-
Thông tin
-
Quiz
Tình hình gia đình ở Việt Nam - Chủ Nghĩa Xã hội khoa học | Đại học Tôn Đức Thắng
Trong toàn quốc, năm 1989, tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam là 24,5 tuổi,nữ là 24 tuổi (Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999: Kết quả điều tra mẫu: 39). Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ nghĩa xã hội khoa học (TĐT02) 330 tài liệu
Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Tình hình gia đình ở Việt Nam - Chủ Nghĩa Xã hội khoa học | Đại học Tôn Đức Thắng
Trong toàn quốc, năm 1989, tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam là 24,5 tuổi,nữ là 24 tuổi (Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999: Kết quả điều tra mẫu: 39). Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (TĐT02) 330 tài liệu
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:



Tài liệu khác của Đại học Tôn Đức Thắng
Preview text:
2.2 Tình hình gia đình ở Việt Nam
Gia đình là một thiết chế xã hội tương đối bền vững:
Điều này thể hiện ở tỷ trọng dân số có vợ có chồng vẫn ở mức cao. Theo
kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, ở độ tuổi 50 chỉ có 3,3% dân số
chưa từng kết hôn. Ngay ở Hà Nội, trung tâm giao lưu kinh tế, văn hóa quốc tế
của cả nước, chịu ảnh hưởng nhiều của lối sống các nước công nghiệp hóa phát
triển, cũng chưa có dấu hiệu xã hội nào chứng tỏ đã hình thành một lối sống độc
thân, từ chối hôn nhân và gia đình. Theo ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em Hà
Nội, năm 2001 ở độ tuổi 45 - 49 chỉ có 3,8% dân số Hà Nội chưa từng kết hôn.
Hôn nhân vẫn là hình thức chung sống phổ biến của những người trưởng thành khác giới.
Quy mô gia đình có xu hướng ngày càng nhỏ lại:
Kết quả các cuộc tổng điều tra dân số qua các năm cho thấy qui mô gia đìnhT
Việt Nam liên tục giảm trong vòng hơn 20 năm qua, từ 5,22 người/hộ gia đìnhT
năm 1979 xuống còn 4,88 người/hộ năm 1989 và 4,6 người/hộ năm 1999.
Nguyên nhân giảm qui mô gia đình là do giảm mức sinh, thay đổi mô hình chung sống giữa các thế
hệ và những nguyên nhân khác như ly hôn, ly thân, độc thân ...
Tuổi kết hôn trung bình lần đầu của cả nam và nữ có chiều hướng nâng cao:
Trong toàn quốc, năm 1989, tuổi kết hôn trung bình lần đầu của nam là 24,5 tuổi,
nữ là 24 tuổi (Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999: Kết quả điều tra
mẫu: 39). Tuy nhiên có sự khác biệt đáng kể giữa đô thị và nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Nguyên nhân của tình trạng tảo hôn là do đồng bào dân tộc quan niệm về tuổi
trưởng thành về sinh lý (dậy thì) đồng nghĩa với tuổi lấy vợ lấy chồng, mặt khác,
do việc phổ biến và tuyên truyền Luật Hôn nhân và Gia đình còn nhiều hạn chế.
Cụ thể, có 37% số người được hỏi ý kiến chưa từng biết đến Luật Hôn nhân và
Gia đình, có 63% cho biết có nghe nói nhưng không rõ những điều Luật qui định,
còn có 46,71% coi tảo hôn là chuyện bình thường (ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em, 2002: 54).
Tình trạng hôn nhân không đăng ký:
Hôn nhân không đăng ký là hiện tượng nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng
chưa đăng ký kết hôn, do đó, không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Trên
thực tế, hiện tượng chung sống không kết hôn khá phức tạp, có thể tạm phân
chia thành hai nhóm, nhóm thứ nhất: sự chung sống của đôi nam nữ được gia
đình, họ hàng, cộng đồng thừa nhận được gọi là hôn nhân thực tế; nhóm thứ hai:
chưa được gia đình, họ hàng, cộng đồng thừa nhận gọi là hiện tượng chung sống trước hôn nhân.
Hôn nhân thực tế ở nước ta hiện tượng này tồn tại khá phổ biến, do nhiều
nguyên nhân khác nhau như do chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn (tảo hôn), do
phong tục tập quán lạc hậu, do thiếu sự hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật ...
Hiện tượng chung sống trước hôn nhân:
Hiện tượng chung sống trước hôn nhân có xu hướng gia tăng cho thấy gia đìnhT
đang mất dần đi chức năng kiểm soát tình dục. Về khía cạnh nhân khẩu học, đời
sống tình dục trước hôn nhânT là một phần kết quả của việc nam nữ kết hôn
muộn, tuổi kết hôn trung bình của dân số cao hơn so với tuổi trưởng thành về
giới tính. Tuy nhiên, chung sống trước hôn nhân đang để lại những hậu quả trước
mắt và lâu dài về sức khỏe, đạo đức, lối sống của vị thành niên. Theo UNFPA, Việt
Nam là một trong 5 nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới. Hằng năm có
1,4 triệu ca, trung bình 3 ca/1 phút, hay 40% tổng số phụ nữ có thai bị loại bỏ bởi
sự can thiệp của y tế, 30% số trẻ sơ sinh ra đời ngoài ý muốn, 1/3 ca nạo phá
thai là phụ nữ trẻ chưa có gia đìnhT (Erik Palstra, 1988, 19,20).
Số lượng các vụ ly hôn tăng nhanh qua các năm:
Theo tổng điều tra dân số và nhà ở nămT 1999, tỷ lệ góa, ly thân của dân số từ
15 tuổi trở lên là 2,7% đối với nam và 13% đối với nữ. Tính riêng tỷ lệ ly hôn
trong dân số từ 13 tuổi trở lên là 0,7%, trong đó nam là 23,92%, nữ là 76,08%. Tỷ
lệ ly hôn ở Việt Nam thấp hơn nhiều nước trên thế giới. ở các nước công nghiệp
hóa, tỷ lệ ly hôn trung bình khoảng 30%.
TTrong số các nguyên nhân ly hôn thì nguyên nhân do “mâu thuẫn gia đình, bị
đánh đập ngược đãi” chiếm tỉ lệ cao nhất, tiếp đến là nguyên nhân “ngoại tình”.
Năm 2000, nguyên nhân do mâu thuẫn gia đình, bị đánh đập ngược đãi là 29.372
vụ/tổng số 51.361 vụ, chiếm 57,18%; nguyên nhân do ngoại tình là 2.982 vụ,
chiếm 5,49%. Năm 2002, nguyên nhân do mâu thuẫn gia đình, bị đánh đập
ngược đãi là 29.254 vụ/tổng số 54.226 vụ, chiếm 53,9%; nguyên nhân do ngoại
tình là 3.799 vụ, chiếm 6%. Từ tháng 1 đến tháng 8.2003,T nguyên nhân do mâu
thuẫn gia đình, bị đánh đập ngược đãi là 22.997 vụ/tổng số 41.326 vụ, chiếm
55,6%; nguyên nhân do ngoại tình là 2.198 vụ, chiếm 5,3%.
Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác như: mâu thuẫn về kinh tế, một bên bị
mất tích, một bên ở nước ngoài,T một bên bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, có vợ lẽ, bệnh tật, không có con, sắc tài địa vị, tuổi tác, bị lừa dối ...
Bạo lực giới trong gia đình:
Nguyên nhân ly hôn do mâu thuẫn gia đình, bị đánh đập ngược đãi chiếm tỷ lệ
lớn cho thấy bạo lực giới là vấn đề rất nghiêm trọng trong đời sống gia đìnhT hiện
nay. Nó là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tan vỡ của gia đìnhT và nó cũng lý
giải vì sao phụ nữ là người chủ yếu đứng đơn xin tòa án cho ly hôn.
Nguyên nhân trực tiếp của bạo lực trong gia đìnhT là những mâu thuẫn vợ chồng
nảy sinh trong làm ăn kinh tế, nuôi dạy con cái, áp lực sinh con trai, vợ hoặc
chồng ngoại tình ... Còn nguyên nhân sâu xa của bạo lực, theo phân tích của các
nhà nữ quyền, chính là ham muốn của người đàn ông hòng kiểm soát toàn bộ
cuộc sống của người vợ - một ham muốn có cội nguồn từ truyền thống gia trưởng
cho phép những người đàn ông có đặc quyền đánh vợ. Nhiều người đàn ông sau
khi kết hôn đã nghĩ rằng vợ là vật sở hữu của họ và họ có quyền trừng phạt vợ khi cần thiết.
Để ngăn chặn bạo lực gia đìnhT thì chỉ riêng giáo dục để thay đổi hành vi là chưa
đủ mà cần phải có chế tài điều chỉnh, khiến cho những người đàn ông có tư
tưởng gia trưởng phải kiểm soát hành vi của họ.