Tình huống hoà giải tranh chấp dân sự - Pháp luật đại cương | Đại học Tôn Đức Thắng
Chị Nguyễn Phương L và anh Nguyễn Hữu T kết hôn với nhau có đăng ký kếthôn hợp pháp tại UBND xã TĐ, huyện TC, tỉnh TN vào năm 2002. Sau một thời gianchung sống hạnh phúc thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn làdo anh T đi làm công nhân nhưng hàng tháng không đưa lương về cho chị L nuôi conmà giữ lại sử dụng riêng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (PL101)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TÌNH HUỐNG HÒA GIẢI TRANH CHẤP DÂN SỰ
Ngày 12/3/2024, chị Nguyễn Phương L đến gặp Luật sư trình bày sự việc như sau:
Chị Nguyễn Phương L và anh Nguyễn Hữu T kết hôn với nhau có đăng ký kết
hôn hợp pháp tại UBND xã TĐ, huyện TC, tỉnh TN vào năm 2002. Sau một thời gian
chung sống hạnh phúc thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là
do anh T đi làm công nhân nhưng hàng tháng không đưa lương về cho chị L nuôi con
mà giữ lại sử dụng riêng. Khi chị L nhắc nhở thì anh T chửi bới và hành hung chị L. Sự
việc trên đã lặp đi lặp lại nhiều lần nên chị L nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn,
chị L muốn được ly hôn với anh T. Về con chung, chị L và anh T có 02 con chung là
Nguyễn Ngọc P sinh ngày 20/08/2003 và Nguyễn Ngọc X sinh ngày 10/09/2006. Cháu
P đã trên 18 tuổi nên tùy cháu quyết định muốn sống với ai, còn cháu X chưa đủ 18
tuổi có nguyện vọng ở với mẹ nên chị L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu X và
yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng cho đến khi cháu X đủ 18
tuổi và chị muốn được cấp dưỡng 01 lần.
Về tài sản chung: trong thời kỳ hôn nhân anh chị tạo lập được 02 thửa đất trên
mỗi một thửa đất có 01 căn nhà trên đất. Căn nhà và thửa đất thứ nhất tọa lạc tại khu
phố 1, phường PT, Tp TDM, tỉnh BD trị giá 3,5 tỷ đồng hiện tại là nơi 03 mẹ con chị L
đang sinh sống. Căn nhà và thửa đất thứ hai tọa lạc tại khu phố 8, phường PM, thành
phố TDM, tỉnh BD trị giá 2,5 tỷ đồng hiện đang cho gia đình ông V thuê mỗi tháng
4.000.000đồng. Chị L đồng ý giao căn nhà thứ hai cho anh T và chị có trách nhiệm
hoàn lại cho anh T số tiền chênh lệch khi chia tài sản là 500.000.000đồng. Về nợ
chung, vơ chồng anh chị có vay Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi
nhánh TDM số tiền 50.000.000đồng để lo cho cháu P đi học đại học. Hiện tại, tiền gốc
và lãi phát sinh là 60.000.000đồng. Về nợ chung, chị L yêu cầu hai vợ chồng mỗi
người phải có trách nhiệm trả nợ một nửa số tiền gốc và lãi. Nay chị L ủy quyền cho
Luật sư tham gia tố tụng theo các yêu cầu nói trên của chị L.
Trong quá trình tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của
chị L, anh (chị) được tiếp cận với các bản tự khai, biên bản lấy lời khai anh T và các
chứng cứ do anh T cung cấp cho Tòa án. Các tài liệu nói trên thể hiện quan điểm của
anh T như sau: Trước khi kết hôn với chị L, anh T đã giành dụm tiền và mua được 01
thửa đất tại xã TĐ, huyện TC, tỉnh TN vào năm 2000. Đến năm 2001, anh T bán thửa
đất trên và mua một thửa đất khác tại phường 1, thành phố TN, tỉnh TN nhưng chưa
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2002, sau khi kết hôn với chị L, cơ
quan có thẩm quyền mới mời anh T đến làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Cán bộ địa chính hỏi anh có vợ chưa thì anh nói có vợ rồi. Cán bộ địa chính
nói nếu có vợ rồi thì phải đứng tên 02 vợ chồng trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Do nghĩ đó là thủ tục hành chính nên anh T đồng ý để chị L cùng đứng tên trong
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2005, anh T và chị L đã bán thửa đất tại
phường 1, thành phố TN, tỉnh TN đứng tên hai vợ chồng để mua 02 thửa đất như chị L
đã trình bày ở trên. Anh T cho rằng đất là tài sản của riêng cá nhân anh có trước khi kết
hôn nên anh không đồng ý chia mà chỉ đồng ý chia tài sản trên đất. Về con chung anh T
yêu cầu được nuôi cháu X và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con. Về nợ chung,
anh T đồng ý theo yêu cầu của chị L.
Anh/Chị hãy giúp chị L xây dựng các phương án để tham gia phiên hòa giải tại
Tòa án cấp sơ thẩm ?