-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tóm tắt khái lược triết học - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội
Tóm tắt khái lược triết học - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác- Lênin (HK01) 56 tài liệu
Đại học Mở Hà Nội 405 tài liệu
Tóm tắt khái lược triết học - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội
Tóm tắt khái lược triết học - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác- Lênin (HK01) 56 tài liệu
Trường: Đại học Mở Hà Nội 405 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Mở Hà Nội
Preview text:
CHƯƠNG 1: KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
I. Triết học và vấn đề cơ bản của triết học
1. Khái lược về triết học
a, Nguồn gốc của triết học
Triết học là loại hình nhận thức đặc thù của con người, ra đời ở cả phương
Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian khoảng từ TK VIII đến TK VI
tr.CN tại các trung tâm lớn của nhân loại thời cổ đại.
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội.
+ Nguồn gốc nhận thức là: khi con người đã có một vốn hiểu biết nhất định
và tư duy đạt đến trình độ trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá.
Triết học chỉ xuất hiện khi kho tàng tri thức của loài người đã hình thành
được một vốn hiểu biết nhất định và trên cơ sở đó, tư duy con người cũng đã đạt
đến trình độ có khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
+ Nguồn gốc xã hội là: là khi trong xã hội có sự phân công lao động trí óc
và chân tay, xã hội bị phân chia thành giai cấp.
Bởi, khi trong xã hội có sự phân công lao động trí óc và chân tay dẫn tới
hình thành những người chuyên lao động trí óc nên đã làm cho trình độ tư duy
của con người được phát triển mạnh mẽ, con người đã có khả năng trừu tượng
hoá, khái quát hoá các tri thức riêng lẻ để rút ra được các tri thức chung. Các giai
cấp ra đời đã nảy sinh nhu cầu cần phải có lý luận chung định hướng cho hoạt
động nhằm phục vụ cho mục đích và lợi ích của mình.
b. Khái niệm triết học
- Về thuật ngữ triết học:
+ Ở Trung Quốc thời cổ đại, thuật ngữ triết học theo chữ Hán bắt nguồn từ
chữ Triết (哲) có nghĩa là sự truy tìm bản chất, là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc
về thế giới và con người.
+ Ở Ấn độ thời cổ đại, thuật ngữ triết học là dar’sana có nghĩa là sự chiêm
ngưỡng, sự suy ngẫm dựa trên lý trí để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
+ Ở Hy Lạp thời cổ đại, thuật ngữ triết học là philosophia, có nghĩa là yêu
mến sự thông thái, là sự tìm kiếm chân lý. 1
Tóm lại, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, mặc dù quan niệm về triết học
có khác nhau. Nhưng đều có nét chung là nói tới hoạt động tinh thần biểu hiện khả
năng nhận thức, đánh giá của con người về thế giới và bản thân mình và tồn tại với
tính cách một hình thái ý thức xã hội.
- Về khái niệm triết học
Trong lịch sử cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng tựu
chung đều có nội dung cơ bản nói lên: Triết học là môn khoa học nghiên cứu thế
giới với tính cách là một chỉnh thể, nhằm tìm ra những quy luật chung nhất chi
phối sự vận động của thế giới nói chung, xã hội nói riêng và được trình bày dưới
hình thức là một hệ thống tri thức lý luận.
Từ đó, có thể hiểu khái quát rằng: Triết học là hệ thống quan điểm lý luận
chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là khoa học về
những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Như vậy, nói tới triết học cũng là nói tới hệ thống tri thức của con người về
thế giới, song khác với hệ thống tri thức của các khoa học chuyên ngành là hệ
thống tri thức về từng lĩnh vực cụ thể của thế giới, triết học là hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con người về thế giới và về vị trí vai trò của con người trong
thế giới ấy, nên trong hệ thống tri thức của loài người, triết học là hình thái tri thức cao nhất.
c. Đối tượng của triết học
Việc đi vào tìm hiểu đối tượng của triết học là đi vào tìm hiểu xem triết học
nghiên cứu về cái gì? Đây là điều rất quan trọng trong nghiên cứu, học tập về triết
học. Đó là nó giúp chúng ta nắm được sự khác nhau về phạm vi và nội dung
nghiên cứu của triết học với phạm vi và nội dung nghiên cứu của các khoa học
khác. Từ đó, nó định hướng đúng đắn cho chúng ta trong việc nghiên cứu học tập triết học.
Cùng với quá trình phát triển của xã hội, nhận thức và bản thân triết học,
trên thực tế, nội dung đối tượng của triết học cũng thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử. Đó là:
- Thời cổ đại: Đối tượng nghiên cứu của triết học được quan niệm là nghiên
cứu toàn bộ thế giới và triết học được coi là “khoa học của các khoa học”.
Bởi, thời đó chưa diễn ra sự phân ngành khoa học tất cả đều nằm trong triết
học. Triết học tự nhiên khi đó bao hàm tri thức về tất cả các lĩnh vực của thế giới. 2
Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa học
- Thời trung cổ: Đối tượng nghiên cứu của triết học được xác định là
chứng minh cho các quan điểm của tôn giáo.
Bởi, trong thời trung cổ quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời
sống xã hội. Nên triết học tự nhiên thời cổ đại đã bị thay bằng nền triết học kinh
viện của nhà thờ tôn giáo. Do đó, triết học trở thành đầy tớ của thần học, nó chủ
yếu chứng minh cho các quan điểm của tôn giáo.
- Thời phục hưng và cận đại: Đối tượng nghiên cứu của triết học lại được
xác định nghiên cứu toàn bộ thế giới và triết học được coi là khoa học của mọi khoa học.
Bởi, trong thời kỳ này để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt yêu cầu
của sản xuất công nghiệp, đòi hỏi triết học phải đi vào nghiên cứu tìm ra được
phương pháp chung thúc đẩy khoa học phát triển đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh
vực của thế giới. Tuy vậy, với sự phân ngành mạnh mẽ trong khoa học đã từng
bước làm phá sản tham vọng muốn triết học đóng vai trò “khoa học của các khoa
học”. Trong thời kỳ này, Hêghen là người cuối cùng có tham vọng coi triết học là
“khoa học của các khoa học”.
- Đến đầu TK XIX: triết học Mác ra đời đã đoạn tuyệt triệt để với quan niệm
coi triết học là “khoa học của các khoa học”. Triết học Mác xác định đối tượng
nghiên cứu của mình là đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối
quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật
triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đây chính là quan niệm đúng đắn nhất về đối tượng nghiên cứu của triết học
hiện nay. Đó là, nó đã chỉ ra rằng: triết học khác với khoa học cụ thể, nó không đi
sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực cụ thể của thế giới, mà nó nghiên cứu thế giới
trong tính chỉnh thể của nó. Song, nó không đi vào nghiên cứu mọi vấn đề của thế
giới mà nó chỉ đi vào nghiên cứu về mối quan hệ của 2 lĩnh vực của thế giới là
vật chất và ý thức và nghiên cứu xem những quy luật chung nhất chi phối sự vận
động phát triển của thế giới với tính cách một chỉnh thể là những quy luật gì. Đó
là, những vấn đề mà không khoa học cụ thể nào nghiên cứu.
d, Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan * Thế giới quan
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình 3
cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người (bao hàm
cả cá nhân, xã hội và nhân loại) trong thế giới đó .Thế giới quan quy định các
nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Trong thế giới quan có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ
sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan
khi nó đã trở thành niềm tin định hướng cho hoạt động của con người.
Có nhiều cách tiếp cận để nghiên cứu về thế giới quan. Nếu xét theo quá
trình phát triển thì có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản: Thế giới
quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
Thế giới quan huyền thoại là phương
thức cảm nhận thế giới của người
nguyên thủy. ở thời kỳ này, các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng,
hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người, v.v. của con
người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới.
Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu; tín
ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội cái người.
Khác với huyền thoại và giáo lý của tôn giáo, triết học diễn tả quan niệm của
con người dưới dạng hệ thống các phạm trù, quy luật đóng vai trò như những bậc
thang trong quá trình nhận thức thế giới. Với ý nghĩa như vậy, triết học được coi
như trình độ tự giác trong quá trình hình thành và phát triển của thế giới quan.
Nếu thế giới quan được hình thành từ toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của
con người; trong đó tri thức của các khoa học cụ thể là cơ sở trực tiếp cho sự hình
thành những quan niệm nhất định về từng mặt, từng bộ phận của thế giới, thì triết
học, với phương thức tư duy đặc thù đã tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những
quan niệm chung nhất về thế giới với tư cách là một chỉnh thể. Như vậy, triết học
là hạt nhân lý luận của thế giới quan; triết học giữ vai trò định hướng cho quá
trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử.
Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn
đề thuộc về thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
cuộc sống của con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới, dù muốn
hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình.
Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan. Khi đã hình thành, thế
giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận 4
thức thế giới. Có thể ví thế giới quan như một "thấu kính", qua đó con người nhìn
nhận thế giới xung quanh cũng như tự xem xét chính bản thân mình để xác định cho
mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động đạt được mục
đích, ý nghĩa đó. Như vậy thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh
quan tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự
trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho
thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
a, Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Triết học, khác với một số loại hình nhận thức khác, trước khi giải quyết các
vấn đề cụ thể của mình, nó buộc phải giải quyết một vấn đề có ý nghĩa nền tảng
và là điểm xuất phát để giải quyết tất cả những vấn đề còn lại - vấn đề về mối
quan hệ giữa vật chất với ý thức. Đây chính là vấn đề cơ bản của triết học. Ph.
Ăngghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” (M.A. TT.Nxb CTQG HN 1995. T21. Tr 403).
- Đây là vấn đề cơ bản của triết học vì:
* Việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề
khác trong triết học, là cơ sở định hướng trong nhận thức và cải tạo thế giới.
* Việc giải quyết vấn đề này là tiêu chí khách quan để xác định lập trường
thế giới quan của các triết gia và học thuyết của họ.
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, trả lời cho hai câu hỏi lớn:
Thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Thứ hai: Ý thức của con người có thể phản ánh đúng đắn thế giới không?
hay con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
b, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
- Trong giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà
triết học thành hai trường phái lớn là trường phái triết học duy vật và trường phái triết học duy tâm. 5
+ Những nhà triết học cho rằng vật chất có trước, tồn tại khách quan không
phụ thuộc vào ý thức, vật chất quyết định ý thức, vật chất mang tính thứ nhất, ý
thức mang tính thứ hai tạo thành trường phái duy vật.
Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản:
chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy
vật thời cổ đại mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là kết quả nhận thức của các nhà triết học
duy vật thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII chịu sự tác động mạnh mẽ của
phương pháp tư duy siêu hình, máy móc - phương pháp nhìn thế giới như
một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăngghen xây dựng vào những
năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa
của các học thuyết triết học trước đó và khái quát các thành tựu của khoa học
đương thời, ngay từ khi mới ra đời nó đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa
duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao trong sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản
ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu
giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo
+ Những nhà triết học cho rằng ý thức là cái có trước, ý thức quyết định vật
chất, vật chất là cái có sau là sản phẩm của ý thức, ý thức mang tính thứ nhất, vật
chất mang tính thứ hai tạo thành trường phái duy tâm.
Cho đến nay, chủ nghĩa duy tâm được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản:
chủ nghĩa duy tâm khách quan, và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Chúng đều giống
nhau về nguyên tắc nhưng khác nhau trong quan niệm về yếu tố ý thức.
c, Thuyết có thể biết (Thuyết khả tri) và thuyết không thể biết (Thuyết bất khả tri)
Đây là kết quả của cách giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học.
Với câu hỏi “Con người có thể nhận thức được thế giới hay không?”
- Tuyệt đại đa số các nhà triết học (cả duy vật và duy tâm) trả lời một cách
khẳng định: con người có khả năng nhận thức được thế giới hình thành thuyết có thể biết (khả tri). 6
- Một số ít các nhà triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người
được hình thành nên thuyết không thể biết (bất khả tri). Theo thuyết này, con
người, về thực chất, không thể hiểu được đối tượng nhận thức.
3. Biện chứng và siêu hình
a) Khái niệm biện chứng và siêu hình trong lịch sử
* Phương pháp siêu hình: là phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng ở trạng
thái cô lập, tách rời, tĩnh tại. Hoặc nếu có xem xét sự biến đổi thì chỉ là sự biến đổi về
lượng và coi nguyên nhân của sự biến đổi là nằm ở bên ngoài đối tượng.
Do đó, phương pháp siêu hình làm cho con người trong xem xét thế giới
"chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại
giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn
thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái
tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy,
chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng".
* Phương pháp biện chứng
Phương pháp biện chứng: là phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng ở
trong các mối liên hệ với nhau, trong vận động, phát triển.
Do đó, phương pháp biện chứng làm cho con người trong xem xét thế giới
không chỉ nhìn thấy những sự vật, hiện tượng riêng biệt mà còn nhìn thấy mối
liên hệ qua lại giữa những sự vật, hiện tượng ấy, không chỉ nhìn thấy sự tồn tại
của những sự vật, hiện tượng ấy mà còn nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong
của những sự vật, hiện tượng ấy, không chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của
những sự vật, hiện tượng mà còn thấy sự vận động của những sự vật ấy,
không chỉ thấy cây mà còn thấy rừng.
Bởi vậy, những người tư duy theo phương pháp biện chứng là tư duy mềm dẻo, linh hoạt.
Tóm lại, trong hai phương pháp nhận thức trên thì phương pháp biện
chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp biện
chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Tuy vậy, không phải ngay từ đầu ra đời phép biện chứng đã thực sự khoa học mà
nó phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau với các hình thức khác nhau mới đạt
tới là phương pháp thực sự khoa học. 7
b. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
Cùng với sự phát triển của triết học, phương pháp biện chứng đã có sự phát
triển qua ba giai đoạn với ba hình thức lịch sử của nó: phép biện chứng tự phát,
phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
- Phép biện chứng tự phát thời cổ đại.
Các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn phương Tây thời kỳ này đã thấy các
sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô
cùng tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là nhờ trực
quan, chứ không phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học. Do đó,
tính chi tiết của bức tranh biện chứng của thế giới mà nó đưa ra còn mờ nhạt. Đồng
thời nó còn chủ yếu diễn tả bằng ẩn dụ nên nó chưa thực sự là một khoa học.
- Phép biện chứng duy tâm
Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện trong triết học Hêghen – nhà triết
học cổ đỉển Đức. Nó đã nêu lên được một cách có hệ thống những nội dung quan
trọng nhất của phương pháp biện chứng. Song biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh
thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự tha hóa của ý niệm tuyệt
đối nên biện chứng đó là biện chứng duy tâm
- Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học do Mác và Ăgghen xây
dựng, sau đó được Lênin phát triển. Nó đã kế thừa có phê phán đối với phép biện
chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phát triển lên tầm cao mới trên cơ sở các
thành tựu của khoa học hiện đại. Do đó, phép biện chứng duy vật là khoa học về mối
liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
II. Triết học Mác - Lênin và vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin
a) Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
Sự xuất hiện triết học Mác là một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử triết học. Đó
là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học và khoa học của nhân loại,
trong sự phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội, mà trực tiếp là thực tiễn đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Đó cũng là kết quả của sự thống
nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của C. Mác và Ph. Ăngghen.
* Điều kiện kinh tế- xã hội 8
Bất cứ một hệ tư tưởng nào cũng đều xuất phát từ hiện thực xã hội. Triết học Mác cũng vậy.
- Vào những năm 30, 40 của thế kỷ XIX, dưới tác động của cuộc cách mạng
công nghiệp, phương thức sản xuất tư bản được củng cố và phát triển mạnh mẽ
(như nước Anh, Pháp, Đức và một số nước Tư bản Tây Âu khác; trong đó, nước
Anh đã nổi lên như một cường quốc công nghiệp, nước Pháp đã hoàn thành cuộc
cách mạng công nghiệp, nước Đức còn phụ thuộc vào nước Anh và Pháp nhưng
lĩnh vực tinh thần cũng rất phát triển). Song các mâu thuẫn xã hội của nó cũng
ngày càng bộc lộ rõ và gay gắt.
+ Về mặt kinh tế: Đó là mâu thuẫn giữa một bên là tính chất xã hội hóa và
trình độ phát triển ngày càng cao của LLSXTBCN với một bên là QHSX tư nhân TBCN.
+ Về mặt xã hội, bất công xã hội lại tăng thêm, đối kháng xã hội thêm sâu
sắc, đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng phát triển gay gắt.
- Cùng với sự phát triển của PTSX TBCN, giai cấp vô sản đã từng bước xuất
hiện trên vũ đài lịch sử với tính cách là một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong
trong đấu tranh cho dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ở thời kỳ này, phong trào vô sản đã phát triển mạnh mẽ và giai cấp vô sản
ngày càng chứng tỏ là một lực lượng xã hội to lớn, đóng một vai trò quan trọng
trong đời sống chính trị - xã hội. Thể hiện:
* Ở Anh: Phong trào Hiến chương của công nhân vào cuối những năm 30
của thế kỷ XIX: là phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên, là một phong
trào chính trị có tính chất quần chúng rộng lớn.
(Điều ước kí kết giữa nhiều nước, quy định những nguyên tắc và thể lệ về
quan hệ quốc tế: đòi quyền lợi cho công nhân, tăng lương giảm giờ làm, cải thiện điều kiện lao động)
* Ở Pháp: Cuôc đấu tranh của công nhân chống bọn Tư bản đã phát triển
thành một loạt cuộc khởi nghĩa vũ trang trong đó có cuộc khởi nghĩa của công
nhân thợ dệt ở thành phố Lion ở Pháp (1831 và 1834). Đó là cuộc đấu tranh diễn
ra bên trong xã hội giữa giai cấp những người có của và giai cấp những kẻ không
có gì hết. Cuộc đấu tranh này đã báo hiệu 1 giai đoạn mới của cuộc đấu tranh giai
cấp trong xã hội tư bản 9
* Ở Đức: Cuộc khởi nghĩa của công nhân thợ dệt ở thành phố Xi Lê Di ở
Đức năm 1844. Tuy ở Đức còn ở đêm trước cách mạng Tư sản, song phong trào
vô sản đã phát triển dẫn đến sự xuất hiện “đồng minh những người chính nghĩa”
một tổ chức vô sản cách mạng.
Như vậy, giai cấp vô sản đã xuất hiện trên vũ đài lịch sử, trở thành lực lượng
chính trị độc lập, là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dần chủ và tiến
bộ xã hội. Nhưng nhìn chung những cuộc đấu tranh trên còn mang tính chất tự phát,
thiếu tổ chức chặt chẽ chưa có lý luận khoa học soi đường chỉ lối nên đều thất bại.
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời
của triết học Mác. Từ
thực tiễn phong trào cách mạng của giai cấp công nhân nảy
sinh yêu cầu khách quan là phải được soi sáng bằng lý luận nói chung và triết học
nói riêng. Đồng thời, chính sự xuất hiện và phát triển của giai cấp vô sản cách mạng
đã tạo ra cơ sở xã hội cho sự hình thành lý luận tiến bộ và cách mạng.
Thực tiễn cho thấy, thời kỳ này, các học thuyết XHCN không tưởng- phê
phán của Xanhximong, Phurie, Ô-oen không đáp ứng được yêu cầu của phong
trào vô sản, không thể hiện được những lợi ích căn bản của giai cấp vô sản trong
sự nghiệp giải phóng lao động khỏi chế độ TBCN. Và chính C. Mác và Anghen
đã thực hiện sứ mệnh vẻ vang đó: sáng tạo lý luận cách mạng của phong trào vô
sản, luận giải đúng đắn thế giới quan và hệ tư tưởng của giai cấp sô sản, đáp ứng
nhu cầu lịch sử quan trọng nhất của phong trào vô vản. Giai cấp vô sản đã tìm
thấy ở triết học Mác vũ khí tinh thần của mình, cũng giống như triết học Mác đã
tìm thấy ở giai cấp vô sản như là vũ khí vật chất của mình.
* Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên - Nguồn gốc lý luận
Sự ra đời của Triết học Mác là sự kế thừa có chọn lọc những tinh hoa tư
tưởng của nhân loại mà trước hết là kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức. Đặc biệt, triết học cổ điển Đức là
nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. Cụ thể là:
- Trong triết học cổ điển Đức: Ý nghĩa lịch sử nổi bật của triết học cổ điển
Đức là ở chỗ, nó là một trong những tiền đề lý luận cho việc hình thành thế giới
quan duy vật biện chứng. Ở đây, phải kể đến phép biện chứng của Heghel và CNDV của Phoiobach. 10
+ Mác và Ănghen đã kế thừa PBC của Heghel, khắc phục tính duy tâm thần
bí của nó, đặt nó trên nền thế giới quan duy vật. Xây dựng nên phép biện chứng
duy vật triệt để nhất.
Mác và Anghen đã đánh giá cao triết học cổ điển Đức nhất là hệ thống triết
học của Heghel. Heghel đã xây dựng một cách có hệ thống phương pháp biện
chứng, mặc dù nó núp dưới cái vỏ thần bí và dựa trên cơ sở duy tâm sai lầm. Mác
và Anghen đã đánh giá cao phép biện chứng của Heghel, chỉ ra những hạn chế
của nó. Ở Heghel, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất; chỉ cần dựng nó
lại sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí. Các
ông đã cải tạo phép biện chứng duy tâm của Heghel thành phép biện chứng duy
vật triệt để nhất, phát triển nó trên cơ sở đối lập với phương pháp Heghel, mở
rộng nó vào tất cả các lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Mác và Ănghen cũng kế thừa CNDV của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu
hình máy móc, chưa triệt để của nó, làm giàu nó bằng PBC.
C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá cao quan điểm triết học của L.Phơbách trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo nhưng đồng thời cũng phê phán
quan điểm quan điểm siêu hình của ông. Chủ nghĩa duy vật, vô thần của ông đã tạo
tiền đề cho sự chuyển biến của C.Mác, Ph.Ăngghen từ thế giới quan duy tâm sang
duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường chủ nghĩa cộng sản.
- Trong kinh tế chính trị học Anh (với các đại biểu xuất sắc là Adam X.mit và
Ricacđo) có một vai trò to lớn trong việc sáng tạo ra học thuyết kinh tế mác xít và
triết học Mác. Hai ông đã kế thừa và cải tạo có phê phán những giá trị trong kinh tế-
chính trị cổ điển Anh, góp phần hình thành những quan niệm duy vật về lịch sử,
khắc phục tính chất không triệt để của chủ nghĩa duy vật trước Mác
Công lao của A.Smít (Adam Smith, 1723 1790) và D.Ricácđô (David Ricardo,
1772 -1823) là đã xây dựng lý luận giá trị lao động, đưa ra kết luận quan trọng về
nguồn gốc của giá trị và lợi nhuận và các quy luật kinh tế khách quan.
Nhưng lý luận của các ông có hạn chế là: không thấy được tính lịch sử của
giá trị và mâu thuẫn của sản xuất hàng hóa, không phân biệt được sản xuất hàng
hóa giản đơn với sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, chưa phân tích được những
biểu hiện của giá trị trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. C.Mác đã kế
thừa những yếu tố hợp lý trong học thuyết giá trị và những tư tưởng tiến bộ của
các nhà cổ điển, giải quyết được những bế tắc mà các nhà cổ điển không thể vượt
qua để xây dựng lý luận giá trị thặng dư, luận chứng khoa học về bản chất bóc lột 11
của chủ nghĩa tư bản và nguồn gốc kinh tế của sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa
tư bản và sự ra đời khách quan của chủ nghĩa xã hội.
- Trong CNXH không tưởng Pháp (với những đại biểu xuất sắc là Xanh
Ximong và Phurie): việc cải tạo có tính chất sáng tạo các học thuyết CNXH
không tưởng đóng góp một phần quan trọng trong việc hình thành triết học Mác,
đặc biệt là quan điểm duy vật về lịch sử và những dự báo về tương lai Cộng sản chủ nghĩa.
CNXHKT đã có quá trình phát triển lâu dài và đạt đến đỉnh cao vào cuối thế
kỷ XIX. Các đại biểu xuất sắc như: H.Xanh Ximông (Henri Saint Simon, 1976 -
1725), S.Phuriê (Charles Fourier, 1772 - 1837), R.Ôoen (Robert Owen, 1771
1858) thể hiện đậm nét tư tưởng nhân đạo, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản
và đưa ra nhưng dự báo thiên tài về xã hội tương lai. Hạn chế của họ là không
phân tích được một cách khoa học bản chất của chủ nghĩa tư bản, chưa thấy được
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, song tinh thần nhân đạo và những dự báo
của các ông đã trở thành tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của lý luận khoa
học về chủ nghĩa xã hội trong chủ nghĩa Mác.
- Tiền đề khoa học tự nhiên
Triết học Mác ra đời trên cơ sở đòi hỏi và khái quát những thành tựu mới
nhất của khoa học tự nhiên đã đạt được giữa thế kỷ XIX. Anghen đã nhận định:
quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: tất cả
những gì cứng nhắc đều bị tan rã, tất cả cái gì là cố định đều biến thành mây khói,
và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì trở thành nhất
thời, và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một
dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu.
Thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII là giai đoạn phát triển của khoa học
thực nghiệm. Sự phát triển của khoa học thực nghiệm, khoa học cụ thể đã tạo cho
con người phương pháp tư duy siêu hình.
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX do đòi hỏi của sự phát triển của sản xuất
của lực lượng sản xuất, phương pháp tư duy siêu hình đã bộc lộ những hạn chế
chật hẹp của nó. Thời kỳ này khoa học tự nhiên đã phát triển chuyển sang giai
đoạn mới là nghiên cứu sự vật trong chỉnh thể thống nhất, liên hệ vận động và
chuyển hóa lẫn nhau. Nổi lên 3 phát minh quan trọng có ý nghĩa hình thành thế
giới quan duy vật biện chứng mà Mác và Ănghen khái quát và kế thừa đó là: 12
- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: do nhà vật lý học người
Đức Rô bớt Mây ơ phát minh năm 1842- 1845. Sự phát minh này đã chứng minh
rằng tất cả những cái gọi là “lực” vật lý (lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện từ, các quá
trình hóa học) nghĩa là các hình thức khác nhau của vận động vật chất không thể
tách rời nhau như các nhà siêu hình đã nghĩ mà chúng liên hệ với nhau, trong những
điều kiện nhất định thì chuyển hóa lẫn nhau mà không có lực nào bị mất đi.
Đây là cơ sở khoa học để khẳng định rằng vật chất và vận động của vật chất
không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Chúng chỉ chuyển hóa từ dạng
này sang dạng khác, từ hình thức này sang hình thức khác.
- Học thuyết tế bào: GS. M.Slaiđen (trường Đại học Gana,ở Đức) xây dựng
năm 1838. Ông cho rằng, tế bào là đơn vị sống cơ bản nhất trong kết cấu của mọi
thực vật. Quá trình phát dục của thực vật là quá trình hình thành và phát triển của
tế bào. Sau đó, vào năm 1839 GS. T.Svannơ (GS phẫu thuật người của trường
Đại học Ruăng ở Đức) đã mở rộng học thuyết tế bào từ giới thực vật sang giới
động vật, khiến loài người nhận thức được rằng, tế bào là đơn nguyên kết cấu
chung của mọi cơ thể sinh vật.
Như vậy: Học thuyết này đã khẳng định sự thống nhất về nguồn gốc và hình
thái của thế giới thực, động vật
- Thuyết tiến hóa của Đác uyn: là học thuyết có vai trò to lớn đối với quan niệm
biện chứng về giới tự nhiên, tiếp tục khẳng định sự thống nhất của giới sinh vật.
Những phát hiện của khoa học tự nhiên lúc này đòi hỏi phải khái quát về mặt
triết học để vạch ra các mối liên hệ giữa các quá trình diễn ra trong tự nhiên, nhận
thức đúng đắn và toàn diện bản chất của quá trình phát triển trong tự nhiên.
Nhưng điều đó không thể thực hiện được với thế giới quan duy tâm và phương
pháp siêu hình, kể cả phép biện chứng duy tâm và CNDV siêu hình. Điều đó chỉ
có thể thực hiện được trên cơ sở của phép biện chứng duy vật mà thôi. Nhưng
mặt khác, phép biện chứng duy vật cũng chỉ có thể xuất hiện khi mà sự phát triển
của khoa học tự nhiên đạt tới trình độ làm cho việc sáng lập chủ nghĩa duy vật
biện chứng trở thành chín muồi và tất yếu.
Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời là kết quả tất
yếu của các điều kiện kinh tế, xã hội, những thành tựu của khoa học tự nhiên,
những mâu thuẫn nội tại trong bản thân triết học Heghel và triết học Phoi ơ bắc.
* Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác
- K. Mác (5/5/1818- 14/3/1883) 13
Mác sinh ngày 5/5/1818 tại thành phố Tơrinvơ thuộc tỉnh Ranh nước Đức và
yên nghỉ tại nghĩa trang Haghet của Anh, thọ 65 tuổi.
Tỉnh Ranh là một tỉnh khá phát triển cả về kinh tế, chính trị của nước Đức,
chịu ảnh hưởng trực tiếp của CNTS Pháp, đồng thời là nơi có phong trào công
nhân phát triển mạnh mẽ. Những điều kiện đó tạo nên những thuận lợi cho tư
tưởng cách mạng nảy nở.
+ Thời thơ ấu (1818-1831): những ảnh hưởng tốt của gia đình, nhà trường và
các quan hệ xã hội khác đã làm hình thành và phát triển ở Mác tinh thần nhân
đạo và xu hướng yêu tự do.
Bố đẻ của ông là Henri Mác, một luật gia hùng biện nổi tiếng, có tư tưởng
tiến bộ, đánh giá cao phái khai sáng Pháp thế kỷ XVIII và chế độ dân chủ tư sản
Pháp và có tư tưởng phê phán chế độ xã hội Đức hiện tại nhưng không có khuynh
hướng cách mạng. Ông chú ý chăm lo đời sống và mong muốn Mác trở thành một
nhà khoa học lớn. Chính điều này đã ảnh hưởng lớn đến việc học tập và phấn đấu của Mác.
+ Mác ở trường trung học (1831-1835): Mác học tại trường Tơ re cơ và tốt
nghiệp vào loại xuất sắc. Trong thời kỳ trung học, Mác đã tiếp nhận những tư
tưởng tiến bộ của các thầy (hiệu trưởng) nên đã sớm nảy sinh tư tưởng nhân đạo
về con người. Điều này được thể hiện rõ trong luận văn tốt nghiệp và vấn đề chọn
nghề khi Mác 17 tuổi. Trong luận văn Mác viết: con người nhất thiết phải học
nghề, nhưng nghề đó phải mở ra một lĩnh vực hoạt động rộng lớn về con người.
Chọn nghề phải phát huy được tài năng trí tuệ của mình, nhưng đồng thời phải
phục vụ được nhân loại nhiều nhất, vì hạnh phúc nhân loại. Nếu chọn nghề chỉ
làm việc cho mình thì có thể nổi tiếng được nhưng không thể trở thành người
chân chính hoàn hảo được, chọn nghề phải thận trọng.
+ Ở trường Đại học (1835- 1844): thời kỳ Mác tiếp thu chủ nghĩa duy tâm
và tư tưởng dân chủ cách mạng
Mác học luật ở Đại học tổng hợp Bon đến 1836, ông chuyển sang học Đại
học tổng hợp Béclin (theo lời khuyên của bố, bố ống muốn ông trở thành một
viên chức nhà nước nhưng ngay từ thời sinh viên, ông đã là người chống lại chế
độ xã hội đang thống trị ở Đức hồi đó).
Thời kỳ này, Mác tham gia phái Heghel trẻ (phái cánh tả của trường phái
Heghel). Do vậy, thời kỳ này Mác có tư tưởng duy tâm về triết học và lập trường 14
dân chủ cách mạng. Song Mác đã có những tư tưởng mới khác với các tư tưởng đương thời như:
. Hoạt động lý luận không chỉ dừng lại ở lý luận mà phải gắn với hoạt động thực
tiễn, giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
. Phải đứng về phía quần chúng nhân dân, đấu tranh bảo vệ quyền lợi nhân dân.
Thể hiện: Trong luận án triết học, ông đã viết mối quan hệ giữa triết học và
cuộc sống phải gắn bó với thực tiễn, làm thế nào để giải phóng con người khỏi lệ
thuộc, làm cho con người tự do. - Ănghen (1820-1895)
+ Ông sinh 28/11/1820 tại Bác men thuộc tỉnh Rach nước Đức. Thời niên
thiếu ông chịu sự giáo dục hà khắc của gia đình (chuyên quyền, độc đoán). Bởi vì
bố ông là chủ xưởng, là người cuồng nhiệt về tôn giáo, giáo dục con cái theo
nguyên tắc nghiêm ngặt, chuyên quyền, độc đoán. Những điều đó làm cho ông
sớm hình thành tư tưởng yêu tự do, thấy khó chịu và có tư tưởng chống đối. Khi
học ở trường thực hành tại Bác men và trung học thì ông lại càng căm ghét sự
chuyên quyền độc đoán của bọn quan lại
- Khi trưởng thành: khi ông chưa tốt nghiệp trung học thì gia đình bắt buộc
ông phải thôi học và đi làm thư ký cho một hãng buôn ở Re ra ni (1838). Song
điều này không ngăn cản nổi ông nghiên cứu khoa học và chính trị. Ông cũng
tham gia phái Heghel trẻ và có tư tưởng giống Mác. Đây chính là cơ sở hết sức
quan trọng để tạo nên tình bạn vĩ đại của hai ông sau này.
Như vậy, thời kỳ này, Mác và Anghen còn chịu ảnh hưởng của triết học của
Heghel, đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng.
b) Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của triết học Mác
* Thời kỳ hình thành tư tưởng triết học với bước quá độ từ chủ nghĩa duy tâm và
dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản (1841 - 1844)
- Năm 1841: Bước đầu hình thành thế giới quan duy vật của Mác và
Anghen. Thời kỳ này, hai ông đã có sự nghi ngờ triết học duy tâm của Heghel và
chú ý đến các nhà triết học duy vật.
Ban đầu cả Mác và Anghen còn là những nhà Triết học duy tâm phái Heghel
trẻ, nhưng khi có những tác phẩm triết học duy vật của Phoi ơ bắc thì trong tư
tưởng của hai ông đã có sự nghi ngờ triết học duy tâm của Heghel và chú ý đến
các nhà triết học duy vật. 15 Thể hiện:
+ Trong luận văn tiến sỹ của mình, Mác đã chọn đề tại nghiên cứu là: “Triết
học duy vật bàn về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đê mô cơ rít và triết học
tự nhiên của Epiquya”. Trong luận án, ông vẫn còn đứng trên lập trường duy tâm
của Heghel. Ông coi sự phát triển của tự ý thức của con người là động lực phát triển
của lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, ngay việc lựa chọn đề tài luận án, sự quan tâm của
Mác đối với các nhà duy vật cổ đại đã nói lên sự bất đồng của ông với Heghel.
Ông phê phán tư tưởng tự do vô vi của Epiaquya và Mác chỉ ra tự do phải
gắn liền với cải tạo xã hội và đòi hỏi Triết học phải gắn với đời sống, phục vụ
cho cuộc đấu tranh chính trị nhằm giải phóng nhân loại bị áp bức. Đó cũng là
chỗ phân biệt Mác với Heghel và phái Heghel trẻ. Chính vì vậy, Mác đã đặt cơ sở
để cải tạo phép biện chứng theo tinh thần cách mạng.
Ông cũng có những lập luận chứa đựng những mầm mống của quan niệm
sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa ý thức và tồn tại thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
+ Với Anghen năm 1841, ông đến Béc lin làm nghĩa vụ quân sự ở trung
đoàn pháo binh và tham gia nhóm Heghel trẻ muốn cùng nhóm nghiên cứu Triết
học của Heghel và rút ra những kết luận có tính chất vô thần, cách mạng. Trong
khi nghiên cứu triết học Heghel, ông luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải vượt qua
triết học này để đi tới một thế giới quan thực sự cách mạng, gắn liền với cuộc đấu
tranh thực tiễn của nhân dân.
Khi tiếp xúc với triết học của Phoiobac, ông thấy triết học của P có tính chất
triệt để hơn các nguyên lý triết học của Heghel mặc dù chưa thấy được sự đối lập
về nguyên tắc giữa CNDV của Phoiobac với CNDT của Heghel.
Anghen cũng cho rằng cần phải biết kết hợp triết học với đấu tranh chính trị thực tiễn.
+ Đánh giá: ngay từ bước đầu hoạt động khoa học và chính trị, Mác và
Anghen vẫn còn đứng trên lập trường CNDT và CNDC cách mạng; mặc dù vậy,
các ông đã cố gắng vượt ra khỏi khuôn khổ của nó, song chưa thực hiện được.
- Năm 1842 đến đầu năm 1843. Đây là giai đoạn chuyển biến tư tưởng của
Mác và Anghen từ CN duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghia cộng sản.
Đây cũng là giai đoạn Mác và Anghen sống và hoạt động trong phong trào
công nhân, chịu ảnh hưởng trực tiếp Triết học duy vật của Pho ơ bắc. Qua những 16
bài đăng trên báo “Sông Ranh” và ở Anghen qua những bài báo đăng trên tờ
“Ngôi sao bắc đẩu” hai ông đã phê phán CNDT của Heghel và đứng trên lập
trường của giai cấp vô sản đấu tranh cho lợi ích của quần chúng nghèo khổ bất
hạnh về chính trị xã hội. Và chỉ rõ là nhà nước là cơ quan đại diện đẳng cấp của
những lợi ích tư nhân. Thực tiễn chính trị đã làm nảy sinh khuynh hướng duy vật
và tinh thần dân chủ cách mạng sâu sắc. Thời kỳ này, 2 ông bắt đầu có sự nhận
thức phê phán triết học của Phoiobac, nhất là lĩnh vực đạo đức.
- Từ cuối năm 1843- đầu năm 1844: Đây là giai đoạn Mác và Anghen
chuyển biến hoàn toàn từ CNDT và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang CNDV và CSCN.
Sau khi báo “Sông Ranh” bị cấm, tháng 11/1843, Mác đến Pari để xuất bản
“niên giám Pháp- Đức”. Ông có điều kiện nghiên cứu phong trào công nhân,
CNXHKT Pháp và Anh, triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII và các dân tộc tiền
bối khác. Mác đã xuất bản 2 tác phẩm “Góp phần vào vấn đề châu Âu” và “Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Heghel. Lời nói đầu”.
Ngay trong tác phẩm đầu tiên, Mác đã dứt khoát đoạn tuyệt với CNDT và
chống lại lãnh tụ của pháp Heghel trẻ là Bruno Baue, chuyển sang CNDV và
CNCS. Thể hiện ở một số điểm sau:
+ Mác đã khẳng định quan điểm duy vật vai trò quyết định của hoạt động
vật chất nhằm chống lại quan điểm duy tâm về vai trò quyết định của yếu tố tinh thần trong lịch sử.
+ Phát hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản bằng cách
phát triển tư tưởng về “sự giải phóng nhân loại”, nghĩa là sự cải tạo xã hội theo
CNXH bằng cách xóa bỏ chế độ tư hữu, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ông đã nêu
rõ “giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp
vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”.
Trong “Niên giám Pháp- Đức”, Anghen cũng có 2 bài. Ông cũng hoàn thành
việc chuyển biến tư tưởng từ CNDT sang CNDVBC và từ chủ nghĩa dân chủ cách
mạng sang CNXHKH. Thể hiện: Ông tham gia vào phong trào Hiến chương; nghiên
cứu tình hình giai cấp công nhân Anh; phê phán theo tinh thần cách mạng học thuyết
XHCN của O-oen và những nhà kinh điển trong kinh tế chính trị học tư sản.
* Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Đây là giai đoạn thể hiện sự chín muồi về mặt thế giới quan. Mác và Anghen
từng bước xây dựng những nguyên lý của CNDVBC và CNDLS. Đây cũng là 17
giai đoạn Mác và Anghen tiếp tục phê phán Triết học duy tâm của Heghel, những
thiếu sót của CNDV Phoiơ bắc.
Giai đoạn này, Mác và Anghen đã viết những tác phẩm tiêu biểu:
- “Bản thảo kinh tế triết học 1844”: Tác phẩm này có một số nội dung cơ bản sau:
+ Ông đã trình bày những quan điểm kinh tế và triết học của mình thông qua
việc phê phán kinh tế chính trị học cổ điển của Anh.
Ông vạch trần tính chất hạn chế của kinh tế- chính trị tư sản trong luận điểm
về tính vĩnh viễn của chế độ tư hữu, khi họ khẳng định rằng tư hữu là thuộc tính
của con người đồng thời coi sự tồn tại của người vô sản là hợp lý, tất nhiên.
+ Ông cũng trình bày những tư tưởng mới của mình đó là phân tích sự tha
hóa của lao động với phạm trù “ lao động bị tha hóa”, từ đó ông cắt nghĩa sự tha
hóa bản thân con người và vạch ra con đường khắc phục sự tha hóa đó.
Theo Mác, “lao động bị tha hóa” có nghĩa là hoạt động đó của con người là
sự thể hiện quan trọng nhất bản chất người của con người, nhưng lại trở thành lực
lượng xa lạ, nô dịch con người, thể hiện ở chỗ sản phẩm của lao động thống trị
ngay người sản xuất ra nó. Lao động bị tha hóa làm cho người công nhân đánh
mất tính người, đánh mất cuộc sống đồng loại, phá vỡ quan hệ giữa người với người.
Ông đã chỉ ra nguồn gốc của lao động bị tha hóa gắn liền với sở hữu tư
nhân, chỉ ra tính tất yếu lịch sử của nó, chỉ ra con đường thoát khỏi sự tha hóa ấy
chính là sự xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân, đây cũng là sự giải phóng con người.
+ Tiếp tục phê phán triết học duy tâm của Heghel. Ông cũng chỉ ra mặt tích
cực của triết học của Heghel là phép biện chứng.
+ Xuất hiện những tư tưởng mới, phôi thai về chủ nghĩa cộng sản, đó không
phải là chủ nghĩa bình quân mà đó là chủ nghĩa nhân đạo triệt để.
- Tác phẩm “Gia đình Thần thánh” do Mác và Anghen viết chung, xuất
bản tháng 2-1845. Trong tác phẩm này có 1 số nội dung cơ bản sau:
+ Phê phán một cách có hệ thống quan điểm duy tâm về lịch sử của “phái
Heghel trẻ”. Nó chuyển thành sự phê phán triết học duy tâm nói chung.
+ Đề xuất một số nguyên lý cơ bản của triết học Mác xít và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
+ Ý nghĩa: tác phẩm này đã chứa đựng quan điểm gần thành hình của Mác
về vai trò của cách mạng của giai cấp vô sản và cho thấy Mác đã tiến gần như thế 18
nào đến tư tưởng cơ bản của toàn bộ hệ thống của ông tức là tư tưởng về những
quan hệ sản xuất xã hội.
- Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”: Đây là tác phẩm hai ông viết chung vào cuối
năm 1845 đến đầu năm 1846, đã đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình hình
thành Triết học Mác với những quan điểm duy vật về lịch sử, tạo cơ sở lý luận khoa
học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của Mác và Anghen.
Đây là tác phẩm có quy mô lớn nhất, là tác phẩm chín muồi đầu tiên.
+ Tiếp tục phê phán triết học duy tâm của Heghel và CNDT nói chung; đồng
thời phân tích một cách có hệ thống CNDV của Phoiobac, đặc biệt là quan điểm
duy tâm về lịch sử của Phoiobac và CNDV trước Mác.
+ Trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống và nhiều nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học như những hệ quả của quan niệm duy vật lịch sử.
Hai ông chỉ rõ: nếu không đứng trên lập trường của giai cấp công nhân thì
cũng không thể vươn tới CNDV về lịch sử được. Tác phẩm này xuất hiện như là
cơ sở lý luận của CNXHKH. Vì thế, ở tác phẩm này, lần đầu tiên các ông nói rõ
học thuyết của mình là CNXHKH, trình bày tất cả những vấn đề cơ bản của thế
giới quan mới, về sự đối lập hệ tư tưởng của giai cấp vô sản với hệ tư tưởng của
giai cấp tư sản và tiểu tư sản.
+ Đã làm sáng tỏ thế giới quan mới của mình mà những luận điểm xuất phát
đã được Mác phác thảo trong 11 luận đề vào tháng 4/1845, nay được coi là Luận
cương về P. Luận cương về P của Mác được A đánh giá là văn kiện đầu tiên chứa
đựng mầm mống thiên tài của một thế giới quan mới.
Trong đó, luận cương thứ 11 (“Các nhà triết học đã giải thích thế giới bằng
nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”) đã nói đến vai trò của triết
học với thực tiễn là góp phần cải tạo thế giới, đồng thời cũng vạch ra những
khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ CNDV trước kia, kể cả triết học của P.
+ Đưa ra quan niệm về con người, bản chất con người “ Trong tình hiện…”.
quan niệm về những con người hiện thực mà sản xuất vật chất là hành vi lịch sử
đầu tiên của họ, vai trò của sản xuất vật chất, nghiên cứu biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (hình thức giao tiếp)
+ Phát hiện ra quy luật vận động và phát triển nền sản xuất vật chất của xã hội.
- Tác phẩm “Sự khốn cùng của Triết học” (1847) và đặc biệt là tác phẩm
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848). Đây là tác phẩm có tính chất cương 19
lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, là tác phẩm tổng kết sâu sắc quá trình hình thành
chủ nghĩa Mác, đồng thời là tác phẩm mẫu mực về sự phê phán những tư tưởng sai trái.
Với sự ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” Triết học Mác
nói chung và chủ nghĩa Mác nói riêng đã hình thành.
* Thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen bổ sung và phát triển toàn diện lý luận triết học (1848 - 1895)
Đây là giai đoạn Mác và Anghen bổ sung phát triển toàn diện Triết học Mác
lên một trình độ cao và đi sâu nghiên cứu những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Trên cơ sở vận dụng CNDVLS, Mác và Anghen đã nghiên cứu một cách
toàn diện phương thức sản xuất TBCN. Đây cũng là giai đoạn Mác và Anghen
tổng kết kinh nghiệm các cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và các cuộc cách
mạng tư sản, đồng thời cũng là giai đoạn Mác và Anghen bảo vệ chân lý Triết
học Mác, chống lại những tư tưởng quan điểm muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác.
Giai đoạn này, Mác và Anghen viết nhiều tác phẩm trong đó có những tác phẩm tiêu biểu:
- Tác phẩm “Cách mạng và phản cách mạng”, Anghen viết năm 1851-1852.
- Tác phẩm “Nội chiến Pháp”, Mác viết năm 1871.
Đây là 2 tác phẩm Mác và Anghen tổng kết kinh nghiệm các cuộc đấu tranh.
- Tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gota”, Mác viết năm 1975, đây là tác phẩm
quan trọng Mác đi sâu nghiên cứu và phát triển học thuyết hình thái kinh tế- xã hội.
- Tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, A viết 10 năm từ 1873 đến 1883
nhằm khái quát về mặt Triết học những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên giữa thế kỷ XIX.
- Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”, A viết năm 1884.
- Tác phẩm “Lút vích Phoi ơ bác và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Anghen viết năm 1886.
- Bộ “Tư bản” của Mác và Anghen không chỉ là công trình về kinh tế mà
còn là sự bổ sung phát triển triết học. Lênin đã nói Mác không để lại cho ta một
logic với chữ L viết hoa, nhưng Mác đã để lại cho chúng ta logic bộ Tư bản.
Dựa trên việc phát hiện ra phạm trù hàng hóa sức lao động, C.Mác đã tìm ra
nguồn gốc của giá trị thặng dư, chỉ ra bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Lý
luận giá trị thặng dư được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày toàn diện, sâu sắc trong 20
bộ Tư bản. Tác phẩm này không chỉ mở đường cho sự hình thành hệ thống lý luận
kinh tế chính trị trên lập trường giai cấp vô sản mà còn củng cố, phát triển quan
điểm duy vật lịch sử thông qua lý luận hình thái kinh tế - xã hội, làm cho chủ nghĩa
duy vật lịch sử không còn là một giả thuyết mà là một nguyên lý đã được chứng
minh một cách khoa học, bộ Tư bản còn là tác phẩm chủ yếu trình bày về chủ
nghĩa xã hội khoa học thông qua việc làm sáng tỏ quy luật hình thành, phát triển và
diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thay thế nó bằng chủ nghĩa xã hội và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Nghiên cứu những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành, phát triển Triết
học Mác ta thấy sự ra đời của Triết học Mác là một quá trình lịch sử lâu dài; là
quá tình Mác và Anghen vừa phải đoạn tuyệt với CNDT, lập trường dân chủ cách
mạng, vừa phải bảo vệ Triết học Mác chống lại những tư tưởng quan điểm của
những phần tử muốn phủ nhận triết học Mác; là quá trình Mác và Anghen vừa
phải kế thừa tư tưởng nhân loại vừa phải tống kết thực tiễn để xây dựng, bổ sung,
phát triển triết học Mác.
c) Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện
Thực chất nội dung của bước ngoặt cách mạng trong bước ngoặt cách mạng
trong Triết học do Mác và Anghen thực hiện là: Mác và Anghen đã xây dựng nên một
hệ thống Triết học khoa học chân chính gồm cả CNDVBC và CNDVLS khác về chất
so với các hệ thống triết học trước đó ở những đặc điểm cơ bản sau:
* C. Mác và Ph. Ăngghen đã khắc phục tính chất trực quan, siêu hình của chủ nghĩa
duy vật cũ và khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của phép biện chứng duy tâm, sáng
tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mác đã giải thoát chủ nghĩa duy
vật khỏi tính hạn chế siêu hình và giải thoát phép biện chứng dưới cái vỏ duy tâm
thần bí, xây dựng nên triết học duy vật biện chứng.
* C. Mác và Ph. Ăngghen đã vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng
vào nghiên cứu lịch sử xã hội, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử - nội dung chủ yếu
của bước ngoặt cách mạng trong triết học
Đây là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và
Anghen thực hiện. CNDVBC không phải là sự “lắp ghép” phép biện chứng của
Heghel với CNDV của Phoi ơ bắc mà là sự kế thừa có chọn lọc và phát triển sáng 21
tạo. Mác viết: “phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp
của Heghel về cơ bản mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa”.
CNDV đã dược áp dụng một cách triệt để vào lĩnh vực các hiện tượng xã
hội, vào đời sống xã hội. Đó là sự khái quát thiên tài mà toàn bộ triết học trước
Mác chưa đạt tới được. Nó đã làm sụp đổ của toàn bộ quan niệm sai lầm về lịch
sử cũng như phương thức tư duy cổ truyền.
* C. Mác và Ph. Ăngghen đã bổ sung những đặc tính mới vào triết học, sáng tạo ra
một triết học chân chính khoa học - triết học duy vật biện chứng
Mác viết “ các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác
nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Luận điểm đó của Mác đã nói lên sự khác
nhau về chất giữa Triết học của ông với các học thuyết Triết học trước kia. Các
nhà triết học trước kia đặc biệt là những nhà Triết học duy vật trước Mác chưa có
quan điểm đúng đắn về thực tiễn. Điều này cũng có ý nghĩa là đã làm biến đổi
một cách căn bản tính chất và vai trò xã hội của triết học, đối tượng của triết học,
và do đó làm biến đổi căn bản địa vị của triết học trong hệ thống tri thức khoa học tự nhiên và xã hội.
d) Giai đoạn V.I. Lênin trong sự phát triển triết học Mác
VI. Lê nin (1870- 1924) là người kế tục sự nghiệp của Mác và Ănghen vận
dụng sáng tạo học thuyết của Mác và Ăng ghen để giải quyết những vấn đề của
cách mạng vô sản trong thời đại Đế quốc chủ nghĩa và bước đầu xây dựng
CNXH. Lê nin là người đã có nhiều cống hiến phát triển Triết học Mác và bảo vệ
những chân lý của Triết học Mác vì thế tên tuổi của Người đã gắn liền với tên
tuổi của Mác và Ăng ghen.
* Điều kiện lịch sử của giai đoạn Lênin bảo vệ phát triển Triết học Mác
- Về mặt kinh tế chính trị xã hội: Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
+ Chủ nghĩa Tư bản đã phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa Đế quốc, làm cho
những mâu thuẫn vốn có về kinh tế xã hội trong lòng xã hội tư bản càng thêm gay
gắt. Các nước tư bản chia nhau thị trường thế giới và gây ra cuộc Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất (1914-1918).
+ Tại các nước thuộc địa, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc tạo nên sự
thống nhất giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản mà trung tâm
là Cách mạng Tháng Mười Nga. Sau khi Ph.Ăngghen qua đời, các phần tử cơ hội 22
trong Quốc tế II tìm mọi cách nhằm xuyên tạc chủ nghĩa Mác. Trước tình hình đó
đòi hỏi V.I.Lênin phải tiến hành đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác. - Về mặt tư tưởng
+ Những năm 80 của thế kỷ XIX, CN Mác nói chung và triết học Mác nói
riêng đã được truyền bá vào Nga qua nhóm “giải phóng lao động” do Plekhanop đứng đầu.
+ Bản thân nước Nga có bề dày truyền thống Triết học duy vật với những
nhân vật nổi tiếng như: Bacunin, Ghedixen, Trenusepsky
+ Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nước Nga cũng như ở châu Âu sau thất bại
của cuộc cách mạng 1905- 1907, CN cơ hội xét lại tăng cường hoạt động lý luận với
chiêu bài phát triển sáng tạo đổi mới mở rộng hiện đại hóa chủ nghĩa Mác, nhưng
thực chất là xuyên tạc chủ nghĩa Mác, thay triết học Mác bằng CNDT tôn giáo.
- Về mặt khoa học tự nhiên: cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khoa học tự nhiên
đạt được nhiều thành tựu với những phát minh lớn “mang tính vạch thời đại”.
Năm 1895 Rơn ghen phát hiện ra tia X
Năm 1896 Béc cơ ren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
1897, Tôm sơn phát hiện ra điện tử. Trong đó, đặc biệt là phát minh ra điện
tử, cấu tạo nguyên tử, đã làm đảo lộn căn bản quan niệm cổ truyền về vật chất của
vật lý học cổ điển, dẫn tới “cuộc khủng hoảng vật lý”.
Lợi dụng tình hình đó, CNDT, trong đó có CN Ma khơ, một thứ CNDTCQ
tấn công vào CNDV nói chung, CNDV Mác xít nói riêng và tuyên bố vật chất đã biến mất, đã tiêu tan.
Chính từ điều kiện lịch sử về mặt kinh tế chính trị, xã hội, tư tưởng và khoa
học tự nhiên đặt ra, đòi hỏi Lê nin phải bảo vệ, bổ sung phát triển triết học Mác.
* V.I. Lênin trở thành người kế tục trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác và triết học Mác trong thời đại mới - thời đại đế quốc chủ nghĩa và quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ 1893 - 1907, V.I. Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác nhằm thành lập
đảng mácxít ở Nga và chuẩn bị cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản lần thứ nhất.
Thời kỳ 1907 - 1917 là thời kỳ V.I. Lênin phát triển toàn diện triết học Mác và lãnh
đạo phong trào công nhân Nga, chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ 1917 - 1924 là thời kỳ V.I. Lênin tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng,
bổ sung, hoàn thiện triết học Mác, gắn liền với việc nghiên cứu các vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội.
* Thời kỳ từ năm 1924 đến nay, triết học Mác - Lênin tiếp tục được các đảng cộng
sản và công nhân bổ sung, phát triển
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác - Lênin 23
a) Khái niệm triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự
nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa học,
cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng
xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải tạo thế giới.
b) Đối tượng của triết học Mác - Lênin
Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác - Lênin là giải quyết mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận
động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
c) Chức năng của triết học Mác - Lênin
* Chức năng thế giới quan
+ Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm của con người về thế giới và
vị trí của con người trong thế giới đó, về chính bản thân cuộc sống của con người
và loài người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người và
xã hội loài người. Nó nảy sinh từ đời sống con người và là sự nhận thức mục đích và
ý nghĩa cuộc sống của con người. Khi nó hình thành, nó là nhân tố định hướng cho
con người tiếp tục quá trình nhận thức thế giới, xem xét mọi sự vật, hiện tượng của
thế giới và chính bản thân con người trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
+ Thế giới quan bao gồm: Thế giới quan triết học, thề giới quan thần thoại
và thế giới quan tôn giáo. Trong đó, thế giới quan triết học khác với thế giới quan
thần thoại và thế giới quan tôn giáo.
* Thế giới quan thần thoại là sự cảm nhận thế giới của người nguyên thủy,
trong đó các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng
tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người…hoà quyện vào nhau thể hiện
quan niệm về thế giới.
* Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu; tín
ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội cái người.
* Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm của con người dưới dạng hệ
thống các phạm trù, quy luật đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức thế giới.
+ Triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt
nhân thế giới quan cộng sản. 24
Thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống những quan điểm, quan niệm
duy vật và biện chứng của con người về thế giới cũng như vị trí, vai trò của con
người trong thế giới đó.
* Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò định hướng cho con người
nhận thức thế thới đúng đắn và chỉ đạo hoạt động thực tiễn có hiệu quả
Đây chính là “nhãn quan” triết học để con người xem xét, nhận dạng thế
giới các sự vật, hiện tượng và nhận thức chính mình, giúp con người hình thành
quan điểm khoa học, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của họ mang lại hiệu quả, tránh
mắc phải sai lầm. Đồng thời, nó là cơ sở khoa học giúp cho các ngành khoa học
khác đi sâu khám phá các lĩnh vực cụ thể trong tự nhiên và xã hội.
* Thế giới quan duy vật biện chứng là cơ sở để xác lập nhân sinh quan tích cực
Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan đúng đắn nên nó là cơ sở
để con người xây dựng niềm tin khoa học, đề cao trách nhiệm, phát huy tính tích
cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực. Trình
độ phát triển về thế giới quan là một tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá
nhân cũng như cộng đồng xã hội nhất định.
* Thế giới quan duy vật biện chứng là cơ sở khoa học để đấu tranh với thế
giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học.
Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt
nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là
cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản động.
- Chức năng phương pháp luận
+ Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất
phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp.
+ Xét về phạm vi tác dụng, có phương pháp luận ngành, phương pháp luận
chung và phương pháp luận chung nhất.
+ Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất
cho nhận thức và thực tiễn của con người. Tức là, các nguyên tắc phương pháp luận
rút ra từ các nội dung của triết học Mác - Lênin được áp dụng cho mọi đối tượng, mọi lĩnh vực.
+ Vai trò phương pháp luận duy vật biện chứng: 25
* Trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc, những quy tắc,
những yêu cầu, những chỉ dẫn cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
* Giúp con người phát triển tư duy lý luận khoa học, đó là tư duy phản ánh
đối tượng ở tầm bản chất, quy luật.
- Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Thế giới quan là cơ sở của phương pháp luận, còn phương
pháp luận góp phần củng cố, hoàn thiện thế giới quan.
Ngoài hai chức năng cơ bản là thế giới quan và phương pháp luận, triết học
Mác - Lênin còn có các chức năng khác như: Chức năng nhận thức, chức năng
giáo dục con người; chức năng dự báo khoa học; chức năng phê phán.
3. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam hiện nay
a) Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách
mạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn
Triết học với vai trò là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất, nhưng không
phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại, gắn bó hết sức mật thiết với cuộc
sống, với thực tiễn, là cái định hướng, cái chỉ đạo cho chúng ta trong hành động. Xuất
phát từ một lập trường triết học đúng đắn, cụ thể là xuất phát từ những quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể có được những cách giải quyết đúng đắn
các vấn đề do cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai
lầm, chúng ta không thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây thể hiện giá trị định
hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức năng phương pháp luận của triết học.
b) Triết học Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách
mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ
Triết học Mác-Lênin đóng vai trò rất quan trọng, là cơ sở lý luận, phương pháp luận
cho các phát minh khoa học, cho sự tích hợp và truyền bá tri thức khoa học hiện đại. Dù
tự giác hay tự phát, khoa học hiện đại phát triển phải dựa trên cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận duy vật biện chứng. Đồng thời, những vấn đề mới của hệ thống tri
thức khoa học hiện đại cũng đang đặt ra đòi hỏi triết học Mác - Lênin phải có bước phát triển mới.
c) Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 26
Triết học Mác - Lênin là nền tảng, cơ sở cho quá trình đổi mới tư duy ở Việt Nam.
Một trong những điểm nhấn của thế giới quan, phương pháp luận triết học Mác - Lênin
chính là vấn đề thực tiễn, đó là phương pháp biện chứng, đó là sự vận động và biến đổi
không ngừng của thế giới. Đó chính là những yếu tố đã góp phần xây dựng lý luận về
đổi mới, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ, về xây dựng kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về mô hình chủ nghĩa xã hội, về các bước, cách
thức đi lên chủ nghĩa xã hội, v.v.. Đó chính là thế giới quan mới của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. 27