




































Preview text:
  lOMoARcPSD| 36625228    
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN  1945 - 1986 
Nội dung 1: Tổng quan về lịch sử 
Giai đoạn 1954 - 1975: 
- Với việc ký kết hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành 
hai miền, với 2 chế độ chính trị khác nhau:  * 
Miền Bắc tiến vào giai đoạn giải phóng , cuộc cách mạng dân tộc 
hoànthành, tọa điều kiện cho miền Bắc tiến vào thời kì phát triển  * 
Ở miền Nam, nước Mỹ vào cuộc thay nước Pháp với âm mưu chia 
cắt lâudài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ  quân sự của Mỹ. 
=> Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở 2 miền: cách mạng xã 
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền 
Nam, tiến tới thống nhất đất nước. 
Miền Bắc giai đoạn 1954 - 1975: 
- Thời kỳ khôi phục kinh tế. 
- Thời kỳ cải tạo và phát triển kinh tế. 
- Các công trình chủ yếu được xây dựng trong thời kì này là nhà ở, nhà 
côngnghiệp và nhà công cộng, các công trình chịu ảnh hưởng rõ rệt của kiến  trúc Liên Xô – XHCN 
Những năm 1954 - 1975, cả miền Bắc như một đại công trường sôi động, nhiều 
công trình được xây dựng với hình thức đơn giản, trong sáng phù hợp với đặc 
điểm văn hóa – xã hội và khí hậu của đất nước và định hình phong cách kiến trúc 
hiện đại XHCN Việt Nam.       lOMoARcPSD| 36625228    
Miền Nam giai đoạn 1954 - 1975: 
- Thời kì giải phóng miền Nam. 
- Thời kì do Mỹ nắm quyền. 
- Nhờ các chuyên gia nước ngoài, các vùng được quy hoạch lại, các công 
trìnhhành chính, văn hóa, giáo dục được xây dựng với quy mô khác nhau tại 
thành phố, thị xã, quận thể hiện sự hiện diện và nắm quyền của bộ máy ngụy  quyền.      lOMoARcPSD| 36625228    
BỐI CẢNH GIAI ĐOẠN 1975 - 1986: 
- Không còn nhiều sự viện trợ từ nước ngoài, phải tự trau dồi, tìm hiểu kiếnthức 
và phát triển các phương pháp, kỹ thuật xây dựng. 
- Được sự giúp đỡ từ chuyên gia các nước XHCN viện trợ để phục hồi cơ sở 
vậtchất sau chiến tranh và xây dựng mới hệ thống công trình phúc lợi xã hội dân  sinh ở cả 2 miền. 
 => Kiến trúc xây dựng thời kì này vẫn ở trạng thái tiết kiệm. 
- Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn, với xu hướng kiến trúc hiện đại, giản dịvà 
thực dụng, các kiến trúc sư Việt Nam vẫn tự tin vươn ra quốc tế và đạt nhiều  giải thưởng cao quý.      lOMoARcPSD| 36625228         lOMoARcPSD| 36625228    
NỘI DUNG 2: CÁC ĐẶC ĐIỂM VÀ DI TÍCH NỔI BẬT  QUY HOẠCH: 
Dựa trên cơ sở của nền kinh tế kế hoạch tập trung và đất đai thuộc sở hữu nhà 
nước, miền Bắc tiếp thu các nguyên lý về quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch 
chung và quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị của các nước XHCN. Từ đó cho ra 
đời những đồ án quy hoạch của 20 thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, 
Vinh,… Trên cơ sở đỏ đó chung ta xác định địa điểm xây dựng cho hàng trăm 
hạng mục công trình quan trọng cho nền kinh tế quốc dân.      lOMoARcPSD| 36625228    
Các phương pháp nghiên cứu và phát triển hầu hết được học tập từ Liên Xô cũ 
cùng với đó là sự trợ giúp từ các chuyên gia của Liên Xô cũ nên Việt Nam có nét 
quy hoạch tương đối giống Liên Xô.      lOMoARcPSD| 36625228         lOMoARcPSD| 36625228    
Ở miền Nam, quy hoạch xây dựng đô thị phát triển với những đặc điểm khác nhau 
theo 2 giai đoạn: thời kỳ tái thiết tương đối ổn định ( 1954 - 1963) và thời kì phát 
triển nhanh, đa dạng nhưng thiếu ổn định (1964 - 1975).   
(Quy hoạch thành phố Sài Gòn 1978)      lOMoARcPSD| 36625228    
(Quy hoạch thành phố Buôn Mê Thuột) 
Nhìn chung bộ mặt đô thị có những thay đổi lớn về quy mô đồng thời cũng phát 
sinh nhiều mâu thuẫn và chênh lệch xã hội. Các kiến trúc sư miền Nam cùng sự 
hỗ trợ của Mỹ đã đề xuất nhiều phương án quy hoạch mở rộng Sài Gòn và các đô  thị khác từ 1966.      lOMoARcPSD| 36625228    
(Đề xuất đề án chỉnh trang Sài Gòn – chợ lớn 1960) 
Tuy nhiên do chiến tranh kéo dài nên nhiều chương trình xây dựng đô thị đã 
không thể trở thành hiện thực. Dù vậy nhưng chúng cũng hàm chứa giá trị chuyên 
môn nhất định, thể hiện lối tư duy quy hoạch sau này. 
Sau ngày thống nhất, nước ta có 2 hệ thống đô thị với các động lực và yếu tố tạo  thị khác nhau. 
Các đô thị miền Nam với nhiều nhà cửa, kho tàng khu công nghiệp, cơ sở sản 
xuất kinh doanh , dịch vụ ,hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng gần như còn nguyên      lOMoARcPSD| 36625228  
vẹn khi chiến tranh kết thúc, nay cần được chỉnh trang và chuyển đổi sang cơ chế  quản lý mới. 
Ở miền Nam, tổ chức không gian quy hoạch đô thị có những bước đi theo hướng 
quốc tế do tiếp thu và vận dụng hệ thống nguyên lý quy hoạch xây dựng tương 
đối hoàn chỉnh từ quy hoạch vùng, quy hoạch chung đến quy hoạch chi tiết.   
(Quy hoạch thành phố Sài Gòn theo phương pháp luận Roger Trancik) 
Thực tế phát triển đô thị thời gian này đã nổi rõ hai chiều hướng trái ngược nhau: 
chiều hướng vĩ mô, dài hạn, mang tính dự báo đầy lạc quan và chiều hướng ngắn 
hạn, cụ thể nhằm đáp ứng những nhu cầu trước mắt. Dù theo chiều hướng nào thì 
kết quả vẫn là quá trình đô thị hóa đã diễn ra một cách chậm chạp, thậm chí suy  giảm.      lOMoARcPSD| 36625228    
(Thành phố Sài Gòn) 
CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG:   
- Giai đoạn 1954-1986: Là giai đoạn miền Bắc (và sau năm 1975 là cả nước) 
xây dựng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Ðặc trưng của xã hội (XH) giai đoạn 
này là nền kinh tế bao cấp, phát triển theo kế hoạch. Dựa vào bối cảnh 
chính trị - xã hội có thể chia giai đoạn này thành 3 giai đoạn phát triển khác  nhau. 
- Giai đoạn 1954-1965: Miền Bắc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5 
năm lần thứ nhất. Nhiều khu nhà ở kiểu tập thể bắt đầu được xây dựng như      lOMoARcPSD| 36625228  
khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Văn Chương, v.v. Các công trình thời kỳ 
này vẫn còn chịu ảnh hưởng từ kiến trúc Pháp và Trung Quốc. 
- Giai đoạn 1965-1975: Giai đoạn chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc. 
Các bộ phận sản xuất, các cơ quan hành chính của Hà Nội đa phần đều 
được sơ tán, vì thế cũng không có điều kiện xây dựng nhiều. 
- Giai đoạn 1975-1986: Kết thúc chiến tranh, đất nước thống nhất. Giai 
đoạn này chính là giai đoạn mà kiến trúc Xô Viết có ảnh hưởng nhiều đến 
kiến trúc Hà Nội. Ðây cũng là khoảng thời gian các công trình công cộng 
tiêu biểu của Tp được xây dựng.   
Về phong cách kiến trúc và không gian của các công trình thời kỳ này rất dễ 
nhận biết. Đó là những hình khối hiện đại, vuông vức, đặc trưng cho kiến trúc 
hiện đại, mái bằng với các yếu tố nhiệt đới hóa rất dễ nhận biết như tường hoa bê 
tông, các hệ lam chắn nắng, mái đua rộng…; 
Về vật liệu xây dựng, công nghệ xây dựng: Đây cũng là yếu tố khá nổi bật và 
rất dễ nhận diện của các công trình thời kỳ này. Có thể thấy vai trò của công nghệ 
cơ giới hóa và sự xuất hiện nhiều hơn của bê tông cốt thép, vật liệu đặc trưng của      lOMoARcPSD| 36625228  
phong cách Hiện đại phương Tây và sự chừng mực trong sử dụng vật liệu kính 
cũng như kim loại. Do đó, tuổi thọ của các công trình lâu hơn rất nhiều so với các 
công trình thuộc thời kỳ trước đây với kết cấu gạch, gỗ. Nhiều công trình có mặt 
đứng được ốp đá rửa màu trắng hoặc xám trắng, rất đặc trưng cho cách xử lý vật 
liệu bề mặt công trình công cộng thời kỳ hậu chiến và tiền đổi mới; 
Về văn hóa và thẩm mỹ: Đây là thời điểm mà tính cộng đồng đang được tôn vinh, 
tinh thần lạc quan cách mạng cũng như niềm hy vọng về tương lai tốt đẹp của 
một chế độ xã hội mới trên đà phát triển mạnh mẽ đang lên đến đỉnh điểm. Rất 
nhiều công trình ở thời kỳ này không chỉ mang yếu tố công năng, mỹ thuật mà 
còn mang tính biểu tượng rất cao. *Bảo tàng Việt Bắc: 
Nằm ở trung tâm thành phố Thái Nguyên với diện tích 2000m2, đây là nhà bảo tàng lớn 
với 5 khối trưng bày nối liền nhau bằng hành lang và tiền sảnh, tạo ra những khoảng 
sân trong trồng hoa thoáng mát. Lợi dụng khu đất cao hơn mặt đường trên dưới 5m để 
tạo ra một sân trước bề thế. Trước khối kiến trúc chính giữa, tác giả đã nâng cao các 
phòng trưng bày trên một tầng hầm làm cho toàn cảnh sang trọng với những hình khối  phong phú.      lOMoARcPSD| 36625228     *Cung thiếu nhi: 
Cung thiếu nhi Hà Nội nằm trên con phố Lý Thái Tổ có tổng diện tích 8100m2 với tòa 
nhà Pháp cổ và một công trình thuộc kiểu kiến trúc Xô Viết – 2 loại công trình rất phổ 
biến và đặc trưng ở Hà Nội.      lOMoARcPSD| 36625228         lOMoARcPSD| 36625228    
Tại miền Nam, so với thời gian trước thì hoàn cảnh chính trị của thời gian này đã tạo 
điều kiện cho sự phát triển nhiều cơ quan hành chính, văn hóa, giáo dục đã được xây 
dựng. Các cơ quan hành chính của bộ máy ngụy quyền được xây dựng với quy mô khác 
nhau ở các thành phố, thị xã cũng như ở cấp quận. Đặc biệt chú là dinh độc lập – công 
trình mang nét đẹp kết hợp của phương tây và phương Đông, thể hiện nét đặc trưng của  kiến trúc miền Nam. 
(Hình ảnh cấu trúc cũ của Dinh Độc Lập trên báo Le Monde của Pháp số ra 23  tháng 2 năm 1884)      lOMoARcPSD| 36625228    
(Chi tiết đầu rồng trang trí mặt nhà)   
(Những bức phù điêu dưới ô cửa sổ mang phong cách kiến trúc Á Đông)      lOMoARcPSD| 36625228    
Khu nhà chính chữ T diện tích mặt bằng là 4500m2, cao 26m, nằm ở vị trí trung 
tâm khu đất. Tổng diện tích sử dụng là 20000m2 chia làm 95 phòng. Mỗi phòng 
có một chức năng riêng, kiến trúc và cách trang trí phù hợp với mục đích sử dụng 
của mỗi phòng. Sau 1975, khu nhà chính này tiếp tục được sử dụng một số 
phòng, còn lại để phục vụ du khách thăm quan.      lOMoARcPSD| 36625228  
Toàn thể bình diện của dinh làm thành hình chữ CÁT có nghĩa là tốt lành, may 
mắn. Tâm của Dinh là vị trí phòng trình quốc thư, Lầu thượng là tứ phương vô 
sự lầu hình chữ KHẨU để đề cáo giáo dục và tự do ngôn luận. Hình chữ KHẨU 
có cột cờ chính giữa số dọc tạo thành hình chữ TRUNG như nhắc nhở muốn có 
dân chủ thì phải trung kiên. Nét gạch ngang được tạo bởi mái hiên lầu tứ phương, 
bao lơn danh dự và mái hiên lối vào tiền sảnh tạo thành hình chữ TAM, theo 
quan niệm dân chủ hữu tam viết nhân, viết minh, viết võ, ý muốn một đất nước 
hưng thịnh thì phải có những con người đủ 3 yếu tố NHÂN, MINH, VÕ. Ba nét 
gạch ngang được nối liền nét sổ dọc tạo thành chữ VƯƠNG, trên có kỳ đài làm 
thành nét chấm tạo thành hình chữ CHỦ tưởng trưng cho chủ quyền đất nước. 
Mặt trước của dinh thự tạo thành chữ HƯNG, ý cầu cho nước nhà được hưng  thịnh, phát đạt.      lOMoARcPSD| 36625228   NHÀ Ở: 
Các tiểu khu nhà ở tạo dựng bộ mặt kiến trúc mới cho Thủ đô Hà Nội. Mô hình 
tiểu khu nhà ở theo kiểu XHCN có những đặc điểm khá tương đồng với lối sống 
truyền thống của người Việt và có nhiều ưu điểm so với điều kiện bối cảnh Việt  Nam giai đoạn này. 
Dựa vào một số đặc điểm luận án đã phân loại nhà ở thời kỳ này theo một số  dạng điển hình sau: 
- Phân loại theo tầng cao: Có 2 loại là nhà ở thấp tầng (dưới 2 tầng) và nhà 
ở có tầng cao trung bình (4-5 tầng). 
- Phân loại theo kiểu hành lang: Có 4 loại là không có hành lang, hành lang 
bên, hành lang giữa và đơn nguyên. 
- Phân loại theo cấu trúc căn hộ: Có 4 loại là kiểu chia gian, căn hộ chung 
bếp và wc, căn hộ khép kín hành lang bên và căn hộ khép kín hoàn chỉnh.      lOMoARcPSD| 36625228    
Suất đầu tư thấp, vật liệu xây dựng hoàn thiện khan hiếm, thiếu nhiều trang thiết 
bị nên phương châm thiết kế lúc đó, đồng thời cũng là mục tiêu chất lượng công 
trình “thích dụng, bền vững, kinh tế, đẹp trong điều kiện có thể” 
=> Từ đó, kiến trúc, trước hết phải đáp ứng giá trị sử dụng (chỉ đạt tới cấp 
1 và 2 trong khi các nước phát triển đã đạt tới mức 3, 4 và 5) cho nên có thể 
coi kiến trúc XHCN ở miền Bắc là “ kiến trúc công năng”.      lOMoARcPSD| 36625228    
(Tháp nhu cầu của A.H.Maslơ)        lOMoARcPSD| 36625228    
Xuất hiện những khu tập thể từ 4 đến 5 tầng với sự hỗ trợ kỹ thuật từ bắc Triều Tiên. 
Giai đoạn 1975-1986 với những khu tập có dáng vẻ hiện đại hơn, độc lập hơn với những 
công trình phụ khép kín như Trung tự, Thành công, Bách Khoa ,… 
Các khu nhà tập thể có kiến trúc đơn giản, theo hình thức đơn nguyên, những các hộ 
dùng chung bếp và vệ sinh. Kết cấu công trình dùng tường gạch chịu lực hoặc panen 
tấm nhỏ, sàn panen hộp, nền lát gạch xi măng hoa hay xi măng nâu, mái ngói có sê nô  n. 
Phân loại theo phương pháp thi công: Có 2 loại là xây gạch kết hợp tấm sàn BTCT và  lắp ghép panel BTCT. 
Nhận xét về kiến trúc nhà ở tại Hà Nội giai đoạn 1954-1986: 
Chú trọng phát triển nhà ở kiểu chung cư. Ðều là những công trình thấp tầng (từ 5 tầng 
trở xuống). Mẫu nhà ở được thiết kế điển hình không đa dạng.Căn hộ được thiết kế điển 
hình với mức giản lược nhất. Vật liệu xây dựng chủ yếu là vật liệu địa phương, BTCT 
bắt đầu được đưa vào sử dụng phổ biến trong xây dựng. Vật liệu trang trí còn đơn giản, 
nghèo chất liệu. Bố cục kiến trúc ngay ngắn có nhịp điệu. Hình thức đơn giản, hiện đại, 
phù hợp cấu trúc kết cấu. Phù hợp với điều kiện khí hậu, phong tục tập quán của người      lOMoARcPSD| 36625228  
Việt. Các KTT mới đã tạo dựng được bộ mặt mới, hiện đại cho kiến trúc Hà Nội thời  kỳ bấy giờ.   
Tiếp thu mô hình bao cấp nhà ở từ Liên Xô, sau một thời gian thử nghiệm, năm 1980, 
Bộ xây dựng đã cho triển khai áp dụng công nghệ xây nhà bằng tấm bê tông lớn tại khu 
Thanh Xuân Bắc, Hà Nội và ở một vài tỉnh lân cận các nhà máy bê tông tấm lớn cũng 
bắt đầu đi vào hoạt động      lOMoARcPSD| 36625228  
Cùng lúc này, ngành xây dựng Hà Nội đã đề xuất mẫu nhà với tấm bê tông được sản 
xuất theo phương pháp “polygon” nhẹ hơn, cơ động hơn nên trên thực tế đã lắp dừng 
được một khối lượng nhà đáng kể trong một thời gian tương đối ngắn 
Ngoài công nghệ tấm lớn, bằng biện pháp xây dựng thủ công quen thuộc, nhiều khu nhà 
mới hoặc khu xen cấy đã được xây dựng ở các tỉnh, thành phố suốt từ Bắc vào Nam, 
trong đó có những khu nhà dành cho công nhân cũng có được đã có một vài thử nghiệm 
số công nghệ mới như kích nông sàn, cốp- pha trượt,...   
Những năm 1954 - 1965, vấn đề về nhà ở là một trong những vấn đề nan giải ở các 
thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng. 
Ở đây, khả năng xây dựng bằng bê tông cốt sắt đúc tại chỗ, không lắp ghép các cấu kiện 
đúc sẵn đã tạo kiều kiện tốt để dựng nhiều kiểu nhà khác nhau. Trong hoàn cảnh thuận 
lợi của khí hậu, người ta không bị gò bó nhiều trong việc bố trí các ngôi nhà cũng như 
việc sắp xếp các phòng trong căn hộ và các căn hộ khác nhau trong một tòa nhà. Tuy 
nhiên cách sắp xếp thường là 2 toàn nhà mẫu “D” ốp lưng vào nhau, cách khoảng 3m. 
Tuy tiện nghi nhưng lại tạo ra một giếng trời bất đắc dĩ và bất tiện trong việc đóng mở  cửa sổ phía sau.      lOMoARcPSD| 36625228    
Tới giai đoạn sau giải phóng, tại miền Nam, xã hội cũ để lại một quỹ nhà ở quá nghèo 
nàn khiến cho khi bắt tay xây dựng các thành phố sau giải phóng, nhà nước đã phải 
dành những cố gắng lớn cho công cuộc phát triển nhà ở. Xây dựng nhiều nhất nhất là 
các khu nhà 1 tầng hoặc 2 tầng. 
Đây là những ngôi nhà được xây dựng tạm thời (nhà tạm) có kết cấu bằng gạch hoặc 
khung gỗ, tường chèn gạch, mái ngói. Công trình gồm những phòng lớn xếp song song. 
Các khu nhà tập thể có kiến trúc đơn giản, theo hình thức đơn nguyên, những các hộ 
dùng chung bếp và vệ sinh. Kết cấu công trình dùng tường gạch chịu lực hoặc panen 
tấm nhỏ, sàn panen hộp, nền lát gạch xi măng hoa hay xi măng nâu, mái ngói có sê nô 
(tương tự với kiến trúc ktt tại miền Bắc).      lOMoARcPSD| 36625228    
CÔNG TRÌNH CÔNG NGHIỆP: 
Việc xây dựng kiến trúc công nghiệp và đưa vào sử dụng các khu công nghiệp cho Hà 
Nội khoảng thời gian này đánh dấu những bước quan trọng với sự cố gắng của Nhà 
nước đối với quá trình công nghiệp hóa thủ đô. 
Về mặt kiến trúc, nội thất nhà máy có những nét đáng chú ý tạo nên được không khí 
“công nghiệp”, một vẻ đẹp tạo nên do hệ thống dầm tầng, cầu chạy và máy móc bố trí 
theo dây chuyền, một vẻ đẹp “tự than”, tuy vậy vấn đề hình thức kiến trúc sao cho phù 
hợp với điều kiện nhiệt đới là vấn đề còn tồn tại.        lOMoARcPSD| 36625228         lOMoARcPSD| 36625228    
CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG: 
Trong kế hoạch 5 năm, kiến trúc cầu đã có những tiến bộ rõ rệt, phù hợp với yêu cầu 
giao thông vận tải ngày càng phát triển. Hàng chục cây cầu lớn, hang tram cây cầu lớn 
nhỏ được xây dựng mới. 
Giai đoạn 1964 – 1975 là giai đoạn đảm bảo giao thông chống chiến tranh phá hoại 
miền Bắc và chi viện cho giải phóng miền Nam. Các nhà khoa học và đội ngũ thợ cầu 
Việt Nam đã có những sáng tạo có thể nói là kỳ diệu trong việc nghiên cứu thiết kế và 
xây dựng thành công những cây cầu mà kết cấu đặc biệt của chúng có thể nói là “vô 
tiền khoáng hậu” trong lịch sử. 
Các cây cầu hầu hết được xây dựng ở miền bắc nhằm đảm bảo đường giao thông liền 
mạch với miền Nam. Được áp dụng chủ yếu từ kỹ thuật của các kiến trúc sư Đông 
Dương để tạo nên các cây cầu có kết cấu dàn thép và cột bê tông có nét đẹp công nghiệp  đặc trưng.      lOMoARcPSD| 36625228    
Cầu Hàm Rồng khánh thành ngày 19-5-1964 do Việt thiết kế với sự giúp đỡ của chuyên 
gia nước ngoài. Cầu làm cho đường xe lửa một làn, ô tô 2 làn , người đi bộ có lối đi 
riêng. Cầu dầm liên tục thép dàn hoa, không dùng hình thức một vòm khẩu độ 160m, 
mặc dù có thể mỹ quan hơn, những xét về mặt kết hợp kinh tế với quốc phòng, đã chọn 
vòm khẩu độ 80m. Thi công lao dầm bằng phương pháp lắp hẫng. Trụ móng bằng cột 
bê tông cốt thép đúc sẵn, đường kính 1,55, thi công trụ bằng các máy chấn động, hạ cột  qua tầng đất phủ.        lOMoARcPSD| 36625228     Cầu Long Biên:      lOMoARcPSD| 36625228    
NỘI DUNG 3: Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ      lOMoARcPSD| 36625228  
Giá trị kiến trúc Giai đoạn 1954 – 1986 là giai đoạn đất nước gặp nhiều khó khăn, đặc 
biệt là về phát triển kinh tế. Công trình kiến trúc được xây dựng thời kỳ này suất đầu tư 
thấp, không đa dạng về thể loại, quy mô không lớn, nhưng không phải không có thành 
quả. Giá trị cao nhất là đã đáp ứng được nhu cầu của xã hội lúc bấy giờ. Giá trị của kiến 
trúc giai đoạn 1954 - 1986 thể hiện ở một số khía cạnh sau: Kiến trúc được xây dựng 
theo quy hoạch Tuy kinh tế xây dựng chưa phát triển, đô thị hóa còn thấp, nhưng các 
công trình được xây dựng đều theo quy hoạch cụ thể như: Khu công nghiệp, khu nhà ở 
công nhân, khu chung cư trong đô thị hay công trình cải tạo đô thị. 
Thời kỳ này kiến trúc ở cả 2 miền đều xuất phát từ yêu cầu thực tế khách quan, 
luôn chú trọng khai thác kiến trúc dân gian. Kiến trúc, vì thế phản ảnh rõ đặc thù  khí hậu. 
Bị hạn chế về kinh tế, trang thiết bị nên kiến trúc phải đặt mục tiêu “ thích ứng 
“nhằm tạo môi trường tiện nghi tối đa cho con người bằng cách khai thác lợi thế 
khí hậu tự nhiên như ánh sáng, gió, khắc phục bất lợi như gió bão, mưa lạnh,  nắng nóng. 
Người thiết kế đã chọn các giải pháp như chọn hướng nhà, tổ chức hành lang 
bên, thông gió tự nhiên, ánh sáng tự nhiên, sử dụng chi tiết kiến trúc để chắn 
nắng mưa, xử lý mái tường bao che, tiếp cận thiên nhiên, hạn chế nhân tạo, tiết 
kiệm năng lượng – Phải chăng đây là những đặc điểm của kiến trúc xanh đang  hướng tới. 
=> Chính vì kiến trúc thích ứng mà vẻ ngoài bộc lộ rõ hình ảnh kiến trúc của 
từng miền, đây được gọi là giai đoạn kiến trúc bản sắc. 
Ở miền Bắc, với sự giúp đỡ của các chuyên gia đến từ các nước XHCN, lực lượng thiết 
kế quy hoạch nước ta đã bắt đầu triển khai lập các đồ án,trước hết là cải tạo đô thị, sau 
đó là quy hoạch mở rộng một số đô thị, phát triển các khu công nghiệp lớn. Kiến trúc 
được triển khai theo quy hoạch và theo kế hoạch Nhà nước. Kiến trúc được định hướng 
phát triển Không thành văn bản, nhưng kiến trúc ở miền Bắc thời kỳ này đã được định 
hướng khá rõ ràng, theo chiều hướng “hiện thực XHCN” được biểu lộ ở các góc độ.      lOMoARcPSD| 36625228    
Tập trung ưu tiên phát triển các công trình công nghiệp và phục vụ công nghiệp Các 
khu nhà ở tại các khu đô thị theo mô hình tiểu khu nhà ở đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, 
hạ tầng xã hội với các loại công trình nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, trạm y tế, dịch vụ  tối thiểu… 
Hệ thống các công trình phúc lợi dần được xây dựng từ trung ương tới địa phương. => 
Kiến trúc phục vụ kinh tế, phục vụ quảng đại nhân dân biểu thị tính ưu việt của 
chế độ, thể hiện rõ tính nhân văn.  
Ngoài những điểm chung về bối cảnh xã hội, các tác động ảnh hưởng đến kiến trúc xây 
dựng, mục tiêu xây dựng ở miền Nam có những nét riêng, nên các công trình chủ yếu 
tập trung ở các đô thị lớn, các khu quân sự và phạm vi sử dụng có giới hạn. Do đó, ở 
miền Nam có những nét riêng, nên các công trình chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn, 
các khu quân sự và phạm vi sử dụng có giới hạn. Do đó, ở miền Nam, công trình có quy 
mô lớn hơn ở miền Bắc, được đầu tư khá hơn, có đầu tư đa thành phần, có điều kiện kỹ      lOMoARcPSD| 36625228  
thuật – công nghiệp, nguyên liệu thuận lợi nên chất lượng cũng tốt hơn. Chức năng của 
công trình cũng đa dạng và thiên về dịch vụ. 
Điều đáng ghi nhận ở kiến trúc thời kỳ này là ngoài các loại công trình phong phú như 
công sở, nhiều khu nhà cao cấp, biệt thự, khách sạn nghỉ mát, nhà trường, khu vui chơi 
giải trí lớn, các trường đại học… Điểm đặc biệt là đã có kiến trúc cao tầng (9-11 tầng) 
với thang máy và công nghệ - điều hoà không khí.        lOMoARcPSD| 36625228    
Cũng do ảnh hưởng của phương Tây, kiến trúc miền Nam theo xu hướng hiện đại, thực 
dụng, công năng và các nhà thiết kế quan tâm đến khí hậu nên kiến trúc tạo được đặc  thù nhiệt đới.  LỜI KẾT 
Trân trọng quá khứ là nét đẹp của dân tộc ta. Nhà nước cũng đã có chủ trương gìn giữ 
những công trình Kiến trúc được xây dựng trong thời kỳ người Pháp thống trị, không 
câu nệ dù công trình từng là công cụ bóc lột và đàn áp dân tộc ta một thời, song cũng 
không vì thế mà máy móc cái gì cũng giữ. Đó là cách nhìn tôn trọng quá khứ, tôn trọng 
di sản, biết chọn lọc, làm phong phú và liên tục cầu nối của chiều dài Việt Nam đô thị 
hóa. Với tinh thần ấy, chắc chắn những công trình tiêu biểu của giai đoạn 1954 – 1986, 
mà nhiều người vẫn gọi là của Thời đại Hồ Chí Minh, trong tình cảm của người dân 
Thủ đô càng sâu nặng biết chừng nào. 
Ba mươi năm ấy, với Kiến trúc thực sự là chuỗi thời gian đầy bất trắc và biến động, 
nhưng lại cũng đầy thử thách và khám phá, qua đó mà hình thành một Nền kiến trúc 
Việt Nam mới, vững vàng cho tới hôm nay – Những công trình Kiến trúc, mà hình ảnh 
đã đi cùng với bài ca chiến thắng cũng như gắn với sự gan góc hy sinh của một dân tộc.    
