Tìm hiểu về Nhã nhạc Cung đình Huế - Cơ sở Văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tìm hiểu về Nhã nhạc Cung đình Huế - Cơ sở Văn hóa Việt Nam | Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam(CSVHVN)
Trường: Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐHQG HÀ NỘI
BỘ MÔN NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM ______________________ BÀI TẬP
MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Học kỳ I năm học 2021 - 2022
Đề tài: Tìm hiểu về Nhã nhạc cung đình Huế
Danh sách nhóm thực hiện đề tài: STT Họ và tên MSSV Số Số điện Ghi chú thứ thoại tự 1 Nguyễn Ngọc Hiếu 21041214 339 0359812867 Trưởng nhóm 2 Lê Thị Hồng 21041168 361 0388186223 3 Nguyễn Minh Huyền 21041216 389 0336186646 4 Nguyễn Thị Mai Hương 21041219 412 0918498203 5 Nguyễn Thị Ngọc Lan 21041220 441 0389036407 6 Đỗ Thị Nhàn 21041231 675 0923214025 7 Quản Thị Thảo 21041061 816 0337558958 8 Đinh Thị Huyền Trang 21041237 877 0369030089 9 Phạm Minh Trang 21041199 914 0522901785 10 Bùi Thị Yến 21041245 995 0384304072
Hà Nội, tháng 12 năm 2021 1 MỤC LỤC
I. LÝ DO CHỌN CHỦ ĐỀ………………………………………………. 3
II. NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ…………………………………….. 4
1. GIỚI THIỆU NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ…………………….. 4
2. LỊCH SỬ NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ…………………………. 8
2.1. Nguồn gốc ra đời……………………………………………………... 8
2.2. Lịch sử hình thành và phát triển……………………………………… 9
2.2.1. Lịch sử hình thành nhã nhạc qua các thời đại phong 9 kiến ………… 13 2.2.2. Nhã nhạc cung đình Huế ngày 14
nay………………………………….. 14
2.2.3. Phân loại …………………………………………………………… 14
3. GIÁ TRỊ CỦA NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ……………………. 16 3.1. Giá trị nghệ 17
thuật……………………………………………………. 17 3.2. Giá trị văn 18
hóa……………………………………………………….. 21
3.3. Giá trị giáo dục……………………………………………………… 21
3.4. Giá trị giải trí………………………………………………………... 22 4. THÀNH TỰU NỔI
BẬT………………………………………………. 23
5. BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN………………………………………... 5.1. Thuận
lợi……………………………………………………………...
5.2. Khó khăn……………………………………………………………… 2
5.3. Giải pháp………………………………………………………………
III. KẾT LUẬN…………………………………………………………... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….. 26
I. LÝ DO CHỌN CHỦ ĐỀ
Nền âm nhạc dân gian vẫn luôn là niềm tự hào của mỗi người con đất Việt,
là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Âm nhạc dân gian đã khắc sâu
vào lòng mỗi người với những nét ngọt ngào, da diết và sâu lắng trong từng câu từng chữ.
Nền âm nhạc cổ truyền nước ta luôn phản ánh những tính chất của dân tộc
đó, mang những đặc điểm của Việt Nam nói chung, được các thành phần dân tộc
xây đắp nên trong quá trình bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Năm
mươi tư dân tộc anh em, năm mươi tư tính cách riêng biệt nhưng lại cùng một tiếng
nói chung, cùng chung nhịp đập trong dòng chảy của dòng dõi lạc hồng, trong âm
hưởng dân gian nhẹ nhàng sâu lắng thấm đượm sâu vào từng tế bào. Trong đời sống
của nhân dân lao động có tồn tại một loại hình nghệ thuật dân gian mà thuật ngữ
quốc tế thường gọi là phônclo (Folklore). Mọi loại âm nhạc, dù là hiện đại nhất
cũng đều có nguồn gốc từ âm nhạc dân gian. Như vậy, âm nhạc dân gian có tầm ảnh
hưởng vô cùng lớn trong đời sống tinh thần của nhân dân. Thậm chí, qua những câu
từ đằm thắm và da diết ấy ta còn thấy cơ man là hiện thực, là bản chất xã hội được
phản ánh và hiện hữu. Nó phản ánh tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng của người lao
động, nảy sinh ra ngay trong các hoạt động sản xuất và sinh hoạt xã hội của họ.
Giống như trong “ Trăng sáng”, Nam Cao có viết “ Nghệ thuật không cần
phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ
có thể là tiếng khổ đau kia thoát ra từ những kiếp lầm than.”, với âm nhạc, mọi thứ
cũng vậy, vẫn luôn là những thứ trong sáng và chân thật, phản ánh thực nhất những
tâm tư tình cảm vẫn thầm luôn giấu kín trong tim của nghệ nhân. Bởi, một tác phẩm
nghệ thuật chính là kết quả đúc kết từ tình yêu, phải yêu lắm mới có thể đặt bút viết, 3
vắt cạn kiệt dòng suy nghĩ và hiến dâng cả tuổi thanh xuân cùng bầu máu nóng cho âm nhạc.
“Mẹ đà xế bóng chiều sương.
(Âm dương cách biệt, nhớ thương khôn cùng)
Ân sâu nghĩa nặng nhớ thương vô cùng cùng.
Ɲ hớ 9 chữ cù lao khó nhọc,
Phụng mười ân - phụng mười ân tấc dạ khôn phai.
Âm nhạc dân gian được thể hiện qua nhiều thể loại nhạc và với mỗi dân
tộc là có cách thể hiện tình cảm khác nhau. Dân ca Bắc Bộ có nhiều bài nổi tiếng
như “ Mời trầu” “ Cây trúc xinh”, “ Bèo dạt mây trôi” hay là những lời ru da diết
gắn liền với tuổi thơ “ Con cò là cò bay lả, lả bay la…” Đến với dân ca Trung Bộ lại
là màu sắc khác, êm ả hơn, ngọt ngào hơn như “ Lý thương nhau” .” Hò đối đáp”,
“Hát ví” và đi tới Nam Bộ lại là những điệu hò, lý, vè mặn nồng “ Ru con”, “ Bắc
Kim Thang”,... Thậm chí ở từng vùng miền ấy lại chia ra thành các hình thức thể
hiện khác như âm nhạc sân khấu gồm chèo, tuồng, cải lương, …; âm nhạc nghi lễ
gồm hát văn, lễ nhạc Phật giáo và còn nhiều thể loại khác mang âm hưởng dân ca.
Nhịp điệu và âm thanh là vật liệu, là phương tiện, dù có dùng bao từ hoa mĩ cũng
không thể diễn tả hết tâm tư tình cảm mà người sáng tác muốn gửi gắm bởi mỗi
chúng ta cũng đều là những nghệ thuật nhịp điệu.
Dù đã là thế kỉ XXI, nhưng những giá trị cốt yếu nhất của âm nhạc dân
gian vẫn còn được giữ lại và được vận dụng trong thể loại nhạc hiện đại. Chúng ta
có nhạc ballad, nhạc pop, nhạc trữ tình nhưng tất cả vẫn đều giữ lại hơi hướng cổ
điển của thể loại âm nhạc dân gian xưa. Sự phát triển, phát sinh, biến đổi hay tàn lụi
của mỗi thể loại, mỗi tác phẩm đều có những nguyên nhân sâu xa trong lịch sử đời
sống của nhân dân. Điều quan trọng có ý nghĩa phương pháp luận là ở chỗ, chúng ta
phải nhận thức đối tượng nghiên cứu trong môi trường xã hội và nghệ thuật của nó,
từ đó, chúng ta mới có thể xác định được một hệ thống các phương pháp công tác
tối ưu để giữ lại đúng những gì mà thế hệ trước đã gây dựng, giữ lại đúng bản sắc
và nền văn hóa cổ điển trong những năm qua. 4
II. NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
1. GIỚI THIỆU NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
Trong gần 400 năm, từ giữa thế kỷ 16 đến nửa đầu thế kỷ 20, Huế là thủ
phủ của chín đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, tiếp
đến kinh đô của quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay
vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hóa mang giá trị đại diện cho tinh thần
và tâm hồn của dân tộc Việt Nam.Huế là vùng đất của những kiến trúc trầm mặc và
cung điện, đền đài hàng trăm năm tuổi cùng nền ẩm thực đặc sắc chứa đựng hồn
quê, tinh túy của dải đất miền Trung. Nếu xét về mặt văn hóa tinh thần, cố đô còn
có một nét đẹp di sản đặc biệt mà bất kỳ ai khi đặt chân đến Huế đều muốn thưởng
thức. Đó chính là Nhã nhạc cung đình của Huế - nét văn hóa đặc sắc đã được tổ
chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới phi vật thể của nhân loại vào
tháng 11 năm 2003. Bốn nước đồng văn ở khu vực châu Á bao gồm Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam có chung một số điểm tương đồng về văn học -
nghệ thuật. Điển hình là đều sở hữu loại hình âm nhạc cung đình riêng của từng
nước. Ở Việt Nam, hình thức nhạc chính thống thường dùng ở các cuộc lễ tế Giao,
tế Miếu và trong các dịp triều hội được gọi là Nhã nhạc. Tinh hoa này được cô đọng
lại dưới triều Nguyễn, khiến cho Huế càng được khẳng định hơn về một trung tâm
văn hóa tiêu biểu của dân tộc. Đây chính là một thuật ngữ được dùng để chỉ sản
phẩm kết hợp giữa Lễ và Nhạc.
Thông thường, Nhã nhạc (Âm nhạc cung đình) sẽ được hiểu theo nghĩa
là loại hình âm nhạc chính thống, được xem là quốc nhạc, sử dụng trong các cuộc
tế, lễ của triều đình. Các triều đại quân chủ Việt Nam hết sức coi trọng, phát triển
Nhã nhạc, và loại hình âm nhạc này trở thành một biểu tượng cho vương quyền về
sự trường tồn, hưng thịnh của triều đại. Các quy định về quy mô dàn nhạc, cách
thức diễn xướng, nội dung bài bản...của Nhã nhạc đều rất chặt chẽ, phản ánh tính
quy củ qua các định chế thẩm mỹ rất cao, có khả năng phản ánh tư tưởng, quan
niệm triết lý của chế độ quân chủ đương thời. 5
Kể từ thời nhà Hồ đến nay thì tên gọi "Nhã Nhạc" bắt đầu được dùng để
chỉ âm nhạc cung đình nói chung và lễ nhạc cung đình nói riêng. Thậm chí có lúc
dùng để gọi tên một tổ chức âm nhạc nào đó hoặc một dàn nhạc cụ thể.
Vào ngày 7/11/2003 loại hình âm nhạc mang tính bác học đại diện cho
"Âm nhạc cung đình" chính thức được UNESCO ghi tên vào Danh mục Kiệt tác phi
vật thể và truyền khẩu của nhân loại và tôn vinh là Di sản Văn hoá Phi vật thể
Trong cả ba miền đất nước ta đều có những loại nhạc trong dân gian gắn
liền với đời sống con người từ lúc sơ sanh đến khi trở về với cát bụi, bắt đầu từ
những điệu hát ru, đồng dao, hò, lý, đối ca nam nữ cho đến hò đưa linh về cõi chết.
Ca nhạc thính phòng có Ca Trù miền Bắc, Ca Huế miền Trung, Ca Tài Tử miền
Nam. Trên sân khấu có hát Chèo, hát Tuồng, Cải Lương và Bài Chòi. Âm nhạc
trong tôn giáo lại có các lối tán tụng trong Phật giáo, các điệu Chầu văn, Hầu văn, Rỗi bóng.
Nhưng riêng Nhạc Cung Đình chỉ có tại kinh thành Huế, một bộ môn âm
nhạc hết sức độc đáo và vô cùng tinh vi mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa nhận
thức được đầy đủ giá trị độc đáo của nó. Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, đây là bộ
môn âm nhạc duy nhất được ghi vào sử sách từ xa xưa, trải qua bao thăng trầm của
các triều đại, bao biến thiên của thời cuộc mà vẫn còn lưu lại được một di sản đáng
kể có thể sử dụng để nghiên cứu về nhiều mặt: nhạc khí đa dạng, sắp xếp dàn nhạc
tinh vi, nhạc ngữ độc đáo, bài bản dồi dào và quan điểm thẩm mỹ sâu sắc.
Nhạc Cung Đình có một giá trị nghệ thuật rất cao, trước tiên là vì triều
đình có đủ quyền lực chính trị và khả năng tài chính để quy tụ những nhạc sĩ cũng
như nhạc công tài năng từ khắp nơi trong cả nước, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho
họ luyện, trau dồi nghệ thuật để trở thành những nghệ sĩ chuyên nghiệp, sáng tác
dồi dào, biểu diễn tinh vi.
Các nhạc khí được dùng trong Nhạc Cung Đình cũng được đóng rất kỹ,
chạm cẩn khéo léo, tinh xảo hơn nhạc khí dùng trong dân gian, lại có đầy đủ màu
âm: tiếng kim, tiếng thổ, tiếng trong, tiếng đục, tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng tơ,
tiếng trúc, tiếng da, tiếng đá (khánh), tiếng đồng. Về độ cao có tiếng trầm của dây
đài đàn tỳ bà, tiếng cao vút vi vu của tiếng sáo. Dàn nhạc cũng đa dạng và quy mô 6
hơn các dàn nhạc khác. Dàn Đại Nhạc gồm: kèn, trống và bộ gõ, có thể có đàn nhị.
Kèn cũng có nhiều loại: kèn đại, kèn trung, kèn tiểu, không phải loại kèn đồng như
suona của Trung Quốc mà ta gọi là “kèn song hỷ”. Kèn dùng trong Nhạc Cung Đình
là loại kèn bầu, bát kèn làm bằng gỗ. Trống có đủ loại, từ trống lớn nhất là đại cổ,
qua các trống tiểu cổ, một cặp trống võ (tiếng cao tiếng thấp, có âm có dương),
trống một mặt, có bồng, có trống cơm. Tiểu nhạc hay Nhã nhạc gồm những nhạc
khí dùng dây tơ, sáo trúc (vì vậy có khi dàn nhạc được gọi là Ti trúc tế nhạc). Dây
tơ có loại dây khảy như đàn nguyệt hai dây, đàn tam ba dây, tỳ bà bốn dây. Có đàn
dùng cung để kéo như đàn nhị. Bộ gõ bằng gỗ có mõ và phách tiền, bằng kim khí có
chuông lớn chuông nhỏ, đại la, tiểu la, chập chõa. Bộ gõ tuy chỉ gồm ba nhạc khí
mà có trống bịt da một mặt, có tam âm la bằng kim khí, đặc biệt có sinh tiền, một
nhạc cụ vô cùng độc đáo với ba chức năng: gõ, cọ quẹt và rung.
Như vậy, các dàn nhạc chẳng những đa dạng và quy mô mà còn rất đặc
biệt trong sự phối hợp màu âm, không quan tâm đến số lượng mà chú trọng đến chất
lượng. Khi hoà đàn thì không nhạc khí nào có thể át các nhạc khí khác mà mỗi loại
âm thanh đều có thể phân biệt rõ ràng. Trong dàn Nhã nhạc ta có thể nghe tiếng
chững chạc trang nghiêm của đàn nguyệt, tiếng chuyền tiếng rơi vào nhịp ngoại,
tiếng chày, tiếng “phi” bay bướm của tỳ bà, tiếng trong nhờ nhạc công đàn nhị dùng
tay mặt kéo cung, tay trái vuốt ve “nên lời dịu ngọt”, tiếng đục của đàn tam đem
tiếng thổ chen vào tiếng kim của tam âm la, với tiếng nỉ non vi vút “như tiếng hạc
bay qua” của hai ống sáo. Tất cả các nhạc khí cùng hoà nhịp theo tiếng trống, tiếng
trống khi khoan khi nhặt, khi đánh nhịp chánh diện, khi vào nội phách khi ra ngoại
phách. Toàn bộ dàn Nhã nhạc, liên tục trong 10 bài ngự, từ nhịp điệu khoan thai của
mấy bản Phẩm Tuyết Nguyên Tiêu lúc mở đầu, lần lần dồn dập qua các bài Hồ
Quảng, Liên Hoàn, Bình Bán, Tây Mai, Kim Tiền, rộn rã từ Xuân Phong, Long Hổ
đi đến náo nhiệt qua cấp điệu như tiếng vó ngựa trong bài Tẩu Mã. Cũng không có
bộ môn âm nhạc truyền thống nào lại có nhiều thể loại nhạc khác nhau như Nhạc
Cung Đình: gồm có Giao nhạc (dùng trong Lễ Nam Giao, nhà vua làm lễ tế trời đất
ba năm một lần), Miếu nhạc (dùng trong các miếu), Ngũ tự nhạc (năm lễ tế thần),
Đại triều nhạc (tấu trong các lễ lớn như Lễ Vạn thọ, tiếp Sứ thần), Thường triều
nhạc (tấu khi vua lâm triều thường lệ), Đại yến nhạc (tấu trong các buổi yến tiệc), 7
Cung trung chi nhạc (dùng trong cung phủ), Cứu nhật nguyệt giao trùng nhạc (dùng
trong các dịp nguyệt thực, nhật thực).
Ảnh: Dàn nhạc những năm 60
(Nguồn: https://www.vntrip.vn/cam-nang/nha-nhac-cung-dinh-hue-35446,
truy cập ngày 01.12.2021)
2. LỊCH SỬ NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
2.1. Nguồn gốc ra đời
Mặc dù, nguồn gốc của Nhã Nhạc có từ thế kỷ thứ XIII, nhưng nó chỉ đạt
đến độ mức điêu luyện tại cung đình Huế dưới triều Nguyễn (1802 - 1945). Các vị
vua đã dành sự ưu đãi khi ban cho Nhã nhạc một địa vị đặc biệt là âm nhạc chính
thức của cung đình, được chính thức hoá như là biểu tượng về quyền uy và sự
trường thọ của triều đại, được xem như là một phương tiện liên lạc và bày tỏ tôn
kính đến các vị thần linh và bậc đế vương.
Phục vụ như là một phương tiện cho việc truyền đạt những ý tưởng mang
tính triết lý và những khía cạnh về vũ trụ của người Việt Nam. Trong ý nghĩa bao
quát nhất của nó, thuật ngữ Nhã Nhạc không chỉ chứa đựng hệ thống âm nhạc cung
đình dựa trên thang ngũ âm, mà còn bao hàm cả sự trình diễn thực tế, nó được đặc
trưng bởi sự đa dạng của các loại nhạc cụ. 8
Ảnh: Dàn đại nhạc của Nhã nhạc cung đình vào những năm 60
(Nguồn: https://khoahoc.tv/nha-nhac-cung-dinh-hue-di-san-van-hoa-cua-
nhan-loai-66961, truy cập vào ngày 10.12.2021)
2.2. Lịch sử hình thành và phát triển
Từ xưa, Nhã nhạc đã có tiến trình hình thành và phát triển khá rõ ràng. Lịch
sử hình thành cũng như từng giai đoạn phát triển của loại hình nghệ thuật này đã
được ghi lại theo từng giai đoạn. Theo đó, có nhiều thế hệ đã truyền thừa, giữ gìn,
cũng không ngừng phát triển, bổ sung, sáng tạo thêm để loại hình nghệ thuật này
ngày càng trở nên phong phú, tinh tế, để rồi sau đó đạt đến đỉnh cao vào triều đại nhà Nguyễn.
2.2.1. Lịch sử hình thành nhã nhạc qua các thời đại phong kiến
- Dưới thời Vua Đinh (thế kỷ X): Nhã nhạc đã xuất hiện nhưng do tình
hình lịch sử và hoàn cảnh lúc bấy giờ nên không thấy có tư liệu nào để lại và đến thời Tiền Lê cũng vậy.
- Dưới thời nhà Lý (1010-1225): Triều đình đã cho thành lập một tổ chức ca
múa nhạc cung đình với quy mô lên đến hơn 100 người. Được xây dựng trên cơ sở
truyền thống văn hóa văn nghệ dân gian lâu đời của người Việt cổ, sinh hoạt ca múa
nhạc trong cung đình thời Lý đã trở nên khá phong phú về các loại hình và bài bản. 9
Lúc này, cuộc sống giữa quý tộc và dân thường vẫn khá gần gũi nên
các hình thức ca múa nhạc trong cung đình vẫn còn bám rễ và giữ mối quan hệ
khăng khít với dòng âm nhạc dân gian.
Mặt khác, các tài liệu lịch sử và khảo cổ cho thấy âm nhạc cung đình
Việt Nam thời kỳ này đã chịu một số ảnh hưởng nhất định của hai nền văn hóa lân
cận là Trung Hoa và Chiêm Thành. Càng về sau, sự phân hoá giai cấp trong xã hội
càng trở nên rõ rệt, mức độ chính quy hóa về mặt tổ chức trong cung đình Việt Nam
ngày càng cao, dẫn đến sự phân biệt khắt khe hơn trong việc sử dụng các loại dàn
nhạc trong cung đình và ngoài dân gian.
- Dưới thời nhà Trần (1225 - 1400): Cùng với sự xuất hiện của Đại nhạc và
Tiểu nhạc triều đình quy định rõ Đại nhạc chỉ dành riêng cho vua, còn hoàng gia và
các quan lớn khi nào có tế lễ lớn mới được sử dụng; và với Tiểu nhạc thì kẻ trên
người dưới đều dùng được. Đại nhạc và Tiểu nhạc thời kỳ này có biên chế như sau:
Đại nhạc gồm có: trống cơm, ống kèn, tiểu quản, xập xoã, trống lớn; Tiểu nhạc gồm
có: đàn cầm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn thất huyền, đàn song huyền, địch, sái, kèn và quản.
- Dưới thời đại nhà Hồ (1400 – 1407): Bước sang thế kỷ XV, âm nhạc cung
đình Việt có những bước chuyển biến đáng kể. Thời đại nhà Hồ dù tồn tại trong thời
gian rất ngắn nhưng cũng đã tiến hành nhiều cuộc cải cách về văn hóa, kinh tế, xã
hội. Đối với âm nhạc cung đình, nhà Hồ đã chính thức cho du nhập Nhã nhạc cùng
một số nguyên tắc của nó từ Trung Hoa. Nhã nhạc thời kỳ này có sử dụng múa văn
và múa võ. Đây được coi là một trong những nguyên tắc của Nhã nhạc.
- Dưới thời nhà Lê (1427-1788) : Đến thời nhà Lê, Nhã nhạc hoàn thiện với
tư cách là một điển chế. Loại hình nghệ thuật này đã được dành riêng cho giới quý
tộc, bác học với kết cấu phức tạp, chặt chẽ cùng quy mô tổ chức rõ ràng, chi tiết.
Thời kỳ này, Nhã nhạc được phát triển như là loại nhạc chính thống, một thứ tài sản
riêng của triều đình, đối lập với nó là Tục nhạc, tức là dòng âm nhạc dân gian. Như
vậy, trong thời kỳ này, âm nhạc cung đình Việt đã hình thành một dòng âm nhạc
chính thống: quốc nhạc cùng song song với dòng âm nhạc dân gian cùng tồn tại và phát triển. 10
Về quy mô tổ chức: âm nhạc cung đình Việt dưới thời nhà Lê đã trở
nên hoàn thiện và chặt chẽ. Các tổ chức âm nhạc được thành lập, đặt dưới sự cai
quản của các nhạc quan. Thời kỳ này, triều đình định ra các loại nhạc như sau: Giao
nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Cứu nhật nguyệt giao trùng nhạc, Đại triều nhạc,
Thường triều nhạc, Đại Yến nhạc, Cung trung nhạc phỏng theo nguyên tắc Nhã
nhạc nhà Minh của Trung Hoa.
Triều đình nhà Lê cho thành lập 2 tổ chức dàn nhạc là Đường thượng
chi nhạc và Đường hạ chi nhạc với biên chế như sau: Đường thượng chi nhạc gồm:
trống treo lớn, Biên khánh, Biên chung, đàn Cầm, đàn Sắt, Sinh, Tiêu, Quản,
Thược, Chúc, Ngữ, Huân, Trì; Đường hạ chi nhạc gồm có phương hướng treo,
Không hầu, Tỳ Bà, Quản cổ, Quản địch.
Tuy nhiên, sang thế kỷ XVI, XVII và đặc biệt vào giai đoạn cuối triều
Lê, âm nhạc cung đình dần dần đi vào suy thoái. Biên chế các dàn nhạc bị thu hẹp,
Nhã nhạc và Tục nhạc không còn phân biệt rõ rệt như trước nữa, thậm chí một số
dàn nhạc dân gian còn được đưa vào chơi trong cung đình.
- Dưới thời nhà Nguyễn (1802-1945): Khi triều đại nhà Nguyễn lên kế vị,
tình hình trên được cải thiện. Vào nửa đầu thế kỷ XIX, tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội ổn định đã tạo điều kiện cho văn hoá nghệ thuật phát triển, đặc biệt dưới triều
vua Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883).
Âm nhạc cung đình được nhà vua coi trọng và giao cho Bộ Lễ tổ chức
nhiều loại âm nhạc cung đình. Bấy giờ triều đình quy định 7 thể loại âm nhạc: Giao
nhạc, Miếu nhạc, Ngũ tự nhạc, Đại Triều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung nhạc.
Sử dụng trong các loại nhạc này là do các quan trong bộ Lễ biên soạn,
có nội dung phù hợp với từng cuộc lễ của triều đình. Chẳng hạn, trong lễ Tế giao,
có 10 nhạc chương mang chữ Thành (nghĩa là: nên việc, thành công, thành tựu) bao
gồm: An thành tri chương (khúc hát cầu mong mọi sự được yên ổn và thành công)
được diễn tấu trong lễ rước thần về; Triệu Thành tri chương (khúc hát cầu mong sự
khởi đầu tốt đẹp) được diễn tấu trong lễ dâng ngọc lụa; Đăng thành chi chương
(khúc hát cầu mong sự dâng hiến thành công): lễ dâng vật tế (mâm thịt tế); Mỹ 11
thành chi trương (khúc hát cầu mong điềm lành): Á hiến lễ (tuần rượu thứ hai);
Vĩnh Thành chi chương (khúc hát cầu mong sự thành công lâu dài): chung hiến lễ
(tuần rượu thứ ba); Doãn thành chi chương (khúc hát cầu mong sự bằng lòng của
thần): tấu khi hạ cỗ; Hy thành chi chương (Khúc hát cầu mong thần phù hộ, giúp
đỡ): tấu khi tiễn thần đi; Hựu Thành chi chương (khúc hát cầu mong thần phù hộ,
giúp đỡ): tấu khi đốt đồ cúng; Khánh thành chi chương (khúc hát bày tỏ niềm vui
mừng sau sự thành công của cuộc tế lễ): tấu khi vua về cung. Các nhạc chương
được hát lên với sự phụ hoạ của dàn nhạc, cùng sự tham gia của múa Bát dật (gồm
64 văn sinh và 64 võ sinh), tạo nên một khung cảnh hoành tráng, trang trọng.
Tương tự, trong lễ tế Xã tắc có 7 nhạc chương mang chữ Hoà (nghĩa
là sự hài hòa- harmony), tế Lịch đại đế vương có 6 nhạc chương mang chữ Huy
(nghĩa là sự tốt lành), tế văn miếu có 6 nhạc chương mang chữ Văn (nghĩa là có học
vấn- educated), lễ Đại triều dùng 5 bài mang chữ Bình (nghĩa là sự hòa bình-
Peace), Lễ vạn thọ dùng 7 bài mang chữ Thọ (nghĩa là sống lâu- longevity), lễ Đại
Yến dùng 5 bài mang chữ Phúc (nghĩa là may mắn- happiness) vv…
Bên cạnh số lượng phong phú các nhạc chương, có thể nói đây còn là
thời điểm nở rộ của các dàn nhạc cung đình. So với các thời đại trước, triều đình
Nguyễn đã cho bổ sung thêm nhiều loại dàn nhạc như Nhã nhạc, Huyền nhạc, Ti
Trúc Tế nhạc, Ty chung, Ty Khánh, Ty Cổ. Biên chế các dàn nhạc cũng được mở
rộng hơn trước, một số quy mô rất lớn.
Cụ thể các dàn nhạc thời kỳ này có biên chế như sau (Theo Nội các
triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam Hội diễn Sư lệ giữa thế kỷ XIX): Huyền nhạc:
gồm 26 nhạc cụ: 1 kiến cổ, 1 bác chung, 1 đặc khánh, 1 bộ biên chung, 1 bộ biên
khánh, 1 bác phụ, 1 chúc, 1 trống, 2 đàn Cầm, 2 đàn Sắt, 2 bài tiêu, 2 tiêu, 2 địch, 2
Sinh, 2 Huân, 2 Trì, 2 Phách bản. Đại nhạc gồm 42 nhạc cụ: 20 trống, 8 minh già, 4
câu giốc (tù và bằng sừng trâu), 4 sa la, 4 tiểu sa, 2 hải loa (tù và bằng ốc biển). Nhã
nhạc gồm 8 nhạc cụ: 1 trống bản, 1 tỳ bà, 1 đàn nguyệt, 1 đàn nhị, 2 địch, 1 tam âm,
1 phách tiền. Ti trúc tế nhạc: gồm 8 ca sinh và 8 nhạc công. Ty chung- Ty khánh:
gồm 6 nhạc công chơi các nhạc cụ: bác chung, đặc khánh, biên chung, biên khánh.
Ty cổ: gồm 7 nhạc công. 12
Ảnh: Nhã nhạc cung đình Huế vào triều Nguyễn
(Nguồn ảnh: https://trithucvn.org/van-hoa/su-ke-thua-va-phat-trien-cua-nha-
nhac-trieu-nguyen.html, truy cập ngày 01.12.2021)
2.2.2. Nhã nhạc cung đình Huế ngày nay
Ngày nay, Nhã nhạc cung đình Huế với các hình thức như dàn nhạc, ca
chương, bài bản, vũ khúc được diễn xướng trong nhiều dịp như: Festival Huế, lễ hội
Phật giáo, lễ hội dân gian, âm nhạc thính phòng…
Nhã nhạc còn được trình diễn trong các nghi thức ngoại giao, biểu diễn phục
vụ khách du lịch và dân địa phương trong các dịp đại lễ và tết cổ truyền… Chính vì
thế, Nhã nhạc ngày nay vẫn có điều kiện và không gian diễn tấu phong phú. Giá trị
nghệ thuật vẫn được giữ gìn, trường tồn và tiếp tục phát huy.
Nếu có dịp đến Huế, bạn đừng bỏ qua cơ hội thưởng thức, cảm nhận về Nhã
Nhạc Cung Đình qua những tiết mục đặc sắc bên cạnh việc khám phá nét đẹp cố đô
và các món ăn đặc sản. 13
Ảnh: Du khách và bạn bè quốc tế ngồi xem Nhã nhạc Cung đình Huế
(Nguồn ảnh: https://vinpearl.com/vi/nha-nhac-cung-dinh-hue-di-san-van-
hoa-co-do-noi-tieng, truy cập ngày 05.12.2021) 2.2.3. Phân loại
Phần lớn các loại nhạc nghi thức và lễ tế Cung đình là Nhã nhạc. Theo GS
Trần Văn Khê, nhã nhạc tồn tại ở hai loại: Tiểu nhạc và Đại nhạc. -
Đại nhạc gồm 5 nhạc cụ, trong đó có 2 nhạc cụ hơi thổi và 3 nhạc cụ
gõ; chỉ sử dụng trong Cung đình, chỉ có vua, những người trong hoàng tộc và các
quan đại thần mới được dùng trong các đại lễ triều đình -
Tiểu nhạc gồm 5 nhạc cụ dây và 3 nhạc cụ hơi thổi; người giàu kẻ nghèo đều có thể dùng.
3. GIÁ TRỊ CỦA NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
3.1. Giá trị nghệ thuật.
Nhã nhạc Cung đình Huế đã và đang được duy trì phát triển qua hàng
trăm năm, bởi vậy nó mang trong mình giá trị nghệ thuật cực kỳ đặc sắc.
Trước hết, Nhã nhạc có những nhạc sĩ, nhạc công tài ba. Tài nghệ của họ
rất cao, bởi triều đình có đủ điều kiện và khả năng về chính trị lẫn tài chính để quy
tụ lại những nhân tài từ khắp nơi trong mọi miền đất nước. Khi được vời vào cung,
họ được triều đình tạo điều kiện thuận lợi nhất để có nhiều thì giờ và phương tiện 14
cho việc luyện tập kỹ thuật và trau dồi nghệ thuật, trở thành những nhạc sĩ chuyên
nghiệp, với khả năng sáng tác dồi dào, biểu diễn tinh vi. Những con người mang
trong mình niềm đam mê bất tận đối với âm nhạc, nghệ thuật, họ hy sinh, cống hiến
hết mình, dành cả cuộc đời cho Nhã nhạc Cung đình. Khúc Nhã nhạc Cung đình đã
được tấu lên bởi hàng trăm đôi bàn tay điêu luyện, khi thưởng thức những giai điệu
ấy, ta có thể cảm nhận được tình yêu vô bờ bến, tâm huyết dồi dào mà các nhạc sĩ,
nhạc công đã đặt vào.
Tiếp đó là nhạc khí. Nhạc khí được chế tác rất công phu, được đóng ráp
kỹ càng, chạm cần khéo léo, cẩn thận, tỉ mỉ đến từng chi tiết. Hơn hẳn nhạc khí
dùng trong dân gian. Có không dưới 30 chủng loại với số lượng lên tới hàng trăm
nhạc khí. Các nhạc khí dùng trong cung đình có đầy đủ các âm sắc như: tiếng kim,
tiếng thổ, tiếng trong, tiếng đục, tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng da, tiếng khánh, tiếng
đồng,… Về độ cao, có tiếng trầm của dây đàn tì bà, tiếng cao vút vi vu của tiếng
sáo. Những âm sắc này kết hợp với nhau một cách hài hòa, tạo nên một khúc nhạc
hoàn mỹ. Nhã nhạc Cung đình Huế thuộc thể loại khí nhạc dựa trên âm thanh thuần
tuý của các nhạc cụ, nên trừu tượng, gây cảm giác và sự liên tưởng. Đó chính là cái
hay, mang nét đặc biệt khiến người nghe cảm thấy hứng thú.
Các dàn nhạc cũng đa dạng, và quy mô hơn các dàn nhạc khác. Dàn nhạc
cung đình được kết cấu thành hai dàn. Đại nhạc (Cổ súy đại nhạc) gồm kèn, trống
và bộ gõ, có thể có đàn nhị. Kèn có nhiều loại: kèn đại, kèn trung, kèn tiểu. Trống
có đủ loại: từ trống lớn nhất là đại cổ, qua các trống tiểu cổ cho đến cặp trống vỗ
(tiếng cao tiếng thấp, có âm có dương). Bộ gõ bằng gỗ có mõ, có phách tiền; bằng
kim khí có chuông to, chuông nhỏ, đại la, tiểu loa, chập chõa. Tiểu nhạc, gồm
những nhạc khí dùng dây tơ, sáo trúc. Tiểu nhạc hay Nhã nhạc gồm những nhạc khí
dùng dây tơ, sáo trúc (vì vậy có khi dàn nhạc được gọi là Ti Trúc tế nhạc). Dây tơ có
loại dây khảy đàn nguyệt hai dây, đàn tam ba dây, đàn tỳ bà bốn dây. Có đàn dùng
cung để kéo như đàn nhị. Có cả bộ gõ tuy chỉ gồm ba nhạc khí mà có trống bịt da
một mặt, có tam âm la bằng kim khí, có sinh tiền, quán tiền phách, một nhạc khí vô
cùng độc đáo, một nhạc cụ mà có ba chức năng: gõ, cọ quẹt và rung. 15
Các dàn nhạc chẳng những đa dạng và quy mô mà còn rất đặc biệt trong
sự phối hợp màu âm, không quan trọng về số lượng là phải nhiều hay ít mà cần chú
trọng vào chất lượng, chất lượng luôn được đặt lên trên hết. Khi hòa hợp không một
nhạc khí nào có thể át các nhạc khí khác, mà mỗi nhạc khí đều được nghe rõ ràng.
Trong dàn Nhã nhạc ta có thể nghe tiếng chững chạc trang nghiêm của đàn nguyệt,
tiếng chuyền tiếng rơi vào nhịp ngoại, tiếng chày, tiếng "phi" bay bướm của tỳ bà,
tiếng trong nhờ nhạc công đàn nhị dùng tay mặt kéo cung, tay trái vuốt ve "nên lời
dịu ngọt", tiếng đục của đàn tam đem tiếng thổ chen vào tiếng kim của tam âm la,
với tiếng nỉ non vi vút "như tiếng hạc bay qua" của hai ống sáo, tất cả nhạc khí ấy
cùng theo nhịp do tiếng trống bảng dìu dắt, tiếng trống khi khoan khi nhặt, khi đánh
nhịp chánh diện khi vào nội phách khi ra ngoại phách.
Biếu diễn Nhã nhạc cung đình Huế (Nguồn ảnh: https://vinpearl.com/vi/nha-
nhac-cung-dinh-hue-di-san-van-hoa-co-do-noi-tieng, truy cập ngày 05.12.2021)
3.2. Giá trị văn hóa
Nhã nhạc Cung đình Huế bắt nguồn từ âm nhạc dân gian, chọn lọc, tinh
chế và nâng cao cho phù hợp với lối sống và lễ nghi của cung đình. Có thể nói âm
nhạc cung đình mang âm hưởng của âm nhạc dân gian Việt Nam. Bên cạnh đó,
trong quá trình phát triển, âm nhạc cung đình Việt Nam có tiếp thu ảnh hưởng của
âm nhạc cung đình Trung Hoa (ví dụ như quan niệm về vũ trụ và nhân sinh liên 16
quan đến âm dương ngũ hành...) và nền âm nhạc Cham Pa. Đây cũng chính là nét
tương đồng chung của văn hoá phương Đông.
Nhã nhạc mang bản sắc văn hoá đậm nét, mang âm điệu đặc trưng, thể
hiện phong cách, tâm hồn, bản sắc Việt nói chung và Huế nói riêng. Nhã nhạc là
một trong những đại diện của văn hóa cung đình Huế. Về mặt âm nhạc học, Nhã
nhạc có mối liên hệ gần gũi với âm nhạc dân gian Huế, như việc cùng áp dụng một
số loại hơi nhạc đặc trưng như hơi Khách, hơi Dựng.
Trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, hơi nhạc được cấu thành bởi yếu
tố thang âm và các hình thức trang điểm chữ nhạc phù hợp với ngữ điệu giọng nói
của từng địa phương. Vì vậy, hơi nhạc phản ánh rất rõ nét bản sắc văn hóa âm nhạc
riêng của vùng Huế. Với việc áp dụng các loại hơi nhạc của Huế, Nhã nhạc thể hiện
rõ bản sắc văn hóa Huế, đặc biệt là văn hóa cung đình. Tính ưu việt của Nhã nhạc
còn được thể hiện ở chỗ nó đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều loại hình âm
nhạc khác trong vùng như Ca Huế, nhạc Tuồng, nhạc múa cung đình. Và, vượt ra
khỏi vùng đất khai sinh ra nó, Nhã nhạc đã lan tỏa vào miền Nam để khai sinh ra
những hình thức nghệ thuật biểu diễn mới, đó là loại hình Đờn ca tài tử (một loại
nhạc thính phòng) và hình thức sân khấu Cải lương vốn rất phổ biến trên toàn quốc trong mấy thập kỷ qua.
3.3. Giá trị giáo dục
Giá trị giáo dục có tính bao trùm hơn cả bởi lẽ giá trị giáo dục là sự định
hướng xã hội, định hướng lý tưởng, đạo đức và hành vi của con người theo những
chuẩn mực xã hội, thể hiện tính giai cấp, tính giai tộc và tính nhân dân, tính nhân
loại của nền văn hóa. Đứng trước thách thức của thời đại ngày nay, Nhã nhạc Cung
đình Huế cần phải được bảo tồn, gìn giữ cũng như các di sản văn hóa khác. Mỗi
một di sản văn hóa giúp gợi nhớ về lịch sử, quá trình hình thành nên đặc biệt là nhã
nhạc cung đình Huế. Giáo dục mang chức năng của văn hóa, tạo nên sự phát triển
liên tục của lịch sử dân tộc.
3.4. Giá trị giải trí 17
Nhã nhạc Cung đình Huế là một loại hình âm nhạc, là một yếu tố không thể
thiếu trong các buổi đại lễ lớn nhỏ của cung đình Huế. Nó đã trở thành tiếng nói
huyền diệu, cầu nối giữa con người Việt Nam với nhau, cũng như với bạn bè quốc
tế. Nhạ nhạc Cung đình Huế mang lại những giá trị trường tồn trong tâm thức mỗi
con người dân tộc Việt, nhất là đối với người Huế, những giai điệu vẫn còn lưu mãi
trong tiềm thức mỗi con người Việt Nam. Đây chính là một loại hình nghệ thuật thu
hút du khách đến với Huế để tìm tòi, khám phá, trải nghiệm, là yếu tố thúc đẩy phát
triển du lịch nói chung cũng như các loại hình giải trí nói riêng.
Biểu diễn Nhã nhạc cung đình Huế (Nguồn ảnh:
https://viettourist.com/blog/nha-nhac-cung-dinh-hue-di-san-truong-ton-voi-thoi-
gian-pid-.html, truy cập ngày 5.12.2021)
4. THÀNH TỰU NỔI BẬT
Huế được lựa chọn là kinh đô của nước ta dưới triều Nguyễn – triều đại
cuối cùng của đế chế phong kiến nước ta. Đây là nơi Nhã nhạc Cung đình Huế được
hình thành, phát triển đạt được đến đỉnh cao. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử với
biết bao thăng trầm lịch sử của dân tộc ta, Nhã nhạc Cung đình Huế vẫn đã và đang
phát triển với sự đa dạng và phong phú về thể loại. 18
Nhã nhạc Cung đình Huế đặc trưng bởi nó thể hiện tính Vương quyền, độ
uy nghi và hoành tráng của triều đại. Vì là một biểu tượng của tính vương quyền và
về sự trường tồn, hưng thịnh của triều đại nên Nhã nhạc Cung đình rất được coi
trọng và chú trọng phát triển. Chính vì thế, Nhã nhạc Cung đình Huế là loại hình âm
nhạc chính thống và được xem là quốc nhạc của cung đình thời phong kiến Việt
Nam trong suốt 10 thế kỉ. Thông thường nó được biểu diễn vào các dịp lễ hội như
ngày vua đăng quang, vua băng hà và các lễ hội tôn nghiêm khác. Loại hình này đã
được nâng cao, hoàn chỉnh tinh tế dưới triều Nguyễn và càng khẳng định hơn Huế
là một trong những trung tâm văn hoá của dân tộc cũng như các thành tựu to lớn
của loại hình nghệ thuật này.
Trong những năm 1820 - 1840, vua Minh Mạng cho xây dựng Nhà hát
lớn Duyệt thị đường (1824), đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một
Đội nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, lại cho xây dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm
nhạc và hát bội Huế: Thanh Bình từ đường (1825). Trước nhà thờ dựng một tấm bia,
một sân khấu hát bội và ca vũ nhạc. Văn bia cho viết vào đời Minh Mạng, nghệ
thuật âm nhạc và sân khấu đã phát triển tốt đẹp: “Vũ đài xuân rạng hàng ngũ chỉnh
tề, sân khấu mây lồng âm thanh dìu dặt… Khánh chuông ra lệnh xướng hòa, kèn
trống nhịp nhàng đánh thổi". Trải mấy triều vương đều khuyến khích, biết bao âm
nhạc thảy dồi dào. Giữ điện đình ca múa, tô điểm thái vận nước nhà, trên lăng miếu
xướng hòa, ngưỡng đức cai thâm biến núi.
Vào năm 1841 – 1883, vào đời vua Tự Đức, âm nhạc cổ điện, nhã nhạc và
hát bội cung đình đạt tới đỉnh cao. Nhà hát Minh Khiêm đường được xây dựng
(1864) trong Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ gọi là Khiêm lăng). Tương truyền
chính Tự Đức đã sáng tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc đã sáng
tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc và hát bội hơn chính trị, vua
lập nên Hiệu thơ phòng để cùng các danh nho trong triều đình xướng hoa văn thơ,
thưởng thức âm nhạc, sáng tác hay nhuận sắc các vở hát bội. Nhà thơ và nhà soạn
tuồng lỗi lạc thời Tự Đức là Đào Tấn (1845 – 1907).
Vào đầu và giữa thế kỉ XX, Tập san Những người bạn của Huế cổ
kính bằng tiếng Pháp ra đời và xuất bản tổng cộng 120 tập trong suốt 30 năm dưới 19
sự điều khiển của nhà Việt Nam học lỗi lạc L.M. Lesopold Cadière. Nhiều bài
nghiên cứu có giá trị về nhạc Huế được công bố trên tập san, nổi bật nhất là công
trình của nhạc sĩ cổ điển Hoàng Yến (1919): Âm nhạc ở Huế, đàn nguyệt và tranh.
Nếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa
quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh
đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh; thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong
dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là ca Huế
(gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người
Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến
trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân
– Huế. Về Nam cầm – đàn Nam, tương truyền là một nhạc khí dùng trong Ca Huế
tồn tại chưa đầy một trăm năm đã mất tích. Theo nhà nghiên cứu Bửu Cầm, người
chế tác ra nhạc khí này là Nguyễn Phúc Dục – một vị hoàng thân thời Nguyễn chúa
Diệu Tông (1765 – 1777). “Dục rất tinh nhạc lý, xét nghiệm âm điệu tiết tấu chẳng
bao giờ sai lầm. Thương hiềm vì điệu nam rất cao, đàn xưa nhấn nhịp không đúng,
Dục mới chế ra cây nam cầm. Đàn có tám dây, thùng dày và vuông, cần đàn dài ba
thước mộc, hợp đàn cầm, đàn sắt và đàn tỳ bà làm một, tiếng rất thanh, lấn cả đàn tranh, đàn nguyệt”.
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, nhã nhạc cung đình Huế ngày càng
khẳng định được vị thế của mình là một loại hình âm nhạc độc nhất vô nhị của Việt
Nam. Ngày nay, nhã nhạc đã trở thành tài sản chung của nhân loại. Ngày 7-11-2003,
Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể
và truyền khẩu của nhân loại. Trong phần nhận định về Nhã nhạc cung đình Huế,
UNESCO đánh giá: “Nhã nhạc Việt Nam mang ý nghĩa “âm nhạc tao nhã”… Trong
các thể loại nhạc cổ truyền Việt Nam chỉ có nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia. Nhã
nhạc Việt Nam đã có từ thế kỷ XI, đến thời Nguyễn thì Nhã nhạc cung đình Huế đạt
đến độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất”. Cùng với Không gian văn hoá cồng chiêng
Tây Nguyên, đây là di sản phi vật thể của Việt Nam đã được UNESCO chính thức
ghi danh. Nhã nhạc Cung Đình Huế là một sự kế thừa, kể từ khi những dàn nhạc -
trong đó có mặt nhiều nhạc khí cung đình - xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi 20
trên các bệ đá kê cột chùa thời Lý, thế kỉ XI-XII, đến lúc ông vua cuối cùng triều
Nguyễn thoái vị vào giữa thế kỷ XX.
Vậy nên Nhã nhạc Cung đình Huế là tài sản phi vật thể vô giá, là niềm tự
hào của dân tộc Việt Nam và người dân vùng đất cố đô. Là người con đất Việt, bạn
hãy ít nhất một lần đến với xứ Huế mộng mơ và thưởng thức chương trình Nhã
nhạc để cảm nhận và thấm đậm những tinh túy của thể loại nhạc đậm đà bản sắc dân tộc.
Bằng công nhận di sản văn hóa phi vật thể - Nhã nhạc cung đình Huế của UNESCO
(Nguồn: UNESCO's recognition of intangible cultural heritage in Vietnam
(baotanglichsu.vn), truy cập ngày 5.12.2021)
5. BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
5.1. Thuận lợi
- Nhã nhạc cung đình Huế là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt
Nam được công nhận (1994) có sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ thông qua
các dự án truyền nghề, thu thập, tìm kiếm và bổ sung tư liệu; mở các hệ đào tạo liên
thông ở các cấp học trung cấp và đại học... Nhã nhạc cung đình Huế rõ ràng đã có
một môi trường thuận lợi trong việc tổ chức và tạo lập lại các yếu tố cho không gian
diễn xướng đích thực của mình. 21
- Khác với Quan họ Bắc Ninh, khác với Ca trù và khác với cả không gian
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, bằng những đặc trưng riêng và những thuận lợi
song hành trong quá trình trùng tu, tôn tạo Quần thể di tích Cố đô Huế, Nhà hát
Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế - mà hạt nhân chính là Nhã nhạc cung đình
- đã trở thành một đơn vị hoạt động nghệ thuật có nguồn thu và phần nào đó có thể tự lo cho mình.
- Mặt khác, các kỳ Festival Huế trong những năm qua cũng đã trở thành
không gian văn hóa để Nhã nhạc cung đình Huế có thêm cơ hội, điều kiện để thể
hiện, quảng bá. Bây giờ, Nhã nhạc cung đình Huế đã bước ra khỏi chốn truyền
thống và bước ra khỏi biên giới đất nước để tự tin đứng cạnh âm nhạc cung đình của
các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế rộng lớn hơn…
Bộ Biên chung - một loại nhạc khí của Nhã nhạc cung đình Việt Nam vừa được phục chế..
(Nguồn ảnh: Đình Tăng, https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/10-nam-bao-
ton-phat-trien-nha-nhac-cung-dinh-hue-209168.html, truy cập ngày 5.12.2021) 5.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi thì việc bảo tồn và phát triển Nhã nhạc cung đình
Huế cũng gặp phải những khó khăn nhất định:
- Nhã nhạc cung đình Huế có nguy cơ mai một dần. Các tài liệu lịch sử về
Nhã nhạc không còn nhiều, lại phân bố nhiều nơi, không có một cơ sở lưu trữ bài 22
bản và hệ thống, các nghệ nhân, những người hiểu biết về kỹ thuật diễn xướng cũng
như kiến thức về Nhã nhạc còn quá ít.
- Đây là loại hình nghệ thuật bác học, người xem cần am hiểu lịch sử, giá trị
của Nhã nhạc mới thấy hết giá trị nghệ thuật nên dễ gây cảm giác nhàm chán, du
khách chỉ đi một lần để biết chứ không phải để thưởng thức.
- Dễ bị xuyên tạc làm mất đi những hình ảnh và giá trị tốt đẹp của loại hình
nghệ thuật dân gian độc đáo này mang lại.
Hai bộ biên chung và biên khánh hiện còn tại Huế đang không hoàn chỉnh về mặt âm thanh.
(Nguồn ảnh: https://tuoitre.vn/phuc-hoi-nha-nhac-cung-dinh-hue-kho-khan-
con-o-phia-truoc-292896.htm, truy cập ngày 5.12.2021) 5.3. Giải pháp
Để khắc phục những khó trong việc bảo tồn và phát triển Nhã nhạc cung
đình Huế có một số giải pháp đã được đưa ra để giải quyết vấn đề này: -
Để giúp Nhã nhạc “hồi sinh và phát triển” mà không làm biến chất thì
việc phục dựng các bản lễ nhạc là một phương pháp tối ưu nhất.Trong những năm
vừa qua hơn 100 bài bản lễ nhạc và vũ khúc cung đình của Nhã nhạc được phục
dựng và đưa vào trình diễn kể từ khi loại hình âm nhạc này được UNESCO vinh 23
danh. Đây không chỉ là món quà vô giá để nhà nước nghênh đón các đoàn quốc
khách mà còn là một bước ngoặt lớn giúp cho loại hình âm nhạc này trường tồn mãi theo thời gian. -
Lồng ghép các bài học về lịch sử hình thành và phát triển của Nhã
nhạc cung đình Huế vào chương trình giảng dạy, các buổi học ngoại khóa để giúp
lứa tuổi học sinh, sinh viên đến gần hơn với loại hình nghệ thuật này. -
Nhà nước hoặc các đơn vị, cơ quan có thể tổ chức các cuộc thi về tìm
hiểu nghiên cứu hoặc biểu diễn Nhã nhạc cung đình Huế điều này sẽ tạo được sự
hào hứng, không gây sự nhàm khi tham gia. Đưa loại hình nghệ thuật đặc biệt này
đến gần với mọi người hơn -
Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho những người nghệ sĩ giảng dạy
và truyền nghề cho con cháu đời sau. Xây dựng những trung tâm âm nhạc cổ
truyền, cung cấp các nhạc cụ để tạo một môi trường học tập và giảng dạy thật tốt để
những người nghệ sĩ có thể giảng dạy lại những kiến thức quý giá về Nhã nhạc Huế cho con cháu đời sau -
Xây dựng bảo tàng để lưu giữ những bàn nhạc, nhạc cụ, quá trình
hình thành và phát triển của Nhã nhạc Huế để không chỉ người dân Việt Nam mà cả
du khách nước ngoài cũng có thể tham quan và tìm hiểu về nét đẹp của âm nhạc
Việt Nam. Một trong những vấn đề then chốt là phải tiến hành điều tra các giá trị
văn hóa liên quan. Qua đó, cần tư liệu hóa các tác phẩm âm nhạc để dàn dựng các
chương trình bảo tồn, đồng thời nhân bản tư liệu về Nhã nhạc để lưu giữ, nhất là
trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt ở Huế. 24
Giáo sư Trần Văn Khê tại lễ khai giảng lớp đào tạo
nhạc công Nhã nhạc Huế, tháng 2/2006. KẾT LUẬN
Nhã nhạc Cung đình Huế chính là báu vật vô giá của quốc gia. Qua hàng
trăm nay xây dựng và phát triển bộ môn nghệ thuật này, chứng kiến biết bao nhiêu
sự đổi thay của đất nước nhưng vẫn được bảo tồn và truyền từ đời này sang đời khác.
Sau quá trình tìm hiểu và phân tích Nhã nhạc Cung đình Huế, nhóm
chúng ta đã có những cái nhìn, quan điểm sâu sắc hơn về bộ môn nghệ thuật này,
tiếp nhận thêm những bài học về Nhã nhạc Cung đình Huế nói riêng và lịch sử Việt
Nam nói chung. Với những giá trị văn hóa tốt đẹp ấy, nhóm chúng tôi nhận rõ được
trách nghiệm của mình trong việc thúc đẩy nét đẹp của bộ môn nghệ thuật này,
ngưỡng mộ và thán phục trước sự đồ sộ của bộ môn nghệ thuật tinh hoa này. Những
nét tiêu biểu của Nhã nhạc Cung đình Huế đã góp phần xây dựng và lan tỏa những
giá trị tốt đẹp đến với người dân Việt Nam, đến với bạn bè quốc tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, với trách nghiệm và vai
trò là những chủ nhân của đất nước trong thời đại công nghệ mới, chúng tôi cần
phải lan tỏa những giá trị văn hóa tốt đẹp ấy, cùng mọi người chung tay bảo vệ và
phát triển Nhã nhạc Cung đình Huế, cùng với một khát vọng, một cơ đồ tươi sáng
cho bộ môn nghệ thuật đáng trân quý này. 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. https://thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Thong-tin-ket-luan-48/tid/Nha-nhac-cung-dinh-
Hue-Di-san-van-hoa-phi-vat-the-the-gioi/newsid/3C26FF95-81B1-4A17-B647-
CE3C93197951/cid/E3C363A7-F3AC-4FBB-ADEB-7E9F5680DE10
2. http://thegioidisan.vn/vi/lich-su-hinh-thanh-va-phat-trien-nha-nhac-cung-dinh- hue.html
3. https://luhanhvietnam.com.vn/du-lich/tim-hieu-nha-nhac-cung-dinh-hue.html
4.http://hcmup.edu.vn/index.php?
option=com_content&view=article&id=2205%3Anha-nhc-cung-inh-
hu&catid=1511%3Ac-bao-giup-bn&Itemid=2932&lang=zh&site=71&showall=1
5. https://thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Thong-tin-du-dia-chi/tid/Gia-tri-nghe-thuat-
cua-Nha-nhac-Cung-dinh-Hue/newsid/2011C19E-00DE-4974-8C97-
235F00430018/cid/94D380ED-BDA9-4B59-9020-BBCC40CCB198
6. http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p9/c30/n2772/Gia-tri-cua-nhac-cung-dinh- Hue.html 7. http://www
.spnttw.edu.vn/articledetail.aspx?articleid=3911&sitepageid=656
8. http://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/291--Nha-nhac-cung-dinh-Hue
9. https://tuoitre.vn/phuc-hoi-nha-nhac-cung-dinh-hue-kho-khan-con-o-phia-truoc- 292896.htm 26