-
Thông tin
-
Quiz
Tìm hiểu về mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóacủa Đảng. Vì sao mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 không đạt được? môn Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Đường lối Đổi mới của Đảng đã mở ra một thời kỳ phát triển mới,mang lại những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Từ một đất nước kiệt quệ bởi 30 năm chiến tranh khốc liệt, Việt Nam đã vượt qua đói nghèo, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng đất nước ngày càng to đẹp, đàng hoàng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Lịch sử ĐCSVN 60 tài liệu
Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội 1.2 K tài liệu
Tìm hiểu về mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóacủa Đảng. Vì sao mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 không đạt được? môn Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Đường lối Đổi mới của Đảng đã mở ra một thời kỳ phát triển mới,mang lại những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Từ một đất nước kiệt quệ bởi 30 năm chiến tranh khốc liệt, Việt Nam đã vượt qua đói nghèo, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng đất nước ngày càng to đẹp, đàng hoàng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lịch sử ĐCSVN 60 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội 1.2 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
Preview text:
lOMoAR cPSD| 47270246
ĐỀ LÀM TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG
CHỦ ĐỀ5: Tìm hiểu về mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của Đảng. Vì sao mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 không đạt được? A.Lời mở đầu
Đường lối Đổi mới của Đảng đã mở ra một thời kỳ phát triển mới, mang lại
những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Từ một đất nước kiệt quệ bởi 30 năm
chiến tranh khốc liệt, Việt Nam đã vượt qua đói nghèo, không ngừng cải thiện
đời sống nhân dân, xây dựng đất nước ngày càng to đẹp, đàng hoàng. Từ một
quốc gia bị bao vay cấm vận, tưởng như không có đường ra, Việt Nam đã rộng
mở vòng tay, kết nối bạn bè , làm ăn với các đối tác, giao lưu với các dân tộc,
quốc gia trên khắp năm châu, nâng cao vị thế dân tộc trên trường quốc tế. Đất
nước đang từng ngày, từng giờ thay da đổi thịt. Nhân dân ngày càng ấm no,
hạnh phúc hơn. Bạn bè thế giới ngày càng trân trọng, đối tác quốc tế ngày càng
tin cậy. Đó chính là kết quả của sự gặp gỡ giữa ý Đảng và lòng dân, là biểu hiện
sức manh, trí tuệ sáng tạo của nhân dân được Đảng khai mở, phát huy trong
từng định hướng xây dựng, phát triển kinh tế đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới!
“Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng chú trọng và ngày càng dựa nhiều
hơn vào các nhân tố thúc đẩy tăng năng suất lao dộng, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực, đặc biệt là phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc,
trí sáng tạo của con người Việt Nam”. Đó là định hướng xuyên suốt của Nghị
quyết số 05-NQ/TW do Ban Chấp hành Trung ương xây dựng tại Hội nghị lần
thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Đổi mới mô hình tăng
trưởng, yếu tố quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế. B.Nội dung
1. Những hạn chế trong đường lối CNH, HĐH của Đảng giai đoạn 1958 – 1985. 1 lOMoAR cPSD| 47270246
-Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước
trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu
nhập bình quân đầu người thấp. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng,
tập trung vào các ngành công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài
nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong
khu vực. Chỉ số ICOR ngày càng cao, cao hơn nhiều so với các nước trong khu
vực ở vào thời điểm có trình độ phát triển như nước ta. -
Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao; tài nguyên,
đất đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng.
Nhiều nguồn lực trong dân chưa được phát huy. -
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn
chậm. Trong công nghiệp, các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao còn ít. Trong
nông nghiệp, sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ với thị trường. Nội dung công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn thiếu cụ thể. Chất lượng
nguồn nhân lực của đất nước còn thấp. Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn
cao, tỷ trọng lao động qua đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm và không việc làm còn nhiều. -
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh
vào cơ cấu kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả
thấp và chưa được quan tâm đúng mức. -
Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng,
chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và khả năng
phát triển của các thành phần kinh tế. -
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh
vào cơ cấu kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả
thấp và chưa được quan tâm đúng mức. 2 lOMoAR cPSD| 47270246 -
Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng,
chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và khả năng
phát triển của các thành phần kinh tế. -
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lý
kém, chưa phù hợp với cơ chế thị trường. -
Nhìn chung, mặc dù đã cố sắng đầu tư, nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
2. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc,
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Từ nay đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục
tiêu cụ thể. Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
3. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng
Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong
nước và quốc tế, Đảng ta nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Dưới đây khái
quát lại những quan điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới: 3 lOMoAR cPSD| 47270246
Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp hóa là quá
trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Kinh tế tri
thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất.
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri thức
đã phát triển. Chúng có thể và cần thiết không trải qua các bước phát triển tuần
tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri
thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải là nóng vội duy ý chí. Vì
vậy, Đại hội X của Đảng chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền
kinh tế và của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tại Đại hội XI của Đảng nhấn
mạnh thêm: "thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế
hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ".
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thời kỳ đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần. Do đó, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa không phải chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn
dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường không những khai
thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế, mà còn sử dụng chúng có
hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh
toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tể đối ngoại nhằm thu hút 4 lOMoAR cPSD| 47270246
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm
quản lý tiên tiến của thế giới… sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn nhằm khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ các
sản phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao. Nói cách khác, đó
là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói
chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố
con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố
chủ yếu là: vốn; khoa học và công nghệ; con người; cơ cấu kinh tế; thể chế
chính trị và quản lý nhà nước, trong đó con người là yếu tố quyết định. Để phát
triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hỏa
đất nước cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực
lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý cũng như đội ngũ công
nhân lành nghề giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả
năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thể
giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm
chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói
chung. Nước ta nên lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và
tiềm lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình 5 lOMoAR cPSD| 47270246
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển
khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc.
Năm là, phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó,
trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ như vậy mới
có khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các
vùng... Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi người đều được
hưởng thành quả của phát triển.
4. Nguyên nhân mà mục tiêu trở thành nước công nghiệp năm 2020
không đạt được?
Vì có rất nhiều yếu tố đã chứng tỏ việt nam không thể trở thành nước
công nghiệp. Trước hết đó là kế hoạch khá dài hơi và tương đối tham
vọng .Được đặt ra khi bắt đầu mở cửa năm 1987 cho đến khi kết hức
năm 2020 thì thời gian đã được hơn 30 năm. Trong 30 năm, thời gian đó
đủ để nước nông nghiệp thành công nghiệp điển hình. Kế hoạch công
nghiệp hóa của việt nam khá mơ hồ vì chúng ta không có các biện pháp
hiểu qua để thực hiện mục tiêu này. Quan trọng nhất nền kinh tế Việt
Nam trong những năm qua vẫn chỉ là số GDP nó không liên quan đến
công nghiệp hóa. Đó là chưa kể một thực tế rằng, nền kinh tế toàn cầu
đang dần diễn ra theo xu hướng toàn cầu hóa, nơi các nền kinh tế của
các quốc gia liên kết chặt chẽ với nhau theo chuỗi chứ không riêng lẻ
như trước, vì thế mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo các tiêu
chuẩn cũ đã không còn phù hợp nữa. Khi các nền kinh tế phát triển trên 6 lOMoAR cPSD| 47270246
thế giới đang tiến từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức,
việc Việt Nam tiếp tục theo đuổi mục tiêu trở thành một nước công
nghiệp theo các tiêu chuẩn cũ thậm chí có thể trở thành một hướng đi
lạc lõng Nói cách khác, Việt Nam trên thực tế đang đi theo con đường
hướng tới nền kinh tế thị trường, với mục tiêu chủ đạo là tốc độ tăng
trưởng GDP cao, nhưng lại không có một chiến lược cặn kẽ và có hiệu
quả để hỗ trợ cho hướng đi mới này do vẫn bị mục tiêu công nghiệp hóa
đặt ra trước đó chi phối. Và công nghiệp hóa đòi hỏi nguồn vốn cao và
trình độ công nghệ nó gây khó khăn cho doanh nghiệp nước ta. Đồng
thời chính sách nhà nước lại không hề hỗ trợ các doanh nghiệp. Vì vậy
Việt Nam không thể trở thành nước công nghiệp hóa được. 5. Giải pháp
Để Việt Nam sớm trở thành nước công nghiệp và có nền công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ngày cảng hiện đại, chúng ta cần đề ra một số giải pháp như:
-Cần tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, chuyển đổi mô hình kinh tế.
- Tăng hiệu quả huy động, phát triển nguồn lực tài chính.
-Tăng cường hiệu quả sự phân bổ và sử dụng nguồn lực một cách hợp lí.
-Phát triển các yếu tố tiền đề CNH-HĐH ( phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn lực, ..).
-Phát triển khoa học – công nghệ và phát triển nông nghiệp nông thôn ngày càng
vững mạnh. Đặc biệt là tập chung tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế, phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy nền kinh tế vùng phát triển vững mạnh. 7 lOMoAR cPSD| 47270246 C – KẾT LUẬN
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam là quá trình chuyển đổi từ nông
nghiệp thủ công sang máy móc công nghiệp là chính.Trong bối cảnh cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 đang lan rộng ra toàn cầu như hiện nay, Việt Nam muốn
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải thực hiện những
giải pháp mang tính đồng bộ, phải quyết liệt chuyển đổi mô hình kinh tế, nâng
cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn; chú trọng quá trình tái cơ cấu nền kinh
tế, góp phần phát huy khả năng cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, địa phương,
ngành, sản phẩm. Bên cạnh đó, cần chú ý nâng cao vai trò định hướng của Nhà
nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với thu hút đầu tư của khu vực
tư nhân; tạo các cơ chế tài chính, hình thành các chính sách phù hợp khuyến
khích đầu tư. Chỉ khi thực hiện được cái giải pháp một cách hợp lý, đồng bộ và
hiệu quả thì quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới càng được đẩy mạnh
phát triển, đóng góp quan trọng cho việc xây dựng một nước Việt Nam ngày
càng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
CHỦ ĐỀ 2: Tìm hiểu nội dung đường lối đối ngoại của Đảng
trong thời kỳ đổi mới (1986 – 2016)? A. Lời Mở Đầu
Đối ngoại là một lĩnh vực rất cơ bản của một quốc gia, là chiếc cầu nối
giữa dân tộc và nhân loại, giữa đất nước và thế giới. Hoạt động đối ngoại không
chỉ thể hiện ở tài năng, vị thế của một quốc gia trên trường quốc tế, mà còn hàm
chứa trong đó cả yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ngày nay, trước xu thế khách quan của toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và nhanh
chóng, hoạt động đối ngoại ngày càng được mở rộng, vai trò và vị trí của nó
càng trở nên quan trọng trong chiến lược quan hệ quốc tế giữa các quốc gia.
Không có một quốc gia nào không quan tâm đến chiến lược đối ngoại.
Đối với nước ta, trong thời chiến cũng như trong thời bình, Đảng ta đều
coi trọng công tác đối ngoại, xem chính sách đối ngoại là một bộ phận không
thể thiếu trong đường lối cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, từ sau Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện, trong đó có đổi mới đường lối đối ngoại của Đảng, công tác đối
ngoại của Việt Nam đã mở ra một bước ngoặt mới, hoạt động đối ngoại được 8 lOMoAR cPSD| 47270246
tăng cường và mở rộng hơn. Với đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng, hoạt
động đối ngoại của Việt Nam có hiệu quả hơn, Việt Nam có quan hệ ngoại giao
với nhiều nước trên thế giới, bạn bè thế giới hiểu rõ hơn về đất nước và con
người Việt Nam. Vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Để góp phần vào việc nghiên cứu đường lối đối ngoại của Đảng nói
chung, trong phạm vi tiểu luận này sẽ đi sâu nghiên cứu: Nội dung đường lối đối
ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1986 – 2004. B. Nội Dung
1. Cơ sở và nhu cầu đổi mới thể chế đối ngoại.
-Sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa và cách mạng đổi mới khoa học công
nghệ đòi hỏi tư duy đối ngoại phải đổi mới.
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để chỉ sự gắn kết và trao đổi ngày càng tăng
giữa các quốc gia, các tổ chức về mọi lĩnh vực trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt
trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá được dùng để chi xu hướng «tự do thương
mại» và kéo theo các dòng chảy kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hóa ở quy mô toàn cầu.
Đại hội IX , lần đầu tiên Đảng cộng sản Việt Nam đưa ra nhận định: «Toàn cầu
hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia».
Xu thế này được đặc trưng bởi các yếu tố sau: Lực lượng sản xuất và quan hệ
kinh tế quốc tế vượt khỏi biên giới quốc gia và phạm vi từng khu vực, lan tỏa ra
phạm vi toàn cầu; Sự phân công lao động mang tính quốc tế, mối quan hệ kinh
tế giữa các quốc gia, khu vực, đan xen nhau, hình thành mạng lưới đa tuyến, vận
hành theo các «luật chơi chung»; Trong xu thế ấy, các nền kinh tế quan hệ ngày
càng mật thiết với nhau, tùy thuộc lẫn nhau. Đại hội X , Đảng đã bổ sung một
đặc trưng quan trọng: Các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực tài chính lớn,
công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến, có vai trò ngày càng quan trọng trong toàn cầu hóa kinh tế.
Do đó nước ta không thể đứng ngoài xu thế toàn cầu hóa, tồn tại biệt lập như
một ốc đảo trong thế giới đang toàn cầu hóa.
-Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước đang phát triển phải tăng
cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công
nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý.
- Nguy cơ Việt Nam tụt hậu xa hơn về kinh tế với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa, hội nhập.
Quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn 1975-1986 diễn biến phức tạp; Mỹ 3
lần phủ quyết Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc; quan hệ Việt Nam Trung 9 lOMoAR cPSD| 47270246
Quốc ngày càng xấu đi, ngày 17/2/1979, Trung Quốc đem 60 vạn quân bất ngờ
tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc.
Quan hệ quốc tế giữa Việt Nam và Campuchia căng thẳng. Năm 1975 Khơme
đỏ gây ra nhiều vụ khiêu khích trên biên giới đất liền và biển; ngày 31/12/1977
họ cắt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ngày 23/12/1978 Khơme đỏ gây chiến
tranh biên giới Tây Nam, Việt Nam buộc phải đánh trả và theo yêu cầu của Mặt
trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam vào
Campuchia, giúp nhân dân nước này lật đổ chế độ diệt chủng và hồi sinh đất nước.
2. Quá trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Đảng ta
Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình thành
đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994 ) và Đại hội VIII
(tháng 6 1996) của Đảng ta đã chính thức khẳng định đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần “Việt
Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phần đầu vì hòa
binh, độc lập và phát triển”.
-Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định Đảng và Nhà nước ta
tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đổi ngoại đó với một tinh thần mạnh mẽ
hơn và một tâm thể chủ động hơn bằng tuyên bố “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phần đầu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
-Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó để cập nhiều nội dung
hết sức quan trọng về đối ngoại, đặc biệt là ba vấn đề về các mâu thuẫn của thế
giới hiện nay ; về lợi ích của Việt Nam; về đối tượng, đối tác. Hội nghị Trung
ương 8, khóa IX đã khẳng định một lần nữa: “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia”,
“kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất
của Tổ quốc”. Hội nghị cũng đã nhấn mạnh cách nhìn biện chứng về đối tượng,
đối tác: “trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác trong một
số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”, làm cơ sở mở
rộng và phát triển các mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh với các chủ thế quan hệ quốc tế.
-Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định: “Thực hiện nhất quản
đường lối đổi ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển chính sách
đổi ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động 10 lOMoAR cPSD| 47270246
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các
lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiền trình hợp tác quốc tế và khu vực.
II. Đường lối của đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề đối ngoại
Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt
Nam diễn ra cùng một lúc trên 4 mặt
- Một là, tạo dựng và củng cố môi trường hòa bình, ổn định cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc củng cố và thúc đẩy các mối quan hệ
song phương, nhất là quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu
vực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng
này. Nhận thức rõ điều đó, hoạt động đối ngoại đã tập trung giải quyết vấn đề
Campuchia và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Đồng thời triển khai
mạnh mẽ các hoạt động ngoại giao song phương cấp cao với các nước ASEAN,
chủ động tham gia các hoạt động của Hiệp hội và năm 1995, Việt Nam chính
thức tham gia ASEAN. Hoạt động đối ngoại cũng đã góp phần kiên quyết đấu
tranh chống âm mưu và hành động lợi dụng chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”
và “tự do tín ngưỡng” để can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam. Toàn bộ các
hoạt động đã góp phần quan trọng và thiết thực vào việc tạo dựng môi trường
khu vực tương đối ổn định và thuận lợi cho đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
-Hai là, ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi góp phần vào
công cuộc phát triển đất nước, mở rộng hợp tác kinh tế. Đây là một nhiệm vụ
trọng tâm của ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới. Nhờ những thành tựu quan
trọng của công cuộc đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ quốc tế Việt Nam đã làm thất bại chính sách bao vây cảm
vận của Mỹ và đồng minh, mở rộng và đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy quan hệ
kinh tế thương mại song phương với hơn 130 nước và lãnh thổ, đón nhận nguồn
đầu tư trên 36 tỷ USD của hơn 60 nước và lãnh thổ, tranh thủ hơn 13 tỷ USD từ
nguồn viện trợ ưu đãi chính thức của các chính phủ và các tổ chức quốc tế và
hàng tỷ USD viện trợ không hoàn lại của nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế
thuộc hệ thống Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ. Việc tạo dụng môi
trường quốc tế hòa bình, tăng cường hợp tác , mở rộng thị trường tranh thủ vốn,
công nghệ phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước cũng là sự đóng góp trực
tiếp và thiết thực cho yêu cầu bảo đảm an ninh. Dưới tác động của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, lực lượng sản xuất phát triển nhanh và quốc tế hóa
cao độ đẩy nhanh xu thế toàn cầu hóa. Trong bối cảnh đó, các nước đầu tìm
cách giành cho mình một vị thế xứng đáng trong phân công lao động quốc tế,
tranh thủ vốn, công nghệ kỹ năng quản lý để phát triển đấu tranh để bảo vệ lợi
ích của mình. Nhận rõ xu thế đó. Việt Nam đã đề ra chủ trương hội nhập và kiên
trì thực hiện chủ trương đó. Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã quyết định “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. 11 lOMoAR cPSD| 47270246
- Ba là, nâng cao vị thế nước nhà trên trường quốc tế. Thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, đến nay Việt Nam đã
có quan hệ ngoại giao với 167 nước thuộc tất cả các châu lục và lần đầu tiên
trong lịch sử có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các ủy viên thường
trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Có thể nói ngoại giao đã phương là
một điểm sáng trong hoạt động ngoại giao thời đổi mới.
-Bốn là, chủ động tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các hoạt động đối
ngoại phong phú, đa dạng cả theo đường Đảng lẫn Nhà nước và các hoạt động
quốc tế nhân dân đã góp phần duy trì và cũng cố quan hệ đoàn kết hữu nghị với
các đảng phải chính trị, trước hết là các Đảng cộng sản và công nhân, các tổ
chức tiến bộ đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, từ đó tranh thủ sự
hỗ trợ về chính trị có lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng đã nêu: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hoả, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế , đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt
Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích
cực vào tiền trình hợp tác quốc tế và khu vực. Chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước. C. Kết Luận
Xuất phát từ đặc điểm tình hình thế giới và tình hình trong nước, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã quyết định đổi mới toàn
diện đất nước, trong đó có đổi mới đường lối đối ngoại của Việt Nam. Trải qua
các kỳ Đại hội lần thứ VII, VIII, IX của Đảng và các Nghị quyết hội nghị Ban
chấp hành Trung ương, các Nghị quyết của Bộ Chính trị, đã từng bước bổ sung,
phát triển, hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng cho phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam và thích ứng với tình hình quốc tế. Đó là
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Với đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng, hoạt động đối ngoại của Việt
Nam trong gần 20 năm qua đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, phá thế bao
vây, cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam. Mở rộng được quan hệ song phương và
đa phương với nhiều nước trên thế giới; tham gia và gia nhập vào nhiều tổ chức
kinh tế quốc tế và khu vữc, thu hút được một khối lượng lớn vốn từ bên ngoài
cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đối ngoại cũng góp
phần đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh tế nước ta 12 lOMoAR cPSD| 47270246
có bước phát triển mới, tạo ra thế và lực của Việt Nam vững bước đi lên trên
thương trường và chính trường quốc tế trong thế kỷ XXI.
CHỦ ĐỀ 1: Trình bày cơ sở và nhu cầu đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế. A. LỜI MỞ ĐẦU
(Tự viết nhé buồn ngủ rồi byeeee) B. NỘI DUNG
1 .Các khái niệm Mô hình tăng trưởng và Cơ cấu kinh tế :
Mô hình tăng trưởng kinh tế là cách thức một quốc gia tổ chức huy động và
sử dụng các nguồn lực để đảm bảo có sự tăng trưởng kinh tế qua các năm với
tốc độ hợp lý. Tương ứng với mỗi mô hình tăng trưởng, các quốc gia có một cơ
cấu kinh tế phù hợp với điều kiện nguồn lực của mình. Khi gia tăng đầu tư thêm
các yếu tố nguồn lực đầu vào mà tổng sản lượng của nền kinh tế (GDP) không
tăng thì đó là lúc cần đổi mới mô hình tăng trưởng.
Cơ cấu ngành kinh tế bao gồm các ngành hình thành nên nền kinh tế. Cơ cấu
ngành kinh tế được chia thành 3 nhóm Nông – lâm – ngư nghiệp, Công nghiệp –
Xây dựng và dịch vụ. Ở các nước phát triển có dịch vụ, công nghiệp chiếm tỉ
trọng cao trong khi ở các nước đang phát triển thì nông nghiệp chiếm đa số, dù
công nghiệp và dịch vụ đã tăng mạnh.
Cơ cấu thành phần kinh tế được chia thành kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà
nước và kinh tế tư nhân.
Với bất kỳ quốc gia nào, việc đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao là một trong 5
mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô của mọi quốc gia trên thế giới. Tăng
trưởng kinh tế tạo ra sự thịnh vượng chung của cộng đồng và tạo điều kiện cho
cộng đồng tiêu dùng nhiều hơn hàng hóa dịch vụ. Hơn nữa, tăng trưởng đóng
góp vào việc cung cấp nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ xã hội (y tế, giáo dục,
v.v.) qua đó cải thiện mức sống thực tế, ổn định xã hội.
Kết thúc đổi mới giai đoạn 1986-2010, Việt Nam đã ra khỏi tình trạng ngước
nghèo (1000 USD/người), chậm phát triển, bước vào nhóm nước đang phát
triển, có thu nhập trung bình (1168 USD/người), trở thành quốc gia đang chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới.
Mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến tăng trưởng kinh tế vượt bậc như thế
nhưng Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với tái cơ cấu lại nền kinh tế đảm bảo
phát triển nhanh và bền vững lại được coi là những tư tưởng kinh tế cốt lõi trong
các văn kiện Đại hội XI và Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam. Vậy đâu là lý
do buộc Việt nam phải đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế?
Chủ trương địnhhướng của Đảng ta hiện nay trong lĩnh vực này như thế nào? 13 lOMoAR cPSD| 47270246
2 . Cơ sở và nhu cầu. - Nhu cầu thường xuyên
Trong các nguồn lực tăng trưởng, tri thức khoa học công nghệ là yếu tố động
nhất và là động lực mạnh mẽ nhất cho tăng trưởng. Vì vậy, đổi mới mô hình
tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế là công việc mà các quốc gia cần thực hiện
tương đối thường xuyên và liên tục dưới tác động của cách mạng khoa học -
công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia, giữa các
ngành kinh tế, giữa các sản phẩm và các doanh nghiệp. Điều này đặc biệt
quantrọng hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đối khí hậu toàn cầu.
Theo đánh giá của Đại hội lần thứ XII Đảng cộng sản Việt Nam (2016): “Thời
gian qua, chủ trương của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng đã được cụ thể
hoá, thực hiện đạt được kết quả bước đầu. Mô hình tăng trưởng bước đầu có sự
chuyển đổi, kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; năng suất lao động, năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP), nănglực cạnh tranh quốc gia được cải thiện. Tuy
nhiên, mô hình tăng trưởng ở nước ta còn chậm được đổi mới, về cơ bản vẫn
theo mô hình cũ; tăng trưởng vẫn dựa chủ yếu vào tăng đầu tư và tăng số lượng
lao động, chưa dựa nhiều vào tăng năng suất lao động, ứng dụng khoa học -
công nghệ, đổi mới tổ chức sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại, chất lượng tăng trưởng, năng suất lao
động và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp”.
- Nhu cầu cấp bách do nguy cơ tụt hậu về kinh tế
Sau 30 năm đổi mới, mặc dù kinh tế có bước tiến dài, nhưng Việt Nam hiện vẫn
đang đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu
vực và trên thế giới: tụt hậu khá xa về thu nhập quốc dân theo đầu người, tụt hậu
khá xa về năng xuất lao động, tụt hậu khá xa về giáo dục và nguồn nhân lực chất
lượng cao, tụt hậu khá xa về môi trường đầu tư kinh doanh và cải cách thủ tục
hành chính, tụt hậu khá xa về trình độ khoa học - công nghệ, v.v.
Muốn thu hẹp khoảng cách lạc hậu, Việt Nam phải đổi mới mô hình tăng trưởng
và Cơ cấu lại nền kinh tế.
- Nhu cầu cấp bách để sớm ra khỏi “bẫy thu nhập trung bình”
Từ năm 2011 Việt Nam đã ra khỏi tình trạng một nước nghèo chậm phát triển,
bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. (Trên 1200
USD/đầu người). Nếu đổi mới mô hình tăng trưởng với Cơ cấu lại nền kinh tế
được, Việt Nam sẽ trở thành nước phát triển. Ngược lại, nếu vẫn duy trì mô hình
tăng trưởng và cơ cấu nền kinh tế như lâu nay thì Việt Nam sẽ nằm dài dài trong
“bẫy thu nhập trung bình".
3 . Phương hướng đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế 14 lOMoAR cPSD| 47270246
Nếu Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ XI (2011) là mốc đánh dấu một
giai đoạn mới trong sự phát triển về nhận thức lý luận và thực tiễn công cuộc
đổi mới ở nước ta, lần đầu tiên đánh giá lại mô hình tăng trưởng để định hướng
chiến lược phát triển bền vững cho Việt Nam thì Đại hội Đảng cộng sản Việt
Nam lần thứ XII (2016) chủ trường tiếp tục đồi mới mô hình tăng trưởng, nâng
cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng
Kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với chiều sâu lấy tăng trưởng
theo chiều sâu là hướng chủ đạo; chuyển dần từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào
xuất khẩu và vốn đầu tư sang tăng trưởng dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và
thị trường trong nước; phát huy vai trò quyết định của nội lục, đồng thời thu hút
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài.
- Nội dung cơ cấu lại nền kinh tế
+ Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các
ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng.
+ Phát huy đầy đủ đúng đắn vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp FDI và khu vực sản xuất nông nghiệp.
+ Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là đột phá về thể chế
kinh tế thị trường định hướng xãhội chủ nghĩa nhằm giải phóng mạnh mẽ sức
sản xuất, huy động phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. C. KẾT LUẬN
Trong các nguồn lực tăng trưởng, tri thức khoa học công nghệ là yếu tố động
nhất và là động lực mạnh mẽ nhất cho tăng trưởng. Vì vậy, đổi mới mô hình
tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế là công việc mà các quốc gia cần thực hiện
tương đối thường xuyên và liên tục dưới tác động của cách mạng khoa học -
công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia, giữa các
ngành kinh tế, giữa các sản phẩm và các doanh nghiệp. Điều này đặc biệt
quantrọng hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa và biến đối khí hậu toàn cầu.
Thực tế, hiện nay Việt Nam đã rơi vào cái bẫy này do chậm đổi mới thể chế
chính trị. Thế giới đánh giá Việt Nam là mô hình không chịu phát triển. Bao lâu
nay Việt Nam vẫn duy trì mô hình tăng trưởng theo chiều rộng. Hậu quả của 15 lOMoAR cPSD| 47270246
việc duy trì mô hình tăng trưởng theo chiều rộng này là: phụ thuộc nhiều vào
vốn đầu tư, năng suất lao động thấp, cạn kiệt tài nguyên, gây bất ổn về kinh tế
và xã hội, môi trường. Bởi vậy, Việt Nam tuy có tăng trưởng dương và đứng
trong nhóm quốc gia có thu nhập trung bình nhưng hiện đang tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới từ thu nhập quốc dân theo
đầu người, đến năng suất lao động, giáo dục và nguồn nhân lực chất lượng cao,
môi trường đầu tư kinh doanh và trình độ khoa học - công nghệ, v.v. Vì thế đổi
mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế là một nhu cầu hết sức cấp
bách để thu hẹp khoảng cách lạc hậu, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
Tóm lại, đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế hiện nay luôn là
vấn đề thường xuyên và cấp bách của nước ta. 16