Tội phạm rất nghiêm trọng gì? d tội phạm
rất nghiêm trọng
1. Tội phạm rất nghiêm trọng gì?
Tội phạm rất nghiêm trọng tội phạm tính gây nguy hại rất lớn cho hội
mức cao nhất của khung hình phạt được quy định đối với tội này từ trên
7 năm đến 15 năm .
Tội phạm rất nghiêm trọng một trong bốn nhóm tội được phân loại trong Bộ
luật hình sự. Theo quy định của Bộ luật hình sự hai dấu hiệu xác định tội
phạm rất nghiêm trọng. Đó tính nguy hại rất lớn cho hội mức cao
nhất của khung hình phạt từ trên 7 năm đến 15 năm tù, trong đó dấu
hiệu thứ nhất tính quyết định, quy định dấu hiệu thứ hai.
Phân biệt với tội phạm rất nghiêm trọng tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng tội phạm ít nghiêm trọng.
Trước B luật hình sự năm 1999, luật hình sự Việt Nam chỉ phân tội phạm
thành hai loại tội phạm nghiêm trọng tội phạm ít nghiêm trọng.
2. Liên quan đến định nghĩa tội phạm
Liên quan đến định nghĩa về tội phạm rất nghiêm trọng, hiện nay Bộ Luật
Hình sự 2015 còn những loại tội phạm khác đó là:
-Tội phạm ít nghiêm trọng tội phạm tính chất mức độ nguy hiểm cho
hội không lớn mà mức cao nhất của khung nh phạt do B luật y quy
định đối với tội ấy phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt đến
03 năm.
-Tội phạm nghiêm trọng tội phạm tính chất mức độ nguy hiểm cho
hội lớn mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội y từ trên 03 m đến 07 năm tù.
-Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng tội phạm tính chất mức độ nguy
hiểm cho hội đặc biệt lớn mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ
luật này quy định đối với tội ấy t trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình.
3. Quy định về phân loại tội phạm
Trước đây Bộ Luật hình sự năm 1999 đưa việc phân loại vào Điều 8 khái
niệm tội phạm. Tuy nhiên quy định này hình dung gây ra sự nhầm lẫn về
thuộc tính của tội phạm, bởi các loại tội phạm chỉ việc phân hóa mức độ
chịu trách nhiệm hình sự, sự chi tiết hóa cho một hành vi khi bị xem cấu
thành tội phạm.Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), quy
định về phân loại tội phạm tại Điều 9, phân chia 4 loại tội phạm bao gồm: Tội
ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng.
Việc phân loại tội phạm được xem xét dựa trên tính chất mức độ nguy
hiểm cho hội của hành vi. Theo đó tùy vào mức độ áp dụng loại hình
phạt tương thích, đảm bảo được tính răn đe cũng n yếu tố giáo dục.
Việc phân loại tội phạm ý nghĩa to lớn trong hoạt động điều tra, truy tố
xét xử. Trách nhiệm hình sự của các chủ thể vi phạm được xác định ngay tại
giai đoạn đầu từ đó định hướng được các chế i xử phù hợp.
Sự phân hóa các loại tội phạm được thực hiện theo tính chất nghiêm trọng
tăng dần tương ứng với đó loại hình phạt mức khung hình phạt cũng
tăng dần. Nếu trước đây việc phân loại hình phạt khung hình phạt để áp
dụng cho mỗi loại tội phạm được thực hiện theo phương thức áp mức tối đa
thì hiện nay các nhà làm luật đã liệt một cách chi tiết, ràng giúp việc vận
dụng luật được thuận tiện hơn.
Tương tự chủ thể nhân thực hiện hành vi phạm tội, pháp nhân thương
mại khi các hành vi xâm phạm các mối quan hệ được pháp luật hình sự
bảo vệ cũng phải chịu những chế tài tương ứng với từng loại tội phạm nhất
định.
4. Cách thức phân loại tội phạm theo luật hình s trước đây
nhiều cách phân loại tội phạm khác nhau. Mỗi cách phân loại dựa trên tiêu
chí nhất định nhằm những mục đích khác nhau. dụ: căn cứ vào tính
chất của lỗi thể phân tội phạm thành tội cố ý tội ý; căn cứ vào đặc
điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm thể phân tội phạm thành tội cấu
thành tội phạm vật chất tội cấu thành tội phạm hình thức... Phân loại tội
phạm thể phân loại tội phạm trong luật hoặc trong nghiên cứu luật hoặc
trong thực tiễn áp dụng luật.
Trong Bộ luật hình sự, tội phạm trước hết được phân thành các nhóm tội
khác nhau dựa trên mức độ của tính nguy hiểm cho hội. Bộ luật hình sự
năm 1985 phân tội phạm thành hai nhóm với mức độ của tính nguy hiểm cho
hội khác nhau. Đó tội phạm ít nghiêm trọng tính gây nguy hại không
lớn cho hội tội phạm nghiêm trọng tính gây nguy hại lớn cho hội.
Để sở cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự mức độ cao hơn. Bộ
luật hình sự năm 2015 phân tội phạm thành bốn nhóm tội: tội phạm ít nghiêm
trọng; tội phạm nghiêm trọng; tội phạm rất nghiêm trọng tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Tương ứng với bốn mức độ của tính nguy hiểm cho hội
nguy hại không lớn, nguy hại lớn, nguy hại rất lớn nguy hại đặc biệt lớn,
đây ng bốn mức đ của tính chịu hình phạt. C thể: mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội phạm ít nghiêm trọng chỉ đến 3 m tù; mức Cđb
nhất của khung hình phạt đối với tội Phạm nghiêm trọng đến 7 năm tù;
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm rất nghiêm trọng đến
15 năm mức cao nhất của khung hình phat đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng trên 18 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Đây cũng lạ hình
thức phân loại tội phạm trong luật bắn nhất, vừa một biểu hiện của
sự phận hoá trách nhiệm hình sự trong luật vừa sở thống nhất cho
các biểu hiện phân hóa trách nhiệm hình sự khác. Các quy định thể hiện sự
phân h trách nhiệm hình sự trong luật đều dựa trên sự phân loại tội phạm
này như quy định về trách nhiệm hình sự của chuẩn bị phạm tội, quy định về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Trong Bộ luật hình sự, tội phạm còn được phân thành các nhóm tội phạm
khác nhau theo các nhóm quan hệ hội bị tội phạm xâm hại. Sự phân loại
này sở cho việc xây dựng các chương thuộc Phần các tội phạm (phần
riêng) của B luật hình SỰ. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, khi mới ban
hành, các tội phạm cụ thể được chia thành 12 nhóm khác nhau được quy
định trong 12 chương của Bộ luật hình sự. Từ khi được sửa đổi, b sung lần
thứ năm 1997, Bộ luật hình sự năm 1985 chia các tội phạm cụ thể thành
13 nhóm khác nhau. Trong Bộ luật nh sự m 2015, các tội phạm cụ thể
được chia thành 14 nhóm tội khác nhau.
5. Cách thức phân loại tội phạm theo luật hình s hiện hành
Tội phạm tuy chung các dấu hiệu như trình bày trên nhưng những hành vi
phạm tội cụ thể tính chất mức độ nguy hiểm cho hội khác nhau. Tội
phạm bao gồm từ những hành vi tính chất đặc biệt nguy hiểm cho hội,
xâm phạm đến an ninh quốc gia n hành vi phản bội Tổ quốc (Điều 108
BLHS) đến những hành vi tính nguy hiểm cho hội không lớn n hành
vi chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 bộ luật hình sự năm 2015). Những
hành vi phạm tội cụ thể không những sự khác nhau về nguyên nhân, về
tính chất của các quan hệ hội bị xâm hại mà còn sự khác nhau ngay
tính chất mức độ nguy hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc
đe dọa gây ra cũng như nhiều tình tiết khách quan chủ quan khác.
Tội phạm chung dấu hiệu tính nguy hiểm cho hội nhưng mức độ của
tính nguy hiểm cho hội không phải như nhau sự khác nhau giữa các
tội phạm cũng như giữa các trường hợp phạm tội của tội cụ thể. Chính do sự
khác nhau như vậy vấn đề phân hoá thể hoá hình phạt nói riêng
cũng như TNHS nói chung đã được đặt ra được coi nguyên tắc của luật
hình sự Việt Nam. Trong đó, phân h TNHS sự phân h trong luật n
thể hoá TNHS sự phân hoá trong áp dụng. Trước hết đòi hỏi phải sự
phân hoá TNHS trong luật sự phân hoá này sở để thể thể hoá
TNHS trong áp dụng. Thể hiện nguyên tắc phân hoá TNHS, luật hình sự Việt
Nam phân tội phạm thành bốn nhóm tội phạm khác nhau: Tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.(1) Sự phân hoá thành bốn nhóm tội phạm như vậy vừa biểu
hiện bản của sự phân h TNHS vừa sở thống nhất cho sự phân
hoá TNHS trong BLHS. Sự phân hoá này sở thống nhất cho việc xây
dựng các khung hình phạt cho các tội phạm cụ thể cũng như cho việc xây
dựng trong luật hình sự trong các ngành luật khác liên quan các quy
định thể hiện sự phân hoá trong chông các loại tội phạm khác nhau. Đó
những căn cứ pháp thống nhất để các chủ thể áp dụng pháp luật thực hiện
được nguyên tắc thể h TNHS khi áp dụng luật hình sự.
Thứ nhất, tội phạm ít nghiêm trọng.
Tội phạm ít nghiêm trọng tội phạm tính chất mức độ nguy hiểm cho
hội không lớn mà mức cao nhất của khung nh phạt do B luật y quy
định đối với tội ấy phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt đến
03 năm.
Thứ hai, tội phạm nghiêm trọng.
Tội phạm nghiêm trọng tội phạm tính chất mức độ nguy hiểm cho
hội lớn mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội y từ trên 03 m đến 07 năm tù.
Thứ ba, tội phạm rất nghiêm trọng.
Tội phạm rất nghiêm trọng tội phạm tính chất mức độ nguy hiểm cho
hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy từ trên 07 năm đến 15 năm tù.
Thứ tư, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng tội phạm tính chất mức độ nguy hiểm
cho hội đặc biệt lớn mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này
quy định đối với tội ấy từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc
tử hình.
Ngoài ra, tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn
cứ vào tính chất mức đ nguy hiểm cho hội của hành vi phạm tội theo
quy định tại khoản 1 Điều 9 quy định tương ứng đối với các tội phạm được
quy định tại Điều 76 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung m 2017).

Preview text:

Tội phạm rất nghiêm trọng là gì? Ví dụ tội phạm rất nghiêm trọng
1. Tội phạm rất nghiêm trọng là gì?
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính gây nguy hại rất lớn cho xã hội
có mức cao nhất của khung hình phạt được quy định đối với tội này là từ trên 7 năm tù đến 15 năm tù.
Tội phạm rất nghiêm trọng là một trong bốn nhóm tội được phân loại trong Bộ
luật hình sự. Theo quy định của Bộ luật hình sự có hai dấu hiệu xác định tội
phạm rất nghiêm trọng. Đó là tính nguy hại rất lớn cho xã hội và mức cao
nhất của khung hình phạt là từ trên 7 năm tù đến 15 năm tù, trong đó dấu
hiệu thứ nhất có tính quyết định, quy định dấu hiệu thứ hai.
Phân biệt với tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng.
Trước Bộ luật hình sự năm 1999, luật hình sự Việt Nam chỉ phân tội phạm
thành hai loại là tội phạm nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng.
2. Liên quan đến định nghĩa tội phạm
Liên quan đến định nghĩa về tội phạm rất nghiêm trọng, hiện nay Bộ Luật
Hình sự 2015 còn có những loại tội phạm khác đó là:
-Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.
-Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù.
-Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ
luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
3. Quy định về phân loại tội phạm
Trước đây Bộ Luật hình sự năm 1999 đưa việc phân loại vào Điều 8 khái
niệm tội phạm. Tuy nhiên quy định này vô hình dung gây ra sự nhầm lẫn về
thuộc tính của tội phạm, bởi các loại tội phạm chỉ là việc phân hóa mức độ
chịu trách nhiệm hình sự, là sự chi tiết hóa cho một hành vi khi bị xem là cấu
thành tội phạm.Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), quy
định về phân loại tội phạm tại Điều 9, phân chia 4 loại tội phạm bao gồm: Tội
ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng.
Việc phân loại tội phạm được xem xét dựa trên tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi. Theo đó tùy vào mức độ mà áp dụng loại hình
phạt tương thích, đảm bảo được tính răn đe cũng như yếu tố giáo dục.
Việc phân loại tội phạm có ý nghĩa to lớn trong hoạt động điều tra, truy tố và
xét xử. Trách nhiệm hình sự của các chủ thể vi phạm được xác định ngay tại
giai đoạn đầu và từ đó định hướng được các chế tài xử lý phù hợp.
Sự phân hóa các loại tội phạm được thực hiện theo tính chất nghiêm trọng
tăng dần và tương ứng với đó là loại hình phạt và mức khung hình phạt cũng
tăng dần. Nếu trước đây việc phân loại hình phạt và khung hình phạt để áp
dụng cho mỗi loại tội phạm được thực hiện theo phương thức áp mức tối đa
thì hiện nay các nhà làm luật đã liệt kê một cách chi tiết, rõ ràng giúp việc vận
dụng luật được thuận tiện hơn.
Tương tự chủ thể là cá nhân thực hiện hành vi phạm tội, pháp nhân thương
mại khi có các hành vi xâm phạm các mối quan hệ được pháp luật hình sự
bảo vệ cũng phải chịu những chế tài tương ứng với từng loại tội phạm nhất định.
4. Cách thức phân loại tội phạm theo luật hình sự trước đây
Có nhiều cách phân loại tội phạm khác nhau. Mỗi cách phân loại dựa trên tiêu
chí nhất định và nhằm những mục đích khác nhau. Ví dụ: căn cứ vào tính
chất của lỗi có thể phân tội phạm thành tội cố ý và tội vô ý; căn cứ vào đặc
điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm có thể phân tội phạm thành tội có cấu
thành tội phạm vật chất và tội có cấu thành tội phạm hình thức... Phân loại tội
phạm có thể là phân loại tội phạm trong luật hoặc trong nghiên cứu luật hoặc
trong thực tiễn áp dụng luật.
Trong Bộ luật hình sự, tội phạm trước hết được phân thành các nhóm tội
khác nhau dựa trên mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội. Bộ luật hình sự
năm 1985 phân tội phạm thành hai nhóm với mức độ của tính nguy hiểm cho
xã hội khác nhau. Đó là tội phạm ít nghiêm trọng có tính gây nguy hại không
lớn cho xã hội và tội phạm nghiêm trọng có tính gây nguy hại lớn cho xã hội.
Để có cơ sở cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự ở mức độ cao hơn. Bộ
luật hình sự năm 2015 phân tội phạm thành bốn nhóm tội: tội phạm ít nghiêm
trọng; tội phạm nghiêm trọng; tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Tương ứng với bốn mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội
nguy hại không lớn, nguy hại lớn, nguy hại rất lớn và nguy hại đặc biệt lớn,
đây cũng là bốn mức độ của tính chịu hình phạt. Cụ thể: mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội phạm ít nghiêm trọng chỉ đến 3 năm tù; mức Cđb
nhất của khung hình phạt đối với tội Phạm nghiêm trọng là đến 7 năm tù;
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm rất nghiêm trọng là đến
15 năm tù và mức cao nhất của khung hình phat đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng là trên 18 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Đây cũng lạ hình
thức là phân loại tội phạm trong luật cơ bắn nhất, nó vừa là một biểu hiện của
sự phận hoá trách nhiệm hình sự trong luật và vừa là cơ sở thống nhất cho
các biểu hiện phân hóa trách nhiệm hình sự khác. Các quy định thể hiện sự
phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật đều dựa trên sự phân loại tội phạm
này như quy định về trách nhiệm hình sự của chuẩn bị phạm tội, quy định về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Trong Bộ luật hình sự, tội phạm còn được phân thành các nhóm tội phạm
khác nhau theo các nhóm quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Sự phân loại
này là cơ sở cho việc xây dựng các chương thuộc Phần các tội phạm (phần
riêng) của Bộ luật hình SỰ. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, khi mới ban
hành, các tội phạm cụ thể được chia thành 12 nhóm khác nhau và được quy
định trong 12 chương của Bộ luật hình sự. Từ khi được sửa đổi, bổ sung lần
thứ tư năm 1997, Bộ luật hình sự năm 1985 chia các tội phạm cụ thể thành
13 nhóm khác nhau. Trong Bộ luật hình sự năm 2015, các tội phạm cụ thể
được chia thành 14 nhóm tội khác nhau.
5. Cách thức phân loại tội phạm theo luật hình sự hiện hành
Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu như trình bày trên nhưng những hành vi
phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Tội
phạm bao gồm từ những hành vi có tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội,
xâm phạm đến an ninh quốc gia như hành vi phản bội Tổ quốc (Điều 108
BLHS) đến những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội không lớn như hành
vi chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 bộ luật hình sự năm 2015). Những
hành vi phạm tội cụ thể không những có sự khác nhau về nguyên nhân, về
tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại mà còn có sự khác nhau ngay ở
tính chất và mức độ nguy hiểm của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc
đe dọa gây ra cũng như ở nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác.
Tội phạm có chung dấu hiệu là tính nguy hiểm cho xã hội nhưng mức độ của
tính nguy hiểm cho xã hội không phải như nhau mà có sự khác nhau giữa các
tội phạm cũng như giữa các trường hợp phạm tội của tội cụ thể. Chính do sự
khác nhau như vậy mà vấn đề phân hoá và cá thể hoá hình phạt nói riêng
cũng như TNHS nói chung đã được đặt ra và được coi là nguyên tắc của luật
hình sự Việt Nam. Trong đó, phân hoá TNHS là sự phân hoá trong luật còn
cá thể hoá TNHS là sự phân hoá trong áp dụng. Trước hết đòi hỏi phải có sự
phân hoá TNHS trong luật và sự phân hoá này là cơ sở để có thể cá thể hoá
TNHS trong áp dụng. Thể hiện nguyên tắc phân hoá TNHS, luật hình sự Việt
Nam phân tội phạm thành bốn nhóm tội phạm khác nhau: Tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.(1) Sự phân hoá thành bốn nhóm tội phạm như vậy vừa là biểu
hiện cơ bản của sự phân hoá TNHS vừa là cơ sở thống nhất cho sự phân
hoá TNHS trong BLHS. Sự phân hoá này là cơ sở thống nhất cho việc xây
dựng các khung hình phạt cho các tội phạm cụ thể cũng như cho việc xây
dựng trong luật hình sự và trong các ngành luật khác có liên quan các quy
định thể hiện sự phân hoá trong chông các loại tội phạm khác nhau. Đó là
những căn cứ pháp lí thống nhất để các chủ thể áp dụng pháp luật thực hiện
được nguyên tắc cá thể hoá TNHS khi áp dụng luật hình sự.
Thứ nhất, tội phạm ít nghiêm trọng.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.
Thứ hai, tội phạm nghiêm trọng.
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù.
Thứ ba, tội phạm rất nghiêm trọng.
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù.
Thứ tư, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này
quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Ngoài ra, tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn
cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo
quy định tại khoản 1 Điều 9 và quy định tương ứng đối với các tội phạm được
quy định tại Điều 76 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Document Outline

  • Tội phạm rất nghiêm trọng là gì? Ví dụ tội phạm rấ
    • 1. Tội phạm rất nghiêm trọng là gì?
    • 2. Liên quan đến định nghĩa tội phạm
    • 3. Quy định về phân loại tội phạm
    • 4. Cách thức phân loại tội phạm theo luật hình sự
    • 5. Cách thức phân loại tội phạm theo luật hình sự