














Preview text:
Lời mở đầu
Nước là thành phần môi trường gắn liền với sự tồn tại, phát triển của con người
cũng như sự sống trên hành tinh. Bề mặt Trái Đất có 70% bao phủ là nước, nhưng
chỉ có 2,5% trong số đó là nước ngọt tinh khiết mà con người có thể sử dụng được.
Tài nguyên nước rất đa dạng và có vai trò vô cùng to lớn đối với đời sống con
người cũng như tính phức tạp của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khai
thác, sử dụng, tác động tới nước. Tuy nhiên, hiện trạng tài nguyên nước đang ngày
một xấu đi, hoạt động của con người đã và đang tác động, gây ảnh hưởng rất xấu
tới tài nguyên nước, dẫn tới cần phải có biện pháp kiểm soát ô nhiễm nước và bảo
vệ nguồn nước. Cũng như nhiều nơi trên Thế giới, Việt Nam cũng đang đối mặt
với tình trạng ô nhiêm, cạn kiệt nước nghiêm trọng, dẫn đến thiếu nước sạch sinh hoạt.
Hoạt động của con người có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng, trữ lượng nước.
Những ảnh hưởng đó có thể là tiêu cực hoặc tích cực. Ở đây em xin phép chỉ đề
cập những ảnh hưởng mang tính tiêu cực đối với nguồn nước. Bài nghiên cứu này
nhằm mục đích cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quát, khoa học về vấn đề cạn
kiệt nước và thiếu nguồn nước sạch, xác định các nguyên nhân từ đó tìm ra các giải
pháp pháp lý có hiệu quả nhất có thể, cùng những ví dụ về những nơi cụ thể được
coi là điểm nóng về thiếu nước hiện nay trên thế giới, để người đọc tham khảo và
cùng suy nghĩ về một vấn nạn mang tính chất toàn cầu.
Do thời gian làm việc, kinh nghiệm và vốn hiểu biết có hạn và còn một số mặt
hạn chế khi em thực hiện bài tiểu luận này, em mong thầy (cô) giáo thông cảm và
chỉ bảo thêm để em có thể rút kinh nghiệm cho những bài tiểu luận sau này. Em xin trân thành cảm ơn!
Nguồn nước ngày càng khan hiếm Nội dung
1. Vai trò của nước.
Nước là nguồn tài nguyên quý giá, nước rất cần thiết cho hoạt động sống của
con người cũng như các sinh vật. Từ xưa, con người đã biết đến vai trò quan trọng
của nước; các nhà khoa học cổ đại đã coi nước là thành phần cơ bản của vật chất
và trong quá trình phát triển của xã hội loài người thì các nền văn minh lớn của
nhân loại đều xuất hiện và phát triển trên lưu vực của các con sông lớn như: nền
văn minh Lưỡng hà ở Tây Á nằm ở lưu vực hai con sông lớn là Tigre và Euphrate
(thuộc Irak hiện nay); nền văn minh Ai Cập ở hạ lưu sông Nil; nền văn minh sông
Hằng ở Ấn Ðộ; nền văn minh Hoàng hà ở Trung Quốc; nền văn minh sông Hồng ở Việt Nam ...
Nước có vai trò đặc biệt quan trọng với cơ thể, con người có thể nhịn ăn được
vài ngày, nhưng không thể nhịn uống nước. Nước chiếm khoảng 70% trọng lượng
cơ thể, 65-75% trọng lượng cơ, 50% trọng lượng mỡ, 50% trọng lượng xương.
Nước tồn tại ở hai dạng: nước trong tế bào và nước ngoài tế bào. Nước ngoài tế
bào có trong huyết tương máu, dịch limpho, nước bọt… Huyết tương chiếm
khoảng 20% lượng dịch ngoài tế bào của cơ thể (3-4 lít). Nước là chất quan trọng
để các phản ứng hóa học và sự trao đổi chất diễn ra không ngừng trong cơ thể.
Nước là một dung môi cần thiết cho sư tăng trưởng và duy trì cơ thể bởi nó liên
quan nhiều quá trình sinh hoạt quan trọng. Một người nặng 60 kg cần cung cấp 2-3
lít nước để đổi mới lượng nước của có thể, và duy trì các hoạt động sống bình
thường: muốn tiêu hóa, hấp thụ sử dụng tốt lương thực, thực phẩm… đều cần có nước.
Nước chứa trong cơ thể sinh vật một hàm lượng rất cao. Nước là dung môi cho
các chất vô cơ, các chất hữu cơ có mang gốc phân cực (ưa nước) như hydroxyl,
amin, các boxyl…Nước trong tế bào là một môi trường để các chất dinh dưỡng
tham gia vào các phản ứng sinh hóa nhằm xây dựng và duy trì tế bào. Nước là
nguyên liệu cho cây trong quá trình quang hợp tạo ra các chất hữu cơ. Nước là môi
trường hòa tan chất vô cơ và phương tiện vận chuyển chất vô cơ và hữu cơ trong
cây, vận chuyển máu và các chất dinh dưỡng ở động vật. Nước bảo đảm cho thực
vật có một hình dạng và cấu trúc nhất định cho thực vật. Nước tham gia vào quá
trình trao đổi năng lượng và điều hòa nhiệt độ cơ thể. Nước có tác dụng bôi trơn,
đặc biệt là nơi tiếp xúc các đầu nối, màng bao,… tạo nên sự linh động tại đầu
xương và sụn… Nước cũng hoạt động như một bộ phận giảm xóc cho mắt, tủy
sống và ngay cả thai nhi trong nước ối…
Nước là môi trường sống của rất nhiều loài sinh vật như các loại cá, tôm, cua,
rong, rêu… Đồng thời nước giữ vai trò tích cực trong việc phát tán nòi giống của các sinh vật.
Trong nông nghiệp: tất cả các cây trồng và vật nuôi đều cần nước để phát triển.
Nước cũng đóng vai trò quyết định trong sự tăng trưởng các sản phẩm cây công
nghiệp, như: chè, cà phê, hồ tiêu, mía đường, cao su… Và tài nguyên nước đóng
vai trò quan trọng trong việc hình thành nền văn minh lúa nước.
Trong sản xuất công nghiệp nước cũng đóng vai trò rất quan trọng. Nước cho
nhu cầu sản xuất công nghiệp rất lớn. Tiêu biểu là các ngành khai khoáng, sản xuất
nguyên liệu công nghiệp như than, thép, giấy…đều cần một trữ lượng nước rất lớn.
Nước dùng để làm nguội các động cơ, là dung môi làm tan các hóa chất màu và
các phản ứng hóa học;.... Mỗi ngành công nghiệp, mỗi loại hình sản xuất và mỗi
công nghệ yêu cầu một lượng nước, loại nước khác nhau. Như vậy nước góp phần
làm động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Nước cho năng lượng nước cũng đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an
ninh năng lượng trong điều kiện nhu cầu về năng lượng không ngừng gia tăng. Tại
Việt Na, tiềm năng thủy điện khá lớn, tập trung chủ yếu trên lưu vực sông Hồng,
sông Đồng Nai và các lưu vực sông ở miền Trung và Tây nguyên. Nước đóng vai
trò quan trọng trong du lịch đường sông, du lịch biển đang ngày càng phát triển.
2. Tình hình sử dụng nước trên thế giới và ở Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của nhân loại, nhu cầu nước càng ngày càng tăng theo đà
phát triển của nền công nghiệp, nông nghiệp và sự nâng cao mức sống của con
người. Theo sự ước tính, bình quân trên toàn thế giới có chừng khoảng 40% lượng
nước cung cấp được sử dụng cho công nghiệp, 50% cho nông nghiệp và 10%cho
sinh hoạt. Tuy nhiên, nhu cầu nước sử dụng lại thay đổi tùy thuộc vào sự phát triển của mỗi quốc gia.
Nhu cầu về nước trong công nghiệp: Sự phát triển càng ngày càng cao của nền
công nghiệp trên toàn thế giới càng làm tăng nhu cầu về nước, đặc biệt đối với một
số ngành sản xuất như chế biến thực phẩm, dầu mỏ, giấy, luyện kim, hóa chất...,
chỉ 5 ngành sản xuất này đã tiêu thụ ngót 90% tổng lượng nước sử dụng cho công nghiệp.
Nhu cầu về nước trong nông nghiệp: Sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp
như sự thâm canh tăng vụ và mở rộng diện tích đất canh tác cũng đòi hỏi một
lượng nước ngày càng cao. Trong tương lai do thâm canh nông nghiệp mà dòng
chảy cả năm của các con sông trên toàn thế giới có thể giảm đi khoảng 700
km3/năm. Phần lớn nhu cầu về nước được thỏa mãn nhờ mưa ở vùng có khí hậu
ẩm, nhưng cũng thường được bổ sung bởi nước sông hoặc nước ngầm bằng biện
pháp thủy lợi nhất là vào mùa khô
Nhu cầu về nước Sinh hoạt và giải trí: Theo sự ước tính thì các cư dân sinh sống
kiểu nguyên thủy chỉ cần 5-10 lít nước/ người/ ngày. Ngày nay, do sự phát triển
của xã hội loài người ngày càng cao nên nhu cầu về nước sinh hoạt và giải trí ngày
cũng càng tăng theo nhất là ở các thị trấn và ở các đô thị lớn, nước sinh hoạt tăng
gấp hàng chục đến hàng trăm lần nhiều hơn.
Ngoài ra, còn rất nhiều nhu cầu khác về nước trong các hoạt động khác của con
người như giao thông vận tải, giải trí ở ngoài trời như đua thuyền, trượt ván, bơi lội
... nhu cầu này cũng ngày càng tăng theo sự phát triển của xã hội.
Riêng Việt Nam, Lượng nước sử dụng hằng năm cho nông nghiệp: Khoảng 93
tỷ m3, cho công nghiệp: Khoảng 17,3 tỷ m3, cho dịch vụ là 2 tỷ m3, cho sinh hoạt là
3,09 tỷ m3. Hiện nay, nước ta với tồng chiều dài các sông và kênh: Khoảng
40000km, đã đưa và khai thác vận tải 1500 km, trong đó quản lý trên 800km. có
những sông suối tự nhiên, thác nước,… được sử dụng làm các điểm tham quan du lịch.
Về nước mặt, nước lợ thì hiện nay mới sử dụng Khoảng 12,5% diện tích mặt
nước lợ, nước mặn và 31% diện tích mặt nước ngọt. Việt Nam có trên 240 nhà
máy cấp nước đô thị với tổng công suất thiết kế là 3,42 triệu mét khối/ ngày. Trong
đó 92 nhà máy sử dụng nguồn nước mặt với tổng công suất Khoảng 1,95 triệu mét
khối/ngày và 148 nhà máy sử dụng nguồn nước dưới đất với tổng công suất
Khoảng 1,47 triệu mét khối/ngày. Nước dùng trong sinh hoạt của dân cư ngày càng
tăng nhanh do tốc độ tăng dân số nhanh và đô thị hóa. Nước cống từ nước thải sinh
hoạt cộng với nước thải của các cơ sở tiểu thủ công nghiệp trong khu dân cư đang
gây ô nhiễm trầm trọng ở các đô thị.
Tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước vẫn tiếp tục gia tăng trong
khi cơ chế kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm hoạt động chưa hiệu quả , các hoạt
động chặt phá rừng, tác động của biến đổi khí hậu đang tác động tiêu cực đến tài
nguyên nước đang ngày càng rõ rệt hơn. Thiên tai bão, lũ, lụt, hạn hán, xâm nhập
mặn, ngập úng, nước biển dâng,… đang ngày càng gia tăng cả về mức độ nghiêm
trọng và phạm vi ảnh hưởng. Chất lượng nước ở vùng hạ lưu của các con sống
chính bị ô nhiễm nặng nề, đặc biệt là các con sông ở trong thành phố. Lụt lội xảy
ra, cuốn theo các chất độc hại, hóa chất dù đã được bảo quản trước đo, cuốn theo
các loại rác thải,… từ đó làm mất sự trong sạch của nguồn nước. Việc nuôi trồng
thủy sản ồ ạt, sử dụng hóa chất quá nhiều, thiếu quy hoạch, không tuân theo các
tiêu chuẩn, yêu cầu về kỹ thuật đã gây tác động tiêu cực, tác động trực tiếp tới môi
trường nước. Trong sản xuất nông nghiệp, sử dụng quá nhiều, quá mức cho phép
các loại thuốc bảo vệ thực vật làm cho nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm…
Môi trường nước ở khu công nghiệp ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí
thải và chất thải trong hoạt động sản xuất. Hàm lượng nước thải của các ngành
công nghiệp dệt may, công nghiệp giấy có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần và
các chất khác vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề.
Mâu thuẫn, tranh chấp trong sử dụng nước tiếp tục gia tăng; nguồn lực đầu tư
cho quản lý, bảo vệ tài nguyên nước không đáp ứng yêu cầu; hệ thống pháp luật về
tài nguyên nước còn thiếu đồng bộ và việc triển khai thực hiện chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
3. Hiện trạng khi thiếu nước-nước sạch. * Thế giới:
Để có được một cái nhìn tổng quan hơn về tình trạng thiếu nước sạch, chúng ta
cùng xem hiện trên thế giới vấn đề này đã nghiêm trọng đến mức nào. Chủ tịch Ủy
ban về Nước của Liên hợp quốc Gilbert F. Houngbo nhận xét về vai trò của nước
sạch đối với đời sống như sau: “Nhiều trong số các vấn đề của chúng ta nảy sinh
bởi vì chúng ta không đánh giá đúng giá trị của nước; thường cho là nước không
có giá trị gì cả” (22-3-2021).
Còn chuyên gia của Dự án Hành Tinh xanh Canada Maude Barlowcho nhận
định: “Không có nước thì không có thực phẩm, không có sức khỏe, không có
trường học, không có bình quyền và không có hòa bình”. Và đúng thực, tình hình
khó khăn hiện tại có thể được hiểu chỉ với vài dòng sau:
Trung bình mỗi ngày trên trái đất có khoảng 2 triệu tấn chất thải sinh hoạt
đổ ra sông hồ và biển cả, 70% lượng chất thải công nghiệp không qua xử
lý bị trực tiếp đổ vào các nguồn nước tại các quốc gia đang phát triển. Đây
là thống kê của Viện Nước quốc tế (SIWI) được công bố tại Tuần lễ Nước
thế giới (World Water Week) khai mạc tại Stockholm, thủ đô Thụy Điển
ngày 5/9. Thực tế trên khiến nguồn nước dùng trong sinh hoạt của con
người bị ô nhiễm nghiêm trọng. Một nửa số bệnh nhân nằm viện ở các
nước đang phát triển là do không được tiếp cận những điều kiện vệ sinh
phù hợp (vì thiếu nước) và các bệnh liên quan đến nước.Thiếu vệ sinh và
thiếu nước sạch là nguyên nhân gây tử vong cho hơn 1,6 triệu trẻ em mỗi
năm.Tổ chức Lương Nông LHQ (FAO) cảnh báo trong 15 năm tới sẽ có
gần 2 tỷ người phải sống tại các khu vực khan hiếm nguồn nước và 2/3 cư
dân trên hành tinh có thể bị thiếu nước
Theo WHO, trung bình cứ 20s đến 1 phút, 1 trẻ sơ sinh tử vong vì các
bệnh truyền nhiễm liên quan đến tình trạng thiếu nước và môi trường sống mất vệ sinh.
Theo ước tính của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) ở Việt Nam
có khoảng 17 triệu (52%) trẻ em chưa được sử dụng nước sạch và khoảng
20 triệu (59%) chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh.
Cứ 10 người trên toàn thế giới thì có bốn người không có đủ nước an toàn
để uống, tương đương 1,6 tỷ người không có nước uống. Hàng năm có
đến 3,6 triệu người chết vì các căn bệnh do nước ô nhiễm gây ra.
Trung bình có 1 trong 5 trẻ em trên toàn thế giới không có đủ nước cho
nhu cầu hằng này. Hơn 80 quốc gia có trẻ em sống trong các khu vực dễ
bị tổn thương về nước ở mức cao. Điều này có nghĩa, các khu vực này phụ
thuộc vào nguồn nước mặt, các nguồn nước chưa được xử lý hay các
nguồn nước phải mất hơn 30 phút để có thể lấy được.
Nhu cầu sử dụng nước sạch trên toàn cầu đã tăng gấp sáu lần trong 100
năm qua và đang tiếp tục tăng với tốc độ khoảng 1%/năm kể từ những năm 1980.
Dự báo của Liên hợp quốc, đến khoảng năm 2030, có khoảng 60 quốc gia
lâm vào tình trạng thiếu nước trầm trọng do nhu cầu về nguồn nước của
con người sẽ vượt ngưỡng cung tới 40%. Bên cạnh đó Hội đồng Năng
lượng Thế giới (WEC) cũng dự báo, đến năm 2030, lượng nước trên toàn
cậu giảm đến 40%. Tuy nhiên với sức ép của gia tăng dân số, ô nhiễm môi
trường, biến đổi khí hậu thì tình trạng thiếu nước sạch ngày càng diễn biến
nghiêm trọng, không chỉ dừng lại ở con số 770 triệu người không được
tiếp cận với nước sạch. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới sinh hoạt, hoạt
động sản xuất, sức khỏe con người và đặc biệt ảnh hưởng tới 98% hoạt
động sản xuất điện năng trên toàn cầu; tác động mạnh mẽ đến nguồn cung
và nhu cầu năng lượng trong nhiều năm tới. Và tới năm 2050, tình
trạng thiếu nước sạch được cho là sẽ đe dọa hơn một nửa dân số toàn cầu
Cứ năm người trên toàn thế giới thì có hai người (tương đương ba tỷ
người), không được rửa tay với nước và xà phòng ở nhà. Bao gồm gần 3/4
số người ở những quốc gia nghèo nhất. Đây là điều vô cùng xấu trong tình
hình đại dịch Covid – 19 như hiện nay.
Khu vực đông và nam châu Phi có tỷ lệ trẻ em sống ở các khu vực như
trên cao nhất, với 58% đang phải đối mặt với việc khó tiếp cận đủ nước mỗi ngày.
Biến đổi khí hậu đang làm thay đổi các hình thái mưa, giảm lượng nước sẵn có
và làm trầm trọng hơn thiệt hại do lũ lụt và hạn hán trên toàn thế giới. Điều này đe
dọa làm giảm các nguồn cung nước cho hàng trăm triệu người trong tương lai.
Qua vài con số trên, hi vọng mỗi người chúng ta có thể nhận thấy nỗi cấp bách
của tình hình toàn cầu. Vì vậy, mục tiêu tiết kiệm nguồn nước, áp dụng các giải
pháp bảo vệ nguồn nước sạch là chìa khóa mà mỗi người cần tuân thủ vì một hành tinh mãi xanh. *Việt Nam:
Với tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra nhanh chóng, Việt
Nam là một trong các quốc gia đang phát triển phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm
nguồn nước. Nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất công nông nghiệp đang
gia tăng mạnh mẽ cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và bùng nổ dân cư.
Theo thống kê của Bộ Y tế và NN&PTNT thì trung bình mỗi năm, Việt Nam có
đến khoảng 9.000 người chết vì nguồn nước không sạch và điều kiện vệ sinh kém;
Trên 100.000 trường hợp mắc ung thư mới, WHO cũng cho biết, tại Việt Nam có
khoảng 44% trẻ nhỏ bị nhiễm giun sán, 27% trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng,
được phát hiện mà một trong những nguyên nhân chính là do sử dụng nguồn nước ô nhiễm.
Tại một số địa phương, tỷ lệ mắc các bệnh liên quan đến ô nhiễm môi trường
nước như tiêu chảy do nước nhiễm bị khuẩn ecoli, viêm da, hoặc các bệnh đau mắt
ngày càng nhiều, và có khả năng lây lan thành dịch bệnh.
Ngoài vấn đề về sức khỏe thì việc kinh doanh, sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi,
thủy sản cũng bị ảnh hưởng nghiệm trọng do nguồn nước ô nhiễm…
Ở các vùng và lưu vực sông lượng nước cần dùng còn cao gấp nhiều lần, nghĩa
là vượt xa lượng nước cần có để duy trì sinh thái mà còn kèm thêm không
có nguồn nước sạch tại chỗ phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất.
Các khu rừng nguyên sinh trên cả nước bị chặt phá nghiêm trọng dẫn đến nguồn
nước bị cạn kiệt, bị ô nhiễm, hạn hán kéo dài. Nguy cơ thiếu nước sạch ở Việt
Nam ngày càng trầm trọng, nhất là vào mùa khô ở những khu vực ít mưa.
Còn tại các đô thị lớn, khu vực có nhà máy sản xuất thì nước thải sinh hoạt và
sản xuất không qua xử lý trực tiếp đổ ra tự nhiên khiến nguồn nước cũng bị ô
nhiễm. Nước nhiễm hóa chất càng làm tình trạng nước bẩn tăng lên, thu hẹp nước
sạch cho con người có thể sử dụng.
4. Nguyên nhân d)n đến thiếu nước.
Sự tăng nhanh của dân số thế giới. Ngày nay, theo đà tăng của dân số và khát
vọng cải thiện cuộc sống của mỗi quốc gia và từng cá nhân, nhu cầu về nước và
lượng tiêu thụ nước trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt trên toàn
cầu tăng lên nhiều lần kể từ đầu Thế kỷ XX. Theo đó, các tác động tiêu cực của
tình trạng gia tăng dân số hiện nay trên thế giới ngày càng nhiều. Đó là sức ép lớn
tới tài nguyên nước do khai thác quá mức phục vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất
lương thực- thực phẩm, sản xuất công nghiệp; tạo ra các nguồn thải tập trung vượt
quá khả năng tự phân hủy của môi trường tự nhiên trong các khu vực đô thị, khu
sản xuất nông nghiệp, công nghiệp…từ đó dẫn đến gây ô nhiễm nguồn nước sạch.
Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp hóa và các
nước đang phát triển gia tăng, dẫn đến sự nghèo đói ở các nước đang phát triển và
sự tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hóa. Sự chênh lệch ngày càng tăng
giữa đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển công nghiệp và các nước kém
phát triển dẫn đến tình trạng di dân dưới mọi hình thức, ảnh hưởng tới sự phân bố các nguồn nước.
Ô nhiễm tài nguyên nước. Cùng với sự gia tăng dân số, phát triển đô thị hóa và
các khu công nghiệp hiện đại, lượng chất thải chưa được xử lý thải ra môi trường
làm ô nhiễm nguồn nước ngầm, các nguồn nước tự nhiên. Việc sử dụng hóa chất
trong ngành nông nghiệp như sử dụng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp, lượng nước
thải ra môi trường của các nhà máy luyện kim, nhiệt điện, hóa chất, thực phẩm,
cùng với lượng nước thải do sinh hoạt… cũng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
nguồn nước, là tác nhân trực tiếp gây ô nhiễm nguồn nước.
Sự phá hoại môi trường sinh thái,… Trong nhiều năm qua, nạn chặt phá rừng
bừa bãi đã gây ra những hiểm họa làm biến dạng hệ sinh thái, tăng nguy cơ khan
hiếm nước, đất bị xói mòn, thoái hóa. Theo các chuyên gia, tốc độ nạn phá rừng
hiện nay sẽ dẫn tới 2 tỷ người, tức 20% dân số thế giới bị thiếu nước vào năm
2050. Hầu hết số người chịu cảnh thiếu nước này sống tại các quốc gia đang phát
triển. Ngoài ra, nguồn thực phẩm cũng có nguy cơ bị đe dọa vì nước dùng để tưới
tiêu cũng trở nên khan hiếm. Bên cạnh đó, sự nóng lên của Trái đất khiến nạn hạn
hán kéo dài, tình trạng mực nước biển dâng lên, đồng nghĩa với việc cạn kiệt
nguồn nước ngọt quý hiếm tại một số nơi, khu vực trên thế giới. Tình trạng khai
thác rừng trái phép, không được kiểm soát làm biến dạng, xói mòn, thoái hóa các
hệ sinh thái tự nhiên, làm tăng nguy cơ khan hiếm nước. Số người chịu ảnh hưởng
này chủ yếu sống tại các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Việc sử dụng và quản lý tài nguyên nước chưa hợp lý. Trong tình trạng nguồn
nước sạch đang ngày càng khan hiếm thì việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn
nước là điều cần thiết. Sự cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước cũng như sự khan hiếm
nguồn nước ngày càng trầm trọng do chưa thực sự có các biện pháp quản lý tốt
nguồn tài nguyên nước. Tài nguyên nước hiện vẫn chưa được công nhận giá trị đầy
đủ và công tác quản lý còn lỏng lẻo. Hầu hết các quốc gia đều chưa có nhiều hệ
thống giám sát thích hợp cho cả khối lượng lẫn chất lượng nước và đặc biệt là việc sử dụng nước lãng phí
Những nguyên nhân trên đã gây ra tình trạng thiếu nước và đặc biệt là nước
sạch, dẫn theo đó là những hệ lụy không nhỏ đối với đời sống của con người về sự
bất ổn chính trị, kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế và đe dọa các thị trường lương
thực, đời sống của người dân. Khả năng sản xuất lương thực và năng lượng của các
khu vực gồm Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi được dự báo sẽ phải đối mặt với
những thách thức lớn liên quan tới nguồn nước ngọt. Vì vậy việc nâng cao ý thức
của con người về giá trị của nước trong cuộc sống là một trong những ưu tiên hàng
đầu vì mục tiêu phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
* Ở Việt Nam, việc cạn kiệt nước và thiếu nguồn nước sạch là do một số
nguyên nhân chung của toàn thế giới, bên cạnh đó còn là vấn đề mà Việt Nam đang gặp phải:
Sự gia tăng dân số, đặc biệt là di dân đến các thành phố lớn. Sức ép từ dân số
lớn lên nguồn nước tại khu vực ngày càng cao do khai thác quá mức phục vụ cho
các nhu cầu nhà ở, sản xuất công nông nghiệp. Đồng thời tạo ra các nguồn thải
khổng lồ vượt quá khả năng tự phân hủy của môi trường tự nhiên dẫn đến tình
trạng thiếu nước sạch ở Việt Nam.
Sự phân bố giữa khu vực thành thị và nông thôn không đồng đều, di dân lên
các đô thị dưới mọi hình thức ảnh hưởng tới sự phân bố các nguồn nước.
Môi trường sinh thái bị phá hoại do chặt phá rừng kéo theo biến đổi khí hậu. Từ
đó làm thiếu nước sạch, đất đai bị xói mòn và thoái hóa. Không những vậy nguồn
lương thực cũng sẽ cạn kiệt nếu thiếu hụt nguồn nước tưới tiêu.
Ô nhiễm nước làm tình trạng thiếu nước sạch ở Việt Nam càng nghiêm trọng hơn
Việt Nam là quốc gia giáp biển nên khi trái đất nóng lên, mực nước biển dâng
cao sẽ dần lấn chiếm đất liền, các nguồn nước ngọt cũng bị thu hẹp lại đồng nghĩa
với việc cạn kiệt nguồn nước con người có thể sử dụng.
Sự ô nhiễm nguồn nước do hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp. Hàm
lượng hóa chất trong thuốc bảo vệ thực vật không chỉ làm thoái hóa đất mà còn
làm nguồn nước nhiễm độc.
Công tác quản lý và bảo vệ môi trường còn lỏng lẻo và chỉ có hình thức, chưa
đủ tính răn đe nên tình trạng phá hoại môi trường vẫn diễn ra và ngày càng gia
tăng, khiến nguồn nước ô nhiễm không được cải thiện.
Chưa có hệ thống giám sát thích hợp cho cả khối lượng lẫn chất lượng nước và
tình trạng sử dụng lãng phí nước.
Những nguyên nhân trên đã gây ra tình trạng cạn kiệt tài nguyên nước, dẫn
đến thiếu hụt nguồn nước sạch ở
Việt Nam. Khả năng sản xuất lương thực và năng
lượng của đất nước cũng đứng trước nguy cơ với những thách thức lớn liên quan đến nguồn nước ngọt.
5. Biện pháp khắc phục.
Để giải quyết thực trạng ô nhiễm nguồn nước, yêu cầu đặt ra là phải có chính
sách, kế hoạch cụ thể, lâu dài và yếu tố quan trọng nhất là có sự chung tay của cả
xã hội. Do đó, trước hết, cần đẩy mạnh tuyên truyền cho người dân về tác động của
ô nhiễm nguồn nước đến môi trường cũng như sức khỏe của mỗi người.
Cần tuyên truyền, thúc đẩy người dân nâng cao ý thức cộng đồng. Đây có thể
coi là yếu tố quyết định tới việc cải thiện và bảo vệ nguồn nước trong tự nhiên. Đa
số người dân đều cho rằng việc thiếu ý thức với môi trường mình làm chỉ là "muối
bỏ biển" và tác động rất nhỏ đến môi trường. Tuy nhiên, có một bài toán mà thực
tế chúng ta đang phải đối mặt, đó là tình trạng rác thải nhựa khổng lồ trên biển là
một minh chứng sống. Mọi quy tụ rác thải đều đổ về biển, đại dương, ảnh hưởng
trực tiếp tới môi trường và các sinh vật biển. Vì vậy, giáo dục ý thức và trách
nhiệm của mỗi người đối với các thế hệ tương lai là vấn đề then chốt và cần thiết.
Làm sao để người dân thay đổi suy nghĩ đó, thay đổi thói quen đó thì mọi vấn đề
liên quan tới môi trường đều có thể được giải quyết. Cần tăng cường tuyên tuyên
truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức người dân trong việc bảo vệ môi trường
nước. Tất cả mọi người cùng chung tay giữ sạch nguồn nước bằng các cách đơn
giản như không xả rác nơi công cộng, không xả chất thải trực tiếp vào nguồn nước
sạch, không sử dụng chất thải tươi làm phân bón. Hạn chế tối đa việc sử dụng các
hóa chất, để bảo vệ nguồn nước sạch.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chế tài xử lý pháp luật về môi trường: Trong
những nguyên nhân gây ra ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước và cách khắc phục đã đề
cập, có rất nhiều yếu tố nhưng mấu chốt vẫn là ý thức cá nhân, tập thể, tổ chức. Do
đó, để khắc phục ý thức của người dân, cần có những biện pháp răn đe kịp thời
mới thực sự hiệu quả. Phương pháp, cách làm phải thực sự nghiêm túc, công bằng
và hiệu quả. Tránh hiện tượng bao che, xúi giục đối với những hành động sai trái.
Chính vì vậy hệ thống pháp luật là yếu tố nòng cốt của mọi vấn đề.
Không sử dụng nước sạch một cách phí lãng phí. Thường xuyên kiểm tra và
bảo dưỡng cải tạo lại những đường ống dẫn nước hay những bể chứa nước, nhằm
chống sự thất thoát của nước. Đối với việc tưới cây, rửa xe, quét sân,… thì nên sử
dụng nguồn nước mưa thì sẽ tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước sạch
Hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải tại khu dân cư và kể cả các khu công nghiệp, nông nghiệp.
+Đối với việc xử lý chất thải của người và động vật, cần phải có những kế hoạch
thu gom với hố ủ vệ sinh hợp lý, tránh trường hợp xả tràn lan ra ngoài gây ô uế và
mất vệ sinh, gây ô nhiễm môi trường
+ Đối với việc xử lý chất thải sinh hoạt: Đối với rác hữu cơ ở mỗi gia đình, khu tập
thể hoặc nơi công cộng cần phải có những phương tiện chứa rác có nắp đậy kín, đủ
sức chứa. Bên cạnh đó cũng cần có những biện pháp xử lý hợp vệ sinh để bảo vệ
nguồn nước sạch, tránh gây ô nhiễm.
+ Đối với việc xử lý nước thải: Phải xây dựng hệ thống xử lý nước thải do sinh
hoạt rồi mới đổ ra hệ thống cống chung để bảo vệ nguồn nước sạch, tránh tình
trạng xả tràn lan gây ô nhiễm. Đối với nước thải công nghiệp và y tế cần phải được
kiểm soát và xử lý theo quy định môi trường nước trước khi xả ra ngoài.
Để làm được điều này cần có sự kết hợp của 3 hệ thống đó là: Nhà nước, doanh
nghiệp và người dân. Nhà nước là người đầu tư, doanh nghiệp là đơn vị thi công và
người dân là người sử dụng
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động xả thải tại các khu công nghiệp
để kịp thời phát hiện và xử lý sai phạm.
Các nhà máy, xí nghiệp cần xây bể xử lý nguồn nước thải thay vì xả trực tiếp ra
môi trường bên ngoài cũng là biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường nước hiệu quả.
Nhà nước cần đẩy mạnh đầu tư xây dựng thêm những hệ thống xử lý nước thải, rác
thải đạt chuẩn. Tích cực đầu tư nghiên cứu để tìm ra các biện pháp khắc phục ô
nhiễm môi trường nước hiệu quả hơn.
Khuyến khích người dân vùng nông thôn áp dụng giải pháp khắc phục ô nhiễm
môi trường nước bằng cách xây dựng hầm cầu tự hoại, hầm biogas cải tiến để xử
lý nước thải, tránh xả trực tiếp phân và nước tiểu trong chăn nuôi ra môi trường.
Cải tiến công tác sản xuất nông nghiệp bằng cách dùng phương pháp tự nhiên để
tạo dinh dưỡng cho đất, kết hợp sử dụng cây trồng kháng sâu bệnh tốt để hạn chế
sử dụng các hóa chất độc hại.
Sử dụng các giải pháp xử lý nước ô nhiễm. Biện pháp khắc phục ô nhiễm môi
trường nước bằng cách có thể sử dụng các nguồn năng lượng sạch để thay thế và
áp dụng trong sản xuất công nghiệp. Ví dụ như năng lượng mặt trời, năng lượng
gió…Đây là một giải pháp an toàn có thể hạn chế được nguồn rác thải và nước thải độc hại. Tổng kết
Từ những năm 1990 trở lại đây, cạn kiệt nguồn nước đã và đang là một trong các
vấn đề toàn cầu mà toàn nhân loại đang phải quan tâm. Vấn đền này nghe qua thì
có vẻ đơn giản nhưng hậu quả mà nó gây ra lại rất nghiêm trọng, bởi nó đe dọa tới
sự sinh tồn và phát triển của mỗi người chúng ta nói riêng và cả nhân loại nói
chung. Do đó, việc khắc phục những hậu quả của nó đang là một mục tiêu trong
việc hoạch định chính sách của các quốc gia hiện nay. Còn bạn thì sao? Bạn có thật
sự muốn cho bản thân và xã hội 1 cuộc sống khỏe mạnh? Vậy hãy hành động để
bảo vệ cuộc sống của chính bạn và những người xung quanh bằng cách sử dụng
hợp lý và tiết kiệm nguồn nước.
Đề tài: Hãy phân tích một vấn đề về tài nguyên mà em quan tâm
Vấn đề thiếu nước, đặc biệt là nguồn nước sạch trên toàn thế giới và Việt Nam hiện nay.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Trường đại học Khoa học Tự Nhiên ---ĐHQGHN--- BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: Hãy phân tích một vấn đề về tài nguyên mà em quan tâm
Vấn đề thiếu nước, đặc biệt là nguồn nước sạch trên toàn thế giới và Việt Nam hiện nay.
Họ tên: Phan Hồng Nhung Mã SV: 20001410
Lớp: k65 công nghệ kỹ thuật môi trường -Hà nội, 12/04/2022-