Tiểu luận xây dựng nhà nước pháp quyền - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng
Mọi lý luận và lịch sử về nhà nước và pháp luật đều cho chúng ta thấy rằng , nhànước pháp quyền là một trong những giá trị chung của nhân loại, đề cao phápluật, ở đó thể hiện mong muốn, nguyện vọng của nhân dân về một xã hội dânchủ và bình đẳng, văn minh. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (PL101)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ BÀI: KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XHCN VIỆT NAM HIỆN NAY. A. Mở đầu 1. Lý do nghiên cứu
Mọi lý luận và lịch sử về nhà nước và pháp luật đều cho chúng ta thấy rằng , nhà
nước pháp quyền là một trong những giá trị chung của nhân loại, đề cao pháp
luật, ở đó thể hiện mong muốn, nguyện vọng của nhân dân về một xã hội dân
chủ và bình đẳng, văn minh. Tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta luôn coi việc xây dựng, tăng cường, kiện toàn Nhà nước là một nhiệm vụ cốt
tử hàng đầu, làm cho nhà nước ta thực sự là trụ cột của hệ thống chính trị, đề cao
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều đó được thể hiện rõ
nét trong các văn kiện Hội nghị thành lập Đảng. Trong điều 2 Hiến pháp năm
2013 khẳng định rõ vấn đề này rằng “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân” [6, tr.1]. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là văn bản pháp luật quan trọng
nhất để xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, đồng thời cũng thể chế hóa đường lối của Đảng đề ra trong “cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “chiến
lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội”. Xây dựng nhà nước pháp quyền không
chỉ đòi hỏi phải tạo ra một hệ thống phục vụ cho công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước, mà còn phải tạo ra một cơ cấu tổ chức pháp lý tương ứng, cũng như
một cơ chế nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật để bảo đảm việc thực hiện pháp
luật , thực hiện đầy đủ quyền và lợi ích của công dân, tổ chức và xã hội; bảo
đảm thể chế nhà nước trở về với xã hội dân sự, chấm dứt tình trạng Nhà nước
đứng trên xã hội. Sự ra đời của mô hình nhà nước này từ nhận thức lý luận đến
thực tiễn đã có những tác động tích cực, ảnh hưởng to lớn tới đời sống người dân.
Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã
trở thành nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết trong công cuộc đổi mới toàn diện 1
đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn không ít hạn
chế, bất cập, như còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa cần tiếp tục được nghiên cứu, làm rõ. Chính vì sự cần thiết và
tính thời sự của vấn đề này, em đã mạnh dạn chọn đề tài : “Kết quả và hạn chế
trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN VN hiện nay” để làm bài kết thúc học phần môn NN PL
2. mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của bài tiểu luận là nhằm góp phần vào quá trình nghiên cứu và
làm sáng tỏ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ờ Việt Nam hiện nay
cũng như những tựu và hạn chế trong công cuộc xây dựng nhà nước ngày
một hoàn thiện và phát triển giàu mạnh
- Nhiệm vụ của bài tiểu luận là :
Khái quát chung các khái niệm, đ|c trưng, chức năng vai trò về nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuyên suốt thời kỳ lịch sử cho đến nay.
Tìm hiểu, nghiên cứu, nhận định và đánh giá những quan điểm chủ
đạo của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phân tích, tìm hiểu kết quả và những điểm còn hạn chế trong quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở VN
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với
phạm vi nghiên cứu là nhà nước Việt Nam giai đoạn hiện nay.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về “KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ TRONG XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM HIỆN NAY” đã giúp em có nhận
thức rõ hơn về đường lối lãnh đạo của nhà nước ta từ khi giành lại được chính
quyền đến nay, đồng thời nắm bắt được những đ|c điểm, hình thái kinh tế, chính
trị và một số điểm hạn chế trong xây dựng nhà nước pháp quyền của nước ta 2
trong giai đoạn hiện nay. Từ đó tích cực tham gia tốt công tác xây dựng đảng, có
trách nghiệm và ý thức chung tay góp phần vì một nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ngày một giàu mạnh phát triển. Bên cạnh đó luôn biết ơn
quá trình đấu tranh xây dựng Đảng của nhà nước, khát vọng về một xã hội dân chủ và bình đẳng.
Qua bài tiểu luận này, em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, cụ thể của giáo
viên bộ môn đã giúp em hoàn thiện kiến thức để phân tích đề tài này. Có thể bài
tiểu luận này còn có thiếu sót nhưng em mong rằng sẽ nhận được sự góp ý từ
giảng viên bộ môn để bài làm được hoàn thiện hơn. 3 B. Nội dung
CHƯƠNG 1: NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Khái niệm nhà nước pháp quyền
Những khái niệm đầu tiên về nhà nước pháp quyền xuất hiện ngay từ thời kỳ
đầu tiên của nền văn minh nhân loại. Từ thời xa xưa cổ đại, con người đã tìm
thấy những hình thức xã hội công bằng, tốt đẹp. Cùng với sự phát triển của lịch
sử nhân loại, các nhà tư tưởng đã vận dụng những tư tưởng ban đầu này để phát
triển và hình thành nên tư tưởng, quan niệm về hình thức tổ chức quyền lực xã
hội mà trong đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối với mọi người, là
quyền lực của nhà nước, là quyền lực xã hội được xã hội thừa nhận trở thành quyền lực nhà nước.
Chung quy, nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị – pháp lý phức tạp,
có thể được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Hay nói một cách dễ
hiểu, nhà nước pháp quyền là một nhà nước quản lý kinh tế – xã hội bằng pháp
luật và nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật.
Nhà nước pháp quyền là vị thế pháp lý hay một hệ thống thể chế, ở nơi đó mọi
người từ cá nhân đến các cơ quan công quyền đều phải phục tùng và tôn trọng luật pháp
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hình thức tổ chức và vận hành của
quyền lực chính trị công khai và các mối quan hệ qua lại của nó với các cá nhân
trong xã hội với tư cách là chủ thể pháp luật, những người đem lại, bảo vệ quyền
tự do của con người và công dân.
2. Những đ|c trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Những đ|c trưng cơ bản này của nhà nước tiếp tục được khẳng định trong các
Cương lĩnh, các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới, được thể chế hoá rõ
trong Hiến pháp 2013. Những đ|c trưng cơ bản này được trình bày dưới các
dạng thức khác nhau bởi các nhà lý luận, phụ thuộc vào lập trường chính trị - 4
pháp lý và quan điểm học thuật của từng người. Cách trình bày có thể khác
nhau, về bản chất có thể quy về các giá trị có tính tổng quát sau:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
Thứ hai, Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất trên cơ
sở có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp
Thứ ba, trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Hiến pháp và luật có vị
trí tối thượng trong đời sống xã hội; tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực
hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
Thứ tư, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân là mối quan hệ qua lại, thể hiện
trách nhiệm, vai trò của các bên
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam bảo đảm thực hiện nghiêm
chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế
Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
3. Chức năng vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là những hoạt động chủ
yếu phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ và chức năng của nó. Tình hình
chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế trong mỗi giai đoạn phát triển của
đất nước quyết định và định hướng bởi thực tế khách quan của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
3.1. Chức năng bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước
Đây là một trong những chức năng chủ yếu của nhà nước, bởi vì tất cả những
chức năng đối nội của nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được thực hiện khi
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được bảo vệ vững chắc. Chức năng này thể hiện ở
việc bảo vệ chủ quyền đất nước; bảo vệ chế độ chính trị mà Hiến pháp đã xác
lập; thực hiện ý chí của nhân dân trong các đạo luật và các quyết định của nhà 5
nước; đại diện chính thức cho đất nước trên trường quốc tế. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định rõ quan điểm bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa có nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới
và lợi ích quốc gia, dân tộc.
3.2. Chức năng tổ chức quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nếu chia đời sống xã hội thành hai lĩnh vực lớn là chính trị và kinh tế - xã hội
thì có thể thấy rằng chức năng tổ chức quản lý kinh tế của nhà nước nói chung là
một hoạt động của nhà nước, hoạt động này thể hiện rõ vai trò của nhà nước đối
với sự phát triển của nền kinh tế. Nhà nước ban hành và thực thi chính sách kinh
tế vĩ mô; xây dựng kế hoạch để phát triển kinh tế quốc dân, xác định các trương
trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,đề ra các biện pháp cụ thể đạt tới mục
tiêu đó trong từng thời kỳ nhất định; sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ, tín
dụng phát huy vai trò tạo ra các yếu tố kích thích hay hạn chế sự phát triển của
các quan hệ kinh tế theo hướng nhất định. Nhà nước quản lý kinh tế vĩ mô bằng
pháp luật, giữ vai trò quan trọng nhất trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế vĩ
mô của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. 3.3. Chức năng xã hội
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX đã khẳng định: "tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá,
từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội" [1, tr.89] Văn kiện Đại hội X nêu rõ "chúng ta nhận
thức ngày càng sâu sắc rằng, xã hội, văn hóa là những lĩnh vực thể hiện rõ nhất
chức năng của nhà nước nói chung và chức năng xã hội của nhà nước nói riêng
luôn gắn liền với các phạm trù như "bản chất nhà nước" và "vai trò của nhà nước" [2, tr.32]. 6
3.4. chức năng bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là chức
năng hết sức quan trọng và là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ dân
chủ. Trong sự nghiệp đổi mới, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm tốt trật
tự, an toàn xã hội nhằm duy trì ổn định và trật tự, tạo điều kiện quan trọng để
thực hiện đầy đủ quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp đã ghi nhận.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có đủ sức mạnh và kịp thời dập tan mọi âm
mưu và hành động của các thế lực thù địch chống đối cách mạng, đồng thời đấu
tranh chống, phòng ngừa có hiệu quả tội phạm và các vi phạm pháp luật khác,
làm cho xã hội luôn luôn ổn định, trật tự pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa
được giữ gìn, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và trên toàn thế giới. Vì vậy, ở
nước ta hiện nay, tăng cường bảo vệ trật tự, an toàn xã hội là yêu cầu khách
quan, cấp bách chẳng những bảo vệ chính quyền, bảo vệ cách mạng mà còn tạo
điều kiện trong công cuộc đổi mới và phát triển nhà nước.
3.5. Chức năng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, hợp tác và hữu nghị với các dân tộc vì hòa bình, ổn định và phát triển
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành tất yếu và xu thế phát
triển của quan hệ ngoại giao quốc tế hiện đại. Xu hướng đó tác động mạnh mẽ
đến mọi m|t của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia, làm thay đổi sâu sắc nhận
thức và hành động của mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế.. Việc chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, hợp tác và hữu nghị với các dân tộc theo tinh thần Việt
Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc
tế vì hòa bình, độc lập và phát triển là một trong những nguyên tắc rất quan
trọng trong quan hệ đối ngoại của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Củng cố duy trì tình hữu nghị với các nước láng giềng cũng như có cơ hội
giao thương hợp tác phát triển là mục tiêu mở rộng quan hệ ngoại giao của nhà nước [9, tr.179-210]. 7 8
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Những kết quả đã đạt được trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Trong những năm đổi mới gần đây đã có những tiến bộ đáng kể trong chất lượng
về nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật. Nhìn chung, các văn bản quy
phạm pháp luật ở nước ta đều đang dần dần tiếp cận gần hơn với những tiêu chí
của một văn bản quy phạm pháp luật tốt - văn bản “chứa đựng đúng đắn, khách
quan các giá trị chính trị – kinh tế – xã hội ở trong nước, đồng thời chứa đựng
các giá trị nhân loại được thừa nhận chung” [5, tr.5]
Những thành tựu đã đạt được trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
đã tạo dựng được tương cơ chế pháp lý cơ bản nhằm bảo đảm thực thi một cách
nhất quáng dựa theo nguyên tắt là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Việc bổ sung thêm nội dung “kiểm soát quyền lực nhà nước” đã trở thành là một
bước đột phá trong bảo đảm cho tất cả quyền lực của nhà nước đều thuộc về
nhân dân, nhằm hạn chế lộng quyền, lạm quyền.
Dân chủ được đẩy mạnh, phát huy các quyền của nhân dân, nhất là quyền dân
chủ trực tiếp, được từng bước cụ thể hóa trong các luật.
Dân chủ trong kinh tế được phát huy mạnh mẽ, thể hiện ở trong việc cắt giảm
điều kiện đầu tư và kinh doanh bất hợp lý, bảo đảm cho người dân được tự do
hoạt động để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước..
M|t trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của M|t trận giữ vai trò
trung tâm phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Nhà nước đã kiểm soát có hiệu quả các biểu hiện tham nhũng, tha hóa quyền lực
thông qua nhiều cải cách, đổi mới. 9
Quyền lực nhà nước đã phân công một cách khá hợp lý, được giới hạn ch|t chẽ
hơn bằng Hiến pháp và pháp luật. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước đã được xác định rõ hơn nhiều so với trước đây.
Nhân dân đã trở thành chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và được nhận
diện rõ ràng hơn trách nhiệm trong từng cơ quan nhà nước.
Vị trí tối cao của Hiến pháp và pháp luật đã được khẳng định một cách rõ ràng.
Cơ chế bảo vệ Hiến pháp được quy định rõ ràng trong các văn bản quy phạm
pháp luật. Yêu cầu đối với việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật đã trở thành một
trong những nguyên tắc quan trọng nhất trong việc thực thi công vụ.
Bộ máy nhà nước được đổi mới theo hướng ngày càng tinh gọn, hiệu quả. Năng
lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được nâng cao một cách rõ rệt.
Việc kiểm soát quyền lực trong thực thi công vụ được tăng cường theo hướng
quyền lực và chức vụ càng lớn thì càng kiểm soát ch|t chẽ
Hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện theo hướng tiếp cận đầy đủ
hơn với các yêu cầu của nguyên tắc pháp quyền.
Công cuộc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và quyền
công dân đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Pháp luật về quyền con người và quyền công dân đã được quan tâm và hoàn
thiện hơn ở trên tất cả các lĩnh vực như dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
2. Những hạn chế trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
Hiến pháp 2013 vẫn còn chưa quy định ra việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp là
bắt buộc. Đồng thời cũng chưa quy định điều kiện, thủ tục trưng cầu ý dân về Hiến pháp. 10
Cơ chế đề kiểm soát và bảo đảm nhằm tuân thủ Hiến pháp vẫn còn chưa hoàn
thiện. Thiếu cơ sở pháp lý để xác định hành vi vi hiến, còn chưa quy định rõ
ràng cơ chế để công dân thực hiện trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Và hiện tại
vẫn chưa có phương thức hữu hiệu để giám sát các hoạt động lập pháp của Quốc
hội nhằm bảo đảm hoạt động này luôn phù hợp với Hiến pháp.
Bộ máy nhà nước ta vẫn còn cồng kềnh và chưa được phân công một cách thật
rành mạch, cũng như phân quyền còn chưa đủ mạnh, kiểm soát còn chưa ch|t chẽ.
Việc tuyển dụng, sử dụng, đánh giá công chức còn chưa theo nguyên tắc chức
nghiệp thực tài, chưa dựa trên năng lực của cán bộ.
Trách nhiệm giải trình của Nhà nước nói chung và của cán bộ, công chức nhà
nước nói riêng trước dân chưa cao. Trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm của
cá nhân thì vẫn chưa được phân biệt rõ ràng.
Chất lượng của pháp luật thì vẫn chưa cao, ở trên một số lĩnh vực vẫn còn thiếu
tính ổn định, tính dự báo chưa cao, sửa đổi nhiều đã gây khó khăn nhất định cho quá trình thực hiện.
Thực thi pháp luật chính là khâu có nhiều yếu kém, gây bức xúc nhiều nhất cho xã hội.
Nhận thức của một số cán bộ, công chức về trách nhiệm trong việc bảo vệ và
bảo đảm quyền con người, quyền công dân còn chưa đáp ứng được yêu cầu được đề ra
Nhìn chung hệ thống pháp luật còn chưa theo kịp và chưa đáp ứng đầy đủ cho
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; hệ thống các cơ quan thi hành
và bảo vệ pháp luật, đ|c biệt là các cơ quan tư pháp chưa đủ mạnh; ý thức sống
và làm việc theo pháp luật của cán bộ và nhân dân còn nhiều hạn chế. 11
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật
của Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Còn nhiều
hạn chế về tính khách quan, tính khả thi, tính minh bạch của pháp luật. Ngoài ra,
một số điều luật, pháp lệnh còn chứa yếu tố mâu thuẫn, chồng chéo với bản thân
từng luật, quy định và mâu thuẫn với hệ thống pháp luật.
3. Dân chủ hoá đời sống xã hội
3.1. Những thành tựu đạt được
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ sự cần thiết phải thực hiện dân chủ
trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam rằng nước Việt Nam ta là nước dân
chủ, có bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công
cuộc đổi mới là trách nhiệm của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung
ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên . Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định rằng
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng phải là một xã hội có dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và phải do nhân dân làm chủ. Dân chủ
không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự phát triển đất nước, là nhân tố
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; bởi lẽ, thực hiện tốt dân chủ sẽ
phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân với vai trò “chủ thể chân
chính sáng tạo ra lịch sử”.
3.2. Một số điểm hạn chế của việc dân chủ hóa
M|c dù đã đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên trong đời sống xã hội, có tình
trạng vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu k“ cương. Quyền làm chủ của nhân dân chưa
được tôn trọng và phát huy đầy đủ. Trong xã hội còn nhiều hiện tượng thiếu dân
chủ, thiếu dân chủ hình thức trong xã hội, có nơi còn rất nghiêm trọng. Pháp luật
nhiều nơi quy định một số quyền của công dân nhưng chưa được tôn trọng,
nhiều yêu cầu, kiến nghị của quần chúng nhân dân chưa được giải quyết, thậm 12
chí còn có người vô tội bị bắt oan, xử oan. M|t khác, trật tự xã hội còn nhiều
m|t yếu kém, hiện tượng coi thường không chấp hành k“ cương, pháp luật còn
nhiều. Cơ chế pháp luật bảo đảm dân chủ hoá tuy đã có tiến bộ nhưng vẫn còn
nhiều vấn đề còn thiếu sót và chưa cụ thể. Việc thực hiện các hình thức dân chủ
trực tiếp và hình thức dân chủ đại diện hiệu quả chưa cao, có nội dung thực hiện
ccòn chỉ mang tính hình thức.
4. Về hoàn thiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân
4.1. Những thành tựu đạt được
Sau nhiều kỳ đại hội, lý luận về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ,
Nhà nước quản lý đã trở thành hệ thống quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổi
mới.Phát huy tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, Thực tiễn Việt Nam
qua các năm đổi mới cho thấy ý chí và quyền lực của nhân dân được thể hiện
trong pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật, trong thể chế dân chủ của đất
nước. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua nhà nước, thông qua các
cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Vì
vậy nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho mọi công dân thực hiện tốt các quyền cơ bản của mình. 4.2. Một số hạn chế
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân còn chậm trễ và thiếu
sót. Sự lãnh đạo của Đảng chưa đủ để có thể đáp ứng yêu cầu của mỗi quá trình
đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước, vẫn còn ở xung quanh những tình
trạng hờ hững và bao biện nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và
hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước.. Quan hệ trong nội bộ Đảng, quan hệ
giữa Đảng và nhân dân còn nhiều m|t chưa được củng cố vững chắc, ở nhiều địa
phương vẫn còn hiện tượng quan liêu, xa dân còn phổ biến, gây mất đoàn kết 13
trong cấp u“ đảng, ở một số nơi chưa được khắc phục triệt để, chưa ngăn ch|n
được bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy cơ quan công quyền 14
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định tất cả
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta phải
xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân
dân tham gia ý kiến. Dân chủ thực hiện đầy đủ, nghiêm túc mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Phải bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình
đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân. Sự
nghiệp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay đang đ|t ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện cả về cơ sở pháp lý và cơ chế tổ
chức thực hiện dể hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho nhân
dân thực sự được là chủ và làm chủ, từ đó phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
xây dựng Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân [10].
1. Đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
Cải cách và xây dựng bộ máy nhà nước gọn nhẹ, quản lý xã hội có hiệu quả, nhà
nước có phân công, phân nhiệm rõ ràng: lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng
bảo đảm quyền lực nhà nước thống nhất là nội dung trọng tâm của xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để
làm được điều này chúng ta cần phải đổi mới hệ thống các cơ quan nhà nước từ
trung ương đến địa phương một cách đồng bộ. Chúng ta cần phải kiện toàn tổ
chức và hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất- Quốc hội, làm cơ
sở kiện toàn các cơ quan nhà nước khác.Cần nâng cao năng lực và bản lĩnh của
cá nhân các Đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp, giám
sát và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước.
2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật 15
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng tốt về nội dung v à
hình thức là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt, yêu cầu cấp bách, một tất yếu
khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nếu
không sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có chất lượng tốt sẽ
không kịp thời tạo ra được môi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi cho sự tồn
tại và phát triển của các lĩnh vực kinh tế. Vì vậy, cần phải có những giải pháp
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, từ đó thực hiện quản lý nhà nước bằng
pháp luật mới đạt hiệu quả cao. Trước hết, pháp luật phải thể hiện đúng ý chí và
nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nội dung của ý chí
và nguyện vọng thể hiện trong luật phải phù hợp với các điều kiện chính trị,
kinh tế, xã hội tồn tại một cách khách quan ở thời điểm đó. Pháp luật phải thể
chế đúng đắn đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ;
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của luật, bảo đảm sự điều chỉnh đồng bộ, có hệ
thống; bảo đảm luật, pháp lệnh phải có nội dung điều chỉnh bao quát và có tính
khả thi; bảo đảm tính minh bạch của luật, pháp lệnh.
3. Thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội
Đảng ta coi dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu và cũng là động lực của
công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước. Vì vậy, Đảng và nhà nước phải không
ngừng hoàn thiện hệ thống những thiết chế để bảo đảm việc thực hiện dân chủ
hoá đời sống xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa là biện pháp không thể thiếu được trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Gồm có:
- Nhà nước tạo ra mọi điều kiện để bảo đảm các quyền tự do bầu cử,
ứng cử của nhân dân. Đảm bảo nhân dân đều được thực hiện quyền
bầu cử và đưa ra những ý kiến quan điểm cá nhân cho Quốc hội
một cách minh bạch và khoa học.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ cho
quần chúng, thực sự hướng về cơ sở, hướng về quần chúng, nói 16
cho quần chúng biết, quần chúng lắng nghe. Công tác tư tưởng
phải gắn với dân sinh, dân trí, dân quyền thì mới thực hiện được dân chủ
- Tìm tòi, thử nghiệm và từng bước cải thiện các hình thức phù hợp
để bảo đảm quyền của nhân dân trong việc giám sát hoạt động của
cơ quan nhà nước. Muốn làm được điều đó, các cơ quan nhà nước,
tổ chức phải thông tin kịp thời cho nhân dân biết những hoạt động
chủ yếu của cấp mình; cung cấp những thông tin về tình hình phát
triển kinh tế xã hội, kết quả thi hành pháp luật, phổ biến nội dung
và tình hình thực hiện nghị quyết của Quốc hội, Hội đồng nhân dân,
về kết quả khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
- Cải tiến cách thức giao tiếp, báo cáo của đại biểu Quốc hội và Hội
đồng nhân dân với cử tri, tạo điều kiện cho nhân dân không chỉ
phản ánh nguyện vọng của mình mà còn tham gia nhận xét, đánh
giá hoạt động của đại biểu dân cử, của cơ quan nhà nước, Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
- Mở rộng các hình thức lấy ý kiến các tổ chức chính trị của cơ quan nhà nước các cấp.
- Xã hội trong việc xây dựng và triển khai thực hiện chính sách pháp
luật. Cần chưng cầu ý dân về các văn bản pháp luật theo hướng
thiết thực. Các cơ quan nhà nước cần tổ chức đại hội đại biểu nhân
dân ho|c đại biểu nhân dân ở cơ sở để lấy ý kiến nhân dân ở khu
dân cư, tổng hợp dư luận xã hội, tăng cường sự lãnh đạo và quản lý
của nhà nước đối với những vấn đề cần thiết nhằm nâng cao chất
lượng cuộc sống, nâng cao công tác lãnh đạo và quản lý nhà nước,
để nhân dân tham gia rộng rãi vào các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
- Bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, cụ thể
là quyền dân chủ về sở hữu, về lao động, về quản lý và hưởng thụ.
Nhà nước cần mở rộng quyền tự chủ cho các đơn vị sản xuất kinh 17
doanh, thực hiện đúng chính sách kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần đưa ra các thể chế,
chính sách và thi hành những biện pháp cần thiết bảo đảm cho nhân
dân lao động để nhân dân lao động thực sự làm chủ về tư liệu sản
xuất, làm chủ sản xuất, phân phối, lưu thông và các quá trình sản
xuất, phát huy tính sáng tạo, sức sống và tính tự chủ trong sản xuất.
- Trong các lĩnh vực khoa học công nghệ - k– thuật, văn hoá giáo dục
phải tạo mọi điều kiện về môi trường, ưu tiên để phát huy trí tuệ và
tài năng của các nhà khoa học. Cần có những chính sách phù hợp
để thu hút chất xám của đội ngũ trí thức. Cần có những quy định cụ
thể để khuyến khích quyền tự do nghiên cứu, phát minh, sáng tác,
phê bình, phản biện... nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm của
nhân dân. Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
cũng là một bộ phận của xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Mỗi bước dân chủ hóa xã hội đều là điều kiện thuận lợi để
xây dựng Nhà nước pháp quyền. Làm tốt điều này chính là góp
phần tạo động lực chung cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong
thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Tăng cường công tác đấu tranh phòng và chống tham nhũng
Tình hình tham nhũng hiện nay diễn ra rất phức tạp, ở nhiều lĩnh vực và có xu
hướng tăng về quy mô, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Bởi vậy, cần phải có
những quy chế cụ thể, nề nếp, nhanh chóng khắc phục mọi biểu hiện quan liêu,
tham nhũng, xử lý nghiêm những hành vi nhũng nhiễu cần tiến hành đấu tranh
kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng như sau:
- Đổi mới chế độ, chính sách, thể chế đối với cán bộ, công chức bảo
đảm thu nhập, đãi ngộ thoả đáng, kích thích được sự nỗ lực, phấn
đấu của cán bộ, công chức, đáp ứng được điều kiện kinh tế-xã hội
của đất nước, cán bộ công chức tận tâm với công việc, không tham nhũng. 18
- Công khai, minh bạch tài sản, thu nhập và hoạt động của cơ quan,
tổ chức. Thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập theo đúng quy
định của Luật phòng, chống tham nhũng và xác minh việc kê khai.
- Xử lý nghiêm những người có hành vi tham nhũng, những người
đứng đầu cơ quan, tổ chức để xảy ra hành vi tham nhũng , tăng
cường trách nhiệm trong điều hành, quản lý của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách quản lý kinh tế, xã hội
và cải cách hành chính hiện có; tiếp tục nghiên cứu, bổ sung một
số chủ trương mới, hoàn thiện cơ chế quản lý, phòng chống tham nhũng, lãng phí
5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đáp ứng yêu cầu của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, công chức
nhà nước là một yêu cầu tất yếu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, những giải pháp về vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ gồm :
- Xây dựng và thực hiện tốt chiến lược và quy hoạch cán bộ. Trong
đó, phải chú trọng xây dựng cơ cấu cán bộ cấp chiến lược; cán bộ
quản lý chất lượng cao, cán bộ khoa học và công nghệ; cán bộ cơ
sở, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ trẻ, cán bộ con em
gia đình có công, cán bộ cấp ủy. nhân viên các cấp, và cán bộ sáng
lập. Đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ làm việc ở vùng sâu vùng xa.
- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức bảo
đảm nâng cao chất lượng lý luận, chất lượng chuyên môn,
nghiệp vụ, chất lượng chính trị và chất lượng hành chính. -
Đổi mới cơ chế đánh giá, tuyển chọn cán bộ, công chức
bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, khoa học,
đánh giá đúng, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ hợp lý,
lựa chọn cán bộ phù hợp, đáp ứng yêu cầu công việc. 19
- Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức.
Người đứng đầu cơ quan, bộ phận chịu trách nhiệm về công tác tổ
chức cán bộ phải nắm vững cán bộ, công chức của mình, thường
xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát công tác để đánh giá, triển khai
đúng công việc, có chế độ chính sách thích hợp và ngăn ch|n
những biểu hiện tiêu cực ở họ.
- Có những đãi ngộ hấp dẫn và thích đáng cho người có tài, có công
với đất nước. Tạo mọi điều kiện để những người có tài năng có cơ
hội mà môi trường để phát triển, tránh hiện tượng “chảy máu chất xám” [8, tr. 109]. 20