



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61425750 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 2
NỘI DUNG .......................................................................................................... 5
Chương 1........................................................................................................... 5
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ................................. 5
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC .................................................................... 5
1.1. Tiền đề lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ................. 5
1.2. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân
tộc Việt Nam .................................................................................................. 6
1.3. Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin ............................................ 7
1.4. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thấy bại của các phong
trào cách mạng Việt Nam và thế giới từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX .................................................................................................................. 8
Chương 2........................................................................................................... 9
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ........ 9
2.1. Khái niệm đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh ........... 9
2.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc. ................................................................................................................. 11
2.3. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh ............................. 15
Chương 3SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ TƯ
TƯỞNG ......................................................................................................... 16
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY3.1. Thực
trạng việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng .................. 16
Hồ Chí Minh trong những năm qua ......................................................... 16
3.2. Tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước đại dịch Covid-19 ........ 18
3.3. Một số giải pháp chủ yếu củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết ở
nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh ......................................... 19
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................28 lOMoAR cPSD| 61425750 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao gồm các quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề chung cơ bản có liên quan đến cách mạng Việt Nam, là
kết quả của quá trình vận dụng và sáng tạo dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin
vào cách mạng Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu văn hoá nhân loại.
Tư tưởng của Người bao gồm một số nội dung cơ bản như: giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; quốc phòng toàn
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phát triển kinh tế và văn hóa, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; đại đoàn kết dân tộc;
đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; chăm lo bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, Đảng
viên vừa là nguồi lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân... Trong
những tư tưởng đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là nét nổi bật xuyên suốt trong
cuộc đời hoạt động và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, nó đã trở thành một di sản
quý giá cho dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là sự kế thừa tư tưởng đoàn
kết truyền thống dân tộc, là sự vận dụng tư tưởng đoàn kết của chủ nghĩa Mác-
Lênin vào thực tiễn Việt Nam nhưng đồng thời nó còn thể hiện tính độc lập tự chủ
và sáng tạo của Người. Thực tiễn lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã góp phần không nhỏ vào sự thắng
lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ và trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay. Chính vì vậy tác giả
chọn vấn đề: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng chiến lược đại lOMoAR cPSD| 61425750
đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài tiểu luận kết thúc học
phần môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. 2. Mục đích, nhiệm vụ của tiểu luận * Mục đích:
Phân tích và làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Trên cơ
sở đó rút ra ý nghĩa và đề xuất một số giải pháp vận dụng vào thực tiễn ở nước ta hiện nay. * Nhiệm vụ:
Trình bày khái quát những điều kiện lịch sử, tiền đề hình thành nên tư tưởng
đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh.
Phân tích những quan điểm, sách lược, chiến lược về đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh.
Làm rõ sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Việt Nam về tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc của Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu *
Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. *
Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
vàsự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp phân tích – tổng hợp,
thống kê, so sánh, đối chiếu…
5. Kết cấu bài tiểu luận
Tiểu luận gồm phần mở đầu, 3 chương, kết luận, danh mục và các tài liệu tham khảo.
Chương 1: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Chương 2: Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. lOMoAR cPSD| 61425750
Chương 3: Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc của Hồ Chí Minh trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay. lOMoAR cPSD| 61425750 NỘI DUNG Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1.1. Tiền đề lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời
do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng
Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Cuối thế kỷ XIX nước ta chịu sự thống trị của cả thực dân Pháp và chế độ
phong kiến. Thực dân pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương với
chính sách “chia để trị”, chia đất nước ta thành ba kỳ với chế độ thống trị khác
nhau. Thực dân Pháp sử dụng triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa
chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế đối với nhân dân
Việt Nam. Nhân dân ta mất nước trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vô
cùng khổ cực. Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, tính chất xã hội Việt Nam đã
thay đổi, Việt Nam từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Để chống lại áp bức của Thực dân Pháp, phong trào chống Pháp dưới nhiều
hình thức khác nhau nổ ra ở khắp mọi nơi trên đất nước ta. Từ phong trào Cần
Vương, Đông Du, Duy Tân đến cuộc khởi nghĩa Yên Thế nổ ra nhưng trước sau
đều phải nhận lấy thất bại xót xa. Trong phong trào chống Pháp từ đầu thế kỷ XX
trở về trước, xét trên bình diện hệ tư tưởng có hai hình thức đó là: Hệ tư tưởng
phong kiến và hệ tư tưởng tư sản.
Sự thất bại của các phong trào chống Pháp thời kỳ đầu có nét đặc trưng riêng
là do sự ràng buộc tư tưởng trung quân đã làm vướng víu tầm nhìn của các văn
thân sĩ phu, làm cho họ phân hóa thành hai cực đối lập nhau, không có được sự
thống nhất về ý chí và hành động. Các phong trào chống Pháp ở thời kỳ sau cũng lOMoAR cPSD| 61425750
chịu chung số phận như các phong trào trước đó chính là vì những người dẫn đầu
không thấy được bản chất của chế độ thuộc địa nên không thể chỉ ra một cách
đúng đắn đối tượng cần tập trung lực lượng đánh đổ. Dù vậy, các phong trào chống
Pháp hai thời kỳ có chung một điểm yếu xuyên suốt, đó là sự thiếu một hệ tư
tưởng soi đường và sự tổ chức chặt chẽ. Đòi hỏi đặt ra của thời đại là phải có một
hệ tư tưởng soi đường cho cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Tất
Thành với lòng yêu nước và tư duy độc lập của mình đã xác định muốn cứu nước
giành lại nền độc lập dân tộc, không thể tiếp tục các con đường đấu tranh theo
kiểu cũ, mà phải tìm con đường mới trên cơ sở tập hợp huy động được sức mạnh
của toàn thể dân tộc Việt Nam.
1.2. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam
Đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc ta được kết tinh trong suốt
quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Đoàn kết từ xa xưa cho tới nay luôn
mang theo tư tưởng lấy dân làm gốc, lấy hòa hợp làm sức mạnh để chiến đấu và
chiến thắng địch họa, thiên tai. Đại đoàn kết dung nạp tính phong phú đa dạng của
cơ cấu xã hội và tinh thần yêu nước khoan dung, vị tha, nhân ái, trọng dụng tài
năng, thương người hoạn nạn. Tư tưởng đó trở thành ngọn cờ đại nghĩa, qua nhiều
triều đại nó được kết tinh thành một giá trị, một ưu thế thiêng liêng bất diệt của dân tộc Việt Nam.
Việt Nam tuy là một nước có nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống trên
lãnh thổ, nhưng vô cùng bó với nhau trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Quá trình ấy tạo nên một lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói.
Các tộc người vẫn duy trì và phát triển đặc điểm riêng của mình. Đất nước ta một
dải đất hẹp nằm trọn trong vành đai nhiệt đới gió mùa, quay mặt ra biển Đông,
tựa lưng vào Trường Sơn hùng vĩ. Do điều kiện địa lý, tự nhiên và vị trí quan trọng
của mảnh đất này, những dân cư người Việt từ thời xa xưa vừa được thừa hưởng
sự ưu đãi của đất trời, vừa phải đối mặt với những thử thách khắc nghiệt của thiên
tai, địch họa. Lịch sử dựng nước và giữ nước diễn ra trên mảnh đất này là sự tiếp lOMoAR cPSD| 61425750
nối hàng ngàn năm những cuộc đấu tranh không mệt mỏi chống hạn hán, lũ lụt,
chống chiến tranh xâm lược của các thế lực bên ngoài. Từ trong cuộc đấu tranh
trường kỳ đó đã sớm nảy sinh và định hình ý thức dân tộc. Ý thức này ngấm vào
máu thịt của con người Việt Nam và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,
để tạo thành truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước.
Trong nên văn hóa cổ truyền, người Việt yêu nước rồi yêu nhà sau: thương người
trước rồi thương mình sau. Câu ca dao “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn” và “Nhiều điều phủ lấy giá gương. Người trong một
nước phải thương nhau cùng”, gắn liền với quá trình sản xuất, chiến đấu, sinh tồn
và giao tiếp của nhiều thế hệ người sống trong cùng một địa văn hóa khắc nghiệt,
có lịch sử dựng nước, giữ nước vô cùng hào hung. Sự đoàn kết cộng đồng và các
thành viên trong dân tộc trong làm ăn và bảo vệ nền độc lập dân tộc đã hình thành
một xu thế tất yếu khách quan: “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên
hòn núi cao”. Có thể gọi đó là triết lý nhân sinh của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, một lẽ sống của các cộng đồng.
Cùng với truyền thống dân tộc, truyền thống quê hương đã tạo nên nhân tố
đầu tiên tác động đến quá trình đưa ra tư tưởng chiến lược đại đoàn kết của Nguyễn Ái Quốc.
1.3. Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” Ph. Ăngghen đã cùng với
Mác bàn về vấn đề nhà nước vô sản với các dân tộc; xem xét vấn đề dân tộc dưới
góc độ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản để tiến tới
thực hiện quyền bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc: “Giai cấp vô sản mỗi nước
trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải
tự mình trở thành dân tộc”.
Lê-nin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công
nhân với nông dân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô
sản. Nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội lOMoAR cPSD| 61425750
ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực
hiện được. Khẩu hiệu của C.Mác và Ph. Ăngghen nêu ra: “Vô sản toàn thế giới
liên hiệp lại!” đã được V.I. Lênin phát triển thành: “Vô sản toàn thế giới và các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Cương lĩnh nổi tiếng về vấn đề dân tộc của Lênin
là kim chỉ nam cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới đấu tranh tự giải phóng
mình khỏi áp bức dân tộc.
Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh đánh giá
chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong việc việc tập hợp lực
lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế
giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.4. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thấy bại của các phong
trào cách mạng Việt Nam và thế giới từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn
xuất phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở
nước ngoài của Hồ Chí Minh.
1.4.1. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Từ giữa thế kỷ XIX trở đi, trước nguy cơ nền độc lập dân tộc có khả năng bị
thủ tiêu, nhân dân Việt Nam đã anh dũng kháng chiến mạnh mẽ ngay từ đầu và
quyết tâm chiến đấu dến thắng lợi cuối cùng. Trái lại triều đình nhà Nguyễn, trong
thì sợ nhân dân ngoài thì bạc nhược trước kẻ thù, lúc đầu có chống cự yếu ớt, sau
đã từng bước nhân nhượng, cầu hoà, cuối cùng là cam chịu đầu hàng để giữ lấy
địa vị và lợi ích riêng của hoàng tộc.
Sự thất bại của các phong trào chống Pháp thời kỳ đầu có nét đặc trưng riêng
là do sự ràng buộc tư tưởng trung quân đã làm vướng víu tầm nhìn của các văn
thân sĩ phu, làm cho họ phân hoá thành hai cực đối lập nhau, không có được sự
thống nhất về ý chí và hành động. Các phong trào chống Pháp ở thời kỳ sau cũng
chịu chung số phận như các phong trào trước đó chính là vì những người dẫn đầu
không thấy được bản chất của chế độ thuộc địa nên không thể chỉ ra một cách lOMoAR cPSD| 61425750
đúng đắn đối tượng cần tập trung lực lượng để đánh đổ. Dù vậy, các phong trào
chống Pháp có hai thời kỳ có chung một điểm yếu xuyên suốt, đó là sự tổ chức thiếu chặt chẽ.
1.4.2. Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi hầu hết các châu lục. Cuộc khảo
nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực:
“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ
chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có
sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ
chức và chưa biết tổ chức…”
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Nguyễn Ái Quốc
đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc, giành độc lập cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười theo
cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường Cách mạng
Tháng Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã
mang lại cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động,
tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng, công, nông, binh đông đảo để giành và
giữ chính quyền cách mạng. Chương 2
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái niệm đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo từ điển Tiếng Việt, “Đoàn kết là kết thành một khối, thống nhất ý chí,
không mâu thuẫn chống đối nhau đoàn kết với nhau, đoàn kết dân tộc” và “Đại
đoàn kết là: Đoàn kết rộng rãi, chính sách đoàn kết giữa các dân tộc”. Kế thừa
truyền thống đoàn kết của dân tộc, nhân loại trên nền tảng nhân văn, đoàn kết hoà
bình của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề đoàn kết.
Theo thống kê, Hồ Chí Minh đã sử dụng cụm từ “Đoàn kết”, “Đại đoàn kết” (được lOMoAR cPSD| 61425750
công bố trong Hồ Chí Minh, toàn tập, 12 tập, Nxb chính trị quốc gia ấn hành năm
1995 và 1996) là 1.707 tài liệu trong đó: “Đoàn kết” là 1.654 tài liệu còn “Đại
đoàn kết” là 53 tài liệu. Người đã định nghĩa khái niệm về đại đoàn kết như sau:
“Đại đoàn kết tức là trước hết phải đại đoàn kết đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền
gốc của đại đoàn kết nó cũng như cái nền của nhà gốc của cây, nhưng đã có nền
vững gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh lại tiếp nối luận điểm trên và nêu rõ các nguyên tắc của đại đoàn kết. “Đoàn
kết rộng rãi và lâu dài: Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu
dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”.
Nguyên tắc rộng rãi thể hiện ở chỗ: “Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự
Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. “Bất kỳ ai thật thà tán thành
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống
chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”.
Nguyên tắc lâu dài là “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập
của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”. “Đoàn kết rộng rãi,
chặt chẽ đồng thời phải củng cố nền có vững nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì
cây mới tốt hơn. Trong chính sách đoàn kết cần phải chống lại hai khuynh hướng
sai lầm: Cô lập hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc, phải lấy nguyên tắc mà củng
cố đoàn kết, phải lấy đoàn kết mà đẩy mạnh công tác”. Từ những quan niệm nêu
trên của Hồ Chí Minh và qua nghiên cứu những bài nói, bài viết về đại đoàn kết
của Người, có thể rút ra kết luận về khái niệm đại đoàn kết của Hồ Chí Minh: “Tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm,
nguyên tắc, phương pháp, biện pháp giáo dục, tổ chức hành động của các lực
lượng cách mạng nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc, quốc tế
trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói
một cách khác, đó là chiến lược xây dựng, củng cố, mở rộng, tăng cường lực
lượng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xã hội, con người”. lOMoAR cPSD| 61425750
2.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
2.2.1. Đại đoàn kết là vấn đề chiến lược, quyết định thành công của cách mạng
Chiến lược đại đoàn kết là chiến lược vận động, tập hợp mọi lực lượng nhân
dân, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống
kẻ thù của dân tộc và giai cấp. Vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết
thành chân lí: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn
kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là then chốt của thành công”…
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối
tượng khác nhau. Người cho rằng: Đại đoàn kết là vấn đề sống còn của cách mạng,
và đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Đoàn
kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất quán,
xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đoàn kết quyết định thành công cách
mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh, là then chốt của thành công. Cách mạng
muốn thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân
tộc thành môt kḥ ối thống nhất. Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt
chẽ, quy mô của đoàn kết quyết định quy mô, mức độ của thành công.
2.2.2. Đại đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng mà sức
mạnh của Đảng là sức mạnh của khối đoàn kết giữa các thành viên. Vì vậy, đoàn
kết trong Đảng là hạt nhân để củng cố khối đại đoàn kết trong các tổ chức chính
trị xã hội nói chung. Hồ Chí Minh cho rằng: Vấn đề đoàn kết phải được quán triệt
từ chủ trương, đường lối, chính sách cho đến những hoạt động thực tiễn của Đảng,
luôn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng.
Về mục tiêu của Đảng, tại Đại hội lần thứ hai năm 1951, Người chỉ ra: “Mục
đích của Đảng Lao đông Việ t Nam c ̣ ó thể gồm tám chữ là: Đoàn kết toàn dân,
phụng sự Tổ quốc”. Từ đó, Đảng có sứ mênh tḥ ức tỉnh, tâp ḥ ợp, hướng dẫn, lOMoAR cPSD| 61425750
chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự
giác, thành hiên tḥ ực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch trong cuôc đ ̣ ấu tranh
vì đôc lậ p cho dân tộ c, ṭ ự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
2.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là để thực hiện khối đoàn kết toàn dân
“Dân” vừa được hiểu là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là
mỗi con người Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ mọi con dân nước Việt, con Rồng,
cháu Tiên, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện, tín ngưỡng…
Như vậy, “dân” được hiểu là chủ thể, là đối tượng, là lực lượng của đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, với ý
nghĩa là không chỉ huy động lực lượng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong
toàn lãnh thổ Việt Nam mà còn huy động tập hợp lực lượng những người Việt
Nam đang sinh sống và định cư ở nước ngoài vào khối đại đoàn kết dân tộc.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước,
nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc; phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con
người; phải có niềm tin vào nhân dân. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh
công nông, trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân.
Người cho rằng: liên minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại
đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc
càng được mở rộng, không thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
2.2.4. Đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh vật chất, có tổ chức dưới
sự lãnh đạo của Đảng
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì quần chúng nhân dân phải được tổ
chức mới tạo thành sức mạnh vật chất. Quy tụ quần chúng nhân dân vào một tổ
chức yêu nước phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng là sự
quan tâm ngay từ đầu của Hồ Chí Minh và là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta. lOMoAR cPSD| 61425750
Tổ chức thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết là Mặt trận Dân tộc thống
nhất. Đó là một tổ chức chính trị rộng rãi tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp,
dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài
ngước, phấn đấu vì mục tiêu độc lập, thống nhất của tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Mặt trận Dân tộc thống nhất được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc:
Thứ nhất, phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ đó, Mặt trận được mở rộng và thực sự quy tụ cả
dân tộc, tập hợp toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
Thứ hai, phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân. Mục đích chung của Mặt
trận được Hồ Chí Minh xác định cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng,
nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Theo
Người, đại đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu
nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu. Người cho rằng, nếu
nước được độc lập mà dân không được hưởng ấm no, hạnh phúc thì độc lập cũng
chẳng có ý nghĩa gì. Vì vậy, đoàn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích
căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn đấu, đây là nguyên tắc bất di
bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp,
đảng phái, dân tộc và tôn giáo trong mặt trận.
Thứ ba, hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất
lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng
cố và không ngừng mở rộng. Lợi ích tối cao của dân tộc là Tổ quốc độc lập và
thống nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, phải làm cho
mọi người đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và trước hết.
Về vị trí của Đảng Cộng sản trong Mặt trận dân tộc thống nhất: vừa là thành
viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, lại vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. lOMoAR cPSD| 61425750
Đảng vừa là Đảng của giai cấp công nhân, lại vừa là Đảng của nhân dân lao
đông ṿ à của cả dân tôc. Đ̣ ại bô phậ n nhân dân Việ t Nam coi Đ̣ ảng công ṣ ản là
“Đảng của mình”. Muốn quy tụ được cả dân tôc, Đ̣ ảng phải vừa là đạo đức, vừa
là văn minh, Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và
thời đại, phải thực sự đoàn kết nhất trí.
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là bô phậ ṇ
tham mưu của giai cấp công nhân và của cả dân tôc, Đ̣ ảng lãnh đạo xây dựng Măt
trậ n dân tộ c tḥ ống nhất, đồng thời cũng là môt tḥ ành viên của măt trậ n.̣ Quyền
lãnh đạo măt trậ n không pḥ ải Đảng tự phong cho mình mà là được nhân dân thừa nhân.̣
Muốn lãnh đạo Măt trận, ḷ ãnh đạo xây dựng khối đoàn kết toàn dân, Đảng
phải thực sự đoàn kết nhất trí. Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở vững chắc để xây
dựng đoàn kết toàn dân. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự đoàn kết
của dân tôc c ̣ àng được tăng cường. Phải đoàn kết chăt cḥ ẽ giữa đồng bào lương
và đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống xã hôi ḥ òa thuân ̣ ấm no, xây dựng Tổ quốc.
2.2.5. Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế
Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới và chỉ có thể giành được thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ
với phong trào cách mạng thế giới. Cách mạng Viêt Nam pḥ ải gắn với phong trào
giải phóng dân tôc trên tḥ ế giới, các nước xã hôi cḥ ủ nghĩa, với tất cả các lực
lượng tiến bô đ ̣ ấu tranh cho dân chủ, tiến bô ṿ à hoà bình thế giới. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xây dựng thành công 3 tầng Mặt trận: Mặt trận Đại đoàn kết dân tộc;
Mặt trận Đoàn kết Việt – Miên – Lào và Mặt trận Nhân dân thế giới đoàn kết với
Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Đây là sự phát triển rực rỡ, là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết. lOMoAR cPSD| 61425750
2.3. Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh
Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc
đối với cách mạng nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị biểu hiện tập trung ở những điểm sau:
• Đoàn kết là bài học hàng đầu có tính chiến lược, quyết định mọi thành
công. Biết đoàn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ thì thất bại.
• Đoàn kết phải có nguyên tắc. vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn
kết một chiều, đoàn kết hình thức, nhất thời.
• Đoàn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn
kết cá nhân và đoàn kết tổ chức không tách rời nhau.
• Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ
chức, từng thời kỳ. Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.
• Đoàn kết đi liền bao dung, thực hiện nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
• Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện
pháp phát huy sức mạnh của Đảng, của toàn dân tộc.
• Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải xây dựng khối đại đoàn kết trong Đảng.
• Thực hiện đồng bộ đoàn kết Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế.
• Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
trên cơ sở bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng
quốc gia, dân tộc, thế giới. lOMoAR cPSD| 61425750
Chương 3. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ TƯ TƯỞNG
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 3.1.
Thực trạng việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng
Hồ Chí Minh trong những năm qua
3.1.1. Mặt tích cực
Qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, với nhiều chủ trương lớn của đảng,
chính sách của nhà nước hợp lòng dân, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở
rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững
ổn định chính trị của đất nước. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đánh giá:
“Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh
mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được
nâng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả vể vật chất và tinh thần. Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay. Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện
Cương lĩnh năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức
tạp, Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn
cò quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có chuyển biến tích cực; khối đại đoàn
kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân không ngừng
được củng cố, tăng cường”…
3.1.2. Khó khăn lOMoAR cPSD| 61425750
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng khối đại đoàn kết còn
những hạn chế nhất định. Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XIII của Đảng đánh
giá: “Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; tập hợp, phát triển đoàn
viên, hội viên; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu
của tình hình mới. Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội và nhân dân ở một số nơi chưa thường xuyên, hiệu quả còn
thấp, nhất là giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lốì sống của cán bộ, đảng viên”.
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay
những khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Ví như nạn tham
nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện
có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, gây bất bình
và làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm
mọi cách thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", chống phá sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Mặt khác, các thế lực thù
địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là
“dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng ly gián, chia rẽ
nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước
vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" đang đòi
hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân
tộc ở chiều sâu. Đặc biệt, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn,
là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hiện nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa đảng, nhà nước
và nhân dân đang đứng trước những thách thức mới như: lOMoAR cPSD| 61425750
• Lòng tin vào Đảng, nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân
chưa vững chắc, tâm trạng của nhân dân có những diễn biến phức tạp,
lo lắng về sự phân hoá giàu nghèo, về việc làm và đời sống.
• Nhân dân bất bình trước những bất công xã hội, trước tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí...
• Đảng ta chưa kịp thời phân tích và dự báo đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu giai cấp.
• Xã hội trong quá trình đổi mới đất nước và những mâu thuẫn nảy sinh
trong nội bộ nhân dân để kịp thời có chủ trương, chính sách phù hợp.
• Có tổ chức đảng, chính quyền còn coi thường dân, coi nhẹ công tác dân vận - mặt trận.
• Ở không ít nơi còn tư tưởng định kiến, hẹp hòi làm cản trở cho việc
thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng; một bộ phận
không nhỏ cán bộ, Đảng viên thoái hoá, biến chất... không thực hiện
được vai trò tiên phong gương mẫu.
• Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của
nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích
động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ đảng, nhà nước và nhân dân ta.
3.2. Tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước đại dịch Covid-19
Năm 2020 vừa qua, Việt Nam và thế giới đã phải trải qua những ngày tháng
khó khăn khi phải đối mặt với đại dịch Covid-19. Khi nhiều nước lựa chọn kinh
tế, thay vì an nguy của người dân mà không có những biện pháp kiên quyết chống
lại đại dịch thì chúng ta cảm thấy thật tự hào khi Việt Nam là một đất nước sẵn
sàng đặt sự an toàn của nhân dân lên trên lợi ích kinh tế. Nhưng điều khiến chúng
ta cảm thấy trân trọng và ngưỡng mộ nhất, đó là bài học về tinh thần đoàn kết của
người dân Việt Nam. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, với tinh thần chống dịch
như chống giặc, đã có những nỗ lực to lớn và đạt được kết quả bước đầu trong
kiểm soát, đẩy lùi dịch bệnh. Để kết nối sự chung tay, huy động sự vào cuộc của lOMoAR cPSD| 61425750
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia phòng, chống đại dịch COVID
-19, Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra Lời kêu
gọi “Toàn dân ủng hộ phòng, chống dịch COVID -19”. Những tấm gương của đội
ngũ y, bác sĩ, chiến sĩ quân đội, công an cùng với sự góp sức của mỗi người dân
trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 chính là biểu hiện sinh động của
truyền thống yêu nước, sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc với vai trò nòng cốt
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ngay từ khi nước ta có ca nhiễm đầu tiên cho đến thời điểm số người nhiễm
bệnh lên tới hàng chục, hàng trăm người. Từ các cấp chính quyền đến người dân
đều thể hiện được tinh thần đoàn kết một lòng. Những quy định nghiêm ngặt của
Nhà nước về việc phòng chống dịch bệnh lập tức được ban hành. Những người
dân từ người già đến trẻ nhỏ đều nghiêm chỉnh chấp hành thông điệp 5K của Bộ
y tế, với việ thực hiện các quy định như: đeo khẩu trang khi đi đến nơi công cộng,
thường xuyên rửa tay bằng nước sát khuẩn, hạn chế đi ra nơi đông người… Những
cây ATM gạo, ATM khẩu trang hay địa điểm phát thực phẩm miễn phí... được tạo
ra không chỉ chứng tỏ tấm lòng tương thân tương ái mà còn là sự đoàn kết của
toàn dân quyết đẩy lùi đại dịch… Đại dịch đã giúp chúng ta cũng nhận ra được
những tình cảm thật tốt đẹp. “Không ai bị bỏ lại phía sau” - đó là câu khẩu hiệu
mà mọi người dân Việt Nam đều biết đến.
3.3. Một số giải pháp chủ yếu củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết
ở nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
3.3.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, người đứng
đầu và của cả hệ thống chính trị trong lãnh đạo, củng cố, phát triển khối đại
đoàn kết toàn dân tộc hiện nay
Các cấp ủy đảng và người đứng đầu tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, giám sát,
đôn đốc việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và
các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
về công tác dân vận, công tác mặt trận và các đoàn thể. Đưa nội dung lãnh đạo
các công tác này thành một trong những tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thành lOMoAR cPSD| 61425750
nhiệm vụ của tổ chức đảng các cấp. Thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp
với nhân dân, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân. Thực hiện triệt để quy
định của Ban Bí thư, Bộ Chính trị về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên. Cán bộ, đảng viên phải xung phong, gương mẫu học tập, làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về đoàn kết và xây dựng Đảng, hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh để nhân dân học và làm theo.
3.3.2. Làm tốt hơn nữa vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các quy định của Bộ Chính trị
Tăng cường giám sát để tạo sự đồng thuận, nhất trí cao, ổn định xã hội, phát
triển toàn diện và bền vững đất nước. Mặt trận Tổ quốc phải tiếp tục làm tốt vai
trò chủ trì hiệp thương, phối hợp giữa các tổ chức thành viên trong việc thực hiện
giám sát và phản biện xã hội; phát huy tối đa trí tuệ của các nhà khoa học, những
chuyên gia giàu kinh nghiệm, đóng góp ý kiến cho các chủ trương, chính sách của
Đảng và của cấp uỷ, chính quyền các địa phương, nhất là những vấn đề quốc kế
dân sinh, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của quần chúng nhân dân.
Phải làm tốt hơn vai trò tập hợp, lắng nghe ý kiến nhân dân để phản ánh với
các cơ quan đảng và nhà nước ở Trung ương cũng như các địa phương. Chủ động
phối hợp với chính quyền giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc
ngay tại cơ sở, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Luôn
đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và
yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân và tôn trọng dân; đồng thời, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần
chúng. Nhà nước cần tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động của Mặt trận; phối hợp
chặt chẽ, nhịp nhàng hơn nữa với Mặt trận. Làm được như vậy sẽ có lợi cho cả
Nhà nước và Mặt trận trong việc phục vụ lợi ích của toàn dân. Mặt trận cần thực
sự tham gia vào quá trình hoạch định và thực hiện chính sách, pháp luật chứ không