Luật Năng lượng Tái tạo năm 2005 sửa
đổi Luật này vào năm 2009, Trung Quốc đã công bố một loạt các chính sách hỗ trợ để
thành lập một ủy ban tiêu chuẩn hóa trong các lĩnh vực thủy điện, năng lượng gió
quang điện. Khả năng chứng nhận, xây dựng và khảo sát đã liên tục được củng cố để hỗ
trợ sự phát triển quy mô lớn của các phân ngành năng lượng tái tạo.
REL năm 2005 các sửa đổi của Luật Năng lượng tái tạo để lại nhiều chi tiết sẽ
được xác định bởi các quy định thi hành tiếp theo. Bởi vậy, bản thân các sửa đổi sẽ
không nhất thiết mang lại bất kỳ cải tiến nào cho toàn bộ hệ thống trừ khi các quy định
chi tiết, hiệu quả được ban hành.
Mặc các chính sách thuận lợi cho phép thúc đẩy NLTT một cách linh hoạt
nhanh hơn, nhưng về lâu dài, việc sửa đổi chính sách thể không duy trì được sự ổn
định đối với quyền, nghĩa vụ của các nhà sản xuất NLTT, thậm chí thể làm suy yếu
thẩm quyền của luật pháp.
Trên thực tế, REL hiện nay luật duy nhất quy định cụ thể các vấn đề NLTT, song,
nhiều chuyên gia đánh giá chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tiễn. Tương lai của REL
được cho là sẽ tích hợp vào Luật Năng lượng. Hồi tháng 4 năm 2020, Cơ quan Quản lý
Năng lượng Quốc gia Trung Quốc (NEA) đã công bố Dự thảo Luật Năng lượng để lấy
ý kiến công chúng, trong đó nhấn mạnh “Việc phát triển ng lượng tái tạo ưu tiên
hàng đầu”.
Với những chính sách nổi bật, cùng với sự đầu tư mạnh tay từ Chính phủ, năm 2017,
Trung Quốc đã chiếm gần một nửa tổng đầu toàn cầu vào năng lượng tái tạo. Tổng
công suất lắp đặt năng lượng tái tạo của Trung Quốc đã tăng gấp đôi trong giai đoạn
2016-2020, từ 530 GW lên 1.100 GW. Theo NEA, năng ợng tái tạo của Trung Quốc
hiện chiếm 43,5% tổng công suất đặt, trong đó, công suất của các nhà máy thuỷ điện,
điện gió, điện mặt trời và điện sinh khối lần lượt 385 GW, 299 GW, 282 GW và 35,34
GW, đứng đầu thế giới. Trung Quốc đã tăng thêm 71,67 GW công suất điện gió vào m
2020, mức cao nhất từ trước đến nay gần gấp 3 lần mức của năm 2019. Đặc biệt,
Trung Quốc đã thực hiện được hầu hết các mục tiêu đã đề ra với hiệu quả lên đến 80%.
Tóm lại, sau kế hoạch 5 năm lần thứ 13, Trung Quốc đã trở thành một trong những
quốc gia gia hàng đầu thế giới về sản phẩm điện mặt trời và gió. Dù các mục tiêu trong
bản kế hoạch 5 năm lần thứ 13 không hoàn toàn mới nhưng chú trọng hơn việc siết chặt
cắt giảm tỷ trọng của than trong cấu năng lượng của đất nước tăng mục tiêu cho
lĩnh vực năng lượng i tạo. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn đối mặt với các vấn đề liên
quan đến quản lý biến động trong sản phẩm sản xuất lượng gió nắng môi trường
quản lý.
lOMoARcPSD| 58569740
Kết quả
Mặc còn tồn tại nhiều hạn chế, Luật NLTT đã giúp cho ngành NLTT Trung Quốc
phát triển với tốc độ hàng đầu thế giới. Tính đến cuối tháng 2/2023, công suất đặt điện
gió Trung Quốc đạt 370 GW. Trong đó, điện gió trên đất liền là 340 GW ngoài khơi
30 GW. Công suất đặt điện mặt trời đạt 410 GW, chủ yếu quang điện, chỉ 670 MW
điện mặt trời nhiệt. Tốc độ tăng công suất điện gió trong năm 2022 là 11% và điện mặt
trời là 30,8%.
Nhờ vào những chính sách chuyển đổi năng lượng quyết liệt của Chính phủ Trung
Quốc, ớc này đã đang đạt được những bước tiến lớn về năng lượng tái tạo. Hiện
tại, Trung Quốc đang dẫn đầu thế giới về đầu vào lĩnh vực này với 546 triệu USD
trong năm 2022. Năng lượng tái tạo của Trung Quốc đáp ứng được 47,3% nhu cầu trong
nước vào cuối m 2022. Tỷ lệ này ng 2,5 điểm phần trăm so với năm trước đó. Cụ
thể, sản lượng điện từ các nguồn năng lượng tái tạo của Trung Quốc là 8.694 TWh, tăng
3,8% so với cùng kỳ năm ngoái.Các nguồn năng lượng nhiên liệu không hóa thạch như
năng lượng hạt nhân, năng lượng hydrochiếm 50,9% tổng ng suất lắp đặt của cả
Trung Quốc, đánh dấu việc hoàn thành sớm mục tiêu chính phủ đề xuất vào năm 2021,
theo đó công suất tái tạo được lên kế hoạch vượt quá công suất nhiên liệu hóa thạch vào
năm 2025.
Trung Quốc cũng đã đạt được những bước tiến lớn về khai thác năng lượng gió:
tổng công suất trên đất liền ngoài khơi của nước này hiện 310 GW, gấp đôi năm
2017. Một số nhà máy điện mặt trời và điện gió lớn nhất thế giới tại Trung Quốc có thể
kể đến như nhà máy điện mặt trời Longyangxia ở tỉnh Thanh Hải công suất 850 MW,
nhà máy điện gió Jiuquan tỉnh Giang công suất 1.500 MW. Với các dự án
mới ở Nội Mông, Tân Cương, Cam Túc và dọc theo các khu vực ven biển, Trung Quốc
đang chuẩn bị bổ sung thêm 371 GW nữa trước năm 2025, tăng gần gấp đôi năng lượng
gió trên toàn thế giới.
Đức
So với các quốc gia khác Liên minh châu Âu (EU), CHLB Đức Đạo luật Nguồn
năng lượng Tái tạo (EEG) mang tính thời sự cao. Luật này được sửa đổi thường xuyên,
bổ sung qua nhiều năm với một số điều luật và quy định hỗ trợ rất cụ thể.
Đức Đạo luật về Nguồn năng lượng Tái tạo (Renewable Energy Sources Act),
hay EEG). Đây là một loạt dự luật, với mục tiêu ban đầu là cung cấp cơ sở biểu giá bán
điện (FIT) nhằm để khuyến khích sản xuất điện tái tạo.
Tiền thân của EEG Đạo luật biểu giá FIT hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm
1991. Luật này đã khởi xướng chương trình biểu giá điện năng lượng xanh đầu tiên trên
thế giới. EEG ban đầu được ghi nhận với sự hấp thụ nhanh năng ợng gió quang
điện (PV) - được coi là một biện pháp chính sách năng lượng sáng tạo, thành công trên
thế giới.
Đạo luật EEG cũng bao gồm cả sinh khối (bao gồm cả đồng phát), thủy điện
năng lượng địa nhiệt.
Một bản sửa đổi với EEG có hiệu lực vào ngày 1 tháng 8 năm 2014. Biểu giá điện
hỗ trợ cố định theo quy định sẽ không còn đối với hầu hết các công nghệ trong tương
lai gần. Các hành lang triển khai cụ thể hiện quy định mức độ mở rộng điện tái tạo trong
lOMoARcPSD| 58569740
tương lai và tỷ lệ tài trợ không còn do Chính phủ ấn định nữa, mà được xác định thông
qua đấu giá. Các công ty tiếp thị cho các nhà sản xuất điện nhận được một nguồn phí
bảo hiểm thị trường để tạo nên sự khác biệt giữa giá dự thầu giá thị trường giao ngay
trung bình hàng tháng đối với điện.
Phụ phí EEG vẫn được áp dụng để đắp sự thiếu hụt này. Hệ thống luật này đã
được triển khai theo từng giai đoạn bắt đầu với quang điện mặt đất. Sau đó, nhiều
sửa đổi pháp lý cho các nhánh khác đã được đề cập trong phiên bản EEG 2017.
EEG 2017 đã được sửa đổi nhiều lần để đảm bảo kết nối lưới điện, điều phối ưu tiên
và biểu giá điện đầu vào do Chính phủ quy định trong 20 năm (tùy thuộc vào công nghệ
và quy mô của dự án). Đối với EEG 2017, phụ phí EEG không giảm là 6,88 ¢/kWh.
Theo cập nhật của Tạp chí Năng lượng Việt Nam, giá điện bán buôn trung bình
Đức hiện là 157,8 €/MWh (khoảng trên 4.000 VNĐ/kWh), còn giá điện bán đến người
tiêu dùng hộ gia đình 0,3279 €/kWh (khoảng trên 8.000 VNĐ/kWh).
EEG hiện tại bị chỉ trích thiết lập các hành lang triển khai quá thấp để đáp ng
các mục tiêu bảo vệ khí hậu dài hạn của Đức, đặc biệt khả năng điện khí hóa ngành
giao thông vận tải. Mục tiêu của Chính phủ Đức về tỷ lệ năng lượng tái tạo trong sản
xuất điện là ít nhất 80% vào năm 2050.
Khoản phụ phí EEG (hoặc thuế) gây tranh cãi đối với hóa đơn tiền điện của người
tiêu dùng đã bị loại bỏ, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2022. Do đó, trung bình một
hộ gia đình Đức sẽ tiết kiệm được khoảng €200 mỗi m. Các nghĩa vụ thanh toán
hiện sẽ được đáp ứng từ số tiền thu được trong giao dịch hạn ngạch phát thải và từ ngân
sách liên bang.
Quá trình chuyển đổi năng lượng của Đức (Energiewende), một phần chính trong
kế hoạch năng lượng của Đức kể từ năm 1998. Sau 21 năm điều chỉnh để xây dựng
khung pháp lý, vào năm 2019, 17,5% tổng mức tiêu thụ năng lượng cuối cùng của Đức
và 42,1% tổng mức tiêu thụ điện của Đức được tạo ra bởi các nguồn năng lượng tái tạo
(NLTT).
Như đề cập, Đức đặt mục tiêu tăng tỷ lệ tổng tiêu thụ điện từ các nguồn NLTT lên
65% vào năm 2030 và lên 80% vào năm 2050.
Với công suất lắp đặt khoảng 61 GW, Đức một trong những thị trường năng lượng
gió lớn nhất thế giới. Ngành công nghiệp tái tạo Đức không còn thị trường cho
những người tiên phong. Kể từ năm 2000, tổng cộng hơn 290 tỷ EUR đã được đầu
vào NLTT tại quốc gia này.
Đức kỳ vọng sự thay đổi mang tính hệ thống này sẽ vừa giảm chi phí trợ cấp của
Chính phủ, vừa tăng tính cạnh tranh và sự đa dạng giữa những người tham gia. Đạo luật
cũng điều chỉnh hệ thống hỗ trợ của Đức theo Hướng dẫn của EU về Viện trợ Nhà nước
cho Bảo vệ Môi trường và Năng lượng 2014 - 2020.
Ngoài ra, đạo luật tạo điều kiện cho việc tăng công suất lắp đặt thông qua đấu thầu
dựa trên các mục tiêu tăng trưởng. Kết quả của các cuộc đấu thầu đầu tiên vào năm 2017
cho thấy ngành NLTT Đức sẵn sàng chấp nhận mức hỗ trợ thấp hơn, thậm chí một số
dự án điện gió ngoài khơi không cần trợ cấp.
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), kể từ tháng 12/2020, Đức đã sửa đổi luật
năng lượng nhằm mở rộng NLTT trong dài hạn đạt mục tiêu 65% điện năng từ các
lOMoARcPSD| 58569740
nguồn sạch vào năm 2030, hướng tới trung hòa carbon trước 2050. EEG đặt ra tốc độ
mở rộng của năng ợng gió quang điện trong những năm tới, đồng thời cung cấp
một khung pháp lý ổn định giúp giảm chi phí cho công chúng.
EEG 2017 đã được sửa đổi nhiều lần để theo kịp thực tế phát triển. Dự thảo EEG
2021 tiếp tục nhấn mạnh mục tiêu đạt điện năng không gây hiệu ứng nhà kính vào năm
2050. Ngoài ra, hệ thống trợ cấp cũng được điều chỉnh theo hướng tối ưu hóa giá thị
trường, khuyến khích sản xuất điện vào thời điểm có nhu cầu cao nhất, qua đó ng cao
hiệu quả của NLTT.
Bên cạnh đó, Đức cũng thúc đẩy các hình bán điện thay thế như PPA (thỏa thuận
mua bán điện), tạo hội cho thị trường phát triển bền vững không phụ thuộc vào
trợ cấp. Đối với các dự án khí mêtan từ mỏ than, đạo luật EEG đảm bảo biểu giá cố định
trong 20 năm, khuyến khích tận dụng nguồn năng lượng này và tích hợp vào lưới điện.
Trong bối cảnh các công nghệ năng lượng mới, Đức đã đặt mục tiêu phát triển công
nghệ hydro xanh, coi đây một phần quan trọng trong chiến lược giảm phát thải khí
nhà kính. Chính phủ Đức đã thông qua Chiến lược Hydro Xanh vào năm 2023, với
mục tiêu phát triển sản xuất hydro từ các nguồn năng lượng tái tạo. Mục tiêu là đến năm
2030, Đức sẽ đạt được công suất điện phân hydro lên tới ít nhất 10 gigawatt.
Để thúc đẩy quá trình này, chính phủ Đức đã thông qua Luật Thúc đẩy Hydro vào
năm 2024, nhằm đẩy nhanh quá trình phát triển sở hạ tầng sản xuất hydro. Luật
này khuyến khích đầu tư vào các công nghệ tách hydro từ nước, với yêu cầu sử dụng ít
nhất 80% năng lượng tái tạo cho đến năm 2029. Đây là một trong những sáng kiến quan
trọng giúp Đức đạt được mục tiêu trung hòa khí thải vào năm 2045.
Những chính sách này thể hiện cam kết mạnh mẽ của Đức trong việc mở rộng NLTT,
đảm bảo tính bền vững giảm dần sự phthuộc vào trợ cấp chính phủ, đồng thời tạo
ra một thị trường cạnh tranh và minh bạch hơn.
3.Thực trạng phát triển NLTT ở Việt Nam
nền kinh tế độ mở lớn, chịu sự ràng buộc trên nhiều phương diện bởi thị
trường quốc tế, Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ từ xu ớng chuyển dịch năng
lượng toàn cầu. Sự cấp thiết của chuyển dịch sang NLTT không chỉ do những tác động
bên ngoài, ngay trong nước cũng những điều kiện thuận lợi để phát triển. Việt
Nam đặc điểm địa lý, khí hậu tưởng để sản xuất NLTT, với đường bờ biển dài,
thời tiết nhiệt đới gió mùa nên nhận được lượng bức xạ nhiệt mặt trời lượng gió ơng
đối lớn... Những điều kiện này ý nghĩa quan trọng trong định ớng an ninh năng
lượng để phát triển nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Sự phát triển NLTT tại Việt Nam đã ghi nhận những bước tiến đáng kể, nhờ cơ chế,
chính sách khuyến khích của Nhà nước. Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11-2-2020, của
Bộ Chính trị, “Về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, đã xác định các quan điểm, mục tiêu, nhiệm
vụ giải pháp về chuyển dịch năng lượng thời gian tới. Quyết định số 1658/QĐTTg,
ngày 1-10-2021, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng
trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn năm 2050, cũng đặt ra các mục tiêu phát
triển nền kinh tế xanh đến m 2030 năm 2050. Bên cạnh đó, Chính phcũng
lOMoARcPSD| 58569740
những chính sách hỗ trợ như chế giá FIT, nhằm khuyến khích phát triển NLTT, bảo
đảm hợp đồng mua bán điện dài hạn ở mức giá hợp lý cho nhà đầu tư.
Năng lượng mặt trời đã có sự phát triển nhanh nhất tại Việt Nam, với công suất lắp
đặt hơn 16.500 MW tính đến năm 2020. Sự phát triển này đã được hỗ trợ bởi chính sách
và khuyến khích của chính phủ, như biểu giá điện hỗ trợ và cơ chế bù trừ điện năng.
Việt Nam cũng đã đạt được tiến bộ trong việc phát triển điện gió, với công suất lắp
đặt hơn 600 MW tính đến năm 2020. Chính phủ cũng đã đặt mục tiêu tăng tỷ lệ điện gió
trong tổng sản lượng điện của đất nước lên 11% vào năm 2025 và 29% vào năm 2030.
Thủy điện vẫn một nguồn năng lượng tái tạo quan trọng tại Việt Nam, chiếm
khoảng 40% tổng công suất sản xuất điện của đất nước. Tuy nhiên, có những lo ngại về
tác động môi trường của các dự án thủy điện lớn. Do đó, chính phủ đang tìm kiếm các
giải pháp thay thế như thủy điện nhỏ và năng lượng sinh khối.
Trong bối cảnh năng lượng toàn cầu nhiều biến động, thị trường NLTT Việt Nam
thời gian qua phát triển “nóng” trong khi chính sách quản của Nhà nước không theo
kịp, dẫn tới những rủi ro tiềm ẩn.
4.Thách thức và cơ hội phát triển NLTT tại Việt Nam
Thách thức
Thứ nhất, hạn chế về hạ tầng lưới điện: Sự phát triển nhanh chóng của các dự án
NLTT, đặc biệt điện mặt trời điện gió, đã gây áp lực lớn lên hệ thống lưới điện
quốc gia. Hạ tầng truyền tải hiện tại chưa đáp ứng kịp tốc độ tăng trưởng của các nguồn
năng lượng mới, dẫn đến tình trạng quá tải và khó khăn trong việc tích hợp nguồn điện
tái tạo vào lưới điện.
Nguồn điện thay đổi đồng nghĩa với việc rất nhiều kết nối mới. Bởi các tuabin
gió tấm pin mặt trời thường được đặt nhiều địa điểm khác nhau, không tập trung
như các nhà máy nhiệt điện nên để đưa điện từ các địa điểm này về lưới điện chung,
người ta phải xây dựng một hệ thống kết nối hoàn toàn mới phức tạp hơn rất nhiều
so với hệ thống hiện tại. Vấn đề càng trở nên rắc rối các nguồn năng lượng tái tạo
thường tạo ra ít điện hơn so với tuabin hơi nước, dẫn đến việc cần nhiều kết nối hơn cho
mỗi đơn vị công suất.
Ngoài việc bổ sung rất nhiều kết nối mới, lưới điện cũng phải thay đổi hình dạng.
Những nơi phù hợp nhất để sản xuất năng ợng tái tạo Trung Bộ, Tây Nam Bộ
Tây Nguyên; trong khi nơi tiêu thụ năng lượng nhiều nhất lại là Bắc Bộ và Đông Nam
Bộ. Vì vậy, cần có các đường dây truyền tải mới để kết nối các khu vực cung-cầu.
lưới điện không đơn thuần chỉ một tập hợp các đường dây trạm biến áp
sự liên kết chặt chẽ với nhau, mỗi phần tử đều tác động đến các phần tử khác, nên sự
thay đổi ở một điểm trong lưới điện có thể gây ra những ảnh hưởng không mong muốn
ở những điểm khác.
Thứ hai, hiếu vốn đầu tư: Phát triển NLTT đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn. Theo ước
tính, từ năm 2021 đến 2030, Việt Nam cần khoảng 104,7-142,2 tỷ USD để phát triển
lOMoARcPSD| 58569740
ngành điện lực. Việc huy động thu xếp nguồn vốn này một thách thức lớn, đặc biệt
khi các dự án NLTT thường có thời gian hoàn vốn dài và rủi ro cao.
Tiếp đến, để phát triển NLTT cần phải tính toán sự cân bằng và hợp lý trong cơ cấu
nguồn điện. Sự cân bằng này sẽ quyết định giá điện nên sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền
kinh tế nước ta, đặc biệt ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống nhân dân. đây, cần phải
nhìn nhận thẳng thắn một số vấn đề trong quá khứ về cái được cái mất khi quyết định
đưa ra những chính sách phát triển NLTT.
Thứ ba, chính sách quy định chưa đồng bộ: Mặc Chính phủ đã ban hành nhiều
chính sách hỗ trợ NLTT, nhưng vẫn tồn tại sự thiếu đồng bộ ràng trong các quy
định, gây khó khăn cho nhà đầu tư. Ví dụ, việc thiếu hướng dẫn cụ thể về giá mua điện,
thủ tục hành chính phức tạp và chậm trễ trong việc phê duyệt dự án đã làm giảm sự hấp
dẫn của môi trường đầu tư.
Thứ tư, thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật nguồn nhân lực chất lượng cao: Việc thiếu các
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ thống điện mặt trời, điện gió cùng với
nguồn nhân lực chuyên môn cao còn hạn chế đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả
của các dự án NLTT.
Thứ m, sự rút lui của các nhà đầu quốc tế: Gần đây, một số tập đoàn năng ợng
tái tạo hàng đầu thế giới đã rút khỏi thị trường Việt Nam do gặp phải các thách thức về
quy định hạ tầng. Điều này ảnh ởng tiêu cực đến việc thu hút đầu tiến trình
phát triển NLTT của Việt Nam.
Orsted (Đan Mạch): Tập đoàn điện gió hàng đầu thế giới đã quyết định dừng toàn
bộ kế hoạch đầu điện gió ngoài khơi tại Việt Nam sau hai năm hợp tác, bởi rào cản
về thủ tục hành chính quá phức tạp.
Equinor (Na Uy): Tập đoàn này đã ngừng hoạt động phát triển kinh doanh tại Việt
Nam n toàn bộ cổ phần trong dự án điện gió Đầm Nại, chính thức rời khỏi thị
trường Việt Nam.
Enel (Ý): Theo nguồn tin từ Reuters, Enel đang chuẩn bị rút khỏi Việt Nam như
một phần trong kế hoạch tái cấu trúc hoạt động toàn cầu của mình. Trước đó, Enel đã
công bố kế hoạch phát triển tới 6 GW năng lượng tái tạo tại Việt Nam, tập trung vào
tiềm năng điện gió và điện mặt trời của quốc gia này.
Cơ hội
Thứ nhất, điều kiện địa tự nhiên Việt Nam rất tưởng cho sự phát triển của
ngành năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió. Việt Nam có số giờ nắng
cao, trung bình từ 1.500 giờ - 1.700 giờ mỗi năm với cường độ bức xmặt trời không
thay đổi đáng kể; năng lượng mặt trời trên mái nhà dự báo sẽ chiếm khoảng 50% tổng
công suất nặng lượng mặt trời của Việt Nam (năm 2030); nguồn tài nguyên gió lớn nhất
trong khu vực với tiềm năng 311GW và trên 39% tổng diện tích tốc độ gió lớn hơn
6m/giây (tương đương công suất 512GW). n cạnh đó, với mạng lưới gồm khoảng 3
nghìn sông, ngòi lớn, nhỏ, nước ta một trong số 14 quốc gia trên thế giới đứng đầu
về tiềm năng thủy điện; sở hữu khoảng 8,6% diện tích đất, nước thích hợp cho phát triển
các trang trại điện gió; trên 120.000 trạm thủy điện với tổng công suất ước tính đạt
300MW(13). Thêm o đó, Việt Nam tiềm năng rất lớn trong tận dụng nguồn năng
lOMoARcPSD| 58569740
lượng sinh khối từ nhiều nguồn khác nhau, như gỗ củi, phế thải từ nông nghiệp, rác thải
đô thị,...;
Thứ hai, theo quan Năng lượng Quốc tế (IEA), Việt Nam quốc gia sử dụng
điện nhiều thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Trong vòng 10 năm tới, tốc độ tăng
trưởng năng lượng tái tạo đạt khoảng 20%, mở ra cơ hội lớn cho các tập đoàn nước thực
hiện đầu tư, kinh doanh. Năm 2021, Việt Nam xếp hạng thứ 31 trong danh sách các quốc
gia độ thu hút cao về các hội đầu triển khai trong lĩnh vực năng lượng tái
tạo. Tính riêng đối với chuyển dịch 2 ngành điện gió điện mặt trời, tiềm năng đóng
góp vào GDP cả nước lên tới 70 - 80 tỷ USD, tạo ra khoảng 105 nghìn việc làm trực
tiếp(15).
Thứ ba, Đảng Nhà nước hiện đang tích cực, mở rộng tham gia các khuôn khổ
hợp tác quốc tế về chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính. Nhiều chính
sách hỗ trợ các giải pháp được triển khai nhằm thu hút đầu tư, khuyến khích các
doanh nghiệp tham gia quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo quốc gia. Các nhiệm vụ
và giải pháp cụ thể triển khai thực hiện nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực năng
lượng tái tạo, bảo đảm thực hiện thành công Chiến lược tăng trưởng xanh cũng như hiện
thực hóa mục tiêu đạt tỷ lệ 67,5% - 71,5% năng lượng tái tạo đến năm 2050 được đề ra
trong Quy hoạch Điện VIII.
Thứ , phát triển năng ợng tái tạo đang dần trở thành xu hướng chủ đạo trong
phát triển ngành năng lượng toàn cầu chiếm vị trí quan trọng trong phát triển bền
vững các nền kinh tế trên thế giới; do đó, năng lượng tái tạo sẽ trở thành nguồn sản
xuất điện chính và ước tính, cung cấp khoảng một phần ba lượng điện trên thế giới. Việt
Nam được đánh giá nhiều tiềm năng để thu hút đầu phát triển ngành năng ợng
tái tạo trong tương lai, đồng thời, vị thế địa - kinh tế trong chuỗi cung ứng toàn cầu mở
ra nhiều điều kiện, hội thuận lợi trong tăng trưởng xanh để thể chuyển mình, bắt
kịp, tiến cùng, vượt n, đi tắt đón đầu tạo đà cho một bước nhảy vọt về phát triển
kinh tế - xã hội và môi trường.
CHƯƠNG III: VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUẾT
1. Phát triển thủy điện
Chi phí đầu tư ca
Để giảm chi phí đầu tư các dự án thủy điện nhỏ, cần khuyến khích nghiên cứu, phát
triển công nghệ mới để tối ưu hóa quá trình thi công, giảm chi phí vật tư. Hỗ trợ tài
chính từ chính phủ hoặc các tổ chức tài trợ có thể giảm gánh nặng tài chính cho nhà đầu
tư, tăng hiệu quả kinh tế của dự án.
lOMoARcPSD| 58569740
Quản lý, giám sát chưa đồng đều
Cần tăng cường quản lý, giám sát bằng cách thành lập các cơ quan độc lập hoặc
cơ quan chuyên môn có trách nhiệm cao. Triển khai hệ thống thanh tra định kỳ, công
khai thông tin minh bạch có thể tăng tính minh bạch trong quá trình quản lý, giám sát.
Thiếu nghiên cứu, khảo sát về dòng chảy
Củng cố các quy định yêu cầu nghiên cứu, khảo sát trước khi triển khai các dự án thủy
điện nhỏ. Khuyến khích nghiên cứu độc lập, công bố kết quả để nâng cao chất lượng
thông tin. Hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu toàn diện, chất lượng cao, đảm bảo
hoạt động ổn định, hiệu quả kinh tế.
Phục hồi môi trường không đầy đủ sau khi xây dựng
Tăng trách nhiệm về môi trường của chủ dự án thông qua việc thiết lập các cam kết
và quy định rõ ràng về phục hồi môi trường. Thiết lập các quỹ dự phòng để đảm bảo
đủ nguồn tài chính phục hồi môi trường. Quản lý chặt chẽ và định kỳ đánh giá để đảm
bảo tuân thủ và giải quyết kịp thời các vấn đề về môi trường sau khi xây dựng.
2. Phát triển điện gió
Thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hệ thống lưới điện truyền tải
Chính phủ cần đầu xây dựng nâng cấp sở hạ tầng kỹ thuật liên quan đến
năng lượng gió, bao gồm đường dây truyền tải trạm biến áp, để tối ưu hóa việc truyền
tải điện từ các trang trại gió đến các điểm tiêu thụ. Chính phủ doanh nghiệp thể
hợp tác xây dựng các dự án sở hạ tầng ng nhau, giảm chi phí đầu tăng khả
năng triển khai các dự án năng lượng gió.
Chi phí đầu tư ban đầu cao
Chính phủ có thể cung cấp các ưu đãi về thuế và hỗ trợ tài chính cho các dự án năng
lượng gió, giúp giảm gánh nặng về chi phí đầu tư ban đầu. Chính phủ có thể đàm phán
hợp tác với các đối tác tài chính để đảm bảo các thể chế được duy trì hỗ trợ, tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình đầu tư và tài trợ.
Thủ tục phê duyệt chậm và phức tạp
Cần đơn giản hóa quy trình phê duyệt bằng ch tạo ra một quy trình thống nhất
minh bạch, giảm thời gian và chi phí đầu tư. Chính phủ có thể cung cấp tư vấn và hỗ trợ
cho các doanh nghiệp trong quá trình phê duyệt, giúp họ hiểu quy trình và tuân thủ các
yêu cầu pháp lý.
Các vấn đề về mất điện
Chính phủ cần đầu tư nâng cấp hệ thống truyền tải điện để giảm tổn thất năng lượng
và tối ưu hóa việc di chuyển điện từ các khu vực sản xuất đến các điểm tiêu thụ. Chính
phủ có thể cung cấp các ưu đãi cho các khu vực sản xuất năng lượng gió, giúp họ giảm
chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất.
3. Phát triển điện mặt trời
Điều kiện và quy định lắp đặt không rõ ràng
lOMoARcPSD| 58569740
Cần thúc đẩy việc xây dựng và công bố các quy định rõ ràng về điều kiện lắp đặt và
tiêu chuẩn pháp lý. Hỗ trợ thành lập các tổ chức độc lập hoặc tăng ờng chức năng của
các quan hiện để tiến hành đánh giá chất lượng không làm tăng đáng kể chi
phí.
Thiếu sự nhất quán và các quy định toàn diện
Xây dựng hệ thống quy định và thủ tục cấp quốc gia hoặc khu vực để giảm chi phí
tăng sự thuận tiện cho doanh nghiệp. Cần các ớng dẫn cụ thể tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình cấp phép.
Các vấn đề về kiểm tra chấp nhận đối với chủ dự án
Tổ chức các cuộc kiểm tra độc lập định kỳ tạo chế liên lạc liên tục giữa chủ
dự án các quan kiểm tra. Thiết lập hệ thống phản hồi nhanh đường dây nóng
để giải quyết các vấn đề và hỗ trợ doanh nghiệp.
Thiếu tiêu chí lắp đặt
Xây dựng áp dụng các tiêu chuẩn lắp đặt cụ thể để ngăn chặn tình trạng lắp đặt
tràn lan mà không đảm bảo chất lượng. Tăng cường giám sát và giải quyết kịp thời các
trường hợp không tuân thủ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Phát triển năng lượng tái tạo: “Chìa khóa” giảm phát thải, ứng phó biến đổi
khí hậu.(Phát triển năng lượng tái tạo: “Chìa khóa” giảm phát thải, ứng phó biến
đổi khí hậu - Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới)
2.Năng lượng tái tạo hiện nay và tương lai(Vai trò của năng lượng tái tạo hiện
nay và tương lai)
3.Tạp chí cộng sản
4.Năng lượng xanh-Xu hướng thúc đẩy năng lượng tái tạo trên thế giới (Xu
hướng thúc đẩy năng lượng tái tạo trên thế giới)
5.ERV_Xây dựng, thực thi Luật Năng lượng Tái tạo: Kinh nghiệm CHLB
Đức(Xây dựng, thực thi Luật Năng lượng Tái tạo: Kinh nghiệm CHLB Đức)
6.PC1epc_ Tiềm năng và Phát triển(Thực trạng năng lượng tái tạo tại Việt
Nam: Tiềm năng và Phát triển)
7.MOSAT_Phát triển năng ợng tái tạo: Thách thức từ lưới điện(Phát triển
năng lượng tái tạo: Thách thức từ lưới điện)
lOMoARcPSD| 58569740
8.IEA_Dự báo tăng là nhờ năng lượng mặt trời(Báo cáo của IEA: Năng lượng
tái tạo toàn cầu sẽ tăng 1,5 lần vào năm 2023, trong đó 75% mức tăng là nhờ năng
lượng mặt trời)

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58569740 lOMoAR cPSD| 58569740 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO ............................................................ 2
1.Khái niệm về năng lượng tái tạo................................................................................................... 2
2.Phân loại các nguồn năng lượng tái tạo ....................................................................................... 3
2.1.Năng lượng gió ........................................................................................................................ 3
2.2. Năng lượng mặt trời .............................................................................................................. 3
2.3. Thủy điện ................................................................................................................................ 3
2.4. Năng lượng sinh học .............................................................................................................. 3
2.5. Năng lượng địa nhiệt .............................................................................................................. 3
2.6. Năng lượng chất thải rắn ....................................................................................................... 4
2.7. Năng lượng thủy triều ............................................................................................................ 4
2.8. Nhiên liệu hydrogen và pin nhiên liệu hydro ....................................................................... 4
3.Vai trò của năng lượng tái tạo trong phát triển bền vững và giảm nhẹ biến đổi khí hậu ....... 4
3.1. Đảm bảo an ninh năng lượng ................................................................................................ 4
3.2. Giảm phát thải khí nhà kính ................................................................................................. 4
3.3. Thúc đẩy phát triển bền vững ............................................................................................... 5
CHƯƠNG II: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO TRONG BỐI CẢNH
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, HIỆN TRẠNG CỦA VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI ........................... 6
1.Xu hướng phát triển NLTT trên thế giới ..................................................................................... 6
2. Các chính sách hỗ trợ NLTT của một số quốc gia ..................................................................... 8
3.Thực trạng phát triển NLTT ở Việt Nam .................................................................................. 12
4.Thách thức và cơ hội phát triển NLTT tại Việt Nam................................................................ 13
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUẾT........................................................................................ 15
Phát triển thủy điện ........................................................................................................................ 15
Phát triển điện gió ........................................................................................................................... 16
Phát triển điện mặt trời .................................................................................................................. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................. 17 LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang trở thành một trong những thách thức lớn nhất
đối với nhân loại. Các hiện tượng cực đoan như bão lũ, hạn hán, mực nước biển dâng
cao và nhiệt độ tăng cao không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường mà còn gây
ra những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống của người dân. Trong bối
cảnh đó, một trong những giải pháp quan trọng để giảm thiểu tác động của biến đổi khí
hậu chính là năng lượng tái tạo. lOMoAR cPSD| 58569740
Tại Việt Nam, biến đổi khí hậu cũng đã và đang gây ra những hệ quả đáng lo ngại.
Nước ta là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu,
đặc biệt là những tác động của mực nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan.
Theo dự báo, nếu không có các biện pháp ứng phó hiệu quả, mực nước biển có thể dâng
lên từ 0,7 đến 1 mét vào cuối thế kỷ này, đe dọa hàng triệu người dân sống ở khu vực
đồng bằng sông Cửu Long và các thành phố ven biển.
Chính vì vậy, việc chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo không chỉ giúp
giảm phát thải khí nhà kính mà còn tạo ra cơ hội phát triển kinh tế bền vững cho đất
nước. Thủy điện đã và đang là nguồn năng lượng tái tạo chủ lực tại Việt Nam. Tính đến
cuối năm 2020, tổng công suất lắp đặt của thủy điện và các nhà máy điện năng lượng
tái tạo đạt khoảng 43.126 MW, chiếm 55,2% tổng công suất hệ thống điện quốc gia.
Trong đó, thủy điện đóng góp một phần lớn vào con số này(tapchicongsan.org.vn)
Bên cạnh đó, như năng lượng mặt trờinăng lượng gió. Đặc biệt, Việt Nam có
bức xạ mặt trời trung bình lên đến khoảng 5 kWh/m²/ngày, rất thuận lợi để phát triển
điện mặt trời. Đường bờ biển dài hơn 3.000 km của Việt Nam cũng giúp chúng ta khai
thác được năng lượng gió, với tốc độ gió trung bình từ 6 đến 8 m/s, tiềm năng phát triển
điện gió rất lớn.(vietthink.vn)
Tuy nhiên, dù có tiềm năng lớn, tỉ trọng năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng
quốc gia vẫn còn khá thấp, với khoảng 9% (thông tin từ IEA) trong tổng nguồn cung
năng lượng sơ cấp vào năm 2020. Điều này yêu cầu Việt Nam phải đẩy mạnh các chính
sách khuyến khích đầu tư và nghiên cứu phát triển trong lĩnh vực năng lượng tái tạo để
góp phần vào cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, đồng thời bảo vệ môi trường và thúc
đẩy sự phát triển bền vững.
Năng lượng tái tạo không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc giảm phát thải khí
nhà kính, mà còn mở ra cơ hội phát triển bền vững cho nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên,
quá trình chuyển đổi sang sử dụng năng lượng tái tạo cũng đi kèm với những thách thức
lớn về đầu tư, công nghệ và chính sách. Vậy làm thế nào để tối ưu hóa việc ứng dụng
năng lượng tái tạo, cũng như đánh giá các tác động kinh tế và môi trường của nó?
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO
1.Khái niệm về năng lượng tái tạo
Tại khoản 1 Điều 43 Luật Bảo vệ môi trường 2014 có quy định về khái niệm năng lượng tái tạo như sau:
Theo đó, theo quy định của pháp luật thì năng lượng tái tạo là năng lượng được khai
thác từ nước, gió, ánh sáng mặt trời, địa nhiệt, sóng biển, nhiên liệu sinh học và các
nguồn tài nguyên năng lượng có khả năng tái tạo khác.
Năng lượng tái tạo là năng lượng được tạo ra các nguồn hình thành liên tục, có thể
coi là vô hạn. Năng lượng tái tạo còn được biết đến là năng lượng sạch hoàn toàn hay năng lượng tái sinh.
Tuy còn khá mới nhưng đây lại là nguồn năng lượng mang đến những chuyển biến
tích cực trong tương lai. Năng lượng sạch hoàn toàn đang nhanh chóng lan rộng ở cả lOMoAR cPSD| 58569740
quy mô lớn và nhỏ, dần thay thế cho các nguồn nhiên liệu truyền thống trong 4 lĩnh vực
quan trọng: nhiên liệu động cơ, làm mát, phát điện và hệ thống điện độc lập nông thôn.
2.Phân loại các nguồn năng lượng tái tạo
2.1.Năng lượng gió
Năng lượng gió là quá trình gió sử dụng hoạt động di chuyển của mình quay tuabin
gió để tạo ra năng lượng cơ học. Tuabin gió là thiết bị giúp tạo ra một lượng tương đối
lớn nhờ vào sức gió thổi. Khi tốc độ gió tăng, sản lượng điện cũng tăng lên đạt công suất tối đa cho tuabin.
Những khu vực có gió mạnh liên tục là nơi lý tưởng cho các trang trại điện gió.
Thông thường, số giờ đầy tải của tuabin gió có thể thay đổi từ 16% đến 57% hàng năm
và sẽ cao hơn ở các vị trí ngoài khơi.
2.2. Năng lượng mặt trời
Năng lượng mặt trời là sự chuyển đối năng lượng từ ánh sáng mặt trời thành điện
năng. Với năng lượng mặt trời, chúng ta có thể khai thác được cả phần ánh sáng và phần nhiệt toả ra.
Ngày nay, con người còn sử dụng nguồn năng lượng tái sinh này theo nhiều cách
khác nhau như tạo ra điện cung cấp cho thiết bị điện, làm nước nóng,… để phục vụ nhu cầu trong cuộc sống. 2.3. Thủy điện
Thủy điện là nguồn năng lượng sạch hoàn toàn đang được ứng dụng nhiều ở hầu
hết các quốc gia. Thủy điện hoạt động dựa vào sức nước trong các dòng nước có tốc độ
nhanh để thiết lập tuabin máy phát điện.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng hệ thống các nhà máy
thủy điện, đập thủy điện. Tuy nhiên, những công trình này không được xem là năng
lượng tái tạo. Lý do là vì thủy điện cũng như các con đập này làm giảm dòng chảy tự
nhiên và chuyển hướng dòng chảy. Bên cạnh đó, thủy điện và đập thủy điện còn tác
động đến con người cũng như quần thể sinh vật sinh sống trong khu vực đó. Các nhà
máy thủy điện nhỏ sẽ được quản lý cẩn thận hơn để không gây ra các tác động đến môi trường.
2.4. Năng lượng sinh học
Năng lượng sinh học (hay còn gọi là năng lượng sinh khối) có nguồn gốc từ động
vật, cây trồng. Nguồn năng lượng tái sinh này có thể được sử dụng trực tiếp hoặc gián
tiếp nhờ vào quá trình đốt cháy để tạo ra nhiệt.
Gần đây, các nhà khoa học chỉ ra rằng đốt sinh khối có nguồn gốc từ thực vật tạo ra
lượng khí CO2 cao, gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường. Vì vậy, sinh
khối đang dần không được coi là một nguồn năng lượng sạch hoàn toàn.
2.5. Năng lượng địa nhiệt
Năng lượng địa nhiệt của Trái Đất sinh ra từ sự hình thành của ban đầu hành tinh và
sự phân rã phóng xạ của khoáng chất. lOMoAR cPSD| 58569740
Ở một số khu vực có độ dốc địa nhiệt đủ cao sẽ khai thác được và tạo ra điện. Tuy
nhiên, công nghệ để khai thác năng lượng địa nhiệt vẫn bị giới hạn ở một vài nơi. Ngoài
ra, vấn đề kỹ thuật cũng làm hạn chế tiện ích của loại năng lượng này.
2.6. Năng lượng chất thải rắn
Ngày nay, chuyển hóa chất thải rắn thành năng lượng là biện pháp tái chế rác thải
hữu cơ hiệu quả. Hoạt động này không chỉ xử lý rác thải thành điện năng mà còn giảm phát thải khí nhà kính.
Nhiều quốc gia đã giải quyết hiệu quả vấn đề rác thải, đặc biệt là chuyển hóa thành
nguyên liệu thô cho các hoạt động công nghiệp. Có thể kể đến như: các quốc gia khu
vực Bắc Âu, Singapore, Nhật Bản, Mỹ, Đức,...
Ở các nước đang phát triển, số lượng và mật độ rác đô thị còn tăng cao hơn các nước
phát triển. Tuy nhiên, việc xử lý rác thải lại gặp nhiều hạn chế hơn do thiếu vốn đầu tư và công nghệ.
2.7. Năng lượng thủy triều
Thủy triều là dạng năng lượng sạch hoàn toàn, được sử dụng để tạo ra điện nhờ vào
sự chuyển đổi năng lượng. Nguồn năng lượng này mức chi phí đầu tư khá tốn kém. Hơn
nữa, chỉ thực hiện được ở những nơi có vận tốc dòng chảy lớn hoặc thuỷ triều đủ cao.
Năng lượng tái tạo từ thủy triều tồn tại một số nhược điểm đang được các nhà khoa
học tìm ra cách giải quyết trong cuộc khủng hoảng năng lượng sắp tới. Vì vậy, năng
lượng từ thủy triều cũng chưa thực sự được sử dụng rộng rãi.
2.8. Nhiên liệu hydrogen và pin nhiên liệu hydro
Hydrogen được sử dụng trong pin nhiên liệu hydro, cung cấp năng lượng cho động
cơ điện tương tự như pin lưu trữ điện. Các loại xe chạy bằng hơi nước đều được ứng
dụng từ loại năng lượng này.
Khi sử dụng nhiên liệu đốt hydrogen, ô nhiễm trong thành phố được giảm một cách
đáng kể. Đây sẽ là giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường trong tương lai.
3.Vai trò của năng lượng tái tạo trong phát triển bền vững và giảm nhẹ biến đổi khí hậu
3.1. Đảm bảo an ninh năng lượng
Năng lượng tái tạo giúp đảm bảo an ninh năng lượng bằng cách giảm sự phụ thuộc
vào nguồn năng lượng hóa thạch, từ đó giảm nguy cơ của việc gián đoạn cung cấp năng
lượng và biến động giá năng lượng trên thị trường quốc tế. Năng lượng tái tạo giúp giảm
sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, vốn đang ngày càng cạn kiệt và có thể bị gián
đoạn bởi các yếu tố chính trị, kinh tế. Phát triển năng lượng tái tạo giúp đa dạng hóa
nguồn cung cấp năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
3.2. Giảm phát thải khí nhà kính
Sử dụng năng lượng tái tạo giúp giảm phát thải khí nhà kính, góp phần vào cuộc
chiến chống lại biến đổi khí hậu và làm giảm tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối
với môi trường và con người. Năng lượng tái tạo là nguồn năng lượng sạch, không tạo
ra khí thải nhà kính, góp phần bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Sử dụng lOMoAR cPSD| 58569740
năng lượng tái tạo giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người.
Hơn nữa, giảm thiểu phát thải khí nhà kính cũng mang lại lợi ích cho sức khỏe con
người. Khí thải từ các nguồn năng lượng hóa thạch có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe
như ô nhiễm không khí, bệnh về hô hấp và các vấn đề liên quan đến sự đổi mới khí hậu.
Sử dụng năng lượng tái tạo giúp giảm nguy cơ này, tạo ra một môi trường sống lành
mạnh và bền vững hơn cho tất cả mọi người.
3.3. Thúc đẩy phát triển bền vững
Năng lượng tái tạo đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững
bằng cách tạo ra cơ hội việc làm, khuyến khích sự đổi mới công nghệ và tăng cường sức
mạnh kinh tế cho các cộng đồng địa phương. Phát triển năng lượng tái tạo giúp nâng
cao chất lượng cuộc sống và hướng đến một tương lai bền vững.
Phát triển năng lượng tái tạo không chỉ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống hiện tại
mà còn hướng đến một tương lai bền vững hơn cho thế hệ tương lai. Sử dụng nguồn
năng lượng sạch giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con
người, đồng thời tạo ra một môi trường sống lành mạnh và bền vững cho tất cả mọi người. lOMoAR cPSD| 58569740
CHƯƠNG II: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO TRONG
BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU, HIỆN TRẠNG CỦA VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI
1.Xu hướng phát triển NLTT trên thế giới
Tốc độ sản xuất NLTT hằng năm có xu hướng tăng
Biến đổi khí hậu cùng với những hiện tượng thời tiết cực đoan đang diễn ra với tần
suất ngày một cao hơn khiến nhu cầu chuyển sang sử dụng NLTT trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trên thực tế, năng lượng hóa thạch hiện được sử dụng phổ biến nhất, từ lâu đã như
một phần không thể thiếu đối với hoạt động kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, nguồn dự trữ
nhiên liệu hóa thạch có giới hạn, trong khi dân số và nhu cầu tiêu thụ năng lượng của
thế giới liên tục gia tăng. Ngoài ra, việc khai thác, sản xuất và sử dụng nhiên liệu hóa
thạch đã gây ra nhiều tác động xấu đối với môi trường.
Trong bối cảnh đó, năng lượng tái tạo từ gió, mặt trời... có thể khắc phục cả hai vấn
đề trên với nguồn cung gần như vô tận và thân thiện môi trường. Điện sản xuất từ nguồn
năng lượng tái tạo này cũng có giá cạnh tranh hơn các nguồn điện nhiên liệu hóa thạch
truyền thống và giúp tạo ra nhiều việc làm. Với những đặc trưng trên, xu hướng phát
triển năng lượng tái tạo có thể khiến bản đồ năng lượng toàn cầu được “vẽ lại”, thay đổi
đáng kể trong những năm tới.
Từ năm 1966 đến năm 2022, tốc độ tăng trưởng hằng năm của sản lượng NLTT dao
động với biên độ khá mạnh, nhưng chủ yếu vẫn duy trì xu hướng tăng trưởng dương.
Đỉnh tăng trưởng của tốc độ sản xuất NLTT được ghi nhận vào năm 1974, dưới tác động
của cuộc khủng hoảng dầu mỏ thế giới, với mức tăng trưởng 9,67%. Một mức đỉnh khác
là 10,03% vào năm 2008, trong bối cảnh bức tranh kinh tế toàn cầu phủ màu ảm đạm
do cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ và châu Âu. Cuộc khủng hoảng này đã bộc lộ rõ
tính thiếu bền vững của nền kinh tế thế giới cũng như các mô hình tăng trưởng tại nhiều
quốc gia, đặt ra yêu cầu cấp thiết về phát triển kinh tế xanh. Kể từ năm 2010 đến nay,
sản lượng NLTT toàn cầu bước vào giai đoạn tăng trưởng cao và ổn định, trên 4%.
Theo Báo cáo Năng lượng tái tạo 2021 – Phân tích và Dự báo đến năm 2026 của
Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA), sản lượng điện tái tạo toàn cầu ước tính đạt 8300
TWh năm 2021, tăng khoảng 8% so với cùng kỳ năm trước và đánh dấu mức tăng hàng
năm cao nhất kể từ 1970.
Trong đó, điện mặt trời và điện gió đóng góp khoảng hai phần ba mức tăng trưởng
năng lượng tái tạo. Công suất điện tái tạo được cho rằng sẽ tăng tốc trong giai đoạn dự
báo của Báo cáo IEA, chiếm gần 95% mức tăng công suất điện toàn cầu đến năm 2026.
Từ năm 2021-2026, mức bổ sung của công suất năng lượng tái tạo dự báo đạt trung
bình 305 GW/năm đối với kịch bản cơ sở, có thể đạt 380 GW/năm đối với kịch bản tăng
trưởng. Tuy nhiên, để thế giới có thể đạt phát thải ròng bằng không vào năm 2050, tăng
trưởng công suất năng lượng tái tạo hàng năm cần tăng hơn 80% so với kịch bản tăng trưởng đó. lOMoAR cPSD| 58569740
Điều này đồng nghĩa rằng các quốc gia cần tăng tốc hơn nữa trong việc theo đuổi
xu hướng năng lượng tái tạo, nỗ lực hơn nữa để giải quyết những vấn đề về chính sách,
thực thi cũng như nâng các cam kết khí hậu.
Gia tăng sức cạnh tranh của NLTT
Với tiềm năng sản lượng khai thác và thời gian duy trì nguồn phát gần như không
giới hạn, có thể thấy năng lượng mặt trời và năng lượng gió là những nguồn NLTT ngày
càng phổ biến trên Trái đất. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào những năm 70 của thế kỷ
XX khiến nhiều quốc gia thay đổi suy nghĩ về việc tiêu thụ năng lượng, dẫn tới việc các
nước này triển khai một loạt chương trình nghiên cứu về năng lượng mặt trời và năng
lượng gió nằm trong chiến lược phát triển NLTT. Nhờ những tiến bộ về kỹ thuật và công
nghệ, giá thành của NLTT ngày càng trở nên cạnh tranh so với nguồn năng lượng hóa thạch.
Tuy có sự khác biệt về chi phí và công suất, nhưng sự vận động các chỉ số của những
loại NLTT này tương tự nhau: chi phí lắp đặt trung bình và chi phí năng lượng bình
đẳng có xu hướng giảm, trong khi hệ số công suất có xu hướng tăng theo thời gian.
Những tiến bộ về công nghệ kỹ thuật đã giúp giá thành năng lượng mặt trời và năng
lượng gió thấp hơn, mang lại lợi ích kinh tế lâu dài, thúc đẩy gia tăng tỷ trọng của hai
nguồn này trong cơ cấu tiêu thụ năng lượng. Từ đó, góp phần bảo đảm an ninh năng
lượng quốc gia, phát triển kinh tế bền vững, giảm ô nhiễm môi trường, chống biến đổi
khí hậu. Nghiên cứu của IEA chỉ ra rằng, đến năm 2025, NLTT sẽ trở thành nguồn điện
chính, đóng góp một phần ba tổng sản lượng điện trên thế giới.
Xu hướng điện khí hóa
Theo quá trình phát triển của kinh tế, xã hội, các loại máy móc và thiết bị điện ra
đời đã và đang góp phần rất lớn trong việc nâng cao năng suất, tiết kiệm sức lao động
của con người. Để những máy móc này hoạt động hiệu quả thì điện năng là yếu tố không
thể thiếu. Tầm quan trọng của điện năng vẫn ngày càng tăng lên. Để thực hiện mục tiêu
trung hòa carbon vào giữa thế kỷ này, nhiều quốc gia đang thúc đẩy chuyển đổi từ sử
dụng nhiên liệu hóa thạch sang cung cấp năng lượng điện cho các thiết bị, tòa nhà và
giao thông. Chẳng hạn như, việc điện khí hóa hệ thống sưởi là một trong những kế
hoạch của Liên minh châu Âu (EU) nhằm giảm lượng khí thải từ các tòa nhà.
Hiện nay, các thiết bị và lưới truyền tải điện ngày càng được cải thiện, thu hút thêm
nhiều người dùng mới và thúc đẩy quá trình điện khí hóa diễn ra mạnh mẽ hơn trên
nhiều lĩnh vực, kể cả trong lĩnh vực vốn sử dụng nhiều nhiên liệu hóa thạch như giao
thông vận tải. Ô tô điện đang trở nên phổ biến. Theo Công ty phân tích thị trường
EVvolumes.com, doanh số bán xe điện toàn cầu sẽ tăng gấp ba lần, từ 10,5 triệu chiếc
vào năm 2022 lên hơn 31 triệu chiếc vào năm 2027. Với đà phát triển nhanh chóng như
hiện tại, con số này sẽ còn tăng hơn gấp đôi, lên 74,5 triệu chiếc vào năm 2035(3). Nhu
cầu xe điện đang tăng nhanh nhờ những ưu điểm, thuận lợi, như tiết kiệm chi phí về dài
hạn, chính sách ưu đãi thuế và bảo vệ môi trường. Mặc dù giá thành ban đầu cao hơn,
nhưng về dài hạn, việc sử dụng ô tô điện có thể rẻ hơn ô tô chạy xăng do chi phí nhiên
liệu và bảo dưỡng thấp hơn. Hơn nữa, những tiến bộ công nghệ kỹ thuật đang giúp hạ
giá thành sản xuất và tăng hiệu suất pin, qua đó làm tăng sức cạnh tranh của xe điện.
Có thể thấy, thúc đẩy NLTT đang trở thành xu hướng, chiếm vị trí quan trọng trong
chiến lược phát triển bền vững của các nước trên thế giới. Hằng năm, nhiều quốc gia lOMoAR cPSD| 58569740
trên thế giới đã đầu tư hàng trăm tỷ USD để chuyển đổi năng lượng, tái khởi động các
nền kinh tế và giải quyết căn nguyên của cuộc khủng hoảng khí hậu và tự nhiên(4).
Châu Âu đã nhanh chóng thúc đẩy tăng trưởng năng lượng sạch trong bối cảnh căng
thẳng do cuộc xung đột Nga - U-crai-na đặt ra bài toán tự chủ năng lượng. Mỹ cũng
đang tăng cường triển khai kế hoạch phát triển năng lượng sạch đến năm 2050, bằng
cách rót vốn đầu tư lớn cho xây dựng kết cấu hạ tầng nhà máy NLTT, cũng như thay thế
dần công nghiệp tiêu hao nhiều năng lượng và gây ô nhiễm môi trường sang năng lượng
sạch. Trung Quốc được dự báo sẽ tiếp tục củng cố vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực này,
đóng góp tới 55% sản lượng NLTT toàn cầu tăng thêm trong năm 2023 và năm 2024(5).
2. Các chính sách hỗ trợ NLTT của một số quốc gia Trung quốc
Dẫn đầu cuộc đua tăng trưởng trong ngành năng lượng tái tạo là Trung Quốc - chiếm
gần một nửa mức tăng trưởng toàn cầu về năng lượng tái tạo, Là quốc gia phát thải khí
nhà kính hàng đầu và dân số đông nhất thế giới, việc Trung Quốc chuyển đổi sang năng
lượng tái tạo có ý nghĩa đáng kể đối với mục tiêu khí hậu của toàn cầu nói chung.
Tháng 10/2021, nước này ban hành hướng dẫn theo đuổi mục tiêu đạt mức phát thải
đỉnh điểm đến 2030 và trung hòa khí thải carbon trước 2060. Trung Quốc đặt mục tiêu
tăng dần tỷ lệ tiêu thụ năng lượng không hóa thạch lên khoảng 20% vào năm 2025,
khoảng 25% vào năm 2030 và trên 80% vào năm 2060.
Việc Trung Quốc cam kết trung hòa carbon trước năm 2060 cũng dẫn tới các mục
tiêu lâu dài mới như nâng tổng công suất năng lượng mặt trời và gió lên 1200 GW vào
năm 2030, tăng từ 530 GW năm 2020.
Theo dữ liệu từ Cơ quan Năng lượng Quốc gia Trung Quốc, thời gian gần đây, các
công ty sản xuất điện hàng đầu của Trung Quốc đã đầu tư hơn 662 tỷ Nhân dân tệ (tương
đương trên 92,3 tỷ USD) vào các dự án cung cấp điện, tăng 43,7% so với cùng kỳ năm
2022.Trong đó, đầu tư vào sản xuất năng lượng mặt trời đã tăng hơn 71%, còn đầu tư
vào điện gió cũng tăng 42,5%.
Sản xuất điện từ các nguồn năng lượng sạch tại Trung Quốc đã vượt lên trên sản
xuất từ dầu và than đá, đóng góp quan trọng vào lưới điện quốc gia. Công suất lắp đặt
điện tích lũy của Trung Quốc trong 10 tháng qua đã tăng 12,6%, đạt 2,81 tỷ kW.
Một cuộc khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí Sạch ở
Helsinki, Phần Lan, cho thấy 2/3 số chuyên gia được hỏi tin rằng Trung Quốc sẽ đạt
đỉnh carbon trước năm 2030 và tiếp tục giảm lượng khí thải carbon trong những năm sau đó.
Với cam kết đặt ra trong thỏa thuận với Mỹ và sự đầu tư mạnh mẽ cho năng lượng
tái tạo, Trung Quốc nhấn mạnh sẽ nhanh chóng thay thế năng lượng từ than, dầu mỏ và
khí đốt để đảm bảo mục tiêu giảm phát thải của ngành điện trước năm 2030 Chính sách
Như một xu thế tất yếu, Luật Năng lượng Tái tạo của Trung Quốc (REL) đã ra đời
năm 2005 và được sửa đổi năm 2009. Ngoài ra, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới còn có
các luật liên quan đến vấn đề năng lượng tái tạo, chẳng hạn như Luật Năng lượng chung,
hoặc Luật bảo vệ Môi trường và khí hậu. lOMoAR cPSD| 58569740
Trong tầm nhìn 5 năm, trung hạn, dài hạn, Trung Quốc đã phát triển một loạt các kế
hoạch, đưa ra các hướng dẫn và mục tiêu để thúc đẩy sự phát triển của năng lượng tái
tạo. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra những mục tiêu về tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo
từ 11% trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 đến 15% trong Kế hoạch lần thứ 12 cùng với
các hướng dẫn phát triển cho ngành công nghiệp năng lượng tái tạo. Các quy hoạch ở
quốc gia này có vị trí đặc biệt trong hệ thống luật, cũng như chính sách về năng lượng
tái tạo. Cho đến nay, Trung Quốc đã hình thành một hệ thống pháp luật toàn diện về
NLTT, cơ bản dựa trên REL và được bổ sung bởi các luật, chính sách liên quan khác.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã đạt được những bước tiến đáng kể trong
việc phát triển NLTT. Ngoài việc ban hành Luật Năng lượng Tái tạo năm 2005 và sửa
đổi Luật này vào năm 2009, Trung Quốc đã công bố một loạt các chính sách hỗ trợ để
thành lập một ủy ban tiêu chuẩn hóa trong các lĩnh vực thủy điện, năng lượng gió và
quang điện. Khả năng chứng nhận, xây dựng và khảo sát đã liên tục được củng cố để hỗ
trợ sự phát triển quy mô lớn của các phân ngành năng lượng tái tạo.
REL năm 2005 và các sửa đổi của Luật Năng lượng tái tạo để lại nhiều chi tiết sẽ
được xác định bởi các quy định thi hành tiếp theo. Bởi vậy, bản thân các sửa đổi sẽ
không nhất thiết mang lại bất kỳ cải tiến nào cho toàn bộ hệ thống trừ khi các quy định
chi tiết, hiệu quả được ban hành.
Mặc dù các chính sách thuận lợi cho phép thúc đẩy NLTT một cách linh hoạt và
nhanh hơn, nhưng về lâu dài, việc sửa đổi chính sách có thể không duy trì được sự ổn
định đối với quyền, nghĩa vụ của các nhà sản xuất NLTT, thậm chí có thể làm suy yếu
thẩm quyền của luật pháp.
Trên thực tế, REL hiện nay là luật duy nhất quy định cụ thể các vấn đề NLTT, song,
nhiều chuyên gia đánh giá nó chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tiễn. Tương lai của REL
được cho là sẽ tích hợp vào Luật Năng lượng. Hồi tháng 4 năm 2020, Cơ quan Quản lý
Năng lượng Quốc gia Trung Quốc (NEA) đã công bố Dự thảo Luật Năng lượng để lấy
ý kiến công chúng, trong đó nhấn mạnh “Việc phát triển năng lượng tái tạo là ưu tiên hàng đầu”.
Với những chính sách nổi bật, cùng với sự đầu tư mạnh tay từ Chính phủ, năm 2017,
Trung Quốc đã chiếm gần một nửa tổng đầu tư toàn cầu vào năng lượng tái tạo. Tổng
công suất lắp đặt năng lượng tái tạo của Trung Quốc đã tăng gấp đôi trong giai đoạn
2016-2020, từ 530 GW lên 1.100 GW. Theo NEA, năng lượng tái tạo của Trung Quốc
hiện chiếm 43,5% tổng công suất đặt, trong đó, công suất của các nhà máy thuỷ điện,
điện gió, điện mặt trời và điện sinh khối lần lượt là 385 GW, 299 GW, 282 GW và 35,34
GW, đứng đầu thế giới. Trung Quốc đã tăng thêm 71,67 GW công suất điện gió vào năm
2020, mức cao nhất từ trước đến nay và gần gấp 3 lần mức của năm 2019. Đặc biệt,
Trung Quốc đã thực hiện được hầu hết các mục tiêu đã đề ra với hiệu quả lên đến 80%.
Tóm lại, sau kế hoạch 5 năm lần thứ 13, Trung Quốc đã trở thành một trong những
quốc gia gia hàng đầu thế giới về sản phẩm điện mặt trời và gió. Dù các mục tiêu trong
bản kế hoạch 5 năm lần thứ 13 không hoàn toàn mới nhưng chú trọng hơn việc siết chặt
cắt giảm tỷ trọng của than trong cơ cấu năng lượng của đất nước và tăng mục tiêu cho
lĩnh vực năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn đối mặt với các vấn đề liên
quan đến quản lý biến động trong sản phẩm sản xuất lượng gió và nắng và môi trường quản lý. lOMoAR cPSD| 58569740 Kết quả
Mặc dù còn tồn tại nhiều hạn chế, Luật NLTT đã giúp cho ngành NLTT Trung Quốc
phát triển với tốc độ hàng đầu thế giới. Tính đến cuối tháng 2/2023, công suất đặt điện
gió ở Trung Quốc đạt 370 GW. Trong đó, điện gió trên đất liền là 340 GW và ngoài khơi
30 GW. Công suất đặt điện mặt trời đạt 410 GW, chủ yếu là quang điện, chỉ có 670 MW
điện mặt trời nhiệt. Tốc độ tăng công suất điện gió trong năm 2022 là 11% và điện mặt trời là 30,8%.
Nhờ vào những chính sách chuyển đổi năng lượng quyết liệt của Chính phủ Trung
Quốc, nước này đã và đang đạt được những bước tiến lớn về năng lượng tái tạo. Hiện
tại, Trung Quốc đang dẫn đầu thế giới về đầu tư vào lĩnh vực này với 546 triệu USD
trong năm 2022. Năng lượng tái tạo của Trung Quốc đáp ứng được 47,3% nhu cầu trong
nước vào cuối năm 2022. Tỷ lệ này tăng 2,5 điểm phần trăm so với năm trước đó. Cụ
thể, sản lượng điện từ các nguồn năng lượng tái tạo của Trung Quốc là 8.694 TWh, tăng
3,8% so với cùng kỳ năm ngoái.Các nguồn năng lượng nhiên liệu không hóa thạch như
năng lượng hạt nhân, năng lượng hydro… chiếm 50,9% tổng công suất lắp đặt của cả
Trung Quốc, đánh dấu việc hoàn thành sớm mục tiêu chính phủ đề xuất vào năm 2021,
theo đó công suất tái tạo được lên kế hoạch vượt quá công suất nhiên liệu hóa thạch vào năm 2025.
Trung Quốc cũng đã đạt được những bước tiến lớn về khai thác năng lượng gió:
tổng công suất trên đất liền và ngoài khơi của nước này hiện là 310 GW, gấp đôi năm
2017. Một số nhà máy điện mặt trời và điện gió lớn nhất thế giới tại Trung Quốc có thể
kể đến như nhà máy điện mặt trời Longyangxia ở tỉnh Thanh Hải có công suất 850 MW,
và nhà máy điện gió Jiuquan ở tỉnh Giang Tô có công suất 1.500 MW. Với các dự án
mới ở Nội Mông, Tân Cương, Cam Túc và dọc theo các khu vực ven biển, Trung Quốc
đang chuẩn bị bổ sung thêm 371 GW nữa trước năm 2025, tăng gần gấp đôi năng lượng
gió trên toàn thế giới. Đức
So với các quốc gia khác ở Liên minh châu Âu (EU), CHLB Đức có Đạo luật Nguồn
năng lượng Tái tạo (EEG) mang tính thời sự cao. Luật này được sửa đổi thường xuyên,
bổ sung qua nhiều năm với một số điều luật và quy định hỗ trợ rất cụ thể.
Đức có Đạo luật về Nguồn năng lượng Tái tạo (Renewable Energy Sources Act),
hay EEG). Đây là một loạt dự luật, với mục tiêu ban đầu là cung cấp cơ sở biểu giá bán
điện (FIT) nhằm để khuyến khích sản xuất điện tái tạo.
Tiền thân của EEG là Đạo luật biểu giá FIT có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm
1991. Luật này đã khởi xướng chương trình biểu giá điện năng lượng xanh đầu tiên trên
thế giới. EEG ban đầu được ghi nhận với sự hấp thụ nhanh năng lượng gió và quang
điện (PV) - được coi là một biện pháp chính sách năng lượng sáng tạo, thành công trên thế giới.
Đạo luật EEG cũng bao gồm cả sinh khối (bao gồm cả đồng phát), thủy điện và
năng lượng địa nhiệt.
Một bản sửa đổi với EEG có hiệu lực vào ngày 1 tháng 8 năm 2014. Biểu giá điện
hỗ trợ cố định theo quy định sẽ không còn đối với hầu hết các công nghệ trong tương
lai gần. Các hành lang triển khai cụ thể hiện quy định mức độ mở rộng điện tái tạo trong lOMoAR cPSD| 58569740
tương lai và tỷ lệ tài trợ không còn do Chính phủ ấn định nữa, mà được xác định thông
qua đấu giá. Các công ty tiếp thị cho các nhà sản xuất điện nhận được một nguồn phí
bảo hiểm thị trường để tạo nên sự khác biệt giữa giá dự thầu và giá thị trường giao ngay
trung bình hàng tháng đối với điện.
Phụ phí EEG vẫn được áp dụng để bù đắp sự thiếu hụt này. Hệ thống luật này đã
được triển khai theo từng giai đoạn và bắt đầu với quang điện mặt đất. Sau đó, nhiều
sửa đổi pháp lý cho các nhánh khác đã được đề cập trong phiên bản EEG 2017.
EEG 2017 đã được sửa đổi nhiều lần để đảm bảo kết nối lưới điện, điều phối ưu tiên
và biểu giá điện đầu vào do Chính phủ quy định trong 20 năm (tùy thuộc vào công nghệ
và quy mô của dự án). Đối với EEG 2017, phụ phí EEG không giảm là 6,88 ¢/kWh.
Theo cập nhật của Tạp chí Năng lượng Việt Nam, giá điện bán buôn trung bình ở
Đức hiện là 157,8 €/MWh (khoảng trên 4.000 VNĐ/kWh), còn giá điện bán đến người
tiêu dùng hộ gia đình 0,3279 €/kWh (khoảng trên 8.000 VNĐ/kWh).
EEG hiện tại bị chỉ trích vì thiết lập các hành lang triển khai quá thấp để đáp ứng
các mục tiêu bảo vệ khí hậu dài hạn của Đức, đặc biệt là khả năng điện khí hóa ngành
giao thông vận tải. Mục tiêu của Chính phủ Đức về tỷ lệ năng lượng tái tạo trong sản
xuất điện là ít nhất 80% vào năm 2050.
Khoản phụ phí EEG (hoặc thuế) gây tranh cãi đối với hóa đơn tiền điện của người
tiêu dùng đã bị loại bỏ, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2022. Do đó, trung bình một
hộ gia đình ở Đức sẽ tiết kiệm được khoảng €200 mỗi năm. Các nghĩa vụ thanh toán
hiện sẽ được đáp ứng từ số tiền thu được trong giao dịch hạn ngạch phát thải và từ ngân sách liên bang.
Quá trình chuyển đổi năng lượng của Đức (Energiewende), là một phần chính trong
kế hoạch năng lượng của Đức kể từ năm 1998. Sau 21 năm điều chỉnh để xây dựng
khung pháp lý, vào năm 2019, 17,5% tổng mức tiêu thụ năng lượng cuối cùng của Đức
và 42,1% tổng mức tiêu thụ điện của Đức được tạo ra bởi các nguồn năng lượng tái tạo (NLTT).
Như đề cập, Đức đặt mục tiêu tăng tỷ lệ tổng tiêu thụ điện từ các nguồn NLTT lên
65% vào năm 2030 và lên 80% vào năm 2050.
Với công suất lắp đặt khoảng 61 GW, Đức là một trong những thị trường năng lượng
gió lớn nhất thế giới. Ngành công nghiệp tái tạo ở Đức không còn là thị trường cho
những người tiên phong. Kể từ năm 2000, tổng cộng hơn 290 tỷ EUR đã được đầu tư
vào NLTT tại quốc gia này.
Đức kỳ vọng sự thay đổi mang tính hệ thống này sẽ vừa giảm chi phí trợ cấp của
Chính phủ, vừa tăng tính cạnh tranh và sự đa dạng giữa những người tham gia. Đạo luật
cũng điều chỉnh hệ thống hỗ trợ của Đức theo Hướng dẫn của EU về Viện trợ Nhà nước
cho Bảo vệ Môi trường và Năng lượng 2014 - 2020.
Ngoài ra, đạo luật tạo điều kiện cho việc tăng công suất lắp đặt thông qua đấu thầu
dựa trên các mục tiêu tăng trưởng. Kết quả của các cuộc đấu thầu đầu tiên vào năm 2017
cho thấy ngành NLTT Đức sẵn sàng chấp nhận mức hỗ trợ thấp hơn, thậm chí một số
dự án điện gió ngoài khơi không cần trợ cấp.
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), kể từ tháng 12/2020, Đức đã sửa đổi luật
năng lượng nhằm mở rộng NLTT trong dài hạn và đạt mục tiêu 65% điện năng từ các lOMoAR cPSD| 58569740
nguồn sạch vào năm 2030, hướng tới trung hòa carbon trước 2050. EEG đặt ra tốc độ
mở rộng của năng lượng gió và quang điện trong những năm tới, đồng thời cung cấp
một khung pháp lý ổn định giúp giảm chi phí cho công chúng.
EEG 2017 đã được sửa đổi nhiều lần để theo kịp thực tế phát triển. Dự thảo EEG
2021 tiếp tục nhấn mạnh mục tiêu đạt điện năng không gây hiệu ứng nhà kính vào năm
2050. Ngoài ra, hệ thống trợ cấp cũng được điều chỉnh theo hướng tối ưu hóa giá thị
trường, khuyến khích sản xuất điện vào thời điểm có nhu cầu cao nhất, qua đó nâng cao hiệu quả của NLTT.
Bên cạnh đó, Đức cũng thúc đẩy các mô hình bán điện thay thế như PPA (thỏa thuận
mua bán điện), tạo cơ hội cho thị trường phát triển bền vững mà không phụ thuộc vào
trợ cấp. Đối với các dự án khí mêtan từ mỏ than, đạo luật EEG đảm bảo biểu giá cố định
trong 20 năm, khuyến khích tận dụng nguồn năng lượng này và tích hợp vào lưới điện.
Trong bối cảnh các công nghệ năng lượng mới, Đức đã đặt mục tiêu phát triển công
nghệ hydro xanh, coi đây là một phần quan trọng trong chiến lược giảm phát thải khí
nhà kính. Chính phủ Đức đã thông qua Chiến lược Hydro Xanh vào năm 2023, với
mục tiêu phát triển sản xuất hydro từ các nguồn năng lượng tái tạo. Mục tiêu là đến năm
2030, Đức sẽ đạt được công suất điện phân hydro lên tới ít nhất 10 gigawatt.
Để thúc đẩy quá trình này, chính phủ Đức đã thông qua Luật Thúc đẩy Hydro vào
năm 2024, nhằm đẩy nhanh quá trình phát triển cơ sở hạ tầng và sản xuất hydro. Luật
này khuyến khích đầu tư vào các công nghệ tách hydro từ nước, với yêu cầu sử dụng ít
nhất 80% năng lượng tái tạo cho đến năm 2029. Đây là một trong những sáng kiến quan
trọng giúp Đức đạt được mục tiêu trung hòa khí thải vào năm 2045.
Những chính sách này thể hiện cam kết mạnh mẽ của Đức trong việc mở rộng NLTT,
đảm bảo tính bền vững và giảm dần sự phụ thuộc vào trợ cấp chính phủ, đồng thời tạo
ra một thị trường cạnh tranh và minh bạch hơn.
3.Thực trạng phát triển NLTT ở Việt Nam
Là nền kinh tế có độ mở lớn, chịu sự ràng buộc trên nhiều phương diện bởi thị
trường quốc tế, Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ từ xu hướng chuyển dịch năng
lượng toàn cầu. Sự cấp thiết của chuyển dịch sang NLTT không chỉ do những tác động
bên ngoài, mà ngay trong nước cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển. Việt
Nam có đặc điểm địa lý, khí hậu lý tưởng để sản xuất NLTT, với đường bờ biển dài,
thời tiết nhiệt đới gió mùa nên nhận được lượng bức xạ nhiệt mặt trời và lượng gió tương
đối lớn... Những điều kiện này có ý nghĩa quan trọng trong định hướng an ninh năng
lượng để phát triển nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Sự phát triển NLTT tại Việt Nam đã ghi nhận những bước tiến đáng kể, nhờ cơ chế,
chính sách khuyến khích của Nhà nước. Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11-2-2020, của
Bộ Chính trị, “Về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, đã xác định các quan điểm, mục tiêu, nhiệm
vụ và giải pháp về chuyển dịch năng lượng thời gian tới. Quyết định số 1658/QĐTTg,
ngày 1-10-2021, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng
trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn năm 2050, cũng đặt ra các mục tiêu phát
triển nền kinh tế xanh đến năm 2030 và năm 2050. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có lOMoAR cPSD| 58569740
những chính sách hỗ trợ như cơ chế giá FIT, nhằm khuyến khích phát triển NLTT, bảo
đảm hợp đồng mua bán điện dài hạn ở mức giá hợp lý cho nhà đầu tư.
Năng lượng mặt trời đã có sự phát triển nhanh nhất tại Việt Nam, với công suất lắp
đặt hơn 16.500 MW tính đến năm 2020. Sự phát triển này đã được hỗ trợ bởi chính sách
và khuyến khích của chính phủ, như biểu giá điện hỗ trợ và cơ chế bù trừ điện năng.
Việt Nam cũng đã đạt được tiến bộ trong việc phát triển điện gió, với công suất lắp
đặt hơn 600 MW tính đến năm 2020. Chính phủ cũng đã đặt mục tiêu tăng tỷ lệ điện gió
trong tổng sản lượng điện của đất nước lên 11% vào năm 2025 và 29% vào năm 2030.
Thủy điện vẫn là một nguồn năng lượng tái tạo quan trọng tại Việt Nam, chiếm
khoảng 40% tổng công suất sản xuất điện của đất nước. Tuy nhiên, có những lo ngại về
tác động môi trường của các dự án thủy điện lớn. Do đó, chính phủ đang tìm kiếm các
giải pháp thay thế như thủy điện nhỏ và năng lượng sinh khối.
Trong bối cảnh năng lượng toàn cầu có nhiều biến động, thị trường NLTT Việt Nam
thời gian qua phát triển “nóng” trong khi chính sách quản lý của Nhà nước không theo
kịp, dẫn tới những rủi ro tiềm ẩn.
4.Thách thức và cơ hội phát triển NLTT tại Việt Nam Thách thức
Thứ nhất, hạn chế về hạ tầng lưới điện: Sự phát triển nhanh chóng của các dự án
NLTT, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió, đã gây áp lực lớn lên hệ thống lưới điện
quốc gia. Hạ tầng truyền tải hiện tại chưa đáp ứng kịp tốc độ tăng trưởng của các nguồn
năng lượng mới, dẫn đến tình trạng quá tải và khó khăn trong việc tích hợp nguồn điện
tái tạo vào lưới điện.
Nguồn điện thay đổi đồng nghĩa với việc có rất nhiều kết nối mới. Bởi các tuabin
gió và tấm pin mặt trời thường được đặt ở nhiều địa điểm khác nhau, không tập trung
như các nhà máy nhiệt điện nên để đưa điện từ các địa điểm này về lưới điện chung,
người ta phải xây dựng một hệ thống kết nối hoàn toàn mới và phức tạp hơn rất nhiều
so với hệ thống hiện tại. Vấn đề càng trở nên rắc rối vì các nguồn năng lượng tái tạo
thường tạo ra ít điện hơn so với tuabin hơi nước, dẫn đến việc cần nhiều kết nối hơn cho
mỗi đơn vị công suất.
Ngoài việc bổ sung rất nhiều kết nối mới, lưới điện cũng phải thay đổi hình dạng.
Những nơi phù hợp nhất để sản xuất năng lượng tái tạo là Trung Bộ, Tây Nam Bộ và
Tây Nguyên; trong khi nơi tiêu thụ năng lượng nhiều nhất lại là Bắc Bộ và Đông Nam
Bộ. Vì vậy, cần có các đường dây truyền tải mới để kết nối các khu vực cung-cầu. Và
vì lưới điện không đơn thuần chỉ là một tập hợp các đường dây và trạm biến áp mà có
sự liên kết chặt chẽ với nhau, mỗi phần tử đều tác động đến các phần tử khác, nên sự
thay đổi ở một điểm trong lưới điện có thể gây ra những ảnh hưởng không mong muốn ở những điểm khác.
Thứ hai, hiếu vốn đầu tư: Phát triển NLTT đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn. Theo ước
tính, từ năm 2021 đến 2030, Việt Nam cần khoảng 104,7-142,2 tỷ USD để phát triển lOMoAR cPSD| 58569740
ngành điện lực. Việc huy động và thu xếp nguồn vốn này là một thách thức lớn, đặc biệt
khi các dự án NLTT thường có thời gian hoàn vốn dài và rủi ro cao.
Tiếp đến, để phát triển NLTT cần phải tính toán sự cân bằng và hợp lý trong cơ cấu
nguồn điện. Sự cân bằng này sẽ quyết định giá điện nên sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền
kinh tế nước ta, đặc biệt là ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống nhân dân. Ở đây, cần phải
nhìn nhận thẳng thắn một số vấn đề trong quá khứ về cái được và cái mất khi quyết định
đưa ra những chính sách phát triển NLTT.
Thứ ba, chính sách và quy định chưa đồng bộ: Mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều
chính sách hỗ trợ NLTT, nhưng vẫn tồn tại sự thiếu đồng bộ và rõ ràng trong các quy
định, gây khó khăn cho nhà đầu tư. Ví dụ, việc thiếu hướng dẫn cụ thể về giá mua điện,
thủ tục hành chính phức tạp và chậm trễ trong việc phê duyệt dự án đã làm giảm sự hấp
dẫn của môi trường đầu tư.
Thứ tư, thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật và nguồn nhân lực chất lượng cao: Việc thiếu các
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ thống điện mặt trời, điện gió cùng với
nguồn nhân lực chuyên môn cao còn hạn chế đã ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của các dự án NLTT.
Thứ năm, sự rút lui của các nhà đầu tư quốc tế: Gần đây, một số tập đoàn năng lượng
tái tạo hàng đầu thế giới đã rút khỏi thị trường Việt Nam do gặp phải các thách thức về
quy định và hạ tầng. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút đầu tư và tiến trình
phát triển NLTT của Việt Nam.
Orsted (Đan Mạch): Tập đoàn điện gió hàng đầu thế giới đã quyết định dừng toàn
bộ kế hoạch đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam sau hai năm hợp tác, bởi rào cản
về thủ tục hành chính quá phức tạp.
Equinor (Na Uy): Tập đoàn này đã ngừng hoạt động phát triển kinh doanh tại Việt
Nam và bán toàn bộ cổ phần trong dự án điện gió Đầm Nại, chính thức rời khỏi thị trường Việt Nam.
Enel (Ý): Theo nguồn tin từ Reuters, Enel đang chuẩn bị rút khỏi Việt Nam như
một phần trong kế hoạch tái cấu trúc hoạt động toàn cầu của mình. Trước đó, Enel đã
công bố kế hoạch phát triển tới 6 GW năng lượng tái tạo tại Việt Nam, tập trung vào
tiềm năng điện gió và điện mặt trời của quốc gia này. Cơ hội
Thứ nhất, điều kiện địa lý tự nhiên ở Việt Nam rất lý tưởng cho sự phát triển của
ngành năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió. Việt Nam có số giờ nắng
cao, trung bình từ 1.500 giờ - 1.700 giờ mỗi năm với cường độ bức xạ mặt trời không
thay đổi đáng kể; năng lượng mặt trời trên mái nhà dự báo sẽ chiếm khoảng 50% tổng
công suất nặng lượng mặt trời của Việt Nam (năm 2030); nguồn tài nguyên gió lớn nhất
trong khu vực với tiềm năng 311GW và trên 39% tổng diện tích có tốc độ gió lớn hơn
6m/giây (tương đương công suất 512GW). Bên cạnh đó, với mạng lưới gồm khoảng 3
nghìn sông, ngòi lớn, nhỏ, nước ta là một trong số 14 quốc gia trên thế giới đứng đầu
về tiềm năng thủy điện; sở hữu khoảng 8,6% diện tích đất, nước thích hợp cho phát triển
các trang trại điện gió; có trên 120.000 trạm thủy điện với tổng công suất ước tính đạt
300MW(13). Thêm vào đó, Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong tận dụng nguồn năng lOMoAR cPSD| 58569740
lượng sinh khối từ nhiều nguồn khác nhau, như gỗ củi, phế thải từ nông nghiệp, rác thải đô thị,...;
Thứ hai, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), Việt Nam là quốc gia sử dụng
điện nhiều thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Trong vòng 10 năm tới, tốc độ tăng
trưởng năng lượng tái tạo đạt khoảng 20%, mở ra cơ hội lớn cho các tập đoàn nước thực
hiện đầu tư, kinh doanh. Năm 2021, Việt Nam xếp hạng thứ 31 trong danh sách các quốc
gia có độ thu hút cao về các cơ hội đầu tư và triển khai trong lĩnh vực năng lượng tái
tạo. Tính riêng đối với chuyển dịch 2 ngành điện gió và điện mặt trời, tiềm năng đóng
góp vào GDP cả nước lên tới 70 - 80 tỷ USD, tạo ra khoảng 105 nghìn việc làm trực tiếp(15).
Thứ ba, Đảng và Nhà nước hiện đang tích cực, mở rộng tham gia các khuôn khổ
hợp tác quốc tế về chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính. Nhiều chính
sách hỗ trợ và các giải pháp được triển khai nhằm thu hút đầu tư, khuyến khích các
doanh nghiệp tham gia quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo quốc gia. Các nhiệm vụ
và giải pháp cụ thể triển khai thực hiện nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực năng
lượng tái tạo, bảo đảm thực hiện thành công Chiến lược tăng trưởng xanh cũng như hiện
thực hóa mục tiêu đạt tỷ lệ 67,5% - 71,5% năng lượng tái tạo đến năm 2050 được đề ra
trong Quy hoạch Điện VIII.
Thứ tư, phát triển năng lượng tái tạo đang dần trở thành xu hướng chủ đạo trong
phát triển ngành năng lượng toàn cầu và chiếm vị trí quan trọng trong phát triển bền
vững ở các nền kinh tế trên thế giới; do đó, năng lượng tái tạo sẽ trở thành nguồn sản
xuất điện chính và ước tính, cung cấp khoảng một phần ba lượng điện trên thế giới. Việt
Nam được đánh giá có nhiều tiềm năng để thu hút đầu tư phát triển ngành năng lượng
tái tạo trong tương lai, đồng thời, vị thế địa - kinh tế trong chuỗi cung ứng toàn cầu mở
ra nhiều điều kiện, cơ hội thuận lợi trong tăng trưởng xanh để có thể chuyển mình, bắt
kịp, tiến cùng, vượt lên, đi tắt đón đầu và tạo đà cho một bước nhảy vọt về phát triển
kinh tế - xã hội và môi trường.
CHƯƠNG III: VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUẾT
1. Phát triển thủy điện Chi phí đầu tư ca
Để giảm chi phí đầu tư các dự án thủy điện nhỏ, cần khuyến khích nghiên cứu, phát
triển công nghệ mới để tối ưu hóa quá trình thi công, giảm chi phí vật tư. Hỗ trợ tài
chính từ chính phủ hoặc các tổ chức tài trợ có thể giảm gánh nặng tài chính cho nhà đầu
tư, tăng hiệu quả kinh tế của dự án. lOMoAR cPSD| 58569740
Quản lý, giám sát chưa đồng đều
Cần tăng cường quản lý, giám sát bằng cách thành lập các cơ quan độc lập hoặc
cơ quan chuyên môn có trách nhiệm cao. Triển khai hệ thống thanh tra định kỳ, công
khai thông tin minh bạch có thể tăng tính minh bạch trong quá trình quản lý, giám sát.
Thiếu nghiên cứu, khảo sát về dòng chảy
Củng cố các quy định yêu cầu nghiên cứu, khảo sát trước khi triển khai các dự án thủy
điện nhỏ. Khuyến khích nghiên cứu độc lập, công bố kết quả để nâng cao chất lượng
thông tin. Hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu toàn diện, chất lượng cao, đảm bảo
hoạt động ổn định, hiệu quả kinh tế.
Phục hồi môi trường không đầy đủ sau khi xây dựng
Tăng trách nhiệm về môi trường của chủ dự án thông qua việc thiết lập các cam kết
và quy định rõ ràng về phục hồi môi trường. Thiết lập các quỹ dự phòng để đảm bảo
đủ nguồn tài chính phục hồi môi trường. Quản lý chặt chẽ và định kỳ đánh giá để đảm
bảo tuân thủ và giải quyết kịp thời các vấn đề về môi trường sau khi xây dựng.
2. Phát triển điện gió
Thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hệ thống lưới điện truyền tải
Chính phủ cần đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật liên quan đến
năng lượng gió, bao gồm đường dây truyền tải và trạm biến áp, để tối ưu hóa việc truyền
tải điện từ các trang trại gió đến các điểm tiêu thụ. Chính phủ và doanh nghiệp có thể
hợp tác xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng cùng nhau, giảm chi phí đầu tư và tăng khả
năng triển khai các dự án năng lượng gió.
Chi phí đầu tư ban đầu cao
Chính phủ có thể cung cấp các ưu đãi về thuế và hỗ trợ tài chính cho các dự án năng
lượng gió, giúp giảm gánh nặng về chi phí đầu tư ban đầu. Chính phủ có thể đàm phán
và hợp tác với các đối tác tài chính để đảm bảo các thể chế được duy trì và hỗ trợ, tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình đầu tư và tài trợ.
Thủ tục phê duyệt chậm và phức tạp
Cần đơn giản hóa quy trình phê duyệt bằng cách tạo ra một quy trình thống nhất và
minh bạch, giảm thời gian và chi phí đầu tư. Chính phủ có thể cung cấp tư vấn và hỗ trợ
cho các doanh nghiệp trong quá trình phê duyệt, giúp họ hiểu quy trình và tuân thủ các yêu cầu pháp lý.
Các vấn đề về mất điện
Chính phủ cần đầu tư nâng cấp hệ thống truyền tải điện để giảm tổn thất năng lượng
và tối ưu hóa việc di chuyển điện từ các khu vực sản xuất đến các điểm tiêu thụ. Chính
phủ có thể cung cấp các ưu đãi cho các khu vực sản xuất năng lượng gió, giúp họ giảm
chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất.
3. Phát triển điện mặt trời
Điều kiện và quy định lắp đặt không rõ ràng lOMoAR cPSD| 58569740
Cần thúc đẩy việc xây dựng và công bố các quy định rõ ràng về điều kiện lắp đặt và
tiêu chuẩn pháp lý. Hỗ trợ thành lập các tổ chức độc lập hoặc tăng cường chức năng của
các cơ quan hiện có để tiến hành đánh giá chất lượng mà không làm tăng đáng kể chi phí.
Thiếu sự nhất quán và các quy định toàn diện
Xây dựng hệ thống quy định và thủ tục cấp quốc gia hoặc khu vực để giảm chi phí
và tăng sự thuận tiện cho doanh nghiệp. Cần có các hướng dẫn cụ thể và tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình cấp phép.
Các vấn đề về kiểm tra chấp nhận đối với chủ dự án
Tổ chức các cuộc kiểm tra độc lập định kỳ và tạo cơ chế liên lạc liên tục giữa chủ
dự án và các cơ quan kiểm tra. Thiết lập hệ thống phản hồi nhanh và đường dây nóng
để giải quyết các vấn đề và hỗ trợ doanh nghiệp.
Thiếu tiêu chí lắp đặt
Xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn lắp đặt cụ thể để ngăn chặn tình trạng lắp đặt
tràn lan mà không đảm bảo chất lượng. Tăng cường giám sát và giải quyết kịp thời các
trường hợp không tuân thủ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Phát triển năng lượng tái tạo: “Chìa khóa” giảm phát thải, ứng phó biến đổi
khí hậu.(Phát triển năng lượng tái tạo: “Chìa khóa” giảm phát thải, ứng phó biến
đổi khí hậu - Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới)
2.Năng lượng tái tạo hiện nay và tương lai(Vai trò của năng lượng tái tạo hiện nay và tương lai) 3.Tạp chí cộng sản
4.Năng lượng xanh-Xu hướng thúc đẩy năng lượng tái tạo trên thế giới (Xu
hướng thúc đẩy năng lượng tái tạo trên thế giới)
5.ERV_Xây dựng, thực thi Luật Năng lượng Tái tạo: Kinh nghiệm CHLB
Đức(Xây dựng, thực thi Luật Năng lượng Tái tạo: Kinh nghiệm CHLB Đức)
6.PC1epc_ Tiềm năng và Phát triển(Thực trạng năng lượng tái tạo tại Việt
Nam: Tiềm năng và Phát triển)
7.MOSAT_Phát triển năng lượng tái tạo: Thách thức từ lưới điện(Phát triển
năng lượng tái tạo: Thách thức từ lưới điện) lOMoAR cPSD| 58569740
8.IEA_Dự báo tăng là nhờ năng lượng mặt trời(Báo cáo của IEA: Năng lượng
tái tạo toàn cầu sẽ tăng 1,5 lần vào năm 2023, trong đó 75% mức tăng là nhờ năng lượng mặt trời)