



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59994889
Câu 1: Phân tích cơ sở lý luận hình thành tư tưởng HCM. Theo Anh (chị), cơ sở lý
luận nào trong giá trị văn hóa phương Tây khi xây dựng bộ máy nhà nước mà
HCM tiếp nhận đến nay vẫn còn nguyên giá trị? Tại sao?
Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng HCM
Khái niệm tư tưởng HCM: Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Tư tưởng HCM soi sáng con đường giải phóng và phát triển của dân tộc, là tài
sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hành động của cách mạng Việt Nam, phản ánh khát vọng của thời đại, tìm ra giải pháp
đấu tranh giải phóng loài người và cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả.
a. Bắt nguồn từ tư tưởng và văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam:
Trải qua bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc và tạo lập cho
dân tộc ta một nền văn hóa phong phú, đa dạng và thống nhất bền vững với những giá
trị truyền thống tốt đẹp, cao quý, trong đó chủ nghĩa yêu nước là nấc thang cao nhất của văn hóa Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và vượt
qua mọi khó khăn trong quá trình dựng nước và giữ nước mà phát triển, cũng là đạo lý
làm người và triết lý nhân sinh, giữ vai trò quan trọng trong hệ thống tư tưởng quan niệm
cách sống của người Việt Nam, là chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất của dân tộc, là cội
nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của dân tộc Việt Nam ta.
Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực sự khi nó ăn sâu vào
tiềm thức vào ý chí và hành động của mỗi con người. Chính từ thực tiễn đó Người đã
đúc kết chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó
kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.”
Đây là nền tảng tư tưởng, là điểm xuất phát, là động lực thúc đẩy Nguyễn Ái
Quốc ra đi tìm đường cứu nước và bắt gặp tư tưởng Mác Lênin, tìm thấy con đường cứu nước, cứu dân.
Kế thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập, tự do của
Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Trong Tuyên ngôn Độc lOMoAR cPSD| 59994889
lập, HCM đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, và thực sự đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do
và độc lập ấy”. Không có gì quý hơn độc lập, tự do – chân lý lớn của thời đại được HCM
khẳng định, đồng thời cũng là điểm cốt lõi trong Tư tưởng HCM.
Trong lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ đất nước, HCM cũng hết
sức chú trọng kế thừa phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, đó là
lòng yêu nước gắn liền với yêu dân, tinh thần bất khuất, nhân ái, có lòng thương người,
ý thức đoàn kết cộng đồng, cần cù, anh dũng kiên cường, thông minh, sáng tạo trong lao
động, lạc quan, hiếu học, ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử thách của dân tộc
Việt Nam. Trong tư tưởng HCM, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành
công của cách mạng; dân là gốc của nước; nước lấy dân làm gốc; gốc có vững cây mới
bền; xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân; đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế
là một nguyên tắc chiến lược quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh đó, trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào
về lịch sử, trân trọng văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán và những giá trị tốt đẹp
khác của dân tộc. Đó chính là cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn hóa
kiệt xuất HCM với chủ trương văn hóa là mục tiêu,động lực của cách mạng; cần giữ gìn
cốt cách văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền
văn hóa mới của Việt Nam. HCM chính là một biểu tượng cao đẹp của sự tích hợp tinh
hoa văn hóa phương Đông và phương Tây.
b. Kế thừa tinh hoa văn hóa tư tưởng nhân loại:
Văn hoá Phương Đông: Người đã chắt lọc lấy những gì tinh túy nhất của các
học thuyết triết học, hoặc trong tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử,... Đó là những học thuyết
có ảnh hưởng sâu rộng ở phương Đông và ở Việt Nam trước đây.
Kế thừa phát triển tinh hoa tư tưởng của Nho giáo: Người tiếp thu những mặt
tích cực của Nho giáo như: Triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, là
khát vọng về một xã hội đại đồng, là hòa mục, hòa đồng, là triết lý nhân sinh tu thân
dưỡng tính, đề cao văn hóa, lễ giáo, hiếu học và Người đã phê phán loại bỏ những yếu
tố tiêu cực bên trong nó. Người coi trọng việc rèn luyện đạo đức, dùng nhân trị, đức trị
để quản lý xã hội. Đặc biệt, HCM chú ý kế thừa, đổi mới, phát triển tinh thần trọng đạo
đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người, trong công tác
xây dựng Đảng về đạo đức. Tuy nhiên, HCM cũng phê phán Nho giáo có tư tưởng tiêu
cực như bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp – quân tử và tiểu nhân, trọng
nam khinh nữ, chỉ đề cao nghề đọc sách. HCM đã chịu ảnh hưởng của Nho giáo rất
nhiều dựa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Kế thừa phát triển tinh hoa tư tưởng của Phật giáo: HCM đã chịu ảnh hưởng
sâu sắc và tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng tốt đẹp của Phật giáo như: vị tha, từ bi,
bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân, nếp sống đạo đức, trong
sạch, giản dị, chăm lo việc thiện, ca ngợi lao động, phê phán lười biếng, chủ trương gắn lOMoAR cPSD| 59994889
bó với dân, với nước, chống lại cái ác, đề cao quyền bình đẳng, dân chủ của con người,
chống phân biệt đẳng cấp, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống lại
kẻ thù của dân tộc. Những quan điểm tích cực đó trong triết lý của đạo Phật được Người
vận dụng sáng tạo để đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Kế thừa phát triển tinh hoa, tư tưởng của Đạo gia – Lão Tử: kế thừa phát
triển tư tưởng sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên hơn nữa là biết bảo
vệ môi trường sống, HCM kêu gọi nhân dân ta trồng cây, tổ chức “Tết trồng cây” để bảo
vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc sống của con người. Kế thừa tư tưởng thoát khỏi
mọi ràng buộc, danh lợi của Lão Tử, Người khuyên cán bộ, đảng viên thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hành động theo đạo lý với ý nghĩa là hành động theo
quy luật tự nhiên, xã hội.
HCM còn kế thừa, phát triển nhiều ý tưởng của các trường phái khác nhau trong
các nhà tư tưởng phương Đông cổ đại như Mặc Tử, Hàn Phi Tử, Quản Tử, v.v.. Đồng
thời cũng tìm hiểu những trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung
Quốc như chủ nghĩa Găngđi, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. HCM đã phát triển
sáng tạo các quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách
mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập - Dân tộc - Tự do Hạnh phúc
của con người và dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Vì thế từ tên
nước trước đây “Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa” cho đến tiêu ngữ “Độc lập Tự do - Hạnh
phúc” làđiểm sáng tạo vĩ đại của HCM.
Tinh hoa văn hóa phương Tây: Ngay từ khi còn học ở Trường Tiểu học Pháp -
bản xứ ở thành phố Vinh (năm 1905), HCM đã quan tâm tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại
Cách mạng Pháp năm 1789: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Tiếp thu tư tưởng của các nhà
khai sáng Pháp như Voltaire, Rousseau, Montesquieu,... Đi sang phương Tây, Người
quan tâm tìm hiểu đến những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng tư sản ở
Anh, Pháp, Mỹ. Người tìm hiểu về lịch sử cách mạng Mỹ, những quan điểm nhân quyền,
dân quyền như giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu
hạnh phúc trong “Tuyên ngôn độc lập” năm 1776 của Mỹ và “Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền” năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự
do, hạnh phúc của các dân tộc.
Thiên Chúa giáo là tôn giáo lớn của phương Tây, HCM quan niệm Tôn giáo là
văn hoá. Điểm tích cực nhất của Thiên Chúa giáo là lòng nhân ái. HCM tiếp thu có chọn
lọc tư tưởng văn hoá Đông - Tây để phục vụ cho cách mạng Việt Nam. Người vừa tiếp
thu, vừa chắt lọc, suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng phát triển cho phù
hợp vào trong tư tưởng của mình.
c. Chủ nghĩa Mác Lenin:
Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng tiền đề, mang tính cách mạng nhất thời
đại. Là học thuyết về sự phân hóa giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị
áp bức và giải phóng con người. Chính vì thế, chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành cơ sở lOMoAR cPSD| 59994889
thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng HCM, là nguồn gốc lý luận trực tiếp,
quyết định bản chất của tư tưởng HCM. Đồng thời, tư tưởng HCM góp phần làm phong
phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin.
Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin diễn ra trên nền tảng của những tri thức văn
hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị, vốn hiểu biết phong phú, được
tích lũy qua thực tiễn hoạt động đấu tranh vì mục tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc.
Quá trình HCM tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin diễn ra một cách tự nhiên, chân thành
và giản dị. HCM đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là tìm con đường giải phóng cho dân
tộc Việt Nam, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn Việt Nam chứ không phải từ nhu cầu tư duy.
HCM tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin theo phương pháp mác-xít và theo tinh
thần phương Đông, không sách vở, không rập khuôn máy móc, không sao chép giáo
điều mà tiếp thu có chọn lọc, không tìm kết luận sẵn có trong sách vở mà tự tìm ra giải
pháp riêng, cụ thể cho cách mạng Việt Nam. Từ những cơ sở trên, ta có thể kết luận vai
trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với tư tưởng HCM như sau:
- Quyết định bản chất thế giới khoa học của tư tưởng HCM.
- Quyết định phương pháp hành động biện chứng của HCM.
Cơ sở lý luận trong giá trị văn hóa phương Tây khi xây dựng bộ máy nhà nước mà
HCM tiếp nhận đến nay vẫn còn nguyên giá trị
Qua lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp:
Lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: "Tự do, Bình đẳng, Bác ái". HCM
cũng sớm bị hấp dẫn bởi lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái của Đại cách mạng Pháp
cũng như trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của Pháp.
Qua Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ:
HCM cũng thường xuyên nhắc tới ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền
sống của con người được ghi lại trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Câu trích
dẫn nổi tiếng của bản tuyên ngôn độc lập là “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người đã tiếp thu
giá trị của tư tưởng nhân quyền với nội dung là quyền tự do cá nhân thiêng liêng trong
bản tuyên ngôn này. Sau này Người đã phát triển nó thành quyền sống, quyền độc lập,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả các dân tộc.
Có 2 giá trị văn hóa phương Tây khi xây dựng bộ máy nhà nước mà HCM tiếp
nhận đến nay vẫn còn nguyên giá trị:
Nhân quyền: Tư tưởng của Người về độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia
được xem là cơ sở ý thức hệ quan trọng cho mọi hoạt động của cơ quan nhà nước, cho lOMoAR cPSD| 59994889
ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân, là căn cứ, mục tiêu và động lực của hoạt động
lập pháp ngày nay. Có thể dễ dàng nhận thấy, trong tâm thức mỗi người Việt Nam yêu
nước vẫn còn vang vọng lời Bác dạy trong bản Tuyên ngôn độc lập: "Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, Đảng và Nhà nước
ta luôn coi việc bảo đảm quyền con người là bản chất, mục đích của chế độ xã hội chủ
nghĩa và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn
mạnh: “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân
theo Hiến pháp năm 2013…”. Quyền con người luôn được Đảng và Nhà nước ta đề cao.
Bình đẳng trước pháp luật không chỉ thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 mà còn
được cụ thể hóa trong các lĩnh vực cụ thể của quan hệ pháp luật. Điều 16 Hiến pháp năm
2013 quy định “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.”. Khoản 3 Điều 5 Luật Bình
đẳng giới năm 2006 quy định: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang
nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của
cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.”. Hỗ
trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Trong tư tưởng của HCM, quyền con người phải được thể chế hóa bằng Hiến
pháp, pháp luật và bảo đảm, bảo vệ bằng nhà nước pháp quyềncủa dân, do dân, vì dân.
Quyền con người không chỉ giới hạn ở các quyền tự nhiên vốn có, quyền sống, quyền
tồn tại mà được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 trên cơ sở kế thừa, phát triển các bản Hiến pháp trước
đó tiếp tục đề cao việc thể chế hóa tư tưởng HCM, quan điểm của Đảng và Nhà nước,
phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong tình
hình mới, công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân là
trách nhiệm của Nhà nước.
Dân chủ: Dân chủ là một khái niệm dùng để chỉ quyền làm chủ của nhân dân,
phản ánh mối quan hệ giữa nhân dân và quyền lực nhà nước, trong đó quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân.
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, HCM chỉ rõ: “Ở nước ta
chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ…Nhân dân là ông chủ nắm chính
quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính chính quyền ấy. Thế là dân chủ”.
Điều này được thể hiện rõ tại các văn kiện trọng tâm của Đảng như Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991 và bổ sung, phát triển lOMoAR cPSD| 59994889
năm 2011), nghị quyết các Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ IX, X, XI, XII; các Chỉ
thị của Bộ Chính trị cũng như các văn kiện khác của Đảng.
Tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân: Chủ tịch HCM viết: "Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm
của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu
của mình". Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của
nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là các ông quan cách mạng mà
là công bộc của nhân dân. Tư tưởng HCM về một nhà nước vì dân, tất cả vì hạnh phúc
của nhân dân làtư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời của Người.
→ Đặt con người vào vị trí trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi chính
sách, hành động, Đảng khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩ amà Nhà nước ta đang hướng
tới xây dựng là một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ”.
Lê nin đã từng nói: “Chỉ những người cách mạng chân chính mới thu hái được
những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”. Trên hành trình tìm đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc - HCM đã tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại nhất là phương Tây
một cách có chọn lọc như: Chủ nghĩa nhân văn; khát vọng tự do; tinh thần không khoan
nhượng rồi cuối cùng vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể
của đất nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình
mà còn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới.
Câu 2: Trình bày quan điểm của HCM về động lực của công cuộc xây dựng CNXH.
Nêu suy nghĩ của bản thân về việc kết hợp nguồn lực bên trong với sức mạnh bên
ngoài trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế?
Động lực của công cuộc xây dựng CNXH
Để đạt được những mục tiêu của CNXH, HCM cho rằng, phải nhận thức, vận
dụng và phát huy tối ưu các động lực. Trong tư tưởng của Người, hệ thống động lực thúc
đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa rất phong phú, bao hàm những động lực cả
trong quá khứ, hiện tại và tương lai; cả về vật chất và tinh thần, nội lực và ngoại lực, v.v.
ở tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị,văn hóa, khoa học, giáo dục, v.v. Tất cả các
động lực đều rất quan trọng và có mối quan hệ biện chứng với nhau nhưng giữ vai trò
quyết định là nội lực dân tộc, là nhân dân nên để thức đẩy tiến trình cách mạng xã hội
chủ nghĩa phải đảm bảo lợi ích của dân, dân chủ của dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân.
Trong tư tưởng HCM, đây là những động lực hàng đầu của CNXH.
Về lợi ích của dân, HCM quan tâm đến lợi ích của cả cộng đồng người và lợi ích
của những con người cụ thể vì Người cho rằng đây là một trong những điểm khác nhau
cơ bản giữa CNXH với những chế độ xã hội trước nó. Người nhận thấy trong xã hội xã
hội chủ nghĩa mỗi người giữ một vị trí nhất định, đóng góp một phần công lao nhất định lOMoAR cPSD| 59994889
vì nhân dân lao động đã thoát khỏi bần cùng, có công ăn việc làm, có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, mỗi người có điều kiện cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách
và sở trường riêng của mình, nên ngay từ những ngày đầu xây dựng chế độ xã hội mới,
Người đã dạy: “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết
sức tránh”, “phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết”.
Về dân chủ, theo HCM, dân chủ trong CNXH là dân chủ của nhân dân, là của quý
báu nhất của nhân dân. Có dân chủ lợi ích mới vì dân; có dân chủ quyền hành và lực
lượng mới ở nơi dân, công việc đổi mới và xây dựng mới là công việc của dân, là trách
nhiệm của dân. Với tư cách là những động lực thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, lợi ích của dân và dân chủ của dân không thể tách rời nhau.
Về sức mạnh đoàn kết toàn dân, HCM cho rằng đây là lực lượng mạnh nhất trong
tất cả các lực lượng và CNXH chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ của nhân
dân về quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị dân chủ của mình; với sự lao động
sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, ngay trong buổi ra mắt
Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, HCM đã chỉ rõ: “Mục đích của Đảng Lao
động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.
Trong tư tưởng HCM, lợi ích của dân, dân chủ của dân, đoàn kết toàn dân gắn
bó hữu cơ với nhau, là cơ sơ, là tiền đề của nhau, tạo nên những động lực mạnh mẽ nhất
trong hệ thống những động lực của CNXH. Song, những yếu tố trên chỉ có thể phát huy
được sức mạnh của mình thông qua hoạt động của những cộng đồng người và những
con người Việt Nam cụ thể.
Về hoạt động của những tổ chức, trước hết là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các
tổ chức chính trị-xã hội khác, trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản giữ vai trò quyết
định. Theo HCM, Đảng như người cầm lái, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là tổ chức đại diện cho ý chí và quyền lực của
nhân dân, thực hiện chức năng quản lý xã hội để biến đường lối, chủ trương của Đảng
thành hiện thực. Các tổ chức chính trị-xã hội với tư cách là các tổ chức quần chúng tuy
có những nội dung và phương thức hoạt động khác nhau nhưng đều nhất quán về chính
trị và tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; hoạt động vì lợi ích
của các thành viên của mình trong sự thống nhất với lợi ích của dân tộc. Với những cộng
đồng này, Người cũng luôn nhắc nhở phải không ngừng nêu cao cảnh giác, phải chống
cả kẻ địch bên ngoài tìm cách phá hoại thành quả của cách mạng và phải chống cả kẻ
địch bên trong là chủ nghĩa cá nhân; chống tư tưởng “làm quan cách mạng”.
Về con người Việt Nam, HCM khẳng định: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết
cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đấy là những con người của CNXH, có tư
tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa6. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo các cấp toàn miền Bắc do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập từ ngày 13
tháng 3 đến ngày 21 tháng 3 năm 1961, HCM giải thích rất chi tiết, cụ thể về tư tưởng,
tác phong xã hội chủ nghĩa; cuối cùng Người khái quát: Những tư tưởng và tác phong
mới mà mỗi người cần bồi dưỡng cho mình là: Có ý thức làm chủ nhà nước, có tinh thần
tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”; có quan lOMoAR cPSD| 59994889
điểm “tất cả phục vụ sản xuất”; có ý thức cần kiệm xây dựng nước nhà; có tinh thần tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH và phải chống lại những tư tưởng, tác phong
xấu là: Chủ nghĩa cá nhân; quan liêu, mệnh lệnh; tham ô, lãng phí; bảo thủ, rụt rè.
Như vậy, cùng với việc xác định và định hướng phát huy sức mạnh những động
lực của CNXH, đối với các cộng đồng người và với những con người Việt Nam cụ thể,
HCM luôn nhắc nhở phải ngăn chặn, loại trừ những lực cản của những động lực này.
Nhìn chung, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, quan điểm “xây” đi đôi với “chống”
cũng là một trong những quan điểm xuyên suốt tư tưởng HCM, là một trong những nét
đặc sắc của tư tưởng HCM.
Suy nghĩ của bản thân về việc kết hợp nguồn lực bên trong với sức mạnh bên ngoài
trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay, chúng ta phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản
lý, công nghệ kỹ thuật và gia nhập thị trường thế giới nhưng phải trên cơ sở độc lập tự
chủ, phát huy đầy đủ các yếu tố nội lực vốn có.
Trong bối cảnh đó, để đứng vững và phát triển, chúng ta phải khéo léo trong các
mối quan hệ với các quốc gia đối tác, nghĩa là phải chủ động thực hiện đa dạng hóa, đa
phương hóa, cải thiện và tối đa hóa quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước có chế
độ xã hội và con đường khác nhau. Càng giữ vững độc lập tự chủ thì ta càng có điều
kiện đa dạng hóa, đa phương hóa. Ngược lại, càng thực hiện có hiệu quả đa dạng hóa,
đa phương hóa quan hệ đối ngoại thì càng củng cố được độc lập tự chủ.
Những năm đổi mới vừa qua, với chính sách đối ngoại thể hiện tính khoa học và
cách mạng, nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, vị thế và uy tín
quốc tế của Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới. Ta đã tạo được sự chuyển
biến căn bản trong quan hệ đối ngoại, phù hợp với lợi ích an ninh và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy, thế của ta chưa thật vững chắc và lực của ta nói chung
còn yếu. Nước ta vẫn là một nước đang phát triển, trình độ phát triển kinh tế, khoa học,
kỹ thuật còn thấp, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp,
không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
Để có thể kết hợp sức mạnh bên ngoài với sức mạnh dân tộc, thành sức mạnh
tổng thể có lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vấn đề đầu
tiên là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải được tăng trưởng không ngừng.
Phải làm sao chuyển nhanh thành hiện thực những khẩu hiệu chống tệ nạn tham thũng,
tham ô lãng phí, chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống hằng ngày. Sức mạnh dân
tộc chính là tổng hợp các nhân tố kinh tế, quân sự, chính trị, ngoại giao và ý chí. Nói
cách khác là chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước luôn phù hợp với lòng dân.
Câu 3: Phân tích quan điểm của HCM về mâu thuẫn cơ bản và khó khăn của Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trình bày nhận thức của bản thân về vấn đề
vận dụng tư tưởng HCM để xây dựng nguồn lực con người của Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. lOMoAR cPSD| 59994889
Quan điểm của HCM về mâu thuẫn cơ bản và khó khăn của Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên CNXH
Đặc điểm của thời kỳ quá độ: Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ ở Việt Nam
là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH, không trải qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa.
Đặc điểm này là cơ sở nảy sinh nhiều mâu thuẫn, trong đó mâu thuẫn cơ bản là
mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng
kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta.
Theo HCM, thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là thời kỳ cải biến xã hội cũ
thành xã hội mới - một xã hội hoàn toàn chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Đây là
một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài đòi hỏi dân tộc ta phải thay đổi triệt
để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm;
phải xóa bỏ giai cấp bóc lột; phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn
hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc trong điều kiện nước ta là một nước nông nghiệp
lạc hậu, mới thoát khỏi ách thực dân, phong kiến. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:
Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho CNXH, xây dựng các tiền đề
về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho CNXH.
Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng, trong
đó lấy xây dựng làm trọng tâm, nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.
HCM nhấn mạnh đến tính chất tuần tự, dần dần của thời kỳ quá độ lên CNXH.
Tính chất phức tạp và khó khăn của nó được HCM lý giải trên các điểm sau:
Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã
hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Nó đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.
Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa
có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối với
Đảng ta, nên phải vừa làm, vừa học và có thể có vấp váp và thiếu sót. Xây dựng xã hội
mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta luôn luôn bị các thế lực phản động
trong và ngoài nước tìm cách chống phá.
Nhận thức của bản thân về vấn đề vận dụng tư tưởng HCM để xây dựng nguồn lực
con người của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập vào nền kinh tế thế giới
Hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang
đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến lOMoAR cPSD| 59994889
phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại và xu thế toàn cầu hóa đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, đặt ra nhiều vấn đề mới cần được giải quyết trong bảo vệ độc lập, chủ
quyền. Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trong những năm đổi
mới cũng còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế. Đặc biệt, tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào một số đảng viên có chức vụ
trong bộ máy Nhà nước…
Trước những khó khăn, thách thức đó, mỗi cá nhân cần tiếp tục vận dụng sáng
tạo tư tưởng HCM về phát huy nhân tố con người, khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực,
mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giữ vững và phát
huy giá trị độc lập, tự do của dân tộc. Để thực hiện điều đó, mỗi cá nhân cần tập trung
thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là, phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bồi dưỡng tri thức
cho người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế, yêu cầu của kinh tế
tri thức và xã hội học tập.
Hai là, chăm lo xây dựng môi trường tôn vinh những giá trị văn hóa truyền thống
lịch sử. Cần tập trung giáo dục lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống
đấu tranh, kiên cường bất khuất của nhân dân ta, tuyên truyền sâu rộng về những anh
hùng liệt sĩ, những tấm gương yêu nước tiêu biểu… Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng
chuẩn mực đạo đức, tấm gương điển hình với “chống” mọi biểu hiện, hành vi trái với
đạo lý, truyền thống của dân tộc; coi trọng giáo dục, rèn luyện thông qua hoạt động thực
tiễn làm cho mỗi người có khả năng tự đề kháng và tích cực đấu tranh với âm mưu “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân
dân, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là điều kiện để phát huy
nhân tố con người, tạo nền tảng vững chắc để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Do
vậy, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác hiệu quả, tiềm năng, thế mạnh
của từng vùng, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái.
Bốn là, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có sức chiến đấu cao. Tăng
cường tiềm lực quốc phòng - an ninh của đất nước, coi trọng tiềm lực chính trị, thế trận
lòng dân; kết hợp chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân.
Năm là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa
quyết định đối với quá trình phát huy sức mạnh của con người Việt Nam. Trong quá
trình giành độc lập, tự do cũng như trong sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi Đảng phải không
ngừng nâng cao năng lực và sức chiến đấu, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tự lOMoAR cPSD| 59994889
phê bình và phê bình, tăng cường đoàn kết, thống nhất và kiên quyết đấu tranh với các phần tử cơ hội.
Câu 4: Phân tích quan điểm của HCM về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Trình bày nhận thức của bản thân về việc vận dụng tư tưởng HCM trong xây
dựng đội ngũ công chức nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay.
Quan điểm của HCM về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu có đạo đức
cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ hiện nay, cần quán triệt và thực hiện các nội dung sau:
Thứ nhất, đổi mới, tạo bước chuyển biến quan trọng về công tác đánh giá cán bộ
Đánh giá cán bộ là khâu có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công tác cán bộ,
làm cơ sở cho việc phân loại, quản lý, sử dụng cán bộ. Đánh giá không đúng về cán bộ
thì khó quy hoạch, quản lý, sử dụng đúng và hiệu quả, gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng
trong công tác tổ chức, cán bộ, chính sách, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; triệt tiêu
nhân tố tích cực, thúc đẩy chủ nghĩa cơ hội, tiêu cực, suy thoái đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Coi trọng xây dựng môi trường văn hóa dân chủ, phản biện, tự phê bình và phê
bình, bình đẳng, khách quan, công bằng, công khai trong đánh giá cán bộ và công tác
cán bộ; tiếp thu nguồn thông tin phản ánh về cán bộ từ nhiều lực lượng, cá nhân và tổ chức, cộng đồng.
Thứ hai, đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ
Công tác quy hoạch cán bộ cần tiếp tục được đổi mới theo hướng xây dựng “thị
trường nhân tài” dồi dào, phong phú từ nhiều nguồn trong xã hội; tăng yếu tố “cạnh
tranh”. Quy hoạch đúng để đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm,
sử dụng đúng người, đúng việc, đúng lúc, đúng tầm, góp phần quan trọng vào phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ và phòng, chống suy thoái chính trị,
đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần theo hướng tinh giản, tối ưu, hiệu quả.
Coi trọng phát huy dân chủ, tính công khai, minh bạch trong công tác cán bộ vừa tạo
điều kiện cho cán bộ trong “diện quy hoạch” có cơ hội phấn đấu, học tập, rèn luyện,
cống hiến, khẳng định trước tập thể, tổ chức, cộng đồng, xã hội; vừa tạo điều kiện cho
các lực lượng có liên quan, nhất là đồng nghiệp, quần chúng nhân dân theo dõi, đánh
giá, phê bình, giúp đỡ, bảo vệ và lựa chọn cán bộ; đồng thời khuyến khích, động viên
những cán bộ chưa được đưa vào quy hoạch phấn đấu; kịp thời phòng, chống tiêu cực
trong công tác cán bộ và trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, đổi mới công tác chính sách, cơ chế, quy định kiểm soát quyền lục, phòng,
chống tiêu cực trong công tác cán bộ lOMoAR cPSD| 59994889
Tiếp tục khảo sát thực tế để cải cách, bổ sung, ban hành, chỉnh sửa, hoàn thiện
chính sách, cơ chế, quy định công tác cán bộ toàn diện, bảo đảm tính khoa học và thực
tế khả thi đối với tất cả các khâu, các bước, các nội dung, công việc của công tác tổ chức,
cán bộ; nhất là cơ chế, chính sách thu hút, lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng người có đức,
có tài. Thực hiện tốt cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng cán bộ gắn với thực hiện nghiêm
quy định về kiểm soát quyền lực, phòng chống tiêu cực ngay trong quy trình xây dựng,
ban hành tới các bước triển khai thực thi chính sách, quy chế, quy định.
Kiểm soát đồng bộ cả cá nhân đến tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy, quản lý
ở các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, nhất là bộ phận trực tiếp chuyên trách, tham mưu
về công tác tổ chức, cán bộ gắn với kiểm soát nhân sự cán bộ, đặc biệt là cán bộ trong
diện quy hoạch. Thực hiện nghiêm việc kiểm soát quyền lực gắn với chế tài pháp lý chặt chẽ.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương gắn với cơ chế, chính sách, nhất là chế độ tiền
lương, thu nhập, cải thiện cuộc sống, môi trường, điều kiện làm việc… điều này có tác
động trực tiếp đến lòng nhiệt huyết, tình cảm, niềm tin, ý chí, thúc đẩy nỗ lực đổi mới sáng tạo.
Kiên trì, kiên quyết, đoàn kết lực lượng để kịp thời bảo vệ có hiệu quả những cá
nhân, tổ chức, lực lượng tích cực phòng, chống tiêu cực, nhất là nạn “chạy chức, chạy
quyền” trong công tác cán bộ.
Nhận thức của bản thân về việc vận dụng tư tưởng HCM trong xây dựng đội ngũ
công chức nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay
Không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, không hoang mang, dao
động, hoài nghi và giảm sút lòng tin vào con đường mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn trong
bất cứ tình huống nào, kể cả trong những hoàn cảnh khó khăn, phức tạp nhất. Mỗi cá
nhân cần phải luôn kiên định với đường lối đổi mới của Đảng, kiên quyết đấu tranh
chống các khuynh hướng giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, vô nguyên
tắc. Mỗi cá nhân cần phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, có đạo đức cách mạng trong sáng.
Luôn chủ động và tích cực trong thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách của Chủ tịch HCM; lấy Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng HCM làm kim
chỉ nam cho hành động của mình.
Luôn tự rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ
hội, thực dụng. Luôn đề cao mục tiêu: “Xây dựng Đảng trọng sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Mạnh dạn đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, tham gia ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm”; chống đặc quyền, đặc lợi.
Câu 5: Phân tích quan điểm của HCM về xây dựng nhà nước pháp quyền. Trình
bày nhận thức của bản thân về thành tựu và hạn chế của việc vận dụng tư tưởng
HCM trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam lOMoAR cPSD| 59994889
trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quá trình toàn cầu hóa. Quan điểm của HCM về
xây dựng nhà nước pháp quyền
HCM đã xác định rõ nhiệm vụ lịch sử và nội dung của việc xây dựng một nhà
nước dân chủ, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; có nền dân chủ lập hiến, quản
lý đất nước bằng pháp luật luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo, ngày một hoàn thiện
trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng qua các thời kỳ. Chính vì vậy Người đã đưa ra một số quan điểm
về Nhà nước pháp quyền như sau:
Thứ nhất, lấy dân làm gốc, Nhân dân là nguồn gốc và chủ thể của quyền lực nhà nước
Chủ tịch HCM chỉ rõ: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Do vậy, ngay trong Điều 1
Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp do Người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo đã khẳng
định: “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”. “Dân là gốc”, mọi việc đều bắt nguồn từ dân, làm được hay không cũng
là ở nơi dân. Muốn thực sự lấy dân làm gốc, thực sự muốn gần dân, dân tin, dân quý thì:
“việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh... Nói
tóm lại, muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền
lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”.
Thứ hai, tất cả vì con người, vì tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân
Chủ tịch HCM khẳng định, xét về bản chất và mục tiêu, “Không có chế độ nào
tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó
được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”. Trong Tuyên ngôn
độc lập năm 1945 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch HCM đã trịnh trọng
nhắc lại những vấn đề cốt lõi của tư tưởng cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, coi các
quyền con người như quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là
những quyền tự nhiên, không thể tước đoạt.
Thứ ba, quản lý nhà nước, quản lý xã hội dựa trên pháp luật và thực hiện pháp
luật công bằng với nền hành chính và tư pháp liêm chính, đạo đức, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân
Chủ tịch HCM đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa và vai trò của pháp luật trong việc bảo
đảm lợi ích của Nhân dân và phản ánh ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Các lý tưởng
và giá trị công bằng, dân chủ, tự do chân chính luôn là những yếu tố hạt nhân trong tư
tưởng HCM về pháp luật, về thi hành và áp dụng pháp luật, nhất là trong hoạt động tư
pháp. Trong tư tưởng HCM, các giá trị dân chủ, công bằng, nhân đạo được thể hiện
thông qua phương châm hành động của Nhà nước và của các cơ quan, tổ chức, cán bộ,
đảng viên. Bác nhắc nhở: “Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân,
tư huệ, hoặc tư thù, tư oán”. lOMoAR cPSD| 59994889
Nhận thức của bản thân về thành tựu và hạn chế của việc vận dụng tư tưởng HCM
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới, hội nhập quá trình toàn cầu hóa
Trong quá trình tổ chức thực hiện, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam, chúng ta đã đạt
được những kết quả, thành tựu nhất định.
Hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản. Vai trò của pháp luật và
thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước
và đời sống xã hội. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ
hơn và có chuyển biến tích cực. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp lại theo hướng
tinh gọn gắn với tinh giản biên chế, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Hoạt động của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao có nhiều đổi mới, chất lượng
và hiệu quả được nâng cao. Vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội được thể hiện rõ hơn....
Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới. Hoạt động của Chính
phủ và các bộ, ngành chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô;
tháo gỡ các rào cản; phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp
trên một số lĩnh vực có bước đột phá.
Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, công cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam thời gian qua vẫn còn những hạn chế, tồn tại cần khắc phục, như:
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới.
Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước.
Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chưa đổi mới mạnh mẽ; chức
năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế.
Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi chưa được tôn trọng và phát huy đầy
đủ. Bộ máy nhà nước ở một số nơi chưa thật sự vì dân, còn quan liêu, xa dân, phiền hà,
sách nhiễu dân; thủ tục hành chính chưa thuận tiện cho dân, thiếu công khai cho dân
biết, dân kiểm tra; một số cán bộ còn thiếu trách nhiệm, thiếu năng lực, vi phạm quyền
con người, quyền công dân. Thực hành dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật
còn nhiều bất cập, thực hành dân chủ ở cơ sở có nơi còn hình thức, chưa bảo đảm quyền
lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. lOMoAR cPSD| 59994889
Câu 6: Trình bày quan điểm của HCM về đoàn kết dân tộc, vận dụng quan điểm
trên của HCM để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hiện nay?
Quan điểm của HCM về đoàn kết dân tộc
Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được
hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết
của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và phát triển sáng tạo,
chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong
từng giai đoạn cách mạng. Những quan điểm cơ bản của HCM về đại đoàn kết dân tộc
được thể hiện qua một số nội dung sau đây:
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của HCM trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến lược
đối với cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng dân tộc, nhằm
hình thành sức mạnh to lớn của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù dân tộc và kẻ thù giai cấp.
HCM cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn kết được
thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công phải
có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội
mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực
lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến
lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh
chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác
nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ
trương trương, chính sách của Đảng. Vì Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách
mạng Việt Nam, sức mạnh của Đảng là ở sự nhất trí và sự đoàn kết trong Đảng là hạt
nhân của sự đoàn kết của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội và trong toàn xã hội.
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên HCM coi vấn đề đoàn kết dân
tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. HCM còn
cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà
còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân lOMoAR cPSD| 59994889
Tư tưởng đại đoàn kết của HCM có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại đoàn
kết toàn dân với nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì
phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào
tạo nên cái nền tảng đó.
Người đã chỉ rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân,
mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Người coi công nông cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững,
gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. "Lực lượng chủ yếu trong khối
đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận
dân tộc thống nhất". Về sau, Người nêu thêm: lấy liên minh công - nông - lao động trí
óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc
thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể
làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân
tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo HCM, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm cách mạng
xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng
lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách
mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải biến thành
sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
HCM đi tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó, chính là đi tìm sức
mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động. Và sức mạnh mà Người đã
tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, HCM và Đảng ta đã xây dựng
được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng.
Vận dụng quan điểm trên của HCM để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân
tộc trong bối cảnh hiện nay
Kế thừa và vận dụng sáng tạo, linh hoạt tư tưởng của Chủ tịch HCM về đại đoàn
kết, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề
ra chủ trương, đường lối thực hiện đại đoàn kết phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ ở từng
thời điểm, giai đoạn đặt ra.
Một số biện pháp vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay:
Một là, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân
về tinh thần đoàn kết của dân tộc. lOMoAR cPSD| 59994889
Đây là nhiệm vụ mang tính thường xuyên, liên tục và được tiến hành có trọng
tâm, trọng điểm, nhất là vào những thời điểm quyết định đến tương lai, vận mệnh của
đất nước. Tuyên truyền, giáo dục để cho mỗi người dân thấy được tinh thần đoàn kết là
vốn quý của dân tộc cần phải được bảo tồn và lan toả rộng khắp.
Hai là, đa dạng hoá các nội dung, hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần
đoàn kết của con người Việt Nam.
Về nội dung, cần hướng vào những vấn đề thiết thực gắn với cuộc sống đời thường
của người dân, như gia đình khá giả, có điều kiện giúp đỡ gia đình nghèo, không có điều
kiện; huy động các doanh nghiệp, doanh nhân thành đạt ủng hộ cho người nghèo, không
có công ăn, việc làm, ốm đau, bệnh tật không có khả năng lao động, thông qua hoạt động
từ thiện, ủng hộ; tổ chức phát động chương trình chung tay quyên góp cho nhân dân bị
ảnh hưởng bởi thiên tai, hạn hán, dịch bệnh; …
Về hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn kết được thực hiện thông qua
công tác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức; các hội nghị để kêu gọi mọi người nêu cao tinh
thần đoàn kết, khí phách ngàn đời của dân tộc; thông qua xây dựng những gương điển
hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; thông qua hệ thống thông tin truyền thông ở các
địa phương, nhất là đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở trong việc thực hành, nêu gương trước quần chúng nhân dân.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ sở trong hướng dẫn,
đồng hành cùng với nhân dân tham gia vào các hoạt động chung của xã hội.
Cán bộ là “cái gốc” của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay xấu. Theo đó, đội ngũ cán bộ các cấp đặc biệt là người đứng đầu ở cơ
quan, đơn vị, địa phương phải phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình là hạt nhân
đoàn kết, bám sát mọi hoạt động của quần chúng nhân dân, biết lắng nghe, chia sẻ với
khó khăn, vất vả của người dân.
Trong mọi hoạt động của mình, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là người đứng đầu
phải luôn đặt chữ “Tâm” để giải quyết các mối quan hệ, ứng xử, xây dựng tác phong
gần gũi, chân thành giữa cán bộ với cán bộ và giữa cán bộ với nhân dân.
Câu 7: Phân tích quan điểm của HCM về đoàn kết quốc tế. Nhận thức của bản thân
về việc vận dụng tư tưởng HCM về đoàn kết quốc tế trong bối cảnh đất nước hiện nay?
Quan điểm của HCM về đoàn kết quốc tế
Tư tưởng HCM về đoàn kết quốc tế được hình thành và phát triển trên nền tảng
truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết của dân tộc; trên cơ sở thấm nhuần chủ nghĩa
Mác - Lênin và đường lối của Quốc tế Cộng sản; từ thực tiễn hoạt động cách mạng sôi
nổi của Người gắn liền với những thời kỳ trưởng thành của Đảng và cách mạng Việt
Nam, với tiến trình cách mạng thế giới. lOMoAR cPSD| 59994889
Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng HCM trước hết là đoàn kết trong phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế và đoàn kết trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đoàn kết
quốc tế là nhân tố bảo đảm sự thắng lợi của CNXH cũng như thắng lợi của công cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc, phi thực dân hóa trên phạm vi toàn thế giới.
Muốn làm được như vậy, HCM cho rằng, các đảng cộng sản và công nhân quốc
tế phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên quyết đấu tranh chống những
khuynh hướng tư tưởng sai lầm, lệch lạc như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sô vanh, giáo điều, …
Cùng với quan điểm về đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, HCM còn chủ trương đoàn kết với tất cả
các dân tộc, các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Nhận thức của bản thân về việc vận dụng tư tưởng HCM về đoàn kết quốc tế trong
bối cảnh đất nước hiện nay
Qua hơn 35 năm đổi mới, kế thừa, vận dụng và sáng tạo truyền thống đối ngoại
vẻ vang của dân tộc, nhất là tư tưởng HCM về đoàn kết, hợp tác quốc tế, Đảng ta không
ngừng bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, vì hòa bình,
hợp tác và phát triển, thực thi chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế. Để vận dụng tư tưởng đoàn kết, hợp tác quốc tế của
Chủ tịch HCM trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại với nhiều thời
cơ thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh vận dụng, phát triển và sáng tạo tư tưởng HCM về đoàn kết,
hợp tác quốc tế trong quá trình hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay.
Vận dụng tư tưởng HCM về đoàn kết, hợp tác quốc tế là quá trình thực hành các
quan điểm có chọn lọc và sáng tạo. Công tác hoạch định, thực hiện đường lối đối ngoại
hiện nay cần chọn lọc những nội dung phù hợp với yêu cầu thực tiễn để thực hành một
cách sáng tạo, trên cơ sở kết hợp những chỉ dẫn, nguyên tắc trong tư tưởng HCM với
điều kiện, đặc điểm và môi trường vận dụng. Có như vậy mới mang lại hiệu quả thiết
thực, tránh rơi vào vận dụng hình thức, máy móc, rập khuôn, thiếu hiệu quả.
Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng HCM về đoàn kết, hợp tác quốc tế ở
nước ta hiện nay phải thống nhất hai mặt của mối quan hệ biện chứng: vừa hợp tác, vừa
đấu tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng; tăng cường hợp tác, tiếp
tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, để ngăn ngừa xung đột,
tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc. Trong đó, mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các
nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, kiên quyết, kiên trì bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. lOMoAR cPSD| 59994889
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là trong các
lĩnh vực hợp tác về kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với các nước trên thế giới.
Nhằm tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, cần mở
rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác trên các lĩnh vực,
như kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng, an ninh với các nước. Trong đó, cần tập
trung kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh; giữa đối ngoại đảng,
ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, để tạo thế chân kiềng vững chắc; kiên quyết,
kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.
Câu 8: Phân tích quan điểm của HCM về vai trò của văn hóa. Trình bày suy nghĩ
của bản thân về việc xây dựng văn hóa ứng xử nơi công cộng của con người Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Quan điểm của HCM về vai trò của văn hóa
HCM có quan điểm rằng văn hóa có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Văn
hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng và có chức năng bồi dưỡng tư tưởng
đúng và tình cảm cao đẹp cho con người.
Văn hóa là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp cách mạng
Văn hóa là kiến trúc thượng tầng của xã hội, vì vậy việc lật đổ chế độ xã hội cũ,
xã hội thực dân phong kiến và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN)
tốt đẹp là mục tiêu của văn hóa.
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, trong
đó văn hóa cùng với kinh tế, chính trị, xã hội là các mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam.
Theo HCM, văn hóa là mục tiêu chính, là quyền sống, quyền tự do quyền mưu
cầu hạnh phúc, là khát vọng của người dân về các giá trị trong chân-thiện-mỹ; là xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng
được nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện.
Cách mạng XHCN ở nước ta, theo HCM là phải “thay đổi triệt để những nếp
sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta phải
biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”.
Văn hóa là động lực tinh thần
Văn hóa chính trị là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc
dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự lực, tự chủ, tự cường. Trong đó, tư lOMoAR cPSD| 59994889
duy biện chứng, độc lập, sáng tạo, của cán bộ, đảng viên là động lực dẫn đến tư tưởng
và hành động cách mạng đúng đắn.
Văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách
mạng, sự lạc quan và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, nâng cao hiểu biết của con người,
hiểu biết về quy luật phát triển của xã hội, đào tạo ra cán bộ, con người mới - nguồn
nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng.
Văn hóa đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con
người, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Đạo đức được Bác coi là cái gốc của người
cách mạng, muôn việc thành hay bại là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức hay không.
Văn hóa pháp luật, đảm bảo dân chủ, kỷ cương, phép nước, trật tự xã hội.
Theo Người, tiến lên CNXH phải có cả vật chất lẫn tinh thần, song con người là
quyết định; để đưa đất nước đi lên, không thể không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng
chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con người và thước đo trình độ con người lại chính là văn hóa.
Với một cảm quan văn hóa trên bình diện rộng, HCM coi văn hóa là một mặt hợp
thành toàn bộ đời sống xã hội. Người nhấn mạnh: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà
có bốn vấn đề chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội”. Vì thế, văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và
ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi
với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh
tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng những môi trường văn hóa – xã hội bị hủy hoại mà
mục tiêu kinh tế cũng không đạt được.
Suy nghĩ của bản thân về việc xây dựng văn hóa ứng xử nơi công cộng của con người
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
Xây dựng văn hóa ứng xử nơi công cộng với những chuẩn mực đạo đức, pháp
luật được thực thi bởi những cá nhân cụ thể là một yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện
nay, nhằm tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh để mỗi người sống, làm việc tốt hơn.
Theo đó, cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó có những giải pháp căn bản như:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của mỗi người dân về tầm quan trọng của văn hóa
ứng xử nơi công cộng. Không gian, môi trường công cộng chỉ thực sự trong sạch, lành
mạnh với những giá trị nhân văn, tiến bộ khi có sự chung tay, góp sức của mỗi người
với tinh thần, ý thức tự giác, trách nhiệm.
Thứ hai, để hình thành lối ứng xử văn minh, lịch sự, cần nâng cao chất lượng giáo
dục trong mỗi gia đình, nhà trường và xã hội, nhất là giáo dục đạo đức, hình thành nhân
cách, trang bị những kỹ năng và lối sống đẹp cho trẻ em và thanh thiếu niên. Trong các