Tóm tắt lý thuyết môn học Lịch sử kiến trúc - phần 2

Tóm tắt lý thuyết môn học Lịch sử kiến trúc - phần 2 giúp sinh viên ôn luyện và nắm vững kiến thức môn học để đạt kết quả cao sau khi kết thúc học phần

lOMoARcPSD|36625228
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
1945 - 1986
Nội dung 1: Tổng quan về lịch sử
Giai đoạn 1954 - 1975:
- Với việc kết hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành
hai miền, với 2 chế độ chính trị khác nhau:
* Miền Bắc tiến vào giai đoạn giải phóng , cuộc cách mạng dân tộc
hoànthành, tọa điều kiện cho miền Bắc tiến vào thời kì phát triển
* miền Nam, nước Mỹ vào cuộc thay nước Pháp với âm mưu chia
cắt lâudài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới căn cứ
quân sự của Mỹ.
=> Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng 2 miền: cách mạng
hội chủ nghĩa miền Bắc cách mạng dân tộc dân chủ nhân n miền
Nam, tiến tới thống nhất đất nước.
Miền Bắc giai đoạn 1954 - 1975:
- Thời kỳ khôi phục kinh tế.
- Thời kỳ cải tạo và phát triển kinh tế.
- Các công trình chủ yếu được xây dựng trong thời kì này nhà ở, nhà
côngnghiệp nhà công cộng, các công trình chịu ảnh hưởng rệt của kiến
trúc Liên Xô XHCN
Những năm 1954 - 1975, cả miền Bắc như một đại công trường sôi động, nhiều
công trình được xây dựng với hình thức đơn giản, trong sáng phù hợp với đặc
điểm văn hóa hội khí hậu của đất nước và định hình phong cách kiến trúc
hiện đại XHCN Việt Nam.
lOMoARcPSD|36625228
Miền Nam giai đoạn 1954 - 1975:
- Thời kì giải phóng miền Nam.
- Thời kì do Mỹ nắm quyền.
- Nhờ các chuyên gia nước ngoài, các vùng được quy hoạch lại, các ng
trìnhhành chính, văn hóa, giáo dục được xây dựng với quy khác nhau tại
thành phố, thị xã, quận thể hiện shiện diện và nắm quyền của bộ máy ngụy
quyền.
lOMoARcPSD|36625228
BỐI CẢNH GIAI ĐOẠN 1975 - 1986:
- Không còn nhiều sự viện trợ từ nước ngoài, phải tự trau dồi, tìm hiểu kiếnthức
và phát triển các phương pháp, kỹ thuật xây dựng.
- Được sự giúp đỡ từ chuyên gia các nước XHCN viện trợ để phục hồi sở
vậtchất sau chiến tranh xây dựng mới hệ thống công trình phúc lợi hội dân
sinh ở cả 2 miền.
=> Kiến trúc xây dựng thời kì này vẫn ở trạng thái tiết kiệm.
- Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn, với xu hướng kiến trúc hiện đại, giản dịvà
thực dụng, các kiến trúc Việt Nam vẫn tự tin vươn ra quốc tế đạt nhiều
giải thưởng cao quý.
lOMoARcPSD|36625228
lOMoARcPSD|36625228
NỘI DUNG 2: CÁC ĐẶC ĐIỂM VÀ DI TÍCH NỔI BẬT
QUY HOẠCH:
Dựa trên scủa nền kinh tế kế hoạch tập trung đất đai thuộc sở hữu nhà
nước, miền Bắc tiếp thu các nguyên lý về quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch
chung và quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị của các nước XHCN. Từ đó cho ra
đời những đồ án quy hoạch của 20 thành phố như Nội, Hải Phòng, Nam Định,
Vinh,… Trên sở đỏ đó chung ta xác định địa điểm xây dựng cho hàng trăm
hạng mục công trình quan trọng cho nền kinh tế quốc dân.
lOMoARcPSD|36625228
Các phương pháp nghiên cứu và phát triển hu hết được học tập tLiên
cùng với đó là sự trợ giúp từ các chuyên gia của Liên Xô cũ nên Việt Nam nét
quy hoạch tương đối giống Liên Xô.
lOMoARcPSD|36625228
lOMoARcPSD|36625228
miền Nam, quy hoạch xây dựng đô thị phát triển với những đặc điểm khác nhau
theo 2 giai đoạn: thời kỳ tái thiết tương đối ổn định ( 1954 - 1963) và thời kì phát
triển nhanh, đa dạng nhưng thiếu ổn định (1964 - 1975).
(Quy hoạch thành phố Sài Gòn 1978)
lOMoARcPSD|36625228
(Quy hoạch thành phố Buôn Mê Thuột)
Nhìn chung bộ mặt đô thị có những thay đổi lớn về quy mô đồng thời cũng phát
sinh nhiều mâu thuẫn và chênh lệch xã hội. Các kiến trúc sư miền Nam cùng sự
hỗ trợ của Mỹ đã đề xuất nhiều phương án quy hoạch mở rộng Sài Gòn và các đô
thị khác từ 1966.
lOMoARcPSD|36625228
(Đề xuất đề án chỉnh trang Sài Gòn chợ lớn 1960)
Tuy nhiên do chiến tranh kéo dài nên nhiều chương trình xây dựng đô thị đã
không thể trở thành hiện thực. vậy nhưng chúng cũng hàm chứa giá trị chuyên
môn nhất định, thể hiện lối tư duy quy hoạch sau này.
Sau ngày thống nhất, nước ta có 2 hệ thống đô thị với các động lực và yếu tố tạo
thị khác nhau.
Các đô thị miền Nam với nhiều nhà cửa, kho tàng khu công nghiệp, sở sản
xuất kinh doanh , dịch vụ ,hệ thống kết cấu sở hạ tầng gần như còn nguyên
lOMoARcPSD|36625228
vẹn khi chiến tranh kết thúc, nay cần được chỉnh trang chuyển đổi sang cơ chế
quản lý mới.
Ở miền Nam, tổ chức không gian quy hoạch đô thị có những bước đi theo hướng
quốc tế do tiếp thu vận dụng hthống nguyên quy hoạch xây dựng tương
đối hoàn chỉnh từ quy hoạch vùng, quy hoạch chung đến quy hoạch chi tiết.
(Quy hoạch thành phố Sài Gòn theo phương pháp luận Roger Trancik)
Thực tế phát triển đô thị thời gian này đã nổi hai chiều hướng trái ngược nhau:
chiều hướng vĩ mô, dài hạn, mang tính dự báo đầy lạc quan và chiều hướng ngắn
hạn, cụ thể nhằm đáp ứng những nhu cầu trước mắt. Dù theo chiều hướng nào thì
kết quả vẫn là quá trình đô thị hóa đã diễn ra một cách chậm chạp, thậm chí suy
giảm.
lOMoARcPSD|36625228
(Thành phố Sài Gòn)
CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG:
- Giai đoạn 1954-1986: giai đoạn miền Bắc (và sau năm 1975 cả nước)
xây dựng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Ðặc trưng của xã hội (XH) giai đoạn
này là nền kinh tế bao cấp, phát triển theo kế hoạch. Dựa vào bối cảnh
chính trị - hội thể chia giai đoạn y thành 3 giai đoạn phát triển khác
nhau.
- Giai đoạn 1954-1965: Miền Bắc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5
năm lần thứ nhất. Nhiều khu nhà kiểu tập thbắt đu được xây dựng như
lOMoARcPSD|36625228
khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Văn Chương, v.v. Các công trình thời kỳ
y vẫn còn chịu ảnh hưởng từ kiến trúc Pháp và Trung Quốc.
- Giai đoạn 1965-1975: Giai đoạn chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc.
Các bộ phận sản xuất, các quan hành chính của Nội đa phn đều
được sơ tán, vì thế cũng không có điều kiện xây dựng nhiều.
- Giai đoạn 1975-1986: Kết thúc chiến tranh, đất nước thống nhất. Giai
đoạn này chính là giai đoạn mà kiến trúc Xô Viết có ảnh hưởng nhiều đến
kiến trúc Hà Nội. Ðây cũng là khoảng thời gian các công trình công cộng
tiêu biểu của Tp được xây dựng.
Về phong cách kiến trúc không gian của các công trình thời kỳ này rất dễ
nhận biết. Đó những hình khối hiện đại, vuông vức, đặc trưng cho kiến trúc
hiện đại, mái bằng với các yếu tố nhiệt đới hóa rất dễ nhận biết như tường hoa
tông, các hệ lam chắn nắng, mái đua rộng…;
Về vật liệu xây dựng, công nghệ xây dựng: Đây ng yếu tố khá nổi bật
rất dnhận diện của các công trình thời kỳ này. thể thấy vai trò của công nghệ
giới hóa và sự xuất hiện nhiều hơn của tông cốt thép, vật liệu đặc trưng của
lOMoARcPSD|36625228
phong cách Hiện đại phương Tây sự chừng mực trong sử dụng vật liệu kính
cũng như kim loại. Do đó, tuổi thọ của các công trình lâu hơn rất nhiều so với các
công trình thuộc thời kỳ trước đây với kết cấu gạch, gỗ. Nhiều công trình có mặt
đứng được ốp đá rửa màu trắng hoặc xám trắng, rất đặc trưng cho cách xử lý vật
liệu bề mặt công trình công cộng thời kỳ hậu chiến và tiền đổi mới;
Về văn hóa thẩm mỹ: Đây thời điểm tính cộng đồng đang được tôn vinh,
tinh thần lạc quan cách mạng cũng như niềm hy vọng về tương lai tốt đẹp của
một chế độ hội mới trên đà phát triển mạnh mẽ đang lên đến đỉnh điểm. Rất
nhiều công trình thời kỳ này không chỉ mang yếu tố công năng, mỹ thuật
còn mang tính biểu tượng rất cao. *Bảo tàng Việt Bắc:
Nằm trung m thành phố Thái Nguyên với diện tích 2000m2, đây nhà bảo tàng lớn
với 5 khối trưng y nối liền nhau bằng hành lang tiền sảnh, tạo ra những khoảng
sân trong trồng hoa thoáng mát. Lợi dụng khu đất cao hơn mặt đường trên dưới 5m để
tạo ra một sân trước bề thế. Trước khối kiến trúc chính giữa, tác giả đã nâng cao các
phòng trưng bày trên một tầng hầm làm cho toàn cảnh sang trọng với những hình khối
phong phú.
lOMoARcPSD|36625228
*Cung thiếu nhi:
Cung thiếu nhi Hà Nội nằm trên con phố Lý Thái Tổ có tổng diện tích 8100m2 với tòa
nhà Pháp cổ và một công trình thuộc kiểu kiến trúc Xô Viết – 2 loại công trình rất phổ
biến và đặc trưng ở Hà Nội.
lOMoARcPSD|36625228
lOMoARcPSD|36625228
Tại miền Nam, so với thời gian trước thì hoàn cảnh chính trị của thời gian y đã tạo
điều kiện cho sự phát triển nhiều quan hành chính, văn hóa, giáo dục đã được xây
dựng. Các quan hành chính của bộ máy ngụy quyền được xây dựng với quy mô khác
nhau ở các thành phố, thị xã cũng như ở cấp quận. Đặc biệt chú là dinh độc lập công
trình mang nét đẹp kết hợp của phương tây và phương Đông, thể hiện nét đặc trưng của
kiến trúc miền Nam.
(Hình ảnh cấu trúc cũ của Dinh Độc Lập trên báo Le Monde của Pháp số ra 23
tháng 2 năm 1884)
lOMoARcPSD|36625228
(Chi tiết đầu rồng trang trí mặt nhà)
(Những bức phù điêu dưới ô cửa sổ mang phong cách kiến trúc Á Đông)
lOMoARcPSD|36625228
Khu nhà chính chữ T diện tích mặt bằng là 4500m2, cao 26m, nằm ở vị trí trung
tâm khu đất. Tổng diện tích sử dụng là 20000m2 chia làm 95 phòng. Mỗi phòng
một chức năng riêng, kiến trúc cách trang trí phù hợp với mục đích sử dụng
của mỗi phòng. Sau 1975, khu nhà chính này tiếp tục được sử dụng một số
phòng, còn lại để phục vụ du khách thăm quan.
lOMoARcPSD|36625228
Toàn thể bình diện của dinh làm thành hình chữ CÁT có nghĩa là tốt lành, may
mắn. Tâm của Dinh vị trí phòng trình quốc thư, Lầu thượng tứ phương
sự lầu hình chữ KHẨU để đề cáo giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU
có cột cờ chính giữa số dọc tạo thành hình chữ TRUNG như nhắc nhở muốn có
n chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương,
bao lơn danh dự mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM, theo
quan niệm dân chủ hữu tam viết nhân, viết minh, viết võ, ý muốn một đất nước
hưng thịnh thì phải có những con người đủ 3 yếu tố NHÂN, MINH, VÕ. Ba nét
gạch ngang được nối liền nét sổ dọc tạo thành chữ VƯƠNG, trên có kỳ đài làm
thành nét chấm tạo thành hình chữ CHtưởng trưng cho chủ quyền đất nước.
Mặt trước của dinh thự tạo thành chữ HƯNG, ý cầu cho nước nhà được hưng
thịnh, phát đạt.
lOMoARcPSD|36625228
NHÀ Ở:
Các tiểu khu nhà ở tạo dựng bộ mặt kiến trúc mới cho Thủ đô Hà Nội. Mô hình
tiểu khu ntheo kiểu XHCN có những đặc điểm khá tương đồng với lối sống
truyền thống của người Việt và có nhiều ưu điểm so với điều kiện bối cảnh Việt
Nam giai đoạn này.
Dựa vào một số đặc điểm luận án đã phân loại nhà thời k y theo một số
dạng điển hình sau:
- Phân loại theo tầng cao: Có 2 loại là nhà ở thấp tầng (dưới 2 tầng) và nhà
ở có tầng cao trung bình (4-5 tầng).
- Phân loại theo kiểu hành lang: Có 4 loại không hành lang, hành lang
bên, hành lang giữa và đơn nguyên.
- Phân loại theo cấu trúc căn hộ: Có 4 loại là kiểu chia gian, căn hộ chung
bếp và wc, căn hộ khép kín hành lang bên và căn hộ khép kín hoàn chỉnh.
lOMoARcPSD|36625228
Suất đầu thấp, vật liệu xây dựng hoàn thiện khan hiếm, thiếu nhiều trang thiết
bị nên phương châm thiết kế lúc đó, đồng thời cũng là mục tiêu chất lượng công
trình “thích dụng, bền vững, kinh tế, đẹp trong điều kiện có thể”
=> Từ đó, kiến trúc, trước hết phải đáp ứng giá trị sử dụng (chỉ đạt tới cấp
1 và 2 trong khi các nước phát triển đã đạt tới mức 3, 4 và 5) cho nên thể
coi kiến trúc XHCN ở miền Bắc là “ kiến trúc công năng”.
lOMoARcPSD|36625228
(Tháp nhu cầu của A.H.Maslơ)
lOMoARcPSD|36625228
Xuất hiện những khu tập thể từ 4 đến 5 tầng với sự hỗ trợ kỹ thuật từ bắc Triều Tiên.
Giai đoạn 1975-1986 với những khu tập dáng vẻ hiện đại hơn, độc lập hơn với những
công trình phụ khép kín như Trung tự, Thành công, Bách Khoa ,…
Các khu nhà tập thể kiến trúc đơn giản, theo hình thức đơn nguyên, những các hộ
dùng chung bếp vệ sinh. Kết cấu công trình dùng tường gạch chịu lực hoặc panen
tấm nhỏ, sàn panen hộp, nền lát gạch xi măng hoa hay xi măng nâu, mái ngói có sê
n.
Phân loại theo phương pháp thi công: 2 loại là y gạch kết hợp tấm sàn BTCT
lắp ghép panel BTCT.
Nhận xét về kiến trúc nhà ở tại Hà Nội giai đoạn 1954-1986:
Chú trọng phát triển nhà ở kiểu chung cư. Ðều là những công trình thấp tầng (từ 5 tầng
trở xuống). Mẫu nhà được thiết kế điển hình không đa dạng.Căn hộ được thiết kế điển
hình với mức giản lược nhất. Vật liệu xây dựng chủ yếu là vật liệu địa phương, BTCT
bắt đầu được đưa vào sử dụng phổ biến trong xây dựng. Vật liệu trang trí còn đơn giản,
nghèo chất liệu. Bố cục kiến trúc ngay ngắn có nhịp điệu. Hình thức đơn giản, hiện đại,
phù hợp cấu trúc kết cấu. Phù hợp với điều kiện khí hậu, phong tục tập quán của người
lOMoARcPSD|36625228
Việt. Các KTT mới đã tạo dựng được bộ mặt mới, hiện đại cho kiến trúc Nội thời
kỳ bấy giờ.
Tiếp thu mô hình bao cấp nhàtừ Liên Xô, sau một thời gian thử nghiệm, năm 1980,
Bộ xây dựng đã cho triển khai áp dụng công nghệ xây nhà bằng tấm bê tông lớn tại khu
Thanh Xuân Bắc,Nội và một vài tỉnh lân cận các nhà máy bê tông tấm lớn cũng
bắt đầu đi vào hoạt động
lOMoARcPSD|36625228
Cùng lúc y, ngành y dựng Nội đã đề xuất mẫu nhà với tấm tông được sản
xuất theo phương pháp “polygon” nhẹ hơn, động hơn nên trên thực tế đã lắp dừng
được một khối lượng nhà đáng kể trong một thời gian tương đối ngắn
Ngoài ng nghệ tấm lớn, bằng biện pháp xây dựng thủ công quen thuộc, nhiều khu nhà
mới hoặc khu xen cấy đã được y dựng c tỉnh, thành phố suốt từ Bắc vào Nam,
trong đó những khu nhà dành cho công nhân cũng được đã có một vài thử nghiệm
số công nghệ mới như kích nông sàn, cốp- pha trượt,...
Những năm 1954 - 1965, vấn đề về nhà một trong những vấn đề nan giải các
thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng.
đây, khả năng xây dựng bằng tông cốt sắt đúc tại chỗ, không lắp ghép các cấu kiện
đúc sẵn đã tạo kiều kiện tốt để dựng nhiều kiểu nhà khác nhau. Trong hoàn cảnh thuận
lợi của khí hậu, người ta không bị gò bó nhiều trong việc bố trí các ngôi nhà cũng như
việc sắp xếp các phòng trong căn hộ các căn hộ khác nhau trong một tòa nhà. Tuy
nhiên cách sắp xếp thường là 2 toàn nhà mẫu “D” ốp lưng vào nhau, cách khoảng 3m.
Tuy tiện nghi nhưng lại tạo ra một giếng trời bất đắc dĩ và bất tiện trong việc đóng mở
cửa sổ phía sau.
lOMoARcPSD|36625228
Tới giai đoạn sau giải phóng, tại miền Nam, xã hội cũ để lại một quỹ nhà ở quá nghèo
nàn khiến cho khi bắt tay y dựng các thành phố sau giải phóng, nhà nước đã phải
dành những cố gắng lớn cho công cuộc phát triển nhà ở. y dựng nhiều nhất nhất
các khu nhà 1 tầng hoặc 2 tầng.
Đây những ngôi nhà được xây dựng tạm thời (nhà tạm) kết cấu bằng gạch hoặc
khung gỗ, tường chèn gạch, mái ngói. Công trình gồm những phòng lớn xếp song song.
Các khu nhà tập thể kiến trúc đơn giản, theo hình thức đơn nguyên, những các hộ
dùng chung bếp vệ sinh. Kết cấu công trình dùng tường gạch chịu lực hoặc panen
tấm nhỏ, sàn panen hộp, nền lát gạch xi măng hoa hay xi măng nâu, mái ngói có sê
(tương tự với kiến trúc ktt tại miền Bắc).
lOMoARcPSD|36625228
CÔNG TRÌNH CÔNG NGHIỆP:
Việc xây dựng kiến trúc công nghiệp và đưa vào sử dụng các khu công nghiệp cho
Nội khoảng thời gian này đánh dấu những bước quan trọng với sự cố gắng của N
nước đối với quá trình công nghiệp hóa thủ đô.
Về mặt kiến trúc, nội thất nhà y những nét đáng chú ý tạo nên được không khí
“công nghiệp”, một vẻ đẹp tạo nên do hệ thống dầm tầng, cầu chạy và máy móc bố trí
theo dây chuyền, một vẻ đẹp “tự than”, tuy vậy vấn đề hình thức kiến trúc sao cho phù
hợp với điều kiện nhiệt đới là vấn đề còn tồn tại.
lOMoARcPSD|36625228
lOMoARcPSD|36625228
CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG:
Trong kế hoạch 5 năm, kiến trúc cầu đã những tiến bộ rệt, phù hợp với yêu cầu
giao thông vận tải ngày càng phát triển. Hàng chục cây cầu lớn, hang tram cây cầu lớn
nhỏ được xây dựng mới.
Giai đoạn 1964 1975 giai đoạn đảm bảo giao thông chống chiến tranh phá hoại
miền Bắc chi viện cho giải phóng miền Nam. Các nhà khoa học đội ngũ thợ cầu
Việt Nam đã có những sáng tạo có thể nói là kỳ diệu trong việc nghiên cứu thiết kế và
xây dựng thành công những y cầu kết cấu đặc biệt của chúng thể nói “vô
tiền khoáng hậu” trong lịch sử.
Các y cầu hầu hết được xây dựng miền bắc nhằm đảm bảo đường giao thông liền
mạch với miền Nam. Được áp dụng chủ yếu từ k thuật của các kiến trúc Đông
Dương để tạo nên các y cầu kết cấu dàn thép cột tông t đẹp công nghiệp
đặc trưng.
lOMoARcPSD|36625228
Cầu m Rồng khánh thành ngày 19-5-1964 do Việt thiết kế với sự giúp đỡ của chuyên
gia nước ngoài. Cầu làm cho đường xe lửa một làn, ô 2 làn , người đi bộ có lối đi
riêng. Cầu dầm liên tục thép dàn hoa, không dùng hình thức một vòm khẩu độ 160m,
mặc dù có thể mỹ quan hơn, những xét về mặt kết hợp kinh tế với quốc phòng, đã chọn
vòm khẩu độ 80m. Thi công lao dầm bằng phương pháp lắp hẫng. Trụ móng bằng cột
bê tông cốt thép đúc sẵn, đường kính 1,55, thi công trụ bằng các máy chấn động, hạ cột
qua tầng đất phủ.
lOMoARcPSD|36625228
Cầu Long Biên:
lOMoARcPSD|36625228
NỘI DUNG 3: Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ
lOMoARcPSD|36625228
Giá trị kiến trúc Giai đoạn 1954 – 1986 là giai đoạn đất nước gặp nhiều khó khăn, đặc
biệt là về phát triển kinh tế. Công trình kiến trúc được xây dựng thời kỳ này suất đầu tư
thấp, không đa dạng về thể loại, quy mô không lớn, nhưng không phải không có thành
quả. Giá trị cao nhất là đã đáp ứng được nhu cầu của xã hội lúc bấy giờ. Giá trị của kiến
trúc giai đoạn 1954 - 1986 thể hiện một số khía cạnh sau: Kiến trúc được y dựng
theo quy hoạch Tuy kinh tế y dựng chưa phát triển, đô thị hóa còn thấp, nhưng các
công trình được xây dựng đều theo quy hoạch cụ thể như: Khu công nghiệp, khu nhà ở
công nhân, khu chung cư trong đô thị hay công trình cải tạo đô thị.
Thời k này kiến trúc ở cả 2 miền đều xuất phát từ yêu cầu thực tế khách quan,
luôn chú trọng khai thác kiến trúc dân gian. Kiến trúc, thế phản ảnh đặc thù
khí hậu.
Bị hạn chế về kinh tế, trang thiết bị nên kiến trúc phải đặt mục tiêu thích ứng
“nhằm tạo môi trường tiện nghi tối đa cho con người bằng cách khai thác lợi thế
khí hậu tự nhiên như ánh sáng, gió, khắc phục bất lợi như gió bão, mưa lạnh,
nắng nóng.
Người thiết kế đã chọn các giải pháp như chọn hướng nhà, tổ chức hành lang
bên, thông gió tự nhiên, ánh sáng tự nhiên, sử dụng chi tiết kiến trúc để chắn
nắng mưa, xử mái tường bao che, tiếp cận thiên nhiên, hạn chế nhân tạo, tiết
kiệm năng lượng Phải chăng đây những đặc điểm của kiến trúc xanh đang
hướng tới.
=> Chính kiến trúc thích ng vẻ ngoài bộc lộ hình ảnh kiến trúc của
từng miền, đây được gọi là giai đoạn kiến trúc bản sắc.
Ở miền Bắc, với sự giúp đỡ của các chuyên gia đến từ các nước XHCN, lực lượng thiết
kế quy hoạch nước ta đã bắt đầu triển khai lập các đồ án,trước hết là cải tạo đô thị, sau
đó quy hoạch mở rộng một số đô thị, phát triển các khu công nghiệp lớn. Kiến trúc
được triển khai theo quy hoạch và theo kế hoạch Nhà nước. Kiến trúc được định hướng
phát triển Không thành văn bản, nhưng kiến trúc ở miền Bắc thời kỳ này đã được định
hướng khá rõ ràng, theo chiều hướng “hiện thực XHCN” được biểu lộ ở các góc độ.
lOMoARcPSD|36625228
Tập trung ưu tiên phát triển các công trình công nghiệp phục vụ công nghiệp Các
khu nhà ở tại các khu đô thị theo hình tiểu khu nhà ở đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật,
hạ tầng xã hội với các loại công trình nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, trạm y tế, dịch vụ
tối thiểu…
Hệ thống các công trình phúc lợi dần được xây dựng từ trung ương tới địa phương. =>
Kiến trúc phục vụ kinh tế, phục vụ quảng đại nhân dân biểu thị tính ưu việt của
chế độ, thể hiện rõ tính nhân văn.
Ngoài những điểm chung về bối cảnh xã hội, các tác động ảnh hưởng đến kiến trúc xây
dựng, mục tiêu xây dựng miền Nam có những nét riêng, nên các công trình chủ yếu
tập trung các đô thị lớn, các khu quân sự phạm vi sử dụng giới hạn. Do đó,
miền Nam những nét riêng, nên các công trình chủ yếu tập trung các đô thị lớn,
các khu quân sự phạm vi sử dụng có giới hạn. Do đó, ở miền Nam, công trình có quy
mô lớn hơn ở miền Bắc, được đầu tư khá hơn, có đầu tư đa thành phần, có điều kiện kỹ
lOMoARcPSD|36625228
thuật công nghiệp, nguyên liệu thuận lợi nên chất lượng cũng tốt hơn. Chức năng của
công trình cũng đa dạng và thiên về dịch vụ.
Điều đáng ghi nhận ở kiến trúc thời kỳ nàyngoài các loại công trình phong phú như
công sở, nhiều khu nhà cao cấp, biệt thự, khách sạn nghỉ mát, nhà trường, khu vui chơi
giải trí lớn, các trường đại học… Điểm đặc biệt là đã có kiến trúc cao tầng (9-11 tầng)
với thang máy và công nghệ - điều hoà không khí.
lOMoARcPSD|36625228
Cũng do ảnh hưởng của phương Tây, kiến trúc miền Nam theo xu hướng hiện đại, thực
dụng, công năng các nhà thiết kế quan tâm đến khí hậu nên kiến trúc tạo được đặc
thù nhiệt đới.
LỜI KẾT
Trân trọng quá khứ là nét đẹp của dân tộc ta. Nhà nước cũng đã chủ trương gìn giữ
những công trình Kiến trúc được y dựng trong thời kỳ người Pháp thống trị, không
câu nệ công trình từng công cụ bóc lột đàn áp dân tộc ta một thời, song cũng
không vì thế mà máy móc cái gì cũng giữ. Đó là cách nhìn tôn trọng quá khứ, tôn trọng
di sản, biết chọn lọc, làm phong phú và liên tục cầu nối của chiều dài Việt Nam đô thị
hóa. Với tinh thần ấy, chắc chắn những công trình tiêu biểu của giai đoạn 1954 – 1986,
nhiều người vẫn gọi của Thời đại Hồ Chí Minh, trong tình cảm của người dân
Thủ đô càng sâu nặng biết chừng nào.
Ba mươi m ấy, với Kiến trúc thực sự chuỗi thời gian đầy bất trắc biến động,
nhưng lại cũng đầy thử thách khám phá, qua đó hình thành một Nền kiến trúc
Việt Nam mới, vững vàng cho tới hôm nay Những công trình Kiến trúc, mà hình ảnh
đã đi cùng với bài ca chiến thắng cũng như gắn với sự gan góc hy sinh của một dân tộc.
| 1/37

Preview text:

lOMoARcPSD| 36625228
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 - 1986
Nội dung 1: Tổng quan về lịch sử
Giai đoạn 1954 - 1975:
- Với việc ký kết hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành
hai miền, với 2 chế độ chính trị khác nhau: *
Miền Bắc tiến vào giai đoạn giải phóng , cuộc cách mạng dân tộc
hoànthành, tọa điều kiện cho miền Bắc tiến vào thời kì phát triển *
Ở miền Nam, nước Mỹ vào cuộc thay nước Pháp với âm mưu chia
cắt lâudài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
=> Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở 2 miền: cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, tiến tới thống nhất đất nước.

Miền Bắc giai đoạn 1954 - 1975:
- Thời kỳ khôi phục kinh tế.
- Thời kỳ cải tạo và phát triển kinh tế.
- Các công trình chủ yếu được xây dựng trong thời kì này là nhà ở, nhà
côngnghiệp và nhà công cộng, các công trình chịu ảnh hưởng rõ rệt của kiến trúc Liên Xô – XHCN
Những năm 1954 - 1975, cả miền Bắc như một đại công trường sôi động, nhiều
công trình được xây dựng với hình thức đơn giản, trong sáng phù hợp với đặc
điểm văn hóa – xã hội và khí hậu của đất nước và định hình phong cách kiến trúc
hiện đại XHCN Việt Nam. lOMoARcPSD| 36625228
Miền Nam giai đoạn 1954 - 1975:
- Thời kì giải phóng miền Nam.
- Thời kì do Mỹ nắm quyền.
- Nhờ các chuyên gia nước ngoài, các vùng được quy hoạch lại, các công
trìnhhành chính, văn hóa, giáo dục được xây dựng với quy mô khác nhau tại
thành phố, thị xã, quận thể hiện sự hiện diện và nắm quyền của bộ máy ngụy quyền. lOMoARcPSD| 36625228
BỐI CẢNH GIAI ĐOẠN 1975 - 1986:
- Không còn nhiều sự viện trợ từ nước ngoài, phải tự trau dồi, tìm hiểu kiếnthức
và phát triển các phương pháp, kỹ thuật xây dựng.
- Được sự giúp đỡ từ chuyên gia các nước XHCN viện trợ để phục hồi cơ sở
vậtchất sau chiến tranh và xây dựng mới hệ thống công trình phúc lợi xã hội dân sinh ở cả 2 miền.
=> Kiến trúc xây dựng thời kì này vẫn ở trạng thái tiết kiệm.
- Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn, với xu hướng kiến trúc hiện đại, giản dịvà
thực dụng, các kiến trúc sư Việt Nam vẫn tự tin vươn ra quốc tế và đạt nhiều giải thưởng cao quý. lOMoARcPSD| 36625228 lOMoARcPSD| 36625228
NỘI DUNG 2: CÁC ĐẶC ĐIỂM VÀ DI TÍCH NỔI BẬT QUY HOẠCH:
Dựa trên cơ sở của nền kinh tế kế hoạch tập trung và đất đai thuộc sở hữu nhà
nước, miền Bắc tiếp thu các nguyên lý về quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch
chung và quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị của các nước XHCN. Từ đó cho ra
đời những đồ án quy hoạch của 20 thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định,
Vinh,… Trên cơ sở đỏ đó chung ta xác định địa điểm xây dựng cho hàng trăm
hạng mục công trình quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. lOMoARcPSD| 36625228
Các phương pháp nghiên cứu và phát triển hầu hết được học tập từ Liên Xô cũ
cùng với đó là sự trợ giúp từ các chuyên gia của Liên Xô cũ nên Việt Nam có nét
quy hoạch tương đối giống Liên Xô. lOMoARcPSD| 36625228 lOMoARcPSD| 36625228
Ở miền Nam, quy hoạch xây dựng đô thị phát triển với những đặc điểm khác nhau
theo 2 giai đoạn: thời kỳ tái thiết tương đối ổn định ( 1954 - 1963) và thời kì phát
triển nhanh, đa dạng nhưng thiếu ổn định (1964 - 1975).
(Quy hoạch thành phố Sài Gòn 1978) lOMoARcPSD| 36625228
(Quy hoạch thành phố Buôn Mê Thuột)
Nhìn chung bộ mặt đô thị có những thay đổi lớn về quy mô đồng thời cũng phát
sinh nhiều mâu thuẫn và chênh lệch xã hội. Các kiến trúc sư miền Nam cùng sự
hỗ trợ của Mỹ đã đề xuất nhiều phương án quy hoạch mở rộng Sài Gòn và các đô thị khác từ 1966. lOMoARcPSD| 36625228
(Đề xuất đề án chỉnh trang Sài Gòn – chợ lớn 1960)
Tuy nhiên do chiến tranh kéo dài nên nhiều chương trình xây dựng đô thị đã
không thể trở thành hiện thực. Dù vậy nhưng chúng cũng hàm chứa giá trị chuyên
môn nhất định, thể hiện lối tư duy quy hoạch sau này.
Sau ngày thống nhất, nước ta có 2 hệ thống đô thị với các động lực và yếu tố tạo thị khác nhau.
Các đô thị miền Nam với nhiều nhà cửa, kho tàng khu công nghiệp, cơ sở sản
xuất kinh doanh , dịch vụ ,hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng gần như còn nguyên lOMoARcPSD| 36625228
vẹn khi chiến tranh kết thúc, nay cần được chỉnh trang và chuyển đổi sang cơ chế quản lý mới.
Ở miền Nam, tổ chức không gian quy hoạch đô thị có những bước đi theo hướng
quốc tế do tiếp thu và vận dụng hệ thống nguyên lý quy hoạch xây dựng tương
đối hoàn chỉnh từ quy hoạch vùng, quy hoạch chung đến quy hoạch chi tiết.
(Quy hoạch thành phố Sài Gòn theo phương pháp luận Roger Trancik)
Thực tế phát triển đô thị thời gian này đã nổi rõ hai chiều hướng trái ngược nhau:
chiều hướng vĩ mô, dài hạn, mang tính dự báo đầy lạc quan và chiều hướng ngắn
hạn, cụ thể nhằm đáp ứng những nhu cầu trước mắt. Dù theo chiều hướng nào thì
kết quả vẫn là quá trình đô thị hóa đã diễn ra một cách chậm chạp, thậm chí suy giảm. lOMoARcPSD| 36625228
(Thành phố Sài Gòn)
CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG:
- Giai đoạn 1954-1986: Là giai đoạn miền Bắc (và sau năm 1975 là cả nước)
xây dựng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Ðặc trưng của xã hội (XH) giai đoạn
này là nền kinh tế bao cấp, phát triển theo kế hoạch. Dựa vào bối cảnh
chính trị - xã hội có thể chia giai đoạn này thành 3 giai đoạn phát triển khác nhau.
- Giai đoạn 1954-1965: Miền Bắc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5
năm lần thứ nhất. Nhiều khu nhà ở kiểu tập thể bắt đầu được xây dựng như lOMoARcPSD| 36625228
khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Văn Chương, v.v. Các công trình thời kỳ
này vẫn còn chịu ảnh hưởng từ kiến trúc Pháp và Trung Quốc.
- Giai đoạn 1965-1975: Giai đoạn chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc.
Các bộ phận sản xuất, các cơ quan hành chính của Hà Nội đa phần đều
được sơ tán, vì thế cũng không có điều kiện xây dựng nhiều.
- Giai đoạn 1975-1986: Kết thúc chiến tranh, đất nước thống nhất. Giai
đoạn này chính là giai đoạn mà kiến trúc Xô Viết có ảnh hưởng nhiều đến
kiến trúc Hà Nội. Ðây cũng là khoảng thời gian các công trình công cộng
tiêu biểu của Tp được xây dựng.
Về phong cách kiến trúc và không gian của các công trình thời kỳ này rất dễ
nhận biết. Đó là những hình khối hiện đại, vuông vức, đặc trưng cho kiến trúc
hiện đại, mái bằng với các yếu tố nhiệt đới hóa rất dễ nhận biết như tường hoa bê
tông, các hệ lam chắn nắng, mái đua rộng…;
Về vật liệu xây dựng, công nghệ xây dựng: Đây cũng là yếu tố khá nổi bật và
rất dễ nhận diện của các công trình thời kỳ này. Có thể thấy vai trò của công nghệ
cơ giới hóa và sự xuất hiện nhiều hơn của bê tông cốt thép, vật liệu đặc trưng của lOMoARcPSD| 36625228
phong cách Hiện đại phương Tây và sự chừng mực trong sử dụng vật liệu kính
cũng như kim loại. Do đó, tuổi thọ của các công trình lâu hơn rất nhiều so với các
công trình thuộc thời kỳ trước đây với kết cấu gạch, gỗ. Nhiều công trình có mặt
đứng được ốp đá rửa màu trắng hoặc xám trắng, rất đặc trưng cho cách xử lý vật
liệu bề mặt công trình công cộng thời kỳ hậu chiến và tiền đổi mới;
Về văn hóa và thẩm mỹ: Đây là thời điểm mà tính cộng đồng đang được tôn vinh,
tinh thần lạc quan cách mạng cũng như niềm hy vọng về tương lai tốt đẹp của
một chế độ xã hội mới trên đà phát triển mạnh mẽ đang lên đến đỉnh điểm. Rất
nhiều công trình ở thời kỳ này không chỉ mang yếu tố công năng, mỹ thuật mà
còn mang tính biểu tượng rất cao. *Bảo tàng Việt Bắc:
Nằm ở trung tâm thành phố Thái Nguyên với diện tích 2000m2, đây là nhà bảo tàng lớn
với 5 khối trưng bày nối liền nhau bằng hành lang và tiền sảnh, tạo ra những khoảng
sân trong trồng hoa thoáng mát. Lợi dụng khu đất cao hơn mặt đường trên dưới 5m để
tạo ra một sân trước bề thế. Trước khối kiến trúc chính giữa, tác giả đã nâng cao các
phòng trưng bày trên một tầng hầm làm cho toàn cảnh sang trọng với những hình khối phong phú. lOMoARcPSD| 36625228 *Cung thiếu nhi:
Cung thiếu nhi Hà Nội nằm trên con phố Lý Thái Tổ có tổng diện tích 8100m2 với tòa
nhà Pháp cổ và một công trình thuộc kiểu kiến trúc Xô Viết – 2 loại công trình rất phổ
biến và đặc trưng ở Hà Nội. lOMoARcPSD| 36625228 lOMoARcPSD| 36625228
Tại miền Nam, so với thời gian trước thì hoàn cảnh chính trị của thời gian này đã tạo
điều kiện cho sự phát triển nhiều cơ quan hành chính, văn hóa, giáo dục đã được xây
dựng. Các cơ quan hành chính của bộ máy ngụy quyền được xây dựng với quy mô khác
nhau ở các thành phố, thị xã cũng như ở cấp quận. Đặc biệt chú là dinh độc lập – công
trình mang nét đẹp kết hợp của phương tây và phương Đông, thể hiện nét đặc trưng của kiến trúc miền Nam.
(Hình ảnh cấu trúc cũ của Dinh Độc Lập trên báo Le Monde của Pháp số ra 23 tháng 2 năm 1884) lOMoARcPSD| 36625228
(Chi tiết đầu rồng trang trí mặt nhà)
(Những bức phù điêu dưới ô cửa sổ mang phong cách kiến trúc Á Đông) lOMoARcPSD| 36625228
Khu nhà chính chữ T diện tích mặt bằng là 4500m2, cao 26m, nằm ở vị trí trung
tâm khu đất. Tổng diện tích sử dụng là 20000m2 chia làm 95 phòng. Mỗi phòng
có một chức năng riêng, kiến trúc và cách trang trí phù hợp với mục đích sử dụng
của mỗi phòng. Sau 1975, khu nhà chính này tiếp tục được sử dụng một số
phòng, còn lại để phục vụ du khách thăm quan. lOMoARcPSD| 36625228
Toàn thể bình diện của dinh làm thành hình chữ CÁT có nghĩa là tốt lành, may
mắn. Tâm của Dinh là vị trí phòng trình quốc thư, Lầu thượng là tứ phương vô
sự lầu hình chữ KHẨU để đề cáo giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU
có cột cờ chính giữa số dọc tạo thành hình chữ TRUNG như nhắc nhở muốn có
dân chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương,
bao lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM, theo
quan niệm dân chủ hữu tam viết nhân, viết minh, viết võ, ý muốn một đất nước
hưng thịnh thì phải có những con người đủ 3 yếu tố NHÂN, MINH, VÕ. Ba nét
gạch ngang được nối liền nét sổ dọc tạo thành chữ VƯƠNG, trên có kỳ đài làm
thành nét chấm tạo thành hình chữ CHỦ tưởng trưng cho chủ quyền đất nước.
Mặt trước của dinh thự tạo thành chữ HƯNG, ý cầu cho nước nhà được hưng thịnh, phát đạt. lOMoARcPSD| 36625228 NHÀ Ở:
Các tiểu khu nhà ở tạo dựng bộ mặt kiến trúc mới cho Thủ đô Hà Nội. Mô hình
tiểu khu nhà ở theo kiểu XHCN có những đặc điểm khá tương đồng với lối sống
truyền thống của người Việt và có nhiều ưu điểm so với điều kiện bối cảnh Việt Nam giai đoạn này.
Dựa vào một số đặc điểm luận án đã phân loại nhà ở thời kỳ này theo một số dạng điển hình sau:
- Phân loại theo tầng cao: Có 2 loại là nhà ở thấp tầng (dưới 2 tầng) và nhà
ở có tầng cao trung bình (4-5 tầng).
- Phân loại theo kiểu hành lang: Có 4 loại là không có hành lang, hành lang
bên, hành lang giữa và đơn nguyên.
- Phân loại theo cấu trúc căn hộ: Có 4 loại là kiểu chia gian, căn hộ chung
bếp và wc, căn hộ khép kín hành lang bên và căn hộ khép kín hoàn chỉnh. lOMoARcPSD| 36625228
Suất đầu tư thấp, vật liệu xây dựng hoàn thiện khan hiếm, thiếu nhiều trang thiết
bị nên phương châm thiết kế lúc đó, đồng thời cũng là mục tiêu chất lượng công
trình “thích dụng, bền vững, kinh tế, đẹp trong điều kiện có thể”
=> Từ đó, kiến trúc, trước hết phải đáp ứng giá trị sử dụng (chỉ đạt tới cấp
1 và 2 trong khi các nước phát triển đã đạt tới mức 3, 4 và 5) cho nên có thể
coi kiến trúc XHCN ở miền Bắc là “ kiến trúc công năng”.
lOMoARcPSD| 36625228
(Tháp nhu cầu của A.H.Maslơ) lOMoARcPSD| 36625228
Xuất hiện những khu tập thể từ 4 đến 5 tầng với sự hỗ trợ kỹ thuật từ bắc Triều Tiên.
Giai đoạn 1975-1986 với những khu tập có dáng vẻ hiện đại hơn, độc lập hơn với những
công trình phụ khép kín như Trung tự, Thành công, Bách Khoa ,…
Các khu nhà tập thể có kiến trúc đơn giản, theo hình thức đơn nguyên, những các hộ
dùng chung bếp và vệ sinh. Kết cấu công trình dùng tường gạch chịu lực hoặc panen
tấm nhỏ, sàn panen hộp, nền lát gạch xi măng hoa hay xi măng nâu, mái ngói có sê nô n.
Phân loại theo phương pháp thi công: Có 2 loại là xây gạch kết hợp tấm sàn BTCT và lắp ghép panel BTCT.
Nhận xét về kiến trúc nhà ở tại Hà Nội giai đoạn 1954-1986:
Chú trọng phát triển nhà ở kiểu chung cư. Ðều là những công trình thấp tầng (từ 5 tầng
trở xuống). Mẫu nhà ở được thiết kế điển hình không đa dạng.Căn hộ được thiết kế điển
hình với mức giản lược nhất. Vật liệu xây dựng chủ yếu là vật liệu địa phương, BTCT
bắt đầu được đưa vào sử dụng phổ biến trong xây dựng. Vật liệu trang trí còn đơn giản,
nghèo chất liệu. Bố cục kiến trúc ngay ngắn có nhịp điệu. Hình thức đơn giản, hiện đại,
phù hợp cấu trúc kết cấu. Phù hợp với điều kiện khí hậu, phong tục tập quán của người lOMoARcPSD| 36625228
Việt. Các KTT mới đã tạo dựng được bộ mặt mới, hiện đại cho kiến trúc Hà Nội thời kỳ bấy giờ.
Tiếp thu mô hình bao cấp nhà ở từ Liên Xô, sau một thời gian thử nghiệm, năm 1980,
Bộ xây dựng đã cho triển khai áp dụng công nghệ xây nhà bằng tấm bê tông lớn tại khu
Thanh Xuân Bắc, Hà Nội và ở một vài tỉnh lân cận các nhà máy bê tông tấm lớn cũng
bắt đầu đi vào hoạt động lOMoARcPSD| 36625228
Cùng lúc này, ngành xây dựng Hà Nội đã đề xuất mẫu nhà với tấm bê tông được sản
xuất theo phương pháp “polygon” nhẹ hơn, cơ động hơn nên trên thực tế đã lắp dừng
được một khối lượng nhà đáng kể trong một thời gian tương đối ngắn
Ngoài công nghệ tấm lớn, bằng biện pháp xây dựng thủ công quen thuộc, nhiều khu nhà
mới hoặc khu xen cấy đã được xây dựng ở các tỉnh, thành phố suốt từ Bắc vào Nam,
trong đó có những khu nhà dành cho công nhân cũng có được đã có một vài thử nghiệm
số công nghệ mới như kích nông sàn, cốp- pha trượt,...
Những năm 1954 - 1965, vấn đề về nhà ở là một trong những vấn đề nan giải ở các
thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng.
Ở đây, khả năng xây dựng bằng bê tông cốt sắt đúc tại chỗ, không lắp ghép các cấu kiện
đúc sẵn đã tạo kiều kiện tốt để dựng nhiều kiểu nhà khác nhau. Trong hoàn cảnh thuận
lợi của khí hậu, người ta không bị gò bó nhiều trong việc bố trí các ngôi nhà cũng như
việc sắp xếp các phòng trong căn hộ và các căn hộ khác nhau trong một tòa nhà. Tuy
nhiên cách sắp xếp thường là 2 toàn nhà mẫu “D” ốp lưng vào nhau, cách khoảng 3m.
Tuy tiện nghi nhưng lại tạo ra một giếng trời bất đắc dĩ và bất tiện trong việc đóng mở cửa sổ phía sau. lOMoARcPSD| 36625228
Tới giai đoạn sau giải phóng, tại miền Nam, xã hội cũ để lại một quỹ nhà ở quá nghèo
nàn khiến cho khi bắt tay xây dựng các thành phố sau giải phóng, nhà nước đã phải
dành những cố gắng lớn cho công cuộc phát triển nhà ở. Xây dựng nhiều nhất nhất là
các khu nhà 1 tầng hoặc 2 tầng.
Đây là những ngôi nhà được xây dựng tạm thời (nhà tạm) có kết cấu bằng gạch hoặc
khung gỗ, tường chèn gạch, mái ngói. Công trình gồm những phòng lớn xếp song song.
Các khu nhà tập thể có kiến trúc đơn giản, theo hình thức đơn nguyên, những các hộ
dùng chung bếp và vệ sinh. Kết cấu công trình dùng tường gạch chịu lực hoặc panen
tấm nhỏ, sàn panen hộp, nền lát gạch xi măng hoa hay xi măng nâu, mái ngói có sê nô
(tương tự với kiến trúc ktt tại miền Bắc). lOMoARcPSD| 36625228
CÔNG TRÌNH CÔNG NGHIỆP:
Việc xây dựng kiến trúc công nghiệp và đưa vào sử dụng các khu công nghiệp cho Hà
Nội khoảng thời gian này đánh dấu những bước quan trọng với sự cố gắng của Nhà
nước đối với quá trình công nghiệp hóa thủ đô.
Về mặt kiến trúc, nội thất nhà máy có những nét đáng chú ý tạo nên được không khí
“công nghiệp”, một vẻ đẹp tạo nên do hệ thống dầm tầng, cầu chạy và máy móc bố trí
theo dây chuyền, một vẻ đẹp “tự than”, tuy vậy vấn đề hình thức kiến trúc sao cho phù
hợp với điều kiện nhiệt đới là vấn đề còn tồn tại. lOMoARcPSD| 36625228 lOMoARcPSD| 36625228
CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG:
Trong kế hoạch 5 năm, kiến trúc cầu đã có những tiến bộ rõ rệt, phù hợp với yêu cầu
giao thông vận tải ngày càng phát triển. Hàng chục cây cầu lớn, hang tram cây cầu lớn
nhỏ được xây dựng mới.
Giai đoạn 1964 – 1975 là giai đoạn đảm bảo giao thông chống chiến tranh phá hoại
miền Bắc và chi viện cho giải phóng miền Nam. Các nhà khoa học và đội ngũ thợ cầu
Việt Nam đã có những sáng tạo có thể nói là kỳ diệu trong việc nghiên cứu thiết kế và
xây dựng thành công những cây cầu mà kết cấu đặc biệt của chúng có thể nói là “vô
tiền khoáng hậu” trong lịch sử.
Các cây cầu hầu hết được xây dựng ở miền bắc nhằm đảm bảo đường giao thông liền
mạch với miền Nam. Được áp dụng chủ yếu từ kỹ thuật của các kiến trúc sư Đông
Dương để tạo nên các cây cầu có kết cấu dàn thép và cột bê tông có nét đẹp công nghiệp đặc trưng. lOMoARcPSD| 36625228
Cầu Hàm Rồng khánh thành ngày 19-5-1964 do Việt thiết kế với sự giúp đỡ của chuyên
gia nước ngoài. Cầu làm cho đường xe lửa một làn, ô tô 2 làn , người đi bộ có lối đi
riêng. Cầu dầm liên tục thép dàn hoa, không dùng hình thức một vòm khẩu độ 160m,
mặc dù có thể mỹ quan hơn, những xét về mặt kết hợp kinh tế với quốc phòng, đã chọn
vòm khẩu độ 80m. Thi công lao dầm bằng phương pháp lắp hẫng. Trụ móng bằng cột
bê tông cốt thép đúc sẵn, đường kính 1,55, thi công trụ bằng các máy chấn động, hạ cột qua tầng đất phủ. lOMoARcPSD| 36625228 Cầu Long Biên: lOMoARcPSD| 36625228
NỘI DUNG 3: Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ lOMoARcPSD| 36625228
Giá trị kiến trúc Giai đoạn 1954 – 1986 là giai đoạn đất nước gặp nhiều khó khăn, đặc
biệt là về phát triển kinh tế. Công trình kiến trúc được xây dựng thời kỳ này suất đầu tư
thấp, không đa dạng về thể loại, quy mô không lớn, nhưng không phải không có thành
quả. Giá trị cao nhất là đã đáp ứng được nhu cầu của xã hội lúc bấy giờ. Giá trị của kiến
trúc giai đoạn 1954 - 1986 thể hiện ở một số khía cạnh sau: Kiến trúc được xây dựng
theo quy hoạch Tuy kinh tế xây dựng chưa phát triển, đô thị hóa còn thấp, nhưng các
công trình được xây dựng đều theo quy hoạch cụ thể như: Khu công nghiệp, khu nhà ở
công nhân, khu chung cư trong đô thị hay công trình cải tạo đô thị.
Thời kỳ này kiến trúc ở cả 2 miền đều xuất phát từ yêu cầu thực tế khách quan,
luôn chú trọng khai thác kiến trúc dân gian. Kiến trúc, vì thế phản ảnh rõ đặc thù khí hậu.
Bị hạn chế về kinh tế, trang thiết bị nên kiến trúc phải đặt mục tiêu “ thích ứng
“nhằm tạo môi trường tiện nghi tối đa cho con người bằng cách khai thác lợi thế
khí hậu tự nhiên như ánh sáng, gió, khắc phục bất lợi như gió bão, mưa lạnh, nắng nóng.
Người thiết kế đã chọn các giải pháp như chọn hướng nhà, tổ chức hành lang
bên, thông gió tự nhiên, ánh sáng tự nhiên, sử dụng chi tiết kiến trúc để chắn
nắng mưa, xử lý mái tường bao che, tiếp cận thiên nhiên, hạn chế nhân tạo, tiết
kiệm năng lượng – Phải chăng đây là những đặc điểm của kiến trúc xanh đang hướng tới.
=> Chính vì kiến trúc thích ứng mà vẻ ngoài bộc lộ rõ hình ảnh kiến trúc của
từng miền, đây được gọi là giai đoạn kiến trúc bản sắc.
Ở miền Bắc, với sự giúp đỡ của các chuyên gia đến từ các nước XHCN, lực lượng thiết
kế quy hoạch nước ta đã bắt đầu triển khai lập các đồ án,trước hết là cải tạo đô thị, sau
đó là quy hoạch mở rộng một số đô thị, phát triển các khu công nghiệp lớn. Kiến trúc
được triển khai theo quy hoạch và theo kế hoạch Nhà nước. Kiến trúc được định hướng
phát triển Không thành văn bản, nhưng kiến trúc ở miền Bắc thời kỳ này đã được định
hướng khá rõ ràng, theo chiều hướng “hiện thực XHCN” được biểu lộ ở các góc độ. lOMoARcPSD| 36625228
Tập trung ưu tiên phát triển các công trình công nghiệp và phục vụ công nghiệp Các
khu nhà ở tại các khu đô thị theo mô hình tiểu khu nhà ở đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật,
hạ tầng xã hội với các loại công trình nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, trạm y tế, dịch vụ tối thiểu…
Hệ thống các công trình phúc lợi dần được xây dựng từ trung ương tới địa phương. =>
Kiến trúc phục vụ kinh tế, phục vụ quảng đại nhân dân biểu thị tính ưu việt của
chế độ, thể hiện rõ tính nhân văn.

Ngoài những điểm chung về bối cảnh xã hội, các tác động ảnh hưởng đến kiến trúc xây
dựng, mục tiêu xây dựng ở miền Nam có những nét riêng, nên các công trình chủ yếu
tập trung ở các đô thị lớn, các khu quân sự và phạm vi sử dụng có giới hạn. Do đó, ở
miền Nam có những nét riêng, nên các công trình chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn,
các khu quân sự và phạm vi sử dụng có giới hạn. Do đó, ở miền Nam, công trình có quy
mô lớn hơn ở miền Bắc, được đầu tư khá hơn, có đầu tư đa thành phần, có điều kiện kỹ lOMoARcPSD| 36625228
thuật – công nghiệp, nguyên liệu thuận lợi nên chất lượng cũng tốt hơn. Chức năng của
công trình cũng đa dạng và thiên về dịch vụ.
Điều đáng ghi nhận ở kiến trúc thời kỳ này là ngoài các loại công trình phong phú như
công sở, nhiều khu nhà cao cấp, biệt thự, khách sạn nghỉ mát, nhà trường, khu vui chơi
giải trí lớn, các trường đại học… Điểm đặc biệt là đã có kiến trúc cao tầng (9-11 tầng)
với thang máy và công nghệ - điều hoà không khí. lOMoARcPSD| 36625228
Cũng do ảnh hưởng của phương Tây, kiến trúc miền Nam theo xu hướng hiện đại, thực
dụng, công năng và các nhà thiết kế quan tâm đến khí hậu nên kiến trúc tạo được đặc thù nhiệt đới. LỜI KẾT
Trân trọng quá khứ là nét đẹp của dân tộc ta. Nhà nước cũng đã có chủ trương gìn giữ
những công trình Kiến trúc được xây dựng trong thời kỳ người Pháp thống trị, không
câu nệ dù công trình từng là công cụ bóc lột và đàn áp dân tộc ta một thời, song cũng
không vì thế mà máy móc cái gì cũng giữ. Đó là cách nhìn tôn trọng quá khứ, tôn trọng
di sản, biết chọn lọc, làm phong phú và liên tục cầu nối của chiều dài Việt Nam đô thị
hóa. Với tinh thần ấy, chắc chắn những công trình tiêu biểu của giai đoạn 1954 – 1986,
mà nhiều người vẫn gọi là của Thời đại Hồ Chí Minh, trong tình cảm của người dân
Thủ đô càng sâu nặng biết chừng nào.
Ba mươi năm ấy, với Kiến trúc thực sự là chuỗi thời gian đầy bất trắc và biến động,
nhưng lại cũng đầy thử thách và khám phá, qua đó mà hình thành một Nền kiến trúc
Việt Nam mới, vững vàng cho tới hôm nay – Những công trình Kiến trúc, mà hình ảnh
đã đi cùng với bài ca chiến thắng cũng như gắn với sự gan góc hy sinh của một dân tộc.