-
Thông tin
-
Quiz
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Quản trị nhân lực (mn) 152 tài liệu
Đại học Hoa Sen 4.8 K tài liệu
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả
Môn: Quản trị nhân lực (mn) 152 tài liệu
Trường: Đại học Hoa Sen 4.8 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Hoa Sen
Preview text:
1 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước, có tác động ảnh hưởng
sâu rộng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong việc huy
động nguồn lực và tạo môi trường đầu tư nhằm đạt các mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội bền vững. Hệ thống chính sách thuế tốt chỉ có thể phát huy tác dụng khi có
một hệ thống quản lý thuế phù hợp, hiệu quả. Mục tiêu chính của hệ thống quản lý
thuế hiện đại trên thế giới là tối ưu hoá các khoản thu thuế và các khoản phải thu
khác, phù hợp với luật pháp đồng thời đảm bảo củng cố được niềm tin của
người nộp thuế (NNT) vào hệ thống thuế. Một mặt của mục tiêu này là tăng
cường các dịch vụ hỗ trợ NNT để nâng cao sự tuân thủ tự giác của NNT; mặt
khác là cơ quan thuế phát hiện các trường hợp không tuân thủ và có các biện
pháp trừng phạt một cách nghiêm minh, đảm bảo công bằng và tạo sự tin cậy của người nộp thuế.
Trong thời gian qua, ngành thuế Việt Nam đã và đang thực hiện chiến lược
cải cách, hiện đại hoá hệ thống thuế, tiến tới xây dựng ngành thuế Việt Nam
tiên tiến, hiện đại và chuyên nghiệp nhằm đảm bảo thực thi tốt pháp luật thuế;
đảm bảo quản lý thuế công bằng, minh bạch và hiệu lực, hiệu quả; phục vụ tốt
tổ chức, cá nhân nộp thuế và phù hợp với chuẩn mực quốc tế, nâng cao tính tự
giác tuân thủ pháp luật về thuế của tổ chức, cá nhân nộp thuế; tăng cường việc
thanh tra, giám sát của cơ quan thuế; đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà
nước nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kết quả
của chiến lược cải cách, hiện đại hoá hệ thống thuế đã đem lại những thành
công nhất định cả về cơ chế quản lý, phương pháp quản lý, tổ chức quản lý,
con người quản lý và công cụ quản lý. áp dụng thí điểm cơ chế NNT tự kê
khai, tự nộp thuế từ năm 2004 và thực hiện triển khai toàn quốc từ 01/07/2007
(được luật hoá tại Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006), ngành
thuế đã đề cao trách nhiệm của NNT, tăng cường dân chủ và tính tự chủ của 2
NNT trong việc ủy quyền cho NNT thực hiện chức năng tự đánh giá và kê khai
thuế, tự nộp thuế vào ngân sách, đồng thời dưới hệ thống này, công tác thanh
tra, kiểm tra đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm với mục tiêu chính là kiểm soát
việc tuân thủ và chấp hành luật thuế của NNT. Tuy nhiên, với yêu cầu phát triển
của nền kinh tế thị trường, số lượng doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng, đồng
thời qui mô, hình thức, cách thức hoạt động của các doanh nghiệp cũng đa dạng
phức tạp hơn trước, phương thức trốn/tránh thuế cũng tinh vi hơn, các tội phạm về
thuế ngày càng gia tăng, nhất là trong điều kiện mở cửa, hội nhập và thương mại
điện tử ngày càng phát triển, trong khi bộ máy quản lý thuế mới được chuyển đổi
sang cơ chế quản lý mới, còn chưa thực sự phát huy được tính hiệu lực, hiệu quả
của nó; hoạt động thanh tra, kiểm tra còn nhiều điểm hạn chế, cần được hoàn thiện
cho phù hợp với xu thế hiện tại.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm
tra đối với người nộp thuế trong tiến trình hiện đại hoá công tác quản lý
thuế ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa thiết thực, mang tính thời sự, cấp bách
cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả
tập trung nghiên cứu nội dung thanh tra, kiểm tra NNT.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu nhằm làm rõ hoạt động thanh tra, kiểm tra NNT
trong cơ chế quản lý mới hiện nay cả về mặt lý luận và thực tiễn; đồng thời
khẳng định vai trò và sự cần thiết khách quan phải tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra đối với việc nâng cao tính tuân thủ của NNT, tăng hiệu quả thanh
tra, kiểm tra thuế. Trên cơ sở đánh giá thực trạng của công tác thanh tra, kiểm
tra thuế hiện nay đề xuất những định hướng và giải pháp để hoàn thiện hoạt
động thanh tra, kiểm tra NNT nhằm nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra thuế
trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý thuyết và thực
tiễn của việc tổ chức, thực hiện hoạt động kiểm tra, thanh tra NNT trong điều kiện
thực hiện cơ chế quản lý thuế mới nhằm nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài đã hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động thanh tra
kiểm tra trong các cơ chế quản lý thuế và tính tuân thủ của NNT trong các cơ
chế đó. Từ nghiên cứu lý luận, đề tài đề cập, đánh giá thực trạng của công tác
thanh tra, kiểm tra thời gian qua, chỉ ra các bất cập và nguyên nhân. Từ đó, kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác thanh tra, kiểm tra trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Thanh tra, kiểm tra thuế và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả
thanh tra, kiểm tra đối với người nộp thuế trong tiến trình hiện đại hoá công tác
quản lý thuế ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng về tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm tra đối với
người nộp thuế ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra đối với
người nộp thuế trong tiến trình hiện đại hoá công tác quản lý thuế. 4 Chương 1
THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THANH TRA, KIỂM TRA ĐỐI VỚI NNT TRONG TIẾN
TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ Ở VIỆT NAM
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ
1.1.1 Khái niệm, vai trò của thanh tra, kiểm tra thuế
1.1.1.1 Khái niệm thanh tra, kiểm tra thuế
Có nhiều quan niệm hiểu về thanh tra, kiểm tra thuế. Sau đây là một số khái
niệm cơ bản được trích dẫn từ các tài liệu chính thống khi định nghĩa về thanh tra, kiểm tra thuế:
Theo từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn, kiểm tra là "xem
xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét" [tr. 523]. Theo Đại từ điển Tiếng Việt
do Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam biên soạn, kiểm tra là "xem xét thực
chất, thực tế" [tr. 973]. Theo từ điển Luật học, kiểm tra là "xem xét tình hình thực
tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn nói chung hay một công tác
cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét ..." [tr.265].
Theo Giáo trình nghiệp vụ thuế của Học viện Tài chính, ''Kiểm tra thuế là
hoạt động của cơ quan thuế trong việc xem xét tình hình thực tế của đối tượng
kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ yêu cầu đặt ra đối với đối tượng
kiểm tra để có những nhận xét, đánh giá'' [1, tr.411]
Theo giáo sư Michel Bouvier, tác giả cuốn “Nhập môn về Luật thuế đại cương
và lý thuyết thuế”, kiểm tra thuế là ''hoạt động nhằm xem xét tính trung thực, tính
chính xác của cơ sở tính thuế mà người nộp thuế đã kê khai'' [1, tr.153]
Tổng hợp các quan niệm trên có thể hiểu kiểm tra thuế là hoạt động xem xét,
đánh giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và cá
nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế, phí và lệ phí (gọi chung là thuế). 5
Về khái niệm thanh tra, theo từ điển tiếng Việt: "thanh tra là kiểm soát, xem
xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp" [tr.882], thanh tra là ''loại
hình đặc biệt của kiểm tra'' [ tr.19]
Theo Luật Thanh tra 2004 thì Thanh tra là " việc xem xét, đánh giá, xử lý của
cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ
của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý"
Theo Giáo trình nghiệp vụ thuế của Học viện Tài chính thì thanh tra thuế là
''hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của cơ quan
thuế đối với đối tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành
vi trái pháp luật'' [1, tr.437]
Tổng hợp các quan niệm trên có thể hiểu :
Kiểm tra thuế, thanh tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với
các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và tình hình thực
hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế,
nhằm bảo đảm pháp luật thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế xã hội.
Kiểm tra thuế, thanh tra thuế là một trong các chức năng cơ bản của cơ quan
quản lý thuế nhằm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm
pháp luật thuế, bảo đảm tính công bằng trong thực thi pháp luật thuế; đồng thời
làm cho người nộp thuế luôn ý thức rằng có một hệ thống giám sát hiệu quả tồn
tại, từ đó thúc đẩy họ tự giác tuân thủ pháp luật thuế.
- Những điểm giống nhau giữa thanh tra thuế và kiểm tra thuế là:
+ Về mục đích: Phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế.
+ Về cách thức tiến hành: Xem xét hoạt động thực tế của đối tượng để phân
tích, đánh giá, phát hiện và xử lý theo quy định pháp luật về thuế.
+ Về nội dung: đều xem xét doanh thu, chi phí, lợi nhuận. 6
+ Về phương pháp: đều phải phân tích xác định rủi ro, truy lần lại việc xử lý
dữ liệu, tính toán lại và xác minh.
- Những điểm khác nhau giữa thanh tra thuế và kiểm tra thuế là:
+ Về đối tượng: Thanh tra áp dụng cho các đối tượng có ngành nghề kinh
doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng, cơ cấu tổ chức phức tạp, hoặc khi có
dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế, hoặc để giải quyết khiếu nại tố cáo hoặc theo
yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp hoặc Bộ Trưởng Bộ Tài chính.
+ Về phạm vi nội dung: Thanh tra thường là nội dung rộng, phức tạp, có thể
liên quan đến nhiều đối tượng, lĩnh vực khác nhau.
+ Về biện pháp áp dụng: thanh tra được áp dụng các biện pháp mạnh hơn (tạm
giữ tang vật, tài liệu; khám nơi cất dấu tang vật, tài liệu theo quy định của Luật quản lý thuế).
+ Về hình thức tổ chức: Đoàn có thể tổ chức thành các Tổ để đi sâu vào từng nội dung thanh tra.
+ Về thời gian: thanh tra thường là không quá 30 ngày, kiểm tra thường không quá 5 ngày. 1.1.1.2 Vai trò
Thanh tra, kiểm tra có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý thuế.
Thứ nhất: Thanh tra, kiểm tra người nộp thuế đã góp phần hoàn thiện cơ chế,
chính sách pháp luật về thuế.
Hệ thống thuế ở nước ta hiện nay bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau. Mỗi sắc
thuế điều tiết đến một số đối tượng xã hội nhất định và có những phương pháp
quản lý thu thuế khác nhau. Về cơ bản mỗi sắc thuế khi được ban hành đều đã
được nghiên cứu kỹ và chuẩn bị chu đáo nhưng do đặc điểm nền kinh tế nước ta
đang ở thời kỳ chuyển đổi và hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới nên
không trách khỏi những khiếm khuyết, bất cập. Chính vì vậy thanh tra, kiểm tra
thuế là nơi cung cấp các căn cứ, các bằng chứng cụ thể phản ánh một cách chân 7
thực, sống động các hoạt động diễn ra trong thực tế, để phục vụ cho việc hoàn
thiện, bổ sung các chính sách cho phù hợp.
Thứ hai: Thanh tra, kiểm tra thuế là phương tiện phòng ngừa, răn đe các hành
vi vi phạm pháp luật thuế và tội phạm nảy sinh trong việc thực hiện pháp luật thuế.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên
quan đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế,
xác minh và thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
Theo đó, vừa phòng ngừa các hành vi phạm pháp luật thuế có thể xảy ra; vừa sử
dụng các biện pháp chế tài bằng mệnh lệnh hoặc các quyết định hành chính nhằm
xử lý và răn đe hành vi vi phạm pháp luật của người nộp thuế.
Việc kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
thuế là biện pháp hữu hiệu nhất đối với việc phòng ngừa các loại tội phạm có thể
phát sinh trong việc thực hiện pháp luật thuế.
Thứ ba: Thanh tra, kiểm tra người nộp thuế có vai trò quan trọng trong việc
cải cách thủ tục hành chính thuế.
Triển khai thực hiện pháp luật thuế, cũng đồng thời với việc triển khai thực
hiện các thủ tục hành chính thuế. Qua hoạt động thanh tra, kiểm tra phát hiện
những người nộp thuế thực hiện không đúng và không đủ các thủ tục hành chính
thuế để kịp thời chấn chỉnh. Đồng thời phát hiện những khiếm khuyết, những thủ
tục không phù hợp với thực tế để kiến nghị bổ sung hoàn thiện, nâng cao hiệu lực pháp luật thuế.
1.1.2 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế
Hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế không chỉ được xem xét, đánh giá
đơn thuần ở khía cạnh vật chất (hiệu quả kinh tế) mà còn được xem xét, đánh giá
dưới giác độ hiệu quả xã hội, chính trị. Vì vậy, các tiêu chí đánh giá hiệu quả công
tác thanh tra, kiểm tra thuế được chia 2 nhóm là:
- Các tiêu chí định lượng: Các tiêu chí định lượng thể hiện ở kết quả thực tế 8
của nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra đã được tiến hành. Đó là kết quả cụ thể của việc
thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc kết quả đem lại của các nghiệp vụ thanh tra,
kiểm tra. Các tiêu chí này thường gồm:
+ Tình hình thực hiện kế hoạch thanh tra về từng chỉ tiêu định lượng của kế
hoạch: Đánh giá tiêu chí này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Tỷ lệ hoàn thành kế
hoạch về số đối tượng thanh tra, kiểm tra so với kế hoạch năm; Tỷ lệ hoàn thành
kế hoạch về số thời gian thanh tra, kiểm tra so với kế hoạch năm; Tỷ lệ hoàn thành
kế hoạch về số vụ việc khiếu tố giải quyết được so với kế hoạch năm; Tỷ lệ thanh
tra, kiểm tra hàng năm so với tổng số đối tượng thanh tra, kiểm tra...
+ Tình hình vi phạm pháp thuế đã phát hiện qua thanh tra, kiểm tra: Đánh giá
tiêu chí này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Tỷ lệ vi phạm pháp luật thuế/tổng số
đối tượng thanh tra, kiểm tra; Tổng số tiền thuế truy thu qua thanh tra, kiểm tra;
Số tiền thuế truy thu bình quân/đối tượng thanh tra, kiểm tra
+ Chi phí vật chất và thời gian cho thanh tra, kiểm tra: Đánh giá tiêu chí này
thường dựa vào các chỉ tiêu như: Thời gian bình quân 1 cuộc thanh tra, kiểm tra;
Số đối tượng được thanh tra, kiểm tra bình quân/thanh tra viên hàng năm; Chi phí
bằng tiền trực tiếp cho thanh tra, kiểm tra;….
+ Hiệu quả trực tiếp của thanh tra, kiểm tra: Đánh giá tiêu chí này thường dựa
vào các chỉ tiêu như: Chi phí thanh tra, kiểm tra so với số thuế truy thu được đã
nộp NSNN; Tỷ lệ giữ nguyên; sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định truy thu thuế theo
biên bản thanh tra, kiểm tra thuế khi giải quyết khiếu nại của đối tượng thanh tra,
kiểm tra; Tỷ lệ các trường hợp đối tượng thanh tra, kiểm tra chấp nhận hoàn toàn
kết luận thanh tra, kiểm tra; Tỷ lệ số thuế truy thu được nộp vào NSNN/tổng số thuế truy thu…
Mặc dù có thể tính toán cụ thể được một số chỉ tiêu đã kể trên song thực tế đa
số các chỉ tiêu không thực sự phản ánh rõ hiệu quả kinh tế của công tác thanh tra,
kiểm tra. Bên cạnh việc tính toán chỉ tiêu này trong năm, để đánh giá chính xác
hơn tính hiệu quả, cần phải so sánh với những năm cũ để đánh giá xu hướng biến 9
động của các chỉ tiêu, có như thế mới thấy rõ những tiến bộ của từng khâu công tác.
- Các tiêu chí định tính: Các chỉ tiêu định tính thường là hệ quả của công tác
thanh tra, kiểm tra mà không thể hoặc khó tính toán, đo đếm được. Đó thường là
những hiệu quả có tính xã hội, chính trị như:
+ Sự chuyển biến về ý thức tuân thủ pháp luật thuế. Tiêu chí này có thể đo
lường được thông qua so sánh tỷ lệ tuân thủ pháp luật thuế của đối tượng thanh
tra, kiểm tra qua các năm, đặc biệt là những đối tượng đã được thanh tra, kiểm tra (mức độ tái phạm).
+ Tác dụng trong việc ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật thuế; tạo sự công
bằng giữa các đối tượng nộp thuế; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Có thể
đánh giá tác dụng này thông qua xem xét tỷ lệ đối tượng vi phạm bị xử lý truy thu
thuế và xử phạt hành chính thuế (chia theo hình thức xử phạt).
+ Tác dụng trong việc phòng chống tham nhũng trong nội bộ cơ quan quản lý
thuế và tạo lòng tin của nhân dân vào hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế. Có thể
đánh giá tác dụng này thông qua xem xét tỷ lệ cán bộ thuế vi phạm pháp luật
trong thanh tra, kiểm tra; tỷ lệ cán bộ thuế vi phạm pháp luật bị xử lý (chia theo
hình thức); những vụ việc vi phạm quan trọng và nhạy cảm được phát hiện và xử lý...
Hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả thanh tra, kiểm tra được đánh giá theo kỳ
(quý, năm) và được chia theo sắc thuế; theo hình thức thanh tra; theo loại đối
tượng nộp thuế và từng nội dung thanh tra, kiểm tra tương ứng.
1.1.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế
1.1.3.1 Điều kiện kinh tế xã hội và trình độ dân trí
Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá kinh tế là
tất yếu khách quan. Theo đó hội nhập quốc tế về thuế ngày càng sâu rộng, nhằm
khuyến khích đầu tư, tự do hoá thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới. 10
Hệ thống luật pháp sẽ dần được hoàn thiện, xây dựng hệ thống chính sách thuế
tương thích, công tác quản lý thuế phải được cải cách và hiện đại hoá theo các
chuẩn mực quản lý thuế quốc tế, cơ sở trang thiết bị vật chất kỹ thuật ngày càng
được hiện đại hoá và số lượng người nộp thuế không ngừng tăng lên nhanh
chóng... Tất cả những biến đổi trên đều tác động lớn tới hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
Hệ thống pháp luật thuế đồng bộ, hoàn thiện, phù hợp với tình hình kinh tế xã
hội của đất nước sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động thanh tra, kiểm tra
thuế đi vào khuôn khổ, đồng thời nó cũng giúp cho người nộp thuế hiểu và
nghiêm túc thực hiện theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, đầu tư trang bị cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại cũng hỗ trợ cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế được
tiến hành thuận lợi, có tính chính xác và hiệu quả cao hơn.
Cùng với sự gia tăng về số lượng người nộp thuế sẽ là sự đa dạng hoá các loại
hình doanh nghiệp và các hình thức kinh doanh, kèm theo đó là sự phức tạp, tinh
vi hơn về thủ đoạn trốn, tránh, gian lận thuế của người nộp thuế, gây khó khăn
trong việc phát hiện và xử lý kịp thời các vụ gian lận, ẩn lậu thuế, gây thất thu cho
NSNN. Do đó, số lượng người nộp thuế ngày càng tăng sẽ là một thách thức
không nhỏ đối với công tác thanh tra, kiểm tra.
Xã hội ngày càng phát triển, trình độ dân trí được nâng cao, sự hiểu biết về
pháp luật thuế cũng như ý thức tự tuân thủ của người nộp thuế ngày càng được cải
thiện, bởi họ hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình khi tham gia vào hoạt
động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, cũng vì sự hiểu biết sâu sắc về pháp luật
thuế mà khả năng, thủ đoạn trốn, tránh thuế của người nộp thuế ngày càng tinh vi,
phức tạp hơn, gây khó khăn cho cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế trong việc phát
hiện ra các gian lận, giảm hiệu quả thanh tra, kiểm tra thuế.
1.1.3.2 Mô hình quản lý thuế
Quản lý thuế là hoạt động quản lý của Nhà nước mà cơ quan thuế là đại diện,
thông qua việc tổ chức, điều hành bộ máy ngành thuế, thực hiện hệ thống chính 11
sách pháp luật thuế và hệ thống các qui trình quản lý thu để động viên một phần
thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ và từ việc
lưu giữ, chuyển dịch tài sản của các thể nhân và pháp nhân vào NSNN nhằm trang
trải cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Quản lý thuế được thực hiện theo
những mô hình quản lý nhất định. Mỗi mô hình có những ảnh hưởng khác nhau
đến hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
Thứ nhất, mô hình quản lý theo sắc thuế
Đây là mô hình được tổ chức sớm nhất trong hoạt động quản lý thuế, được áp
dụng dựa trên nguyên tắc “sắc thuế”. Theo mô hình này, cơ quan thuế được tổ
chức thành các bộ phận (phòng, ban) riêng biệt để chuyên trách quản lý một số
sắc thuế cụ thể. Mỗi phòng, ban thực hiện tất cả các chức năng, các nghiệp vụ để
quản lý thu đối với một hoặc một vài sắc thuế. Mô hình quản lý theo sắc thuế áp
dụng có hiệu quả ở cơ quan thuế Trung ương do nhiệm vụ của cơ quan này là
nghiên cứu, ban hành chính sách chế độ thu. Mô hình này thích hợp đối với những
nước sử dụng các vấn đề nghiệp vụ cụ thể và quy trình quản lý khác nhau đối với mỗi sắc thuế.
Mô hình này có tính chuyên môn hoá theo sắc thuế cao nên nó phát huy hiệu
quả cao nhất trong trường hợp thanh tra một sắc thuế nhưng đối với thanh tra một
đối tượng nộp thuế nộp nhiều loại thuế khác nhau lại xảy ra hiện tượng chồng
chéo về chức năng thanh tra giữa các phòng, ban. Vì phòng quản lý theo sắc thuế
có chức năng thanh tra đối với các ĐTNT có phát sinh sắc thuế do phòng quản lý.
Chức năng thanh tra, kiểm tra nằm ở tất cả các phòng trong hệ thống quản lý thuế
cấp cơ sở. Mặt khác, ở phòng, ban nào cũng có các bộ phận nghiệp vụ thực hiện
các công việc như nhau, dẫn đến biên chế quản lý lớn, làm cho chi phí quản lý thu
tăng lên, chi phí tuân thủ cao... Trong khi đó rủi ro thất thu thuế vẫn cao do các
chức năng, nghiệp vụ quản lý thuế được khép kín, độc lập trong một phòng, ban
riêng biệt, không có sự liên kết nào giữa các phòng, ban nên hiện tượng thông
đồng để trốn thuế giữa ĐTNT và cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế khó phát hiện. 12
Ngoài ra, trình độ chuyên môn của cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế không được
toàn diện do kỹ năng của họ là một sắc thuế. Do vậy, hiệu quả của công tác thanh
tra, kiểm tra thuế không cao.
Thứ hai, mô hình quản lý theo chức năng
Theo mô hình này, bộ máy quản lý thuế được tổ chức theo các nhóm chức
năng, mỗi bộ phận thực hiện một công việc nghiệp vụ cụ thể có liên quan đến tất
cả các sắc thuế như: Đăng ký thuế, Xử lý tờ khai thuế và Kế toán thuế, Thanh tra,
kiểm tra thuế, Thu nợ... Bộ phận thanh tra, kiểm tra được tổ chức theo mô hình
chuyên môn hóa cao. Mỗi phòng (Tổ) thanh tra thực hiện một chức năng riêng
biệt, chỉ thực hiện một chức năng cụ thể của hoạt động thanh tra. Cùng với mô
hình này đòi hỏi thanh tra viên ngoài việc a, hiểu sâu sắc chế độ kế toán pháp luật
thuế còn phải có kỹ năng về tin học, kỹ năng sắp xếp, phân loại dữ liệu, phân tích
đánh giá rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cập nhật kịp thời các tiêu chí lựa
chọn đối tượng thanh tra.
Mô hình này thích ứng với mọi sự thay đổi về ĐTNT và tạo ra sự kiểm tra
chéo giữa các cán bộ thuế ở các bộ phận khác nhau, hạn chế tiêu cực nên giảm
nguy cơ gian lận thuế, thất thu thuế bởi bất kỳ sự thông đồng nào giữa ĐTNT và
cán bộ thuế. Đồng thời khắc phục được sự trùng lắp về chức năng thanh tra giữa
các phòng ban theo mô hình quản lý thu theo sắc thuế và góp phần nâng cao năng
lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ thanh tra thuế. Tuy nhiên, theo mô hình
này, thông tin về ĐTNT bị phân tán nên khi cần thông tin đầy đủ về ĐTNT để tiến
hành thanh tra, kiểm tra phải mất nhiều thời gian để tổng hợp thông tin từ các
phòng, ban chức năng khác nhau làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thanh tra, kiểm tra.
Thứ ba, mô hình quản lý thu theo ĐTNT
Đây là mô hình đang được áp dụng tại một số nước phát triển. Theo mô hình
này, ĐTNT được phân loại để quản lý theo nhóm trên cơ sở đặc điểm và mức độ 13
tuân thủ pháp luật thuế của ĐTNT. Mỗi phòng, ban trong cơ quan thuế sẽ chịu
trách nhiệm quản lý một hoặc vài nhóm đối tượng cụ thể.
Do có sự chuyên môn hoá theo đối tượng, kết hợp với chuyên môn hoá theo
sắc thuế nên thông tin về ĐTNT được tập trung khá đầy đủ tại các phòng, ban
tương ứng và trình độ, năng lực của cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế tương đối phù
hợp với yêu cầu quản lý nâng cao được hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra mỗi
nhóm ĐTNT. Tuy nhiên, mô hình này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ thanh
tra, kiểm tra có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao vì họ phải tiếp xúc và xử lý
các vấn đề liên quan đến tất cả các sắc thuế của ĐTNT. Ngoài ra, mô hình còn có
nhược điểm là ĐTNT chịu sự quản lý của một phòng, ban cụ thể nên vẫn có khả
năng xảy ra tiêu cực trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế.
Cán bộ thuế do phải thực hiện công tác quản lý, nếu thực hiện thanh tra, kiểm
tra tại cơ sở ĐTNT sẽ không đảm bảo thời gian và hiệu quả của công tác quản lý
khác. Đối với phòng thanh tra, phải kiêm nhiệm các chức năng: thanh tra ĐTNT,
thanh tra nội bộ, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phối hợp, cộng tác với các ban
ngành có liên quan dẫn tới công tác thanh tra, kiểm tra chưa được chuyên môn hóa cao.
Trên cơ sở các mô hình quản lý thuế cơ bản này, mỗi quốc gia sẽ lựa chọn mô
hình quản lý thuế phù hợp theo đặc điểm chính trị - kinh tế - xã hội và trình độ
quản lý của mình, có thể là một trong số các mô hình cơ bản hoặc mô hình quản
lý thuế kết hợp 2 hoặc cả 3 mô hình cơ bản trên.
1.1.3.3 Cơ chế quản lý thuế
Để tiến hành công tác thu nộp thuế, người ta thường chọn một trong hai cơ
chế: Cơ quan thuế tính và ra thông báo nộp thuế và cơ sở sản xuất, kinh doanh tự khai tự nộp thuế.
Thứ nhất, cơ chế cơ quan thuế tính và ra thông báo nộp thuế
Theo cơ chế này, căn cứ vào tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và các
quy định của pháp luật thuế, định kỳ các ĐTNT phải kê khai thuế và nộp tờ khai 14
cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế nhận tờ khai, kiểm tra và tính thuế, sau đó thông
báo số thuế phải nộp cho ĐTNT. ĐTNT có trách nhiệm nộp đầy đủ tiền thuế theo
thông báo vào Kho bạc nhà nước trong thời gian quy định. Cơ quan thuế kiểm tra,
đối chiếu số thuế mà đối tượng đã nộp vào ngân sách với thông báo. Cơ chế này
đảm bảo việc tính toán chính xác số thuế phải nộp vào NSNN của các ĐTNT. Tuy
nhiên, cơ chế quản lý này có một số nhược điểm ảnh hưởng đến công tác thanh tra, kiểm tra sau:
- Cơ quan thuế làm thay các chức năng thuộc trách nhiệm của NNT như: tính
toán xác định mức thuế để ra thông báo thuế, xác định mức miễn, giảm thuế....
gây lãng phí nguồn nhân lực, tài chính của cơ quan thuế. Hiệu quả quản lý của cơ
quan thuế thấp do phải làm thay các công việc cho ĐTNT, không đủ điều kiện tập
trung thời gian, nhân lực và tài chính để thực hiện các chức năng chủ yếu của
mình: các hoạt động tuyên truyền - hỗ trợ, công tác thanh tra, kiểm tra thuế . . .
- Một số quy định còn rườm rà, phức tạp, chưa rõ ràng, minh bạch gây khó
khăn, tốn kém chi phí cho cả NNT và cơ quan thuế, dễ phát sinh tiêu cực trong
việc chấp hành nghĩa vụ thuế.
- Nghĩa vụ, trách nhiệm của NNT không cao do số thuế họ phải nộp được xác
định theo thông báo của cơ quan thuế. ĐTNT có thể tính toán số thuế phải nộp
một cách qua loa, đại khái, nếu cơ quan thuế kiểm tra, tính toán không kỹ thì có
thể dẫn dến xác định sai số thuế phải nộp, làm thất thu ngân sách mà các ĐTNT không hề có lỗi.
- Mô hình này chủ yếu thanh tra, kiểm tra tại đơn vị nên thường gây ra những
phiền nhiễu cho doanh nghiệp và đôi lúc mất thời gian, tăng chi phí.
- Phương pháp thanh tra, kiểm tra nhằm vào tất cả các ĐTNT, không dựa trên
cơ sở đánh giá mức độ gian lận của ĐTNT để lập kế hoạch và tổ chức thanh tra
đúng đối tượng ngay từ đầu. Vì thế đối tượng không có hành vi gian lận cũng tổ
chức thanh tra, kiểm tra vừa gây phiền hà cho ĐTNT, vừa lãng phí nguồn nhân
lực, tốn kém cho cơ quan thuế. 15
- Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành hoàn toàn bằng thủ công, không
tập trung vào các khâu gian lận, không ứng dụng được tin học vào thanh tra thuế,
do đó các cuộc thanh tra thường kéo dài và kết quả rất hạn chế.
- Cơ quan thuế tính thuế và ra thông báo cho ĐTNT, đồng thời cơ quan thuế
thực hiện thanh tra, kiểm tra nên hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra chưa đạt kết quả cao.
Nhìn chung, cơ chế này mang tính áp đặt, không nâng cao được tính tự giác,
trách nhiệm công dân của ĐTNT. Do vậy, công tác thanh tra, kiểm qua thuế gặp
rất nhiều khó khăn, hiệu quả thu được không cao.
Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, hiện nay các quốc gia trên thế giới
đang chuyển sang thực hiện cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế.
Thứ hai, cơ chế cơ sở sản xuất kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế (Sơ đồ 1.1)
Sơ đồ 1.1: Cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế NTT l u gi ư s ữ ổ sách kếế toán Nhi m v ệ ụ Nhiệ m vụ c ơ c a ng ủ ườ i quan thuếế, các n p thuếế ộ t ổ chứ c cung NNT tính thuếế cấếp d ch ị vụ thuếế NNT l p t ậ khai thuếế ờ NNT nộ p t ờ khai đúng hạ n Hỗỗ trợ, hướ ng NNT n p thuếế theo m ộ ức tự tính dấỗn ngu ờ i n ộ p thuếế (NNT) Kiể m tra đơn giả n Nhi m v ệ ụ củ a c ơ
Thanh tra thuếế đỗếi v i m ớ t ộ sỗế quan thuếế trườ ng h ợ p chọ n l ọ c 16
Tự kê khai, tự nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó người nộp thuế tự giác
tuân thủ thực hiện các nghĩa vụ thuế: người nộp thuế căn cứ các quy định tại các
Luật thuế để xác định nghĩa vụ thuế của mình, kê khai chính xác, nộp tờ khai thuế
và nộp thuế đúng thời hạn. Cơ quan thuế không can thiệp vào việc thực hiện nghĩa
vụ thuế của người nộp thuế nếu NNT tự giác tuân thủ nghĩa vụ. Cơ quan thuế có
trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế hiểu rõ và tự giác
thực hiện nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế
của NNT và thông qua công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, xử lý kịp thời,
đúng đắn những hành vi gian lận, trốn thuế của NNT.
Trong cơ chế TKTN thuế, ĐTNT phải hiểu biết đầy đủ về các quyền và nghĩa
vụ của mình, tự kê khai, tự tính số thuế phải nộp và nộp tờ khai thuế cho cơ quan
thuế trên cơ sở kết quả sản xuất kinh doanh của mình và chính sách chế độ về thuế
mà không cần sự xác nhận trực tiếp của cơ quan thuế. Trên cơ sở số thuế đã kê
khai, cơ sở kinh doanh chủ động nộp tiền thuế vào NSNN. Đồng thời, ĐTNT
được áp dụng các thủ tục kê khai, nộp thuế đơn giản, thuận lợi và được hướng
dẫn, được cung cấp các dịch vụ hỗ trợ chất lượng cao nhằm tạo thuận lợi cho họ
tự giác tuân thủ đúng nghĩa vụ thuế theo qui định.
Thực hiện quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế, bộ máy quản lý
thuế ở cơ quan thuế được tổ chức tập trung theo các chức năng, bao gồm các chức
năng chính: Tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT; Xử lý tờ khai và kế toán thuế; Thu nợ -
cưỡng chế thuế và Kiểm tra, thanh tra thuế. Trong đó, chức năng thanh tra, kiểm
tra thuế là chức năng trọng tâm của cơ quan thuế trong cơ chế tự kê khai, tự nộp
thuế. Cơ quan thuế tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế trên cơ sở thu thập đủ các
thông tin cần thiết về ĐTNT (từ tờ khai, báo cáo tài chính và các thông tin từ các
nguồn khác) để phân tích, đánh giá xác định theo các tiêu chí đánh giá rủi ro, từ
đó lựa chọn ĐTNT cần kiểm tra, thanh tra và nội dung, hình thức kiểm tra, thanh
tra phù hợp. Do đó, các thông tin này phải đầy đủ, chính xác, dễ truy cập, có liên
kết chặt chẽ với nhau qua một hệ thống nhận diện duy nhất (MST). Các thông tin 17
về ĐTNT được thanh tra, kiểm tra được cập nhật ngay khi có biến động trên cơ sở
dữ liệu chung do Tổng cục Thuế quản lý và được chia sẻ, khai thác trên phạm vi
cả nước. Thông tin phải mang tính lịch sử và trung thực.
Trong cơ chế tự khai, tự nộp thuế, công tác thanh tra, kiểm tra không phải
nhằm tăng số thu, mà mục tiêu chính là nhằm ngăn ngừa, phòng chống ĐTNT vi
phạm pháp luật thuế. Chỉ khi ĐTNT nhận thức rằng cơ quan thuế đang thực hiện
các chương trình thanh tra thuế hiệu quả và nếu gian lận về thuế, họ sẽ bị cơ quan
thuế phát hiện và xử phạt nghiêm khắc, ĐTNT mới tự giác thực hiện đúng nghĩa
vụ thuế. Do đó, để nâng cao tính tuân thủ pháp luật của ĐTNT, ngoài việc tăng
cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT, cơ quan thuế cần phải đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Với một nguồn lực hạn chế, cơ quan thuế phải xây dựng một cơ chế thanh tra,
kiểm tra để phân bổ hiệu quả nguồn lực nhằm giám sát tốt nhất hoạt động của
ĐTNT, kịp thời phát hiện và xử lý ĐTNT vi phạm pháp luật về thuế, vừa nâng cao
trách nhiệm, tính chủ động của ĐTNT trong việc thực hiện pháp luật thuế và giảm
phiền hà, tôn trọng, khuyến khích các ĐTNT tuân thủ nghiêm túc pháp luật thuế.
Để đáp ứng yêu cầu này, cơ quan thuế đã thực hiện chính sách thanh tra, kiểm tra
dựa trên phương pháp quản lý rủi ro tuân thủ. Theo đó, trên cơ sở thu thập đầy đủ
thông tin về ĐTNT, tiến hành phân tích, đánh giá và phân loại ĐTNT theo mức độ
rủi ro vi phạm về thuế để lựa chọn đối tượng cần thanh tra, kiểm tra theo nguyên tắc:
- Tập trung thanh tra, kiểm tra thường xuyên đối với ĐTNT có dấu hiệu vi
phạm nghiêm trọng pháp luật thuế; thanh tra, kiểm tra bộ phận hoặc hướng dẫn,
nhắc nhở ĐTNT vi phạm không nghiêm trọng; hạn chế tối đa thanh tra, kiểm tra
đối với ĐTNT chưa phát hiện vi phạm pháp luật thuế.
- Tăng cường thực hiện hình thức kiểm tra tại cơ quan thuế; hạn chế thanh tra,
kiểm tra tại cơ sở ĐTNT. 18
- Hạn chế thanh tra, kiểm tra toàn diện, tập trung thanh tra, kiểm tra theo
chuyên đề và nội dung vi phạm (thanh tra, kiểm tra chuyên sâu theo nhóm ngành,
nghề, theo lĩnh vực và theo sắc thuế).
Với những nội dung trên, có thể thấy rằng phương thức quản lý thuế mới có
tính khách quan hơn và khắc phục được những hạn chế của cơ chế cơ quan thuế
tính và ra thông báo nộp thuế và tác động tích cực đến hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
1.2 SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TRA,
KIỂM TRA ĐỐI VỚI NNT TRONG TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA CÔNG
TÁC QUẢN LÝ THUẾ Ở VIỆT NAM
1.2.1 Nội dung hiện đại hoá công tác quản lý thuế
Chiến lược cải cách và hiện đại hoá hệ thống thuế đã được Bộ Chính trị thông
qua vào tháng 8/2004 và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
201/2004/QĐ-TTg về việc phê duyệt các Chương trình cải cách hệ thống thuế
theo từng cụ thể nội dung, lộ trình triển khai cụ thể. Trong xu hướng hiện nay,
cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Thuế đang rất nỗ lực thực hiện
các chương trình cải cách và hiện đại hoá. Có thể nói đây là ưu tiên hàng đầu của
của Tổng cục Thuế cũng như Bộ Tài chính trong giai đoạn hiện nay cũng như
trong một vài năm tới. Thực hiện Chỉ thị số 751/CT-TTg ngày 3/6/2009 của Thủ
tướng Chính phủ về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-
2015, Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính cũng đang khẩn trương tiến hành xây dựng
Chiến lược phát triển ngành thuế giai đoạn 2011-2020. Để Chiến lược phù hợp có
tính khả thi, đáp ứng yêu cầu thực tế của đất nước, việc đánh giá kết quả thực hiện
chiến lược 2005-2010 là hết sức quan trọng. Kết quả thực hiện Chiến lược cải
cách hệ thống thuế đến năm 2010 và các bài học kinh nghiệm về sự thành công và
những nguyên nhân dẫn đến hạn chế, tồn tại sẽ là cơ sở, nền tảng cho việc đề xuất
và xây dựng các kế hoạch, chương trình hành động cho chiến lược phát triển
ngành Thuế giai đoạn 2011- 2020. 19
Hướng chiến lược là hiện đại hoá toàn diện công tác quản lý thuế cả về
phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ, áp
dụng rộng rãi công nghệ tin học để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý,
kiểm soát cho được tất cả các đối tượng chịu thuế, hạn chế thất thu thuế ở mức
thấp nhất, bảo đảm thu đúng, thu đủ kịp thời các khoản thu vào Ngân sách Nhà
nước. Nâng cao trình độ quản lý thuế của Việt Nam ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực.
Nội dung chủ yếu của công tác quản lý thuế là:
- Phải thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục, cơ
quan quản lý thu và dưới nhiều hình thức phong phú để tuyên truyền, giáo dục các
đối tượng nộp thuế hiểu biết đầy đủ các chính sách thuế, trách nhiệm pháp luật.
Hướng dẫn kịp thời, đầy đủ các thủ tục kê khai, tính thuế, lập hồ sơ miễn, giảm
thuế, quyết toán thuế và nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước để các đối tượng nộp
thuế tự mình thực hiện tốt các nghĩa vụ thuế với Ngân sách Nhà nước. Giảm thiểu
các sai sót do không hiểu biết gây ra.
Khuyến khích và phát triển mạnh mẽ các dịch vụ tư vấn thuế, kế toán thuế.
Hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện tốt công tác kế toán, quản lý chặt chẽ
hoá đơn chứng từ để hạch toán đúng kết quả kinh doanh và xác định đúng nghĩa
vụ thuế đối với Nhà nước, mở rộng diện nộp thuế theo hình thức kê khai, thu hẹp
dần phương pháp nộp thuế theo hình thức khoán. Đối với các đối tượng còn phải
nộp thuế theo hình thức khoán cần hoàn thiện quy trình xác định mức khoán bảo
đảm công khai, dân chủ, công bằng giữa các hộ được khoán. Chống các hành vi
tiêu cực trong việc xác định mức khoán đối với hộ kinh doanh nộp thuế khoán.
Đề cao trách nhiệm và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế trong việc tự tính, tự
khai và tự nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước, đồng thời tăngcường trách nhiệm,
quyền hạn kiểm tra, kiểm soát của tổ chức quản lý thu và các cơ quan quản lý nhà
nước trước, trong và sau khi nộp thuế để đảm bảo các luật thuế được thực thi nghiêm chỉnh. 20
- Thường xuyên và đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra về thuế, kiểm tra
sau thông quan nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm về thuế.
Trong công tác thanh tra phải phân loại các đối tượng để thanh tra theo cấp độ
vi phạm: Đối với trường hợp chấp hành nghiêm chỉnh chính sách thuế chưa mắc
sai phạm thì tối thiểu trong 5 năm phải kiêể tra 1 lần; Trường hợp đã có vi phạm
nhưng không thường xuyên và không nghiêm trọng thì tối thiểu trong 1 năm phải
kiểm tra 1 lần. Phân loại các đối tượng nộp thuế như trên sẽ không gây phiền
hàcho người nộp thuế mà ngược lại sẽ làm cho các đối tượng nộp thuế chấp hành
nghiêm chỉnh chính sách thuế, đồng thời sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan bảo vệ
pháp luật phát hiện và xử lý kịp thời vi phạm chính sách thuế.
Áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý hoá đơn, kiểm tra đối chiếu hoá đơn
để việc thanh tra, kiểm tra đạt hiệu quả cao.
Tăng cường quyền hạn cho cơ quan quản lý thu: quyền cưỡng chế, điều tra
khởi tố cá vụ vi phạm về thuế.
Xây dựng và áp dụng các chế tài xử lý và cưỡng chế thuế đối với các hành vi
gian lận, chây ì, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế...
- Đẩy mạnh triển khai công nghệ tin học để áp dụng vào hầu hết các khâu
quản lý thuế là quản lý đối tượng nộp thuế (đăng ký, cấp mã số thuế; theo dõi số
liệu kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế); kiểm tra tờ khai, hồ sơ hoàn thuế, đối
chiếu hoá đơn; xác định các khoản nợ đọng và thông báo phạt chậm nộp, phạt vi
phạm về thuế; quản lý hoá đơn, chứng từ trên máy tính; cung cấp dịch vụ thuế qua
mạng máy tính; ...Kết nối mạng tin học giữa các cơ quan thuế, hải quan, doanh
nghiệp, kho bạc và các tổ chức liên quan khác phục vụ cho công tác quản lý thuế.
- Mở rộng uỷ nhiệm thu đối với một số loại thu cho UBND xã, phường gắn
với chi tiêu của chính quyền địa phương để chống thất thu và giảm chi phí quản lý thuế.