lOMoARcPSD| 61425750
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI
Tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ
cấu nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH?
Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng quan điểm nêu trên như thế
nào trong xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay?
Họ và tên SV: Nguyễn Thị Phương Anh
Mã SV: 11231567
Lớp tín chỉ: LLTT1101(124)CLC_17
GVHD: TS. Nguyễn Chí Thiện
HÀ NỘI, NĂM 2024
lOMoARcPSD| 61425750
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................................
3
NỘI DUNG ....................................................................................................................
4
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN ...............................................................................................
4
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ..............................................
4
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần ...........................
5
3. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
...................... 7 3.1. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế
thị trường
định hướng xã .........................................................................................................
8
3.2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt
Nam .......................................................................................................................
10
II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN ................................................................................. 11
1. Những thành tựu đã đạt được ......................................................................
11
2. Những hạn chế còn tồn tại ............................................................................
13
PHẦN KẾT LUẬN .....................................................................................................
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................
16
ĐẶT VẤN ĐỀ
lOMoARcPSD| 61425750
Trong hành trình đưa đất nước thoát khỏi nghèo đói lạc hậu, tiến đến mục
tiêu xây dựng một hội công bằng, dân chủ, văn minh thịnh vượng, Hồ Chí
Minh đã nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của một nền kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ n chủ nghĩa hội. Với tầm nhìn chiến lược sự am
hiểu về thực tế Việt Nam, Người cho rằng sự kết hợp giữa các thành phần kinh
tế một tất yếu khách quan, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc
ta. Quan điểm này không chỉ phản ánh duy đổi mới của Hồ CMinh còn
cho thấy sự linh hoạt trong việc áp dụng luận CNXH vào hoàn cảnh đặc thù
của Việt Nam.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
vận dụng nguyên tắc kinh tế nhiều thành phần trong suốt quá trình đổi mới
hội nhập quốc tế, xem đây động lực quan trọng để phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp giữa các thành phần kinh tế, từ
kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân đến kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đã góp
phần thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm nâng cao đời sống của nhân dân,
nhất là trong thời kỳ đất nước đang quá độ đi lên CNXH. Tuy nhiên, trong bối
cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, việc làm thế nào để giữ vững định hướng
CNXH và phát triển bền vững vẫn là một bài toán không hề đơn giản.
Bài tiểu luận này sẽ tập trung tìm hiểu phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh
về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, đồng thời đánh giá sự
vận dụng linh hoạt của Đảng trong việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam hiện
nay qua những minh chứng cụ thể. Qua đó, chúng ta sẽ thấy hơn ý nghĩa
tầm quan trọng của việc duy trì một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, phù hợp
với thực tiễn đất nước trên con đường hướng tới CNXH.
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
lOMoARcPSD| 61425750
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh
tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nền kinh tế nhiều thành phần
một hình quá độ trong quá trình y dựng chủ nghĩa hội. Trong
hình này, các thành phần kinh tế khác nhau (nhà nước, tập thể, nhân,
nước ngoài) tồn tại song song, hợp tác và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp
luật để cùng phát triển. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, đóng vai trò đòn bẩy nhằm thúc đẩy sự phát triển chung
đảm bảo an ninh kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, c thành phần kinh tế khác, bao
gồm kinh tế nhân kinh tế vốn đầu nước ngoài, được coi động
lực quan trọng và được khuyến khích phát triển nhằm khai thác tối đa các
nguồn lực, nâng cao năng suất, thúc đẩy stăng trưởng. Kinh tế nhiều
thành phần phản ánh tính chất quá độ vì nó chấp nhận sự tồn tại của các hình
thức sở hữu khác nhau (công hữu hữu), tạo nền tảng để dần xây dựng
quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan điểm này nhấn mạnh việc cân bằng giữa ng trưởng
kinh tế định hướng hội chủ nghĩa, đảm bảo lợi ích chung của hội
trong tiến trình phát triển.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không
chỉ củng cốphát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là
kinh tế nhà nước kinh tế tập thể còn phải khuyến khích các thành phần
kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân, coi đó là động lực quan trọng, thực hiện sự
liên kết giữa các loại hình công hữu - hữu sâu rộng cả trong ngoài
nước. Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế
quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển, cùng hợp tác
cạnh tranh lành mạnh. Chỉ như vậy mới thể khai thác được mọi
nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng to lớn của
các thành phần kinh tế vào sự phát triển chung của đất nước nhằm thỏa mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của các tầng lớp nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước
đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
lOMoARcPSD| 61425750
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Với vai trò của mình, kinh tế nhà nước
không đứng độc lập, tách rời mà luôn mối quan hệ gắn hữu với toàn
bộ nền kinh tế trong suốt cả quá trình phát triển. Phần sở hữu nhà nước
không chỉ trong kinh tế nhà nước mà thể được sử dụngnhiều thành
phần kinh tế khác. Bằng thực lực của mình, kinh tế nhà nước phải là đòn bẩy
để thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững giải quyết các vấn đề hội;
mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển;
làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản
nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước, chủ đầu những ngành kinh tế
then chốt vừa chi phối được nền kinh tế vừa đảm bảo được an ninh, quốc
phòng và phục vụ lợi ích công cộng... Với ý nghĩa đó, phát triển kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ là phát triển lực
lượng sản xuất, còn từng bước y dựng quan hệ sản xuất mới phù
hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với
bối cảnh kinh tế Việt Nam, nhất trong giai đoạn đầu của quá trình xây
dựng chủ nghĩa hội bởi bao gồm nhiều thành phần kinh tế cùng tồn
tại, hợp tác, cạnh tranh để tận dụng các nguồn lực thúc đẩy phát triển
đất nước. Không đơn thuần chỉ nhiều số lượng, đa dạng các bộ phận
mà điểm quan trọng là các thành phần kinh tế đều có điểm mạnh riêng và
thể hỗ trợ lẫn nhau. Trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH, kế thừa quan điểm
chủ nghĩa Mác-Lênin, nền kinh tế Việt Nam cần bao gồm nhiều thành phần,
từ kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, đến kinh tế cá thể và tư nhân, nhằm đáp
ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Việc khuyến khích việc phát triển các hình
thức kinh tế này nhằm khai thác tối đa nguồn lực, cân bằng giữa tăng trưởng
kinh tế và định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra sự phong phú trong đời sống
kinh tế của đất nước.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
hội, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt định hướng sphát
triển chung của toàn nền kinh tế. công nhận sự tồn tại vai trò quan
trọng của các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể,
lOMoARcPSD| 61425750
Người khẳng định rằng kinh tế nhà nước kinh tế tập thể phải là nền tảng
cốt lõi của nền kinh tế quốc dân, chính kinh tế nhà nước đóng vai trò làm trụ
cột, giúp giữ vững quyền làm chủ của nhân dân lao động đối với các nguồn
lực kinh tế. Bên cạnh đó, với bản chất công hữu, kinh tế nhà nước không chỉ
giúp đảm bảo lợi ích công cộng mà còn tạo ra động lực phát triển ổn định và
lâu dài, phù hợp với mục tiêu hội chủ nghĩa đất nước hướng tới. Vai
trò của kinh tế nhà nước do đó không phải chỉ để tạo ra lợi nhuận mà còn là
để định hướng và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, góp phần vào sự tăng
trưởng bền vững, nâng cao đời sống người dân, và đảm bảo an ninh xã hội.
Việc thúc đẩy hợp c đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam được đặc biệt coi trọng.
Trong quá trình xây dựng phát triển đất nước, các thành phần kinh tế khác
nhau cần phải hợp tác chặt chẽ, đồng thời cạnh tranh một cách lành mạnh để
phát huy tối đa tiềm năng và thế mạnh riêng của mỗi thành phần. Sự hợp tác
này không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế còn góp phần o mục
tiêu chung của hội, đó phục vụ lợi ích của nhân dân y dựng đất
nước phồn thịnh. chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng mọi thành
phần kinh tế, từ kinh tế nhà nước đến kinh tế nhân, đều bình đẳng trước
pháp luật, phải tuân thủ pháp luật được đối xử công bằng, không phân
biệt. Chỉ khi có sự tôn trọng và hợp tác lẫn nhau, các thành phần kinh tế mới
có thể cùng nhau phát triển, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vì lợi ích chung của toàn xã hội và sự phồn vinh của đất nước.
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của kinh tế thể và kinh tế nhân, coi
đây những thành phần quan trọng trong việc phát huy sáng kiến nâng
cao năng suất lao động cho hội. Người nhận thức rằng kinh tế thể
và tư nhân, với khả năng linh hoạt và sáng tạo, có thể đóng góp tích cực vào
sự phát triển của đất nước, đặc biệt khi biết tận dụng khai thác hiệu quả
các nguồn lực. Theo HChí Minh, nếu các hoạt động kinh tế thể
nhân được tổ chức và quản lý tốt, được định hướng theo đúng mục tiêu của
nhà nước, thì không chỉ phục vụ lợi ích cá nhân mà còn có thể đóng góp vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội. Người cho rằng, trong bối cảnh nền
kinh tế nhiều thành phần, việc phát huy sức mạnh tiềm năng của kinh tế
lOMoARcPSD| 61425750
tư nhân không chỉ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn tạo điều kiện để
mỗi người dân đóng góp một phần vào sự nghiệp chung, từ đó góp phần
nâng cao đời sống của toàn hội từng ớc hiện thực hóa tưởng
hội chủ nghĩa.
3. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Vốn dĩ, kinh tế chính là nền móng cho một đất nước cho mọi phương diện
từ an ninh chính trị cho đến an sinh hội, vậy cho nên việc định hướng
Kinh tế thị trường theo hướng XHCN trong thời kỳ quá độ là một việc m
hết sức cần thiết.
Trước hết, Kinh tế thị trường định ớng hội chủ nghĩa ở Việt Nam nền
kinh tế nhiều nh thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng.
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng
phát triển theo pháp luật.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không
chỉ củng cốphát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là
kinh tế nhà nước kinh tế tập thể còn phải khuyến khích các thành phần
kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân, coi đó là động lực quan trọng, thực hiện sự
liên kết giữa các loại hình công hữu - hữu sâu rộng cả trong ngoài
nước. Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế
quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển, cùng hợp tác
cạnh tranh lành mạnh. Chỉ như vậy mới thể khai thác được mọi
nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng to lớn của
các thành phần kinh tế vào sự phát triển chung của đất nước nhằm thỏa mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của các tầng lớp nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước
đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Với vai trò của mình, kinh tế nhà nước
không đứng độc lập, tách rời mà luôn mối quan hệ gắn bó hữu với toàn
bộ nền kinh tế trong suốt cả quá trình phát triển. Phần sở hữu nhà nước
không chỉ trong kinh tế nhà nước có thể được sử dụng ở nhiều thành
lOMoARcPSD| 61425750
phần kinh tế khác, kinh tế nhà nước phải là đòn bẩy để thúc đẩy tăng trưởng
nhanh, bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ
trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để
Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản nền kinh tế. Các doanh
nghiệp nhà nước chủ đầu vào những ngành kinh tế then chốt vừa chi phối
được nền kinh tế vừa đảm bảo được an ninh, quốc phòng và phục vụ lợi ích
công cộng. Với ý nghĩa đó, phát triển kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ là phát triển lực lượng sản xuất, còn
từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với từng bước phát triển
của lực lượng sản xuất.
3.1. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
hình kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa (XHCN) của Việt
Nam được xây dựng dựa trên sự tiếp thu chọn lọc các ưu điểm của kinh
tế thị trường, đồng thời điều chỉnh để phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa
và đặc thù của quốc gia. Đây không chỉ sự dung hợp giữa các yếu tố của
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn là một giải pháp
nhằm tận dụng mọi nguồn lực, thúc đẩy sự phát triển toàn diện và bền vững
cho đất ớc. Mục tiêu cốt lõi của hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN "dân giàu, ớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" một mục
tiêu đồng thời cũng phản ánh khát vọng xây dựng CNXH. Sự định hướng
này không phải sự từ bỏ các quy luật vận hành của thị trường một
hình thức tổ chức kinh tế có kiểm soát và điều tiết, được dẫn dắt và chi phối
bởi những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội trên ba khía cạnh quan trọng: sở
hữu, tổ chức quản lý, và phân phối.
Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mô hình này "không phải là nền kinh
tế thị trường bản chủ nghĩa, cũng chưa phải nền kinh tế thị trường
hội chủ nghĩa đầy đủ," một hình thái kinh tế độc đáo, thể hiện sự
quá độ thích nghi với bối cảnh hiện nay của Việt Nam. Bản chất của kinh
tế thị trường định hướng XHCN vừa vận hành theo các quy luật của thị
trường vừa đặt trên nền tảng các giá trị mục tiêu hội chủ nghĩa, vừa
lOMoARcPSD| 61425750
hướng đến sự phát triển toàn diện hài hòa, nhằm đảm bảo c lợi ích
chung của cộng đồng.
Kể từ khi thực hiện kinh tế thị trường, Việt Nam đã những bước chuyển
mình rõ ràng, bước ra khỏi khó khăn khủng hoảng, bắt đầu có những tích
luỹ rệt, đời sống nhân dân được cải thiện, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng hội, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, an
sinh hội... Đó sở để Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Đại
hội XIII: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới... Đất
nước ta chưa bao giđược đồ, tiềm lực, vị thế uy tín quốc tế như
ngày nay”
Việc chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)
một bước đi hợp lý, khách quan, phù hợp với thực tế phát triển của Việt
Nam. Những thành tựu đổi mới trong thời gian qua đã cho thấy mô hình này
có khả năng tạo ra sự phát triển hiệu quả bền vững. Những kết quả đó là
minh chứng sống động phản bác những quan điểm phủ nhận hình này,
khẳng định rằng đây là hướng đi đúng đắn cho đất nước.
Quan điểm về kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam không chỉ
kế thừa lý luận từ Đảng mà còn là kết quả của quá trình sáng tạo, điều chỉnh
để phù hợp với bối cảnh đất nước. Đây là sự phát triển tư duy không ngừng,
nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, và toàn quân để vượt qua khó khăn, thách
thức. Mô hình này không chỉ giúp Việt Nam đạt được những thành tựu đáng
kể còn đóng góp thêm cho kho tàng luận thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa hội, khẳng định vị thế của Việt Nam trong con đường phát triển độc
lập và tự chủ.
3.2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam Lựa
chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa không phải là
sự áp đặt chủ quan giữa hai yếu tố khác biệt, mà là sự lựa chọn phù hợp với
quy luật vận động của kinh tế thị trường trong thời đại mới. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác lập hình này dựa trên nhận thức sâu sắc về quy luật phát
triển của thời đại, kết hợp với kinh nghiệm từ các nước khác, đặc biệt Việt
lOMoARcPSD| 61425750
Nam và Trung Quốc, nhằm xây dựng một con đường phát triển kinh tế dựa
trên nền tảng hội chủ nghĩa. Qua đó, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa không chỉ đảm bảo việc vận hành theo các quy luật của thị
trường, mà còn được dẫn dắt và kiểm soát bởi các nguyên tắc, giá trị hội
chủ nghĩa phù hợp với đặc thù của Việt Nam. Có thể coi đây một kiểu tổ
chức kinh tế thị trường mới, một "đặc thù" riêng, đáp ứng điều kiện nhu
cầu phát triển của đất nước.
Khi đề cập đến kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, cần hiểu rõ
rằng đây không phải mô hình kinh tế thị trường tự do theo lối tư bản chủ
nghĩa, cũng không phải là mô hình kinh tế kế hoạch hóa bao cấp. Đúng hơn,
đây nền kinh tế trong giai đoạn quá độ, với định ớng lâu dài y dựng
xã hội chủ nghĩa nhưng chưa có đầy đủ các yếu tố của nó.
Quan điểm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của văn minh nhân loại, đồng thời giữ vững
định hướng hội chủ nghĩa. Trong hình này, kinh tế thị trường không
chỉ là động lực thúc đẩy sản xuất, sáng tạo cải tiến còn là công cụ để
cải thiện đời sống của nhân dân, góp phần tạo dựng một hội công bằng,
văn minh. Các yếu tố tiêu cực của thị trường, như cạnh tranh gay gắt, bất
bình đẳng hay chênh lệch giàu nghèo, cần được kiểm soát hiệu quả để tránh
gây ảnh hưởng xấu tới xã hội.
Trong Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm rằng nền kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa sẽ vận hành dựa trên ba khía cạnh chính:
sở hữu, quản lý và phân phối, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng và văn minh. Nền kinh tế này có sự tham gia của nhiều thành
phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo tạo nền tảng vững
chắc. Nói cách khác, đây là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, nơi Nhà nước đóng
vai trò quản chiến lược, điều tiết định ớng hội chủ nghĩa thông
qua luật pháp các chính sách cụ thể. Nhà nước vừa tận dụng chế thị
trường để giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời
hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường nhằm bảo vệ lợi ích của
người dân và bảo đảm sự phát triển bền vững cho đất nước.
lOMoARcPSD| 61425750
hình kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa mang lại sự độc đáo
cho Việt Nam: vừa kế thừa những đặc điểm phổ biến của kinh tế thị trường,
vừa phản ánh những đặc thù của nền kinh tế trong giai đoạn quá độ lên chủ
nghĩa hội. Sự chọn lựa này không chỉ giúp Việt Nam tận dụng ưu điểm
của cả hai hệ thống kinh tế mà còn là sự khẳng định nỗ lực phát triển một
hội tiến bộ, giàu mạnh và nhân văn.
II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
1. Những thành tựu đã đạt được
Dựa trên luận quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, Nhà nước đã thể chế hóa các
định hướng này thành hệ thống pháp luật, chiến ợc, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế cho đất nước cũng như từng ngành lĩnh vực. Những
thành tựu nổi bật từ sự phát triển này có thể được tóm lược như sau:
Trước hết, nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa tiếp tục phát
triển vững chắc. Các yếu tố kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn được đảm
bảo, tốc độ tăng trưởng duy trì mức khá cao. Kinh tế quốc gia ngày
càng mở rộng về quy mô, nâng cao về chất lượng và tiềm lực. Nhận thức về
hình này ng ngày càng được làm rõ hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách liên tục hoàn thiện, phợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế
hiện đại và hội nhập quốc tế.
Các yếu tố loại hình thị trường phát triển đồng bộ, kết nối chặt chẽ với
khu vực thế giới. Các thị trường quan trọng như hàng hóa, dịch vụ,
chứng khoán phát triển mạnh, vận hành thông suốt. Quy mức độ tự
do hóa các thị trường được mở rộng, các thị trường tài chính, tín dụng,
bảo hiểm phát triển ổn định, tạo điều kiện thu hút lưu thông nguồn vốn
phục vụ phát triển kinh tế - hội. Thị trường tiền tệ cũng tăng trưởng, với
giao dịch đa dạng và quy mô ngày càng lớn, đáp ứng linh hoạt nhu cầu vốn
ngắn hạn trong toàn hệ thống ngân hàng, từ đó tối ưu hóa việc sử dụng vốn.
Bên cạnh đó, nhà nước không ngừng nâng cao hiệu lực quản các yếu tố
thị trường, hoàn thiện thủ tục hành chính nhằm đáp ứng u cầu phát triển.
Các rào cản thị trường dần được gỡ bỏ, môi trường đầu cải thiện rệt,
lOMoARcPSD| 61425750
phong trào khởi nghiệp cũng như phát triển doanh nghiệp diễn ra sôi
động. Doanh nghiệp nnước tiếp tục được tái cấu, nâng cao hiệu quả
hoạt động; kinh tế nhân ngày càng khẳng định vai trò động lực quan trọng;
kinh tế tập thể được đổi mới gắn với cơ chế thị trường; đầu tư nước ngoài
gia tăng nhanh chóng, góp phần quan trọng trong nền kinh tế.
Trên bình diện quốc tế, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng, kết nhiều hiệp
định thương mại tự do mới như AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
(1993); ACFTA Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN-Trung Quốc (2003);
AKFTA Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN-Hàn Quốc (2007); AJCEP
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (2008), nhằm đẩy
mạnh xuất nhập khẩu, và thu hút đầu tư nước ngoài. Điều này góp phần tích
cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển bền vững của đất nước, một dấu
hiệu đáng mừng thể hiện khát khao hội nhập kinh tế thế giới, đưa đất nước
ngày một vươn xa.
Kết quả phát triển kinh tế xã hội có tác động to lớn trong công cuộc đổi mới.
Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng m khoảng 7%, giúp Việt Nam
thoát khỏi nhóm các quốc gia thu nhập thấp từ năm 2008. Tính đến năm
2022, GDP đạt khoảng 409 tỷ USD GDP nh quân đầu người đạt 4.110
USD. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực
nhân đầu nước ngoài. Đặc biệt, sau khi kiểm soát đại dịch COVID19,
từ quý IV-2021, nền kinh tế đã phục hồi mạnh mẽ. Năm 2022, GDP tăng
8,02%, lạm phát bản tăng 2,59%, xuất khẩu đạt 371,85 tỷ USD. Vốn
đầu tư nước ngoài thực hiện đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước.
An sinh hội đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, đặc biệt trong giáo dục, y
tế, và chăm lo các nhóm dễ bị tổn thương. Các dịch bệnh lớn dần được kiểm
soát. Người nghèo, trẻ em ới 6 tuổi, người cao tuổi được hỗ trợ bảo
hiểm y tế miễn phí. Các chỉ số về sức khỏe trẻ em cải thiện rõ rệt, với tỷ l
suy dinh dưỡng tử vong trẻ sinh giảm đáng kể. Đến năm 2022, 5.706
đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó nhiều đạt chuẩn nâng cao kiểu
mẫu; phần lớn các nông thôn hệ thống hạ tầng căn bản phục vụ nhu
cầu đời sống.
lOMoARcPSD| 61425750
Kinh tế phát triển cho phép Nhà nước chăm lo tốt hơn cho các đối tượng
chính sách, cải thiện đời sống văn hóa và đáp ng nhu cầu sinh hoạt văn hóa
ngày càng phong phú của người dân. Việt Nam hiện có khoảng 70% dân số
sử dụng internet và là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển internet
nhanh nhất thế giới. Liên hợp quốc đánh giá Việt Nam một trong những
nước tiên phong trong thực hiện Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.
Nhìn chung, việc phát triển nền kinh tế thị trường định ớng hội chủ
nghĩ a đã tạo nên những chuyển biến tích cực sâu sắc ở Việt Nam. Kinh
tế phát triển, đời sống nhân dân cải thiện, các vấn đề xã hội được giải quyết,
chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh vững chắc, và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng. Những kết quả này góp phần củng cố niềm tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng.
2. Những hạn chế còn tồn tại
Mặc dù kinh tế định hướng thị trường XHCN đã đưa đất nước lên cương vị
mới, nâng cao nền kinh tế chất ợng đời sống của nhân dân, từng bước
đi đúng hướng CNXH Việt Nam hướng đến song vẫn còn một số điểm
hạn chế. Và có thể được phân tích rõ hơn qua các khía cạnh sau:
Trước hết hạn chế trong chế, chính sách thể chế kinh tế Hệ thống
pháp luật chính sách kinh tế còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, chưa đáp ứng
kịp sự phát triển của nền kinh tế và hội nhập quốc tế. Cơ chế quản lý kinh tế
vẫn chịu nh hưởng nặng nề từ hình kế hoạch hóa, với một số điều luật
và quy định chồng chéo, gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi thực thi.
Tính minh bạch trong pháp luật chưa cao, thủ tục hành chính còn ờm rà,
dẫn đến tình trạng chi phí kinh doanh tăng, kìm hãm khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong nước. Cụ thể, Luật Đầu tư 2020 và Luật Doanh
nghiệp 2020 đã có những thay đổi để cải thiện, nhưng việc triển khai thực tế
vẫn gặp nhiều rào cản cấp địa phương, gây khó khăn trong thu hút đầu
nước ngoài.
Thứ hai, sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn lực. Các doanh nghiệp
nhà nước (DNNN) vẫn giữ vai trò chủ đạo, với các ưu tiên về nguồn vốn,
lOMoARcPSD| 61425750
đất đai và chính sách ưu đãi. Điều này tạo ra sự bất bình đẳng, khiến doanh
nghiệp tư nhân gặp khó khăn trong tiếp cận các nguồn lực. Khu vực kinh tế
tư nhân chưa được đối xử công bằng và thường không có cùng điều kiện để
tham gia các dự án lớn, dẫn đến hạn chế trong việc phát triển và đổi mới
sáng tạo. Chẳng hạn, vào năm 2018, công ty Sabeco - một doanh nghiệp nhà
nước lớn trong ngành bia đã được ưu tiên về đất đai các chính sách vay
vốn, trong khi các doanh nghiệp tư nhân cùng ngành không được hưởng lợi
từ các chính sách tương tự.
Điểm hạn chế tiếp theo là sự phát triển chậm của một số loại thị trường. Cho
đến nay, thị trường lao động tài chính tại Việt Nam chưa thực sự phát triển
đồng bộ. Ví dụ, thị trường lao động vẫn bị hạn chế bởi quy chế trả lương và
điều kiện làm việc chưa hoàn toàn theo cơ chế thị trường, dẫn đến tình trạng
thiếu hụt nhân lực trình độ. Thị trường bất động sản một dụ điển
hình. Mặc thị trường này tăng trưởng nhanh trong các năm gần đây, song
sự phụ thuộc vào nguồn vốn ngân hàng thiếu các kênh huy động vốn khác
đã dẫn đến tình trạng bong bóng bất động sản. Sự kiện khủng hoảng nhà đất
năm 2011-2013 đã làm rõ vấn đề này khi nhiều công ty bất động sản gặp khó
khăn do vay mượn quá mức, dẫn đến nợ xấu và mất ổn định kinh tế
Bên cạnh đó, hạn chế về khoảng cách hội sự chênh lệch vùng miền
cũng một vấn đề Đảng ta cần triển khai khắc phục. Bất bình đẳng trong
phát triển kinh tế còn thể hiện ng giữa c vùng miền dân tộc thiểu
số. Các vùng ng thôn, đặc biệt vùng sâu, vùng xa vẫn gặp nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ bản như giáo dục, y tế sở hạ
tầng, tạo nên khoảng cách về mức sống giữa các khu vực. Điều này không
chỉ làm giảm hiệu quả phát triển kinh tế quốc gia mà còn tạo ra nguy về
bất ổn xã hội.Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội năm
2022, tỷ lệ hộ nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc cao hơn so với các tỉnh
đồng bằng, với tỷ lệ nghèo Lai Châu Giang lên tới trên 40%. Điều
này làm rõ sự chênh lệch trong phát triển kinh tế giữa các vùng, kéo theo bất
bình đẳng về cơ hội.
lOMoARcPSD| 61425750
Và điểm hạn chế cuối cùng là vấn đề thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu
quả: Cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực vẫn còn yếu, đặc biệt là trong
quản DNNN các dự án công. Việc kiểm soát quyền lực chưa thực sự
chặt chẽ dẫn đến các vấn đề tham nhũng lạm quyền, gây ra những thất
thoát lớn cho ngân sách nhà nước giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Những tồn tại y không chỉ cản trở sự phát triển kinh tế còn gây mất
lòng tin trong xã hội đối với cơ chế quản lý. Một ví dụ điển hình là vụ bối
Vinashin năm 2010, khi tập đoàn này bị phát hiện quản lý yếu kém và tham
nhũng, dẫn đến tổn thất lớn cho ngân sách nhà nước. Vụ việc đã làm nổi bật
vấn đề kiểm soát quyền lực và sự thiếu minh bạch trong việc sử dụng tài sản
nhà nước, cũng như sự yếu kém trong hệ thống kiểm tra, giám sát DNNN.
Để khắc phục, Việt Nam cần tập trung vào việc quán triệt cải cách hệ thống
pháp luật, tăng cường sự minh bạch, công bằng và tính hợp lý trong phân bổ
nguồn, nâng cao hiệu quả giám sát quyền lực, xử phạt nghiêm những trường
hợp tham ô, tham nhũng, lạm quyền, trục lợi trên công sức của cá nhân, tập
thể; đầu tư giáo dục bền vững cho nhân dân khu vực miền núi, địa hình hiểm
trở hay hoàn cảnh khó khăn nhằm hướng tới sự phát triển bền vững và bình
đẳng cho mọi thành phần trong hội. Minh chứng cụ thể chiến dịch “Đốt
lò” được Tổng thư Nguyễn Phú Trọng khởi xướng từ năm 2013, đây
chiến dịch chống tham nhũng quy lớn đã đạt được số thành tựu,
đưa sự thật ra ánh sáng, xử phạt nghiêm minh những kẻ trục lợi, tham ô,
tham nhũng. Chiến dịch đã tiến hành rất nghiêm sẽ được Đảng Nhà
nước ta tiếp tục thực thi dưới thời của bất nhà lãnh đạo hay thời
điểm nào.
PHẦN KẾT LUẬN
Kế thừa luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quan
điểm luận phù hợp, chặt chẽ hiệu quả cho nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN Việt Nam. Người nhấn mạnh rằng trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt và định hướng
sự phát triển chung của toàn nền kinh tế, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát
triển, đóng góp cho hội; thúc đẩy hợp tác đảm bảo bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam. Với quan
lOMoARcPSD| 61425750
điểm luận chặt chẽ, chủ tịch Hồ Chí Minh hướng ởng của Đảng, của dân
của quân đến tưởng hành động nâng cao đời sống của toàn hội
từng bước hiện thực hóa tưởng hội chnghĩa. Tiếp thu làm theo
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã tiến hành đổi mới suốt 35 năm qua theo định
hướng kinh tế thị trường XHCN và đạt được những thành tựu to lớn, cải thiện
đời sống nhân dân, mở cửa hội nhập quốc tế, kết hợp đồng thương mại tự
do, tăng cao mức thu nhập từ thấp đến trung bình, đưa đất nước lên một cương
vị hoàn toàn khác, nâng cao khai thác từng thành phần kinh tế, cải thiện an sinh
hội, chính trị ổn định. Song, tuy vẫn còn một vài hạn chế ntính minh bạch
của pháp luật, sự rườm trong các thủ tục gây cản trở trong kinh tế, sự lỏng
lẻo, lạm quyền trong quản gây nên tham ô, tham nhũng. Tuy nhiên tất cả
những hạn chế đều có thể được khắc phục với đường lối, chính sách quán triệt
của Đảng cùng sự cố gắng của toàn dân, toàn quân. Tất cả đều đang cố gắng
trên con đường kinh tế định hướng XHCN cho công cuộc đi lên CNXH trong
thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tưởng Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự
thật, 2019
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Sự thật, 2019
3. Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 10, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự
thật, 2000, trang 132-133.
4. Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 12, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự
thật, 2000, trang 556-557.
5. Nguyễn Phú Trọng. "Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa -
Quan niệm và giải pháp phát triển." Tạp chí Cộng sản.
6. Nguyễn Trọng Nghĩa. "Thành tựu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng hội chủ nghĩa Việt Nam qua n 35 năm đổi mới." Tạp chí
Cộng sản.
lOMoARcPSD| 61425750
7. "Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam." Tạp chí Tài chính.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61425750
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN MÔN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI : Tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ
cấu nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH?
Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng quan điểm nêu trên như thế
nào trong xây dựng nền kinh tế nước ta hiện nay?
Họ và tên SV: Nguyễn Thị Phương Anh Mã SV: 11231567
Lớp tín chỉ: LLTT1101(124)CLC_17
GVHD: TS. Nguyễn Chí Thiện HÀ NỘI, NĂM 2024 lOMoAR cPSD| 61425750 MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................................ 3
NỘI DUNG .................................................................................................................... 4 I.
CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................................... 4
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .............................................. 4
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần ........................... 5
3. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
...................... 7 3.1. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã ......................................................................................................... 8
3.2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt
Nam ....................................................................................................................... 10 II.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN ................................................................................. 11
1. Những thành tựu đã đạt được ...................................................................... 11
2. Những hạn chế còn tồn tại ............................................................................ 13
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................... 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 16 ĐẶT VẤN ĐỀ lOMoAR cPSD| 61425750
Trong hành trình đưa đất nước thoát khỏi nghèo đói và lạc hậu, tiến đến mục
tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và thịnh vượng, Hồ Chí
Minh đã nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của một nền kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với tầm nhìn chiến lược và sự am
hiểu về thực tế Việt Nam, Người cho rằng sự kết hợp giữa các thành phần kinh
tế là một tất yếu khách quan, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc
ta. Quan điểm này không chỉ phản ánh tư duy đổi mới của Hồ Chí Minh mà còn
cho thấy sự linh hoạt trong việc áp dụng lý luận CNXH vào hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
vận dụng nguyên tắc kinh tế nhiều thành phần trong suốt quá trình đổi mới và
hội nhập quốc tế, xem đây là động lực quan trọng để phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp giữa các thành phần kinh tế, từ
kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân đến kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đã góp
phần thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm và nâng cao đời sống của nhân dân,
nhất là trong thời kỳ đất nước đang quá độ đi lên CNXH. Tuy nhiên, trong bối
cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, việc làm thế nào để giữ vững định hướng
CNXH và phát triển bền vững vẫn là một bài toán không hề đơn giản.
Bài tiểu luận này sẽ tập trung tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh
về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, đồng thời đánh giá sự
vận dụng linh hoạt của Đảng trong việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam hiện
nay qua những minh chứng cụ thể. Qua đó, chúng ta sẽ thấy rõ hơn ý nghĩa và
tầm quan trọng của việc duy trì một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, phù hợp
với thực tiễn đất nước trên con đường hướng tới CNXH. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN lOMoAR cPSD| 61425750
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc điểm của nền kinh
tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nền kinh tế nhiều thành phần là
một mô hình quá độ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong mô
hình này, các thành phần kinh tế khác nhau (nhà nước, tập thể, tư nhân, và
nước ngoài) tồn tại song song, hợp tác và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp
luật để cùng phát triển. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, đóng vai trò đòn bẩy nhằm thúc đẩy sự phát triển chung và
đảm bảo an ninh kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế khác, bao
gồm kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, được coi là động
lực quan trọng và được khuyến khích phát triển nhằm khai thác tối đa các
nguồn lực, nâng cao năng suất, và thúc đẩy sự tăng trưởng. Kinh tế nhiều
thành phần phản ánh tính chất quá độ vì nó chấp nhận sự tồn tại của các hình
thức sở hữu khác nhau (công hữu và tư hữu), tạo nền tảng để dần xây dựng
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan điểm này nhấn mạnh việc cân bằng giữa tăng trưởng
kinh tế và định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo lợi ích chung của xã hội
trong tiến trình phát triển.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không
chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể mà còn phải khuyến khích các thành phần
kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân, coi đó là động lực quan trọng, thực hiện sự
liên kết giữa các loại hình công hữu - tư hữu sâu rộng ở cả trong và ngoài
nước. Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế
quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển, cùng hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh. Chỉ có như vậy mới có thể khai thác được mọi
nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng to lớn của
các thành phần kinh tế vào sự phát triển chung của đất nước nhằm thỏa mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của các tầng lớp nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước
đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng lOMoAR cPSD| 61425750
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Với vai trò của mình, kinh tế nhà nước
không đứng độc lập, tách rời mà luôn có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với toàn
bộ nền kinh tế và trong suốt cả quá trình phát triển. Phần sở hữu nhà nước
không chỉ có trong kinh tế nhà nước mà có thể được sử dụng ở nhiều thành
phần kinh tế khác. Bằng thực lực của mình, kinh tế nhà nước phải là đòn bẩy
để thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội;
mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển;
làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lý
nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước, chủ đầu tư những ngành kinh tế
then chốt vừa chi phối được nền kinh tế vừa đảm bảo được an ninh, quốc
phòng và phục vụ lợi ích công cộng... Với ý nghĩa đó, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ là phát triển lực
lượng sản xuất, mà còn là từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù
hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với
bối cảnh kinh tế Việt Nam, nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội bởi nó bao gồm nhiều thành phần kinh tế cùng tồn
tại, hợp tác, và cạnh tranh để tận dụng các nguồn lực và thúc đẩy phát triển
đất nước. Không đơn thuần chỉ là nhiều ở số lượng, đa dạng ở các bộ phận
mà điểm quan trọng là các thành phần kinh tế đều có điểm mạnh riêng và có
thể hỗ trợ lẫn nhau. Trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH, kế thừa quan điểm
chủ nghĩa Mác-Lênin, nền kinh tế Việt Nam cần bao gồm nhiều thành phần,
từ kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, đến kinh tế cá thể và tư nhân, nhằm đáp
ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Việc khuyến khích việc phát triển các hình
thức kinh tế này nhằm khai thác tối đa nguồn lực, cân bằng giữa tăng trưởng
kinh tế và định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra sự phong phú trong đời sống
kinh tế của đất nước.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt và định hướng sự phát
triển chung của toàn nền kinh tế. Dù công nhận sự tồn tại và vai trò quan
trọng của các thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể, lOMoAR cPSD| 61425750
Người khẳng định rằng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải là nền tảng
cốt lõi của nền kinh tế quốc dân, chính kinh tế nhà nước đóng vai trò làm trụ
cột, giúp giữ vững quyền làm chủ của nhân dân lao động đối với các nguồn
lực kinh tế. Bên cạnh đó, với bản chất công hữu, kinh tế nhà nước không chỉ
giúp đảm bảo lợi ích công cộng mà còn tạo ra động lực phát triển ổn định và
lâu dài, phù hợp với mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà đất nước hướng tới. Vai
trò của kinh tế nhà nước do đó không phải chỉ để tạo ra lợi nhuận mà còn là
để định hướng và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, góp phần vào sự tăng
trưởng bền vững, nâng cao đời sống người dân, và đảm bảo an ninh xã hội.
Việc thúc đẩy hợp tác và đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam được đặc biệt coi trọng.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, các thành phần kinh tế khác
nhau cần phải hợp tác chặt chẽ, đồng thời cạnh tranh một cách lành mạnh để
phát huy tối đa tiềm năng và thế mạnh riêng của mỗi thành phần. Sự hợp tác
này không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn góp phần vào mục
tiêu chung của xã hội, đó là phục vụ lợi ích của nhân dân và xây dựng đất
nước phồn thịnh. chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng mọi thành
phần kinh tế, từ kinh tế nhà nước đến kinh tế tư nhân, đều bình đẳng trước
pháp luật, phải tuân thủ pháp luật và được đối xử công bằng, không phân
biệt. Chỉ khi có sự tôn trọng và hợp tác lẫn nhau, các thành phần kinh tế mới
có thể cùng nhau phát triển, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vì lợi ích chung của toàn xã hội và sự phồn vinh của đất nước.
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân, coi
đây là những thành phần quan trọng trong việc phát huy sáng kiến và nâng
cao năng suất lao động cho xã hội. Người nhận thức rõ rằng kinh tế cá thể
và tư nhân, với khả năng linh hoạt và sáng tạo, có thể đóng góp tích cực vào
sự phát triển của đất nước, đặc biệt khi biết tận dụng và khai thác hiệu quả
các nguồn lực. Theo Hồ Chí Minh, nếu các hoạt động kinh tế cá thể và tư
nhân được tổ chức và quản lý tốt, được định hướng theo đúng mục tiêu của
nhà nước, thì không chỉ phục vụ lợi ích cá nhân mà còn có thể đóng góp vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, trong bối cảnh nền
kinh tế nhiều thành phần, việc phát huy sức mạnh và tiềm năng của kinh tế lOMoAR cPSD| 61425750
tư nhân không chỉ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn tạo điều kiện để
mỗi người dân đóng góp một phần vào sự nghiệp chung, từ đó góp phần
nâng cao đời sống của toàn xã hội và từng bước hiện thực hóa lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
3. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Vốn dĩ, kinh tế chính là nền móng cho một đất nước cho mọi phương diện
từ an ninh chính trị cho đến an sinh xã hội, vậy cho nên việc định hướng
Kinh tế thị trường theo hướng XHCN trong thời kỳ quá độ là một việc làm hết sức cần thiết.
Trước hết, Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền
kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng.
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng
phát triển theo pháp luật.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không
chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể mà còn phải khuyến khích các thành phần
kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân, coi đó là động lực quan trọng, thực hiện sự
liên kết giữa các loại hình công hữu - tư hữu sâu rộng ở cả trong và ngoài
nước. Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế
quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển, cùng hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh. Chỉ có như vậy mới có thể khai thác được mọi
nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng to lớn của
các thành phần kinh tế vào sự phát triển chung của đất nước nhằm thỏa mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của các tầng lớp nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước
đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Với vai trò của mình, kinh tế nhà nước
không đứng độc lập, tách rời mà luôn có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với toàn
bộ nền kinh tế và trong suốt cả quá trình phát triển. Phần sở hữu nhà nước
không chỉ có trong kinh tế nhà nước mà có thể được sử dụng ở nhiều thành lOMoAR cPSD| 61425750
phần kinh tế khác, kinh tế nhà nước phải là đòn bẩy để thúc đẩy tăng trưởng
nhanh, bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ
trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để
Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lý nền kinh tế. Các doanh
nghiệp nhà nước chủ đầu tư vào những ngành kinh tế then chốt vừa chi phối
được nền kinh tế vừa đảm bảo được an ninh, quốc phòng và phục vụ lợi ích
công cộng. Với ý nghĩa đó, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ là phát triển lực lượng sản xuất, mà còn là
từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với từng bước phát triển
của lực lượng sản xuất.
3.1. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Việt
Nam được xây dựng dựa trên sự tiếp thu có chọn lọc các ưu điểm của kinh
tế thị trường, đồng thời điều chỉnh để phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa
và đặc thù của quốc gia. Đây không chỉ là sự dung hợp giữa các yếu tố của
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn là một giải pháp
nhằm tận dụng mọi nguồn lực, thúc đẩy sự phát triển toàn diện và bền vững
cho đất nước. Mục tiêu cốt lõi của mô hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN là "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" — một mục
tiêu đồng thời cũng phản ánh khát vọng xây dựng CNXH. Sự định hướng
này không phải là sự từ bỏ các quy luật vận hành của thị trường mà là một
hình thức tổ chức kinh tế có kiểm soát và điều tiết, được dẫn dắt và chi phối
bởi những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội trên ba khía cạnh quan trọng: sở
hữu, tổ chức quản lý, và phân phối.
Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mô hình này "không phải là nền kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa, và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa đầy đủ," mà là một hình thái kinh tế độc đáo, thể hiện sự
quá độ và thích nghi với bối cảnh hiện nay của Việt Nam. Bản chất của kinh
tế thị trường định hướng XHCN là vừa vận hành theo các quy luật của thị
trường vừa đặt trên nền tảng các giá trị và mục tiêu xã hội chủ nghĩa, vừa lOMoAR cPSD| 61425750
hướng đến sự phát triển toàn diện và hài hòa, nhằm đảm bảo các lợi ích chung của cộng đồng.
Kể từ khi thực hiện kinh tế thị trường, Việt Nam đã có những bước chuyển
mình rõ ràng, bước ra khỏi khó khăn và khủng hoảng, bắt đầu có những tích
luỹ rõ rệt, đời sống nhân dân được cải thiện, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, an
sinh xã hội... Đó là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Đại
hội XIII: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới... Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”
Việc chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)
là một bước đi hợp lý, khách quan, phù hợp với thực tế phát triển của Việt
Nam. Những thành tựu đổi mới trong thời gian qua đã cho thấy mô hình này
có khả năng tạo ra sự phát triển hiệu quả và bền vững. Những kết quả đó là
minh chứng sống động phản bác những quan điểm phủ nhận mô hình này,
khẳng định rằng đây là hướng đi đúng đắn cho đất nước.
Quan điểm về kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam không chỉ
kế thừa lý luận từ Đảng mà còn là kết quả của quá trình sáng tạo, điều chỉnh
để phù hợp với bối cảnh đất nước. Đây là sự phát triển tư duy không ngừng,
là nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, và toàn quân để vượt qua khó khăn, thách
thức. Mô hình này không chỉ giúp Việt Nam đạt được những thành tựu đáng
kể mà còn đóng góp thêm cho kho tàng lý luận và thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, khẳng định vị thế của Việt Nam trong con đường phát triển độc lập và tự chủ.
3.2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam Lựa
chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là
sự áp đặt chủ quan giữa hai yếu tố khác biệt, mà là sự lựa chọn phù hợp với
quy luật vận động của kinh tế thị trường trong thời đại mới. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác lập mô hình này dựa trên nhận thức sâu sắc về quy luật phát
triển của thời đại, kết hợp với kinh nghiệm từ các nước khác, đặc biệt là Việt lOMoAR cPSD| 61425750
Nam và Trung Quốc, nhằm xây dựng một con đường phát triển kinh tế dựa
trên nền tảng xã hội chủ nghĩa. Qua đó, nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa không chỉ đảm bảo việc vận hành theo các quy luật của thị
trường, mà còn được dẫn dắt và kiểm soát bởi các nguyên tắc, giá trị xã hội
chủ nghĩa phù hợp với đặc thù của Việt Nam. Có thể coi đây là một kiểu tổ
chức kinh tế thị trường mới, một "đặc thù" riêng, đáp ứng điều kiện và nhu
cầu phát triển của đất nước.
Khi đề cập đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần hiểu rõ
rằng đây không phải là mô hình kinh tế thị trường tự do theo lối tư bản chủ
nghĩa, cũng không phải là mô hình kinh tế kế hoạch hóa bao cấp. Đúng hơn,
đây là nền kinh tế trong giai đoạn quá độ, với định hướng lâu dài là xây dựng
xã hội chủ nghĩa nhưng chưa có đầy đủ các yếu tố của nó.
Quan điểm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của văn minh nhân loại, đồng thời giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong mô hình này, kinh tế thị trường không
chỉ là động lực thúc đẩy sản xuất, sáng tạo và cải tiến mà còn là công cụ để
cải thiện đời sống của nhân dân, góp phần tạo dựng một xã hội công bằng,
văn minh. Các yếu tố tiêu cực của thị trường, như cạnh tranh gay gắt, bất
bình đẳng hay chênh lệch giàu nghèo, cần được kiểm soát hiệu quả để tránh
gây ảnh hưởng xấu tới xã hội.
Trong Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm rõ rằng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ vận hành dựa trên ba khía cạnh chính:
sở hữu, quản lý và phân phối, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng và văn minh. Nền kinh tế này có sự tham gia của nhiều thành
phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và tạo nền tảng vững
chắc. Nói cách khác, đây là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, nơi Nhà nước đóng
vai trò quản lý chiến lược, điều tiết và định hướng xã hội chủ nghĩa thông
qua luật pháp và các chính sách cụ thể. Nhà nước vừa tận dụng cơ chế thị
trường để giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời
hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường nhằm bảo vệ lợi ích của
người dân và bảo đảm sự phát triển bền vững cho đất nước. lOMoAR cPSD| 61425750
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang lại sự độc đáo
cho Việt Nam: vừa kế thừa những đặc điểm phổ biến của kinh tế thị trường,
vừa phản ánh những đặc thù của nền kinh tế trong giai đoạn quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Sự chọn lựa này không chỉ giúp Việt Nam tận dụng ưu điểm
của cả hai hệ thống kinh tế mà còn là sự khẳng định nỗ lực phát triển một xã
hội tiến bộ, giàu mạnh và nhân văn. II.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN
1. Những thành tựu đã đạt được
Dựa trên lý luận và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã thể chế hóa các
định hướng này thành hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, và kế hoạch
phát triển kinh tế cho đất nước cũng như từng ngành và lĩnh vực. Những
thành tựu nổi bật từ sự phát triển này có thể được tóm lược như sau:
Trước hết, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát
triển vững chắc. Các yếu tố kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn được đảm
bảo, và tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao. Kinh tế quốc gia ngày
càng mở rộng về quy mô, nâng cao về chất lượng và tiềm lực. Nhận thức về
mô hình này cũng ngày càng được làm rõ và hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách liên tục hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế
hiện đại và hội nhập quốc tế.
Các yếu tố và loại hình thị trường phát triển đồng bộ, kết nối chặt chẽ với
khu vực và thế giới. Các thị trường quan trọng như hàng hóa, dịch vụ, và
chứng khoán phát triển mạnh, vận hành thông suốt. Quy mô và mức độ tự
do hóa các thị trường được mở rộng, các thị trường tài chính, tín dụng, và
bảo hiểm phát triển ổn định, tạo điều kiện thu hút và lưu thông nguồn vốn
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường tiền tệ cũng tăng trưởng, với
giao dịch đa dạng và quy mô ngày càng lớn, đáp ứng linh hoạt nhu cầu vốn
ngắn hạn trong toàn hệ thống ngân hàng, từ đó tối ưu hóa việc sử dụng vốn.
Bên cạnh đó, nhà nước không ngừng nâng cao hiệu lực quản lý các yếu tố
thị trường, hoàn thiện thủ tục hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển.
Các rào cản thị trường dần được gỡ bỏ, môi trường đầu tư cải thiện rõ rệt, lOMoAR cPSD| 61425750
và phong trào khởi nghiệp cũng như phát triển doanh nghiệp diễn ra sôi
động. Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả
hoạt động; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò động lực quan trọng;
kinh tế tập thể được đổi mới gắn với cơ chế thị trường; và đầu tư nước ngoài
gia tăng nhanh chóng, góp phần quan trọng trong nền kinh tế.
Trên bình diện quốc tế, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng, ký kết nhiều hiệp
định thương mại tự do mới như AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
(1993); ACFTA Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN-Trung Quốc (2003);
AKFTA Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN-Hàn Quốc (2007); AJCEP
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (2008), nhằm đẩy
mạnh xuất nhập khẩu, và thu hút đầu tư nước ngoài. Điều này góp phần tích
cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển bền vững của đất nước, một dấu
hiệu đáng mừng thể hiện khát khao hội nhập kinh tế thế giới, đưa đất nước ngày một vươn xa.
Kết quả phát triển kinh tế xã hội có tác động to lớn trong công cuộc đổi mới.
Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm khoảng 7%, giúp Việt Nam
thoát khỏi nhóm các quốc gia thu nhập thấp từ năm 2008. Tính đến năm
2022, GDP đạt khoảng 409 tỷ USD và GDP bình quân đầu người đạt 4.110
USD. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực
tư nhân và đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, sau khi kiểm soát đại dịch COVID19,
từ quý IV-2021, nền kinh tế đã phục hồi mạnh mẽ. Năm 2022, GDP tăng
8,02%, lạm phát cơ bản tăng 2,59%, và xuất khẩu đạt 371,85 tỷ USD. Vốn
đầu tư nước ngoài thực hiện đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước.
An sinh xã hội đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, đặc biệt trong giáo dục, y
tế, và chăm lo các nhóm dễ bị tổn thương. Các dịch bệnh lớn dần được kiểm
soát. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, và người cao tuổi được hỗ trợ bảo
hiểm y tế miễn phí. Các chỉ số về sức khỏe trẻ em cải thiện rõ rệt, với tỷ lệ
suy dinh dưỡng và tử vong trẻ sơ sinh giảm đáng kể. Đến năm 2022, 5.706
xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó nhiều xã đạt chuẩn nâng cao và kiểu
mẫu; phần lớn các xã nông thôn có hệ thống hạ tầng căn bản phục vụ nhu cầu đời sống. lOMoAR cPSD| 61425750
Kinh tế phát triển cho phép Nhà nước chăm lo tốt hơn cho các đối tượng
chính sách, cải thiện đời sống văn hóa và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa
ngày càng phong phú của người dân. Việt Nam hiện có khoảng 70% dân số
sử dụng internet và là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển internet
nhanh nhất thế giới. Liên hợp quốc đánh giá Việt Nam là một trong những
nước tiên phong trong thực hiện Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.
Nhìn chung, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩ a đã tạo nên những chuyển biến tích cực và sâu sắc ở Việt Nam. Kinh
tế phát triển, đời sống nhân dân cải thiện, các vấn đề xã hội được giải quyết,
chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh vững chắc, và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng. Những kết quả này góp phần củng cố niềm tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng.
2. Những hạn chế còn tồn tại
Mặc dù kinh tế định hướng thị trường XHCN đã đưa đất nước lên cương vị
mới, nâng cao nền kinh tế và chất lượng đời sống của nhân dân, từng bước
đi đúng hướng CNXH mà Việt Nam hướng đến song vẫn còn một số điểm
hạn chế. Và có thể được phân tích rõ hơn qua các khía cạnh sau:
Trước hết là hạn chế trong cơ chế, chính sách và thể chế kinh tế Hệ thống
pháp luật và chính sách kinh tế còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, chưa đáp ứng
kịp sự phát triển của nền kinh tế và hội nhập quốc tế. Cơ chế quản lý kinh tế
vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề từ mô hình kế hoạch hóa, với một số điều luật
và quy định chồng chéo, gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi thực thi.
Tính minh bạch trong pháp luật chưa cao, thủ tục hành chính còn rườm rà,
dẫn đến tình trạng chi phí kinh doanh tăng, kìm hãm khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong nước. Cụ thể, Luật Đầu tư 2020 và Luật Doanh
nghiệp 2020 đã có những thay đổi để cải thiện, nhưng việc triển khai thực tế
vẫn gặp nhiều rào cản ở cấp địa phương, gây khó khăn trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, là sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn lực. Các doanh nghiệp
nhà nước (DNNN) vẫn giữ vai trò chủ đạo, với các ưu tiên về nguồn vốn, lOMoAR cPSD| 61425750
đất đai và chính sách ưu đãi. Điều này tạo ra sự bất bình đẳng, khiến doanh
nghiệp tư nhân gặp khó khăn trong tiếp cận các nguồn lực. Khu vực kinh tế
tư nhân chưa được đối xử công bằng và thường không có cùng điều kiện để
tham gia các dự án lớn, dẫn đến hạn chế trong việc phát triển và đổi mới
sáng tạo. Chẳng hạn, vào năm 2018, công ty Sabeco - một doanh nghiệp nhà
nước lớn trong ngành bia đã được ưu tiên về đất đai và các chính sách vay
vốn, trong khi các doanh nghiệp tư nhân cùng ngành không được hưởng lợi
từ các chính sách tương tự.
Điểm hạn chế tiếp theo là sự phát triển chậm của một số loại thị trường. Cho
đến nay, thị trường lao động và tài chính tại Việt Nam chưa thực sự phát triển
đồng bộ. Ví dụ, thị trường lao động vẫn bị hạn chế bởi quy chế trả lương và
điều kiện làm việc chưa hoàn toàn theo cơ chế thị trường, dẫn đến tình trạng
thiếu hụt nhân lực có trình độ. Thị trường bất động sản là một ví dụ điển
hình. Mặc dù thị trường này tăng trưởng nhanh trong các năm gần đây, song
sự phụ thuộc vào nguồn vốn ngân hàng và thiếu các kênh huy động vốn khác
đã dẫn đến tình trạng bong bóng bất động sản. Sự kiện khủng hoảng nhà đất
năm 2011-2013 đã làm rõ vấn đề này khi nhiều công ty bất động sản gặp khó
khăn do vay mượn quá mức, dẫn đến nợ xấu và mất ổn định kinh tế
Bên cạnh đó, hạn chế về khoảng cách xã hội và sự chênh lệch vùng miền
cũng là một vấn đề Đảng ta cần triển khai khắc phục. Bất bình đẳng trong
phát triển kinh tế còn thể hiện rõ ràng giữa các vùng miền và dân tộc thiểu
số. Các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa vẫn gặp nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế và cơ sở hạ
tầng, tạo nên khoảng cách về mức sống giữa các khu vực. Điều này không
chỉ làm giảm hiệu quả phát triển kinh tế quốc gia mà còn tạo ra nguy cơ về
bất ổn xã hội.Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội năm
2022, tỷ lệ hộ nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc cao hơn so với các tỉnh
đồng bằng, với tỷ lệ nghèo ở Lai Châu và Hà Giang lên tới trên 40%. Điều
này làm rõ sự chênh lệch trong phát triển kinh tế giữa các vùng, kéo theo bất bình đẳng về cơ hội. lOMoAR cPSD| 61425750
Và điểm hạn chế cuối cùng là vấn đề thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu
quả: Cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực vẫn còn yếu, đặc biệt là trong
quản lý DNNN và các dự án công. Việc kiểm soát quyền lực chưa thực sự
chặt chẽ dẫn đến các vấn đề tham nhũng và lạm quyền, gây ra những thất
thoát lớn cho ngân sách nhà nước và giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Những tồn tại này không chỉ cản trở sự phát triển kinh tế mà còn gây mất
lòng tin trong xã hội đối với cơ chế quản lý. Một ví dụ điển hình là vụ bê bối
Vinashin năm 2010, khi tập đoàn này bị phát hiện quản lý yếu kém và tham
nhũng, dẫn đến tổn thất lớn cho ngân sách nhà nước. Vụ việc đã làm nổi bật
vấn đề kiểm soát quyền lực và sự thiếu minh bạch trong việc sử dụng tài sản
nhà nước, cũng như sự yếu kém trong hệ thống kiểm tra, giám sát DNNN.
Để khắc phục, Việt Nam cần tập trung vào việc quán triệt cải cách hệ thống
pháp luật, tăng cường sự minh bạch, công bằng và tính hợp lý trong phân bổ
nguồn, nâng cao hiệu quả giám sát quyền lực, xử phạt nghiêm những trường
hợp tham ô, tham nhũng, lạm quyền, trục lợi trên công sức của cá nhân, tập
thể; đầu tư giáo dục bền vững cho nhân dân khu vực miền núi, địa hình hiểm
trở hay hoàn cảnh khó khăn nhằm hướng tới sự phát triển bền vững và bình
đẳng cho mọi thành phần trong xã hội. Minh chứng cụ thể là chiến dịch “Đốt
lò” được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi xướng từ năm 2013, đây là
chiến dịch chống tham nhũng quy mô lớn và đã đạt được vô số thành tựu,
đưa sự thật ra ánh sáng, xử phạt nghiêm minh những kẻ trục lợi, tham ô,
tham nhũng. Chiến dịch đã tiến hành rất nghiêm và sẽ được Đảng và Nhà
nước ta tiếp tục thực thi dù là dưới thời kì của bất kì nhà lãnh đạo hay thời điểm nào. PHẦN KẾT LUẬN
Kế thừa lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quan
điểm lý luận phù hợp, chặt chẽ và hiệu quả cho nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN Việt Nam. Người nhấn mạnh rằng trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt và định hướng
sự phát triển chung của toàn nền kinh tế, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát
triển, đóng góp cho xã hội; thúc đẩy hợp tác và đảm bảo bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam. Với quan lOMoAR cPSD| 61425750
điểm lý luận chặt chẽ, chủ tịch Hồ Chí Minh hướng tư tưởng của Đảng, của dân
và của quân đến lý tưởng và hành động nâng cao đời sống của toàn xã hội và
từng bước hiện thực hóa lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Tiếp thu và làm theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã tiến hành đổi mới suốt 35 năm qua theo định
hướng kinh tế thị trường XHCN và đạt được những thành tựu to lớn, cải thiện
đời sống nhân dân, mở cửa hội nhập quốc tế, ký kết hợp đồng thương mại tự
do, tăng cao mức thu nhập từ thấp đến trung bình, đưa đất nước lên một cương
vị hoàn toàn khác, nâng cao khai thác từng thành phần kinh tế, cải thiện an sinh
xã hội, chính trị ổn định. Song, tuy vẫn còn một vài hạn chế như tính minh bạch
của pháp luật, sự rườm rà trong các thủ tục gây cản trở trong kinh tế, sự lỏng
lẻo, lạm quyền trong quản lý gây nên tham ô, tham nhũng. Tuy nhiên tất cả
những hạn chế đều có thể được khắc phục với đường lối, chính sách quán triệt
của Đảng cùng sự cố gắng của toàn dân, toàn quân. Tất cả đều đang cố gắng
trên con đường kinh tế định hướng XHCN cho công cuộc đi lên CNXH trong
thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, 2019
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, 2019
3. Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 10, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự
thật, 2000, trang 132-133.
4. Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 12, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự
thật, 2000, trang 556-557.
5. Nguyễn Phú Trọng. "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa -
Quan niệm và giải pháp phát triển." Tạp chí Cộng sản.
6. Nguyễn Trọng Nghĩa. "Thành tựu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới." Tạp chí Cộng sản. lOMoAR cPSD| 61425750
7. "Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam." Tạp chí Tài chính.