lOMoARcPSD| 23136115
“VỢ NHẶT”
(Kim Lân)
1. KHÁI QUÁT TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1. Tác giả Kim Lân:
“cây bút độc đáo của làng quê Việt Nam
“là nhà văn một lòng với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của
cuộc sống nông thôn”
Đề tài nổi bật trong các tác phẩm của ông: Cuộc sống nông thôn – thân phận ng
nông dân
- Sự nghiệp văn chương khiêm tốn cùng đặc sắc Đối với văn
chương, Kim Lân đã thực sự tìm kiếm được một con đường riêng, một
vùng thực tại, một vùng thẩm mỹ riêng biệt
- Truyện ngắn là đặc sản của nhà văn
- Phong cách sáng tác: Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, gần gũi với cuộc
sống đời thường của người nông dân; mang đậm dấu ấn văn hóa của
làng quê Bắc B
2. Tác phẩm:
- Có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – nhưng sau đó đã bị mất bản
thảo
- Đến khi hòa bình lập lại (1954), dựa vào một phần tích truyện cũ, Kim
Lân đã viết nên “Vợ nhặt” <in trong tập “Con chó xấu xí”>
- Lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945
2. NHAN ĐỀ TÁC PHẨM
“VỢ NHẶT”
- Nhan đề gợi tình huống éo le của câu chuyện:
Anh cu Tràng – nhặt được vợ - giữa nạn đói
+ nhặt: một hành động bâng quơ, vu vơ, không có chủ ý, vô thưởng vô
phạt gắn với những đồ vật nhỏ bé, ít khi được coi trọng
2 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI
lOMoARcPSD| 23136115
+ vợ: một danh xưng thiêng liêng, cao quý; mối quan hgắn bền
chặt nghĩa tình với người đàn ông Dựng vợ gả chồng vốn chuyện
trọng đại của cả một đời người, cần phải được thực hiện tỉ mỉ, cẩn
thận, theo phong tục của người Việt
Ấy vậy mà, từ “nhặt” lại trở thành một cách định danh cho người vợ
- Nhan đđã khắc họa hiện thực hội thời kì ấy thân phận con người
bị rẻ rúng
Bộc lộ thái độ phê phán, tố cáo hiện thực của nhà văn -
Nhan đề là “Vợ nhặt” chứ không phải là “Nhặt vợ”:
+ Vợ nhặt: Nhấn mạnh vào giá trị của người vợ chỉ người vợ được
nhặt về giữa hoàn cảnh kkhăn thiếu thốn nhưng thị vẫn nhận được sự
tôn trọng và tình yêu thương
+ Nhặt vợ: Nhấn mạnh vào sự bâng quơ của hành động “nhặt”; từ đó làm cho thân
phận con người càng thêm bị hạ thấp một cách thê thảm
Nhan đề đã phần nào bộc lộ giá trị nhân đạo sâu sắc trong ngòi bút của nhà
văn Kim Lân
3. TÌNH HUỐNG TRUYỆN
Tình huống truyện chính là sự việc có tính chất bước ngoặt thúc đẩy diễn
biến của câu chuyện, đặt nhân vật vào những tình thế éo le, buộc nhân vật
phải thay đổi hoặc đưa ra một sự lựa chọn từ đó, giúp ta hiểu hơn
về bản chất của nhân vật và thông điệp của ng cầm bút
VỢ NHẶT
- Tình huống truyện: Anh cu Tràng nhặt được vợ giữa nạn đói
Một sự việc bất thường, thậm chí vô lý
- Sự việc này đã tác động đến tất cả các nhân vật trong câu chuyện
+ Tràng
+ Thị
+ Bà cụ Tứ
+ Tạo nên sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả người dân xóm ngụ cư
- Tạo nên một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện – từ đó gửi gắm ý
đồ nghệ thuật của nhà văn; đồng thời gợi mở các giá trị của tác phẩm
Giá trị hiện thực: Nhà văn đã phản ánh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 một
cách chân thực, sinh động và vô cùng ám ảnh, day dứt. Giá trị nhân đạo:
+ Đồng cảm với số phận bất hạnh của con người
+ Ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của con người
+ Đồng tình với khát vọng giải phóng của các nhân vật
4. BỐI CẢNH: NẠN ĐÓI
Kim Lân miêu tả về i đói một cách vô cùng chân thực, day dứt và ám ảnh
“Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào.
Nhà văn sử dụng thủ pháp nhân hóa kết hợp động từ mạnh để khắc
họa sự hoành hành, sự tấn công mạnh mẽ của nạn đói – như một kẻ thù
đang lao tới cướp đi sinh mạng của con người
Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lượt bồng
bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang
khắp lều chợ.
Nhà văn sử dụng một loạt các từ láy tượng hình + thủ pháp so sánh - để
khắc họa chân dung của những người đói: họ cố gắng bám víu lấy hội sống
nhỏ nhoi và ít ỏi; nguồn sinh lực sống bên trong họ dường như cũng đang bị
rút cạn dần – họ sống mà chỉ như chờ chết
Hai câu văn mở đầu như mâu thuẫn và đối lập, khẳng định một thực tế:
cái đói càng mạnh mẽ - con người càng yếu đuối
Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm
đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn
lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.”
+ Rất nhiều người đã không giữ được mạng sống vì cái đói
+ Cái chết trở thành một hình ảnh quen thuộc, bình thường, không gây bất
ngờ cho người dân
+ Nhà văn bày tsự xót xa và lo lắng trước sự bình thản đến hững hờ của con
người khi chứng kiến đồng loại của mình ra đi. Ông sợ rằng khi con người ta
lâu trong cái đói, cái khổ; khi người ta mặc nhiên coi cái chết một điều
thường tình; người ta sẽ đánh mất lòng trắc ẩn sẽ dần lụi tàn tình yêu thương
bên
trong trái tim mình. Ông sợ rằng một ngày nào đó – họ sẽ trở thành những kẻ
vô cảm từ lúc nào chẳng hay
II. PHÂN TÍCH
NHẮC LẠI KIẾN THỨC CHUNG:
(THÂN BÀI NLVH VỀ NHÂN VẬT)
- Khái quát tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về nhân vật
VD VỢ NHẶT:
+ Nạn đói
+ Hoàn cảnh/đặc điểm chung của nhân vật
+ Tình huống truyện (trừ khi đề bài hỏi về tình huống truyện)
+ Khái quát ngắn gọn các sự việc xảy ra trước VĐNL
- Phân tích VĐNL
(chia thành các luận điểm mỗi luận điểm tương ứng với 1 đoạn văn mỗi đoạn
văn nên triển khai theo lối DIỄN DỊCH hoặc T-P-H)
- Đánh giá đặc sắc trong tưởng nghệ thuật (với truyện: nhận xét
chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc)
VD: VỢ NHẶT
Cách 1: Phân tích “thị” ở từng sự việc (BỔ DỌC)
+ Trong hai lần gặp gỡ đầu tiên
+ Trên đường về nhà, đi qua xóm ngụ cư
+ Lúc mới về nhà Tràng
+ Khi gặp bà cụ Tứ
+ Trong bữa cơm sáng hôm sau
Cách 2: Phân tích “thị” ở các tiêu chí (BỔ NGANG) +
Thị một người phụ nữ lòng ham sống mãnh liệt Dẫn
chứng:
Lần gặp gỡ thứ 1
Lần gặp gỡ thứ 2
+ Thị có khát vọng, ước mơ về một hạnh phúc gia đình bình dị + Thị có sự ý
tứ, duyên dáng, hiền hậu của một người phụ nữ - ý thức vai trò trách nhiệm
của một người vợ, một người con dâu
Dẫn chứng: Sự thay đổi trong thái độ, hành động và cử chỉ
+ Thị còn mang trong mình khát vọng giải phóng đáng trân trọng
Dẫn chứng: Thị là người gợi mở câu chuyện về ánh sáng Cách mạng…
A.
1. Khái quát nhân vật:
- dân ngụ (là người ăn nhờ, đậu) thường dbị coi thường, khinh
rẻ
- Gia cảnh khó khăn, thiếu thốn (sống một mình với mẹ già ở căn nhà xiêu
vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại)
cuộc sống nghèo, tạm bợ
- Tuy đã lớn xác nhưng vẫn rất ngây ngô, hồn nhiên đến ngờ nghệch, thường
chơi với lũ trẻ trong xóm
Nếu trong cuộc sống đời thường, chắc hẳn Tràng sẽ rất khó để lấy được vợ
- Tình huống: Anh nhặt được vợ giữa bối cảnh nạn đói trớ trêu, bất thường,
gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người
+ Nhận xét ngắn gọn về tình huống
+ Bình luận ngắn gọn về nạn đói
2. Tâm trạng của anh cu Tràng khi đưa thị qua xóm ngụ cư:
- Anh cu Tràng ko giấu nổi niềm vui khi bỗng dưng vợ - niềm của anh như
sáng bừng lên giữa màn đêm của cái đói:
+ Tối sầm lại vì đói khát (ngoại cảnh) >< vẻ bề ngoài tràn đầy hạnh phúc của
anh cu Tràng (tâm cảnh) Phớn phở khác thường Tủm tỉm
Hai mắt sáng lên lấp lánh
Kim Lân sử dụng hthống từ láy phong phú, đa dạng, để khắc họa
niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt nhân vật
+ Niềm vui của Tràng không chỉ sự khác thường của một nhân; không
chỉ hạnh phúc đặc biệt so với chính anh mọi hôm – còn những biểu
cảm, thái độ có phần xa xỉ so với chính bối cảnh xã hội thời kì
ấy. Khi tất cả mọi người đều đang chật vật với miếng ăn; giành giật lấy s
sống từ tay Tử thần; thì anh cu Tràng lại vui một niềm vui quá đỗi lạ
Niềm vui ấy khiến tất cả mọi người kinh ngạc
- Anh cu Tràng có sự chín chắn, nghiêm túc khác thường trong hành động
Vội vàng nghiêm nét mặt lại
Lắc đầu ra hiệu không bằng lòng
lẽ trong sâu thẳm, Tràng nhận thức được rằng cuộc đời mình đã dần
sang một trang mới; đã không còn những chuỗi ngày có thể hồn nhiên
NHÂN VẬT ANH CU TRÀNG
chơi đùa cùng trẻ. thế, hành động, cử chỉ, thái độ của Tràng
phần “người lớn” hơn.
Hình nTràng còn cố gắng để giữ gìn hình ảnh của mình trước mặt thị
- thể hiện sự nghiêm túc, trân trọng thị và trân trọng mối quan hệ
- Sự việc Tràng “nhặt” được vợ còn tác động đến những người xung qua:
+ Lũ trẻ thay vì ủ rũ như mọi khi thì đã chạy theo, cong cổ lên gào để trêu anh cu
Tràng – Tràng cũng bật cười đáp lại “Bố ranh!”
Một khung cảnh rất đỗi bình thường, êm nhưng lại cùng xa xỉ trong
bối cảnh nạn đói
+ Người dân trong xóm thấy lạ lắm:
Họ vô cùng bất ngờ vì anh cu Tràng ngờ nghệch có ngày lấy vợ; họ cũng
không tin nổi trước mắt mình khi giữa bối cảnh nạn đói – khi người ta chỉ
“đi” chứ không “đến” thì thị, một người phụ nữ xa lạ, lại sẵn lòng đến
với mảnh đất u ám này
Kim Lân bày tỏ niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu thương nơi
sâu thẳm trái tim những con người khốn khổ. Nhà văn tin rằng họ luôn có
lòng trắc ẩn dù hoàn cảnh có thiếu thốn, bất lực đến đâu.
Họ quan tâm tới câuchuyện của người kháchọ vui lây với niềm vui của
anh cu Tràng
Chính hành động nhặt vợ của a Tràng đã nhen nhóm lên trong trái tim u
tối của họ một tia hy vọng le lói của sự sống khiến họ nhớ lại về niềm
vui giản dị của chính mình khi xưa, khiến họ nhận ra một con người khác
mà mình đã từng quên lãng
Hkhông chỉ mừng lây theo niềm vui của Tràng còn lo lắng thay,
thương thay cho thân phận của hai vợ chồng giữa nạn đói
Kim Lân bày tỏ niềm tin vào sức mạnh của tình yêu thương trong
trái tim mỗi người; tin rằng con người sẽ không cúi đầu trước hoàn
Xác xơ, heo hút, úp
súp, tối om, dật dờ,
lặng lẽ, thê thiết
- Thấy lạ
- Đứng ra ngưỡng cửa bàn tán dường như rất lâu rồi, họ mới lại
quan tâm đến một điều gì đó khác ngoài cái đói
- Hình như họ hiểu được đôi phần
- Khuôn mặt bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên
cảnh đánh mất chính mình; không hoàn cảnh chết chóc đói
khát mà làm lụi tàn khát vọng sống
- Anh cu Tràng không hề ngại ngùng khi trở thành “tâm điểm” của sự chú
ý ngược lại còn “vênh lên tđắc” bởi anh rất tự hào, hãnh diện
khi lấy được v
Dù thị chỉ là một người vợ nhặt, nhưng anh cu Tràng không hề coi thường
thị hay xem đây là một chuyện tầm phào. Ngược lại, anh coi đây là một việc
trọng đại; anh rất trân trọng thị trân trọng cuộc kết duyên lnày, như
“một đám cưới nhỏ giữa một đám ma khổng lồ”.
3. Tâm trạng của anh Tràng khi đưa thị vào nhà
- Niềm vui vẫn lan tỏa trong từng hành động, cử chỉ của Tràng – trong đó
đan xen cả sự ngại ngùng khi lần đầu tiên có một người phụ nữ về thăm
nhà:
Xăm xăm bước vào trong nhà
Thu dọn nhà cửa
Cười cười nhìn thị: “Không có người đàn bà…”
Hành động vụng về nhưng rất đỗi tự nhiên, chân thành; thể hiện niềm
vui khi từ nay nhà thêm một thành viên mới một người đàn bà”
Kim Lân ngầm thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình luôn cháy
bỏng trong trái tim nhân vật. Dường như, Tràng đã về ngày này từ
rất lâu…
Vỗ xuống giường đon đả
Tràng rất chủ động trong việc tạo sự thoải mái nhất có thể với thị - Tràng sợ thị
buồn, sợ thị lo lắng, sợ thị ngại ngùng
Bỗng cùng ngượng nghịu chợt hắn thấy sờ sợ Nỗi sợ
của Tràng một tâm thường tình: Sợ mẹ không chấp
nhận nàng dâu mới
Sợ thị có điều gì không bằng lòng – sợ thị đổi ý
Sợ vì không đoán được suy nghĩ của thị- không biết phải làm gì, nói gì
Sợ mình làm gì sai, nói gì sai để thị phật lòng
Anh rất nghiêm túc và trân trọng mối quan hệ này; anh thực lòng mong
muốn có thể nên duyên vợ chồng với người phụ nữ xa lạ kia
- Tràng rất quan tâm tới suy nghĩ và cảm nhận của thị (nghĩ bụng…)
Chính anh cũng có lúc không tin rằng mình đã có vợ
4. Câu chuyện nên duyên của hai vợ chồng: (Hai lần gặp gỡ của Tràng
và thị) - Lần gặp thứ nhất:
+ Khi hắn xe thóc Liên đoàn lên tỉnh
+ Gặp mấy chị con gái hò chơi cho đỡ nhọc mấy cô gái đẩy thị ra với hắn
+ Thị liếc mắt, cười tít với Tràng Tràng thích lắm, đây lần đầu tiên người
cười với hắn tình tứ như thế
Anh cu Tràng quá đỗi ngây thơ, trong sáng; niềm vui mộc mạc, chân phương,
giản đơn biết mấy
Trong sâu thẳm, Tràng luôn khao khát về một hạnh phúc lứa đôi, về một mái
ấm gia đình
- Lần gặp thứ hai:
lần gặp thứ nhất, Tràng người chủ động còn lần 2, thì thị người
chủ động
+ Tràng không nhận ra thị vì hôm nay thị rách quá
+ Khi nhận ra ngay lập tức toét miệng cười
Tràng không hề đánh giáhay thay đổi thái độ vớithị do ngoại hình của cô,
ngược lại, vẫn rất đon đả dịu dàng trọng tình trọng nghĩa, tôn
trọng lời hứa của bản thân
+ Tràng mời thị ăn một cách phóng khoáng, hào sảng “muốn ăn thì ăn”
Sự hào sảng đầy xa xgiữa bối cảnh nạn đói ấy không đến từ việc nhân vật
giàu vật chất – mà đến từ tấm lòng giàu tình cảm của Tràng
+ Không hề đánh giá những hành động kém duyên của thị - còn mlời mời
thị về nhà
“Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”
Câu cầu hôn vụng về và đầy xúc động được cất lên giữa bối cảnh nạn đói, khi
người ta chỉ tập trung vào bản thân, vào “cái chân đau” của mình thì anh cu
Tràng lại sẵn lòng đèo bòng một người phụ nữ xa lạ
Bộc lộ khao khát nh liệt về tình yêu lứa đôi hạnh phúc gia đình Kim
Lân tin rằng dù ai đi chăng nữa, trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa,
con người ta vẫn khao khát yêu được yêu vẫn về một mái m hạnh
phúc của riêng mình
Liên hệ với câu “cầu hôn” của Chí Phèo dành cho Thị Nở: “Hay là mình với
tớ về ở cùng một nhà cho vui” + Thấy thị về thật – cũng chợn (sợ)
Sự chuyển biến tâm lý hoàn toàn phù hợp và chân thực
Sau đó thì “tặc lưỡi một cái: “Chậc, kệ!” Chỉ cần một cái tặc lưỡi như
thế thôi, Tràng đã bỏ lại sau lưng mọi gánh nặng về cơm áo gạo tiền, Tràng
đã gạt đi bóng đêm bao phủ của cái đói; để mở rộng vòng tay cưu mang
một con người, để thắp lên ánh sáng le lói mang tên hạnh phúc gia đình
(mong mỏi về một mái ấm gia đình còn lớn hơn nỗi sợ trước nạn đói)
5. Tâm trạng của Tràng khi cụ Tứ trở về nhà - Niềm vui
phấn khởi, háo hức khi mẹ trở về:
Reo lên như một đứa trẻ
Gọi với vào trong nhà
Lật đật chạy ra đón
Tràng nóng ruột đợi chmẹ về, lđể khoe mẹ thật sớm về nàng dâu mới
cũng để được lắng nghe quyết định của mẹ về chuyện nên duyên
giữa Tràng và thị
- Tràng nghiêm túc trưởng thành hơn trong hành động và lời nói dường
như Tràng dần ý thức được trách nhiệm của một người chồng Có lẽ Tràng
cũng muốn chứng minh với mẹ là mình đã đủ trưởng thành
- Tràng thông báo với mẹ về việc mình đã có vợ - chứ không phải là xin phép
và hỏi ý kiến mẹ
Dường như, Tràng rất quả quyết và chắc chắn với quyết định này; Tràng
mong mẹ hiểu được điều đó thông qua những câu nói chững chạc, rõ ràng,
rành mạch
- Sau khi được mẹ đồng ý, Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi
Trước đó, hẳn Tràng rất căng thẳng lo lắng; thế khi được đồng ý, anh
mới dám nhẹ nhõm và trút đi được những áp lực trong lòng
6. Tâm trạng anh cu Tràng sáng hôm sau:
- Tràng thực sự hạnh phúc
Trong người êm ái lửng như người vừa trong giấc đi ra Dường như
đối với Tràng, lấy được vợ thực sự là một giấc mơ hạnh phúc; vẫn còn ngỡ ngàng
chưa dám tin vào sự thực
Trước đó, không gian tối sầm lại đói khát >< ánh nắng buổi sáng mùa hè ngập tràn
Sự thay đổi của không gian ngoại cảnh chịu tác động từ chính thế giới nội tâm
của nhân vật
- Nhận ra sự thay đổi mới lạ trong căn nhà – ngôi nhà đã gọn gàng, sạch sẽ,
tinh tươm hơn bởi n tay hai người phụ nữ ><trái với cảnh xiêu vẹo, bề
bộn, lộn xộn ở đoạn đầu tiên, trước khi có thị
Hành động dọn dẹp nhà cửa cho thấy những nỗ lực chăm sóc lại mái ấm,
cả những scố gắng để “dọn dẹp” lại sự bề bộn trong chính tâm hồn
của mỗi nhân vật
Tràng thấm thía và cảm động khi nhìn vợ mẹ chăm sóc nhà cửa, bởi lẽ hắn
nhận ra hắn đã có một gia đình, hắn nhận ra sợi dây liên
kết gắn bó bền chặt giữa mình hai người phụ nữ, hắn cảm nhận niềm hạnh
phúc sẽ khởi sinh từ chính căn nhà này
- Hắn thấy hắn nên người Hắn ý thức được trách nhiệm bổn phận của
mình với gia đình, với vợ con sau này
Xăm xăm chạy ra giữa sân…. dự phần tu sửa lại căn nhà
Sự chủ động của nhân vật trong việc nỗ lực “tái tạo” lại sự sống của riêng mình
- Rất ngoan ngoãn với bà cụ Tứ trong bữa cơm mặc dù bữa cơm ngày đói
cùng thảm hại, nhưng cả gia đình vẫn gật gù nói chuyện tương lai - chưa
bao giờ cả nhà hòa hợp, đàm ấm như thế bởi lẽ họ đang chung một
giấc mơ, một khát vọng
- Chi tiết kết:
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
Kết mở - tạo nên một không gian mênh mang cho người đọc có những sự tưởng
tượng của riêng mình.
Kết bằng “lá cờ đỏ bay phấp phới” như biểu tượng của lý tưởng Cách mạng;
khiến ta có quyền tin rằng các nhân vật cuối cùng cũng sẽ tìm thấy lối thoát; sẽ
tạo nên ánh sáng để thoát khỏi đêm đen mịt mù.
B.
SAO NHAN ĐỀ LẠI TẬP TRUNG VÀO HÌNH TƯỢNG VỢ NHẶT CHỨ
KHÔNG PHẢI MỘT NHÂN VẬT, HAY MỘT CHI TIẾT NGHỆ THUẬT NÀO
KHÁC?
- Thị chính là tác nhân quan trọng tạo nên tình huống truyện độc đáo giàu ý
nghĩa nhân đạo. Thị là tâm điểm của vòng tròn yêu thương giữa khung cảnh tối
sầm vì đói khát; thị là sợi dây kết nối giữa người với người; thị là người đã thắp
lên ánh sáng le lói của hy vọng – của niềm tin nơi tận cùng sự sống
- Thị một nhân vật không tên riêng tác giả mong muốn điển hình hóa nhân
vật
Thị không chỉ kể câu chuyện của mình mà còn đại diện cho câu chuyện của
biết bao người dân khốn khổ khác; đại diện cho vđẹp tâm hồn khuất lấp
của những con người dù
bị đẩy vào
NHÂN VẬT NGƯỜI VỢ NHẶT
đường cùng vẫnkhông đánh mất chính mình,vẫn không buông xuôi sự sống
1. Khái quát về nhân vật: - Hoàn
cảnh:
+ Xuất hiện giữa bối cảnh tối sầm lại vì đói khát
“ngồi vêu” đợi nhặt hạt thóc rơi vãi
+ Không tên tuổi, không gia đình, không người thân thiết
Phải chăng cái đói đã cướp đi của thị mọi thứ? Phải chăng cái đói đã dồn th
vào bước đường cùng mà chính cô cũng không thể có sự lựa chọn khác?
Cái tên: sự định danh của ta với cuộc đời – đta không cảm giác mình bị lãng quên,
mình bị xóa mờ khỏi “tấm bản đồ” của đời sống “Không tên, người ta gọi
danh. Vô danh thì không đọng lại được trong tâm trí bất kỳ ai, không phân biệt được
với ai.” (“Tôi là Bê tô – Nguyễn Nhật
Ánh)
“Vợ nhặt” một danh phận mới của thị, sự định danh của với cuộc đời.
Từ đây, thị không còn là một người đơn độc, không người thân thích bởi cô
đã có một gia đình
“Vợ nhặt” không phải là một sự rẻ rúng thân phận thị - mà ngược lại, là sự đồng
cảm, sự ngợi ca những vẻ đẹp khuất lấp bên trong một người phụ nữ vô danh
khốn khổ
2. Hai lần gặp gỡ đầu tiên giữa thị và Tràng:
a. Lần gặp thứ nhất:
Thái độ - hành động: cong cớn, vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe, liếc mắt, cười
tít
Lời nói: như một sự xét dỏm để xem câu bao nhiêu phần trăm sthật
thể hiện sự chủ động của người phụ nữ khi gọi người đàn ông xa lạ là “nhà tôi ơi”
Thị đâu cố tình lẳng lơ với anh cu Tràng; mà thái độ - sự chủ động của
thị dành cho miếng ăn “cơm trắng mấy giò” trong câu vu của
người đàn ông lần đầu gặp mặt
Dường như, nạn đói đã khiến con người không nghĩ được gì khác ngoài
miếng ăn. Họ sẵn sàng bấu víu lấy mọi hội để tồn tại hội
ấy có mong manh đến thế nào
b. Lần gặp thứ hai:
Thái độ, hành động: sầm sập (chạy nhanh, mạnh đến mức tạo ra tiếng động
lớn); sưng sỉa (thái độ khó chịu, không bằng lòng)
Vẻ bề ngoài: ch quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, khuôn mặt
lưỡi cày xám xịt Tràng còn không nhận ra
Dường như, cái đói đang tấn công hủy hoại dần cả về ngoại hình
lẫn nhân cách của người phụ nữ ấy
Thị cong cớn trong lời nói, thiếu duyên dáng trong hành động, cử chỉ: +
Những lời thoại của nhân vật mang đầy sự trách móc, dỗi hơn, như muốn bắt
đền anh cu Tràng để “đòi” bằng được bữa ăn trong câu hò hôm nào
+ hai con mắt trũng hoáy sáng lên – đon đả
Thị vui mừng, phấn khởi khi được mời ăn; được lấp đầy cái dạ dày
lép kẹp chẳng biết đã phải nhịn đói bao nhiêu hôm rồi
+ sà xuống – ăn thật – cắm đầu ăn một chặp bốn bánh đúc liền chẳng chuyện
trò gì
Thị không còn quan tâm điều gì khác, không chủ động giữ gìn hình
ảnh hay ngại ngùng ý tứ trước Tràng. Thị đã bị cuốn hút bởi miếng
ăn có thật – và đó là tất cả những gì thị khao khát ở thời điểm này
+ Thị sẵn sàng theo một người đàn ông xa lạ về nhà chỉ với bốn bát bánh đúc;
thị sẵn sàng trở thành vợ người ta chỉ với một bữa ăn
Kim Lân khắc họa chân dung nhân vật đâu phải để chê bai thị thiếu
duyên dáng ý tứ. Ông tạo nên nhân vật đtrước hết xót xa cho thân
phận con người khốn khổ thời ấy, phải gạt bỏ đi cả diện của
chính mình để tiếp tục tồn tại. Nhưng đồng thời, nhà
văn đồng quê cũngngợi ca vẻ đẹp của sức sốngmãnh liệt, của lòng
ham sống bên trong nhân vật - Chi tiết Bốn bát bánh đúc:
+ Bốn một con số quá cụ thể, như một sự định giá cho nhân phẩm của người
phụ nữ đáng thương ấy
+ đó chính là sính lễ bình dị, mộc mạc, chất phác trong hôn lễ kì lạ giữa hai
người lần thứ hai gặp mặt
“một đám cưới nhỏ giữa một đám ma khổng lồ”
+ bốn bát bánh đúc chỉ là một món ăn thôn quê dân dã nhưng đối với thị lại
là một thứ cao lương mĩ vị mà thị đã mơ suốt bấy lâu; là chiếc phao cứu sinh
giữ thị lại bên bờ vực chơi vơi giữa sự sống và cái chết + Trong văn hóa dân
gian ở một số vùng miền, bánh đúc còn là tượng trưng cho sính lễ cổ truyền
ngày cưới Dường như, Kim Lân đang ngầm “hợp thức hóa” cuộc nên
duyên lạ giữa Tràng thị; để biến đây thực sthành một lcưới “thiếu
tất cả mà lại đủ tất cả”
3. Trên đường về nhà, đi qua xóm ngụ cư
- Anh cu Tràng: phấn khởi, háo hức, rạng rỡ, dương dương tđắc
mình đã có vợ
- >< thị: rón rén, e thẹn; khó chịu khi bị trêu chọc, lấy chiếc n rách
tàng để che khuất đi nửa khuôn mặt; càng ngượng nghịu Thị
cùng ngại ngùng, bối rối khi bao ánh mắt đổ dồn về mình >< khác hoàn
toàn với cô thị cong cớn, mạnh bạo, kém duyên dáng ở đoạn “đòi ăn”
Phải chăng thị đã bắt đầu ý thức được về thân phận của mình, thị biết rằng
từ đây mình đã một gia đình, một mái ấm mới; thế nên đã trút bỏ
lớp vỏ bọc xù xì thô ráp kia – trở lại là một người phụ nữ ý tứ, nhẹ nhàng,
thẹn thùng?
4. Khi về nhà Tràng
a. Lúc mới về:
- Khi nhìn căn nhà rúm ró của Tràng, nhận ra gia cảnh của người đàn ông
này cũng chẳng mấy khấm khá
“nén một tiếng thở dài” (Tiếng thở dài mang theo sự thất vọng,
mang theo nỗi lo âu, mang theo sự thấp thỏm về cuộc sống phía
trước).
Thị vẫn cố gắng giấu đi cảm xúc thật của mình để không làm Tràng
lo lắng, đồng thời thị không bỏ đi – vì thị muốn có trách nhiệm với quyết
định của mình, và bản thân cô cũng luôn khao khát về một hạnh phúc gia
đình. Biết đâu, ánh sáng le lói này lại là hội mong manh biến giấc
của cô thành hiện thực? Và cũng bởi, thị mang ơn Tràng – và trong thâm
tâm, thị biết Tràng một người tử tế, sẵn sàng cưu mang mình. - Ngượng
ngùng, bối rối:
Ngồi mớm xuống mép giường
Cả hai bỗng cùng ngượng
nghịu
Hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần
Không còn hình ảnh nàng “sầm sập”, “sưng sỉa”, “cong cớn” đòi
miếng ăn nữa thay vào đó, là một người phụ nữ dịu dàng, e
thẹn, ý tứ trong lần đầu tiên ra mắt mẹ chồng
b. Khi gặp bà cụ Tứ:
- Chủ động gọi bà cụ Tứ bằng u
- Khi tưởng cụ Tứ chưa nghe thấy, thị cất tiếng chào lần nữa: “U đã
về ạ!”
Thị là một người phụ nữ ngoan ngoãn, lễ phép, nỗ lực nắm bắt lấy
hội hạnh phúc của cuộc đời (bản thân thị cũng mong muốn bà
cụ Tứ sẽ chấp nhận cuộc nên duyên kì lạ này).
Dường như thị không chỉ sợ cái đói, không chỉ lo lắng vsinh m
ạng của mình; còn sợ sự đơn không muốn rơi vào
hoàn cảnh bơ vơ không nơi nương tựa thêm một lần nữa (Đối với
thị, căn nhà rúm của Tràng vẫn hiện hình của hạnh phúc
một thứ hạnh phúc chắp vá mà thiêng liêng biết nhường nào)
- Đối diện với ánh mắt đăm đăm nhìn của cụ Tứ, thị cúi mặt xuống,
tay vân áo đã rách bợt Ta thấy thị bối rối, ta thấy thị ngượng
ngùng, ta thấy thị lo lắng, ta thấy thị nghèo khổvà cô đơn biết bao nếu
không được bà cụ Tứ chấp thuận
- Kể từ khi được bà cụ Tứ “mừng lòng” vun vén cho hạnh phúc của hai
người, thị không còn “thị” – không còn là một người phụ nữ cô đơn,
bơ vơ giữa dòng đời; mà từ đây, thị sẽ trở thành một “nàng dâu mới”
thị đã một danh phận, đã một gia đình, đã một điểm tựa tinh
thần
5. Bữa cơm sáng hôm sau
- Chăm chỉ dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng
- Thị “khác lắm” trong góc nhìn ngây ngô chân thành của người
chồng: “rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì
chao chát, chỏng lỏn”
Thị ý thức được về thân phận của mình; thị muốn làm tròn trách
nhiệm của một người làm vợ, làm con dâu; thị không còn phải
gồng mình lên để đơn độc chống chọi với sự hủy diệt của cái đói
lẽ, thị không “thay đổi”- thị “trở về” chính mình thì đúng hơn.
- Trong bữa cơm ngày đói:
+ Lúc đầu, bữa cơm rất vui vẻ, ngon lành cùng thảm hại, thiếu thốn + Khi
bà cụ Tứ bê ra nồi “chè khoán”:
Hai con mắt thị tối lại hiện thực lại một lần nữa gõ cửa, như xua tan đi ánh sáng hy
vọng mà cả gia đình vừa mới nỗ lực thắp lên
Thế nhưng, thị không hề tỏ thái độ với bát cháo cám, mà còn giấu đi sự thất
vọng, lo lắng của mình thông qua hành động “điềm nhiên vào miệng”
lẽ bởi thị không muốn làm cụ Tứ buồn, thị không muốn đánh mất không
khí tràn ngập hy vọng mà khó khăn lắm cả nhà mới có được
+ Thị người kể chuyện phá kho thóc Nhật mang tới câu chuyện về Cách
mạng, về ánh sáng, về một lối thoát cho tất cả
Người vợ nhặt hiện thân của tình yêu thương giữa bối cảnh con người
ta tưởng chừng chỉ biết đến “cái chân đau” của mình. Dường như,
thông qua nhân vật thị, Kim Lân lại một lần nữa
khẳng định sức mạnh lớn lao của tình yêu thương, của lòng trắc ẩn,
của sự san sẻ giữa người với người
6. Đánh giá đặc sắc nghệ thuật trong ngòi bút khắc họa nhân vật của nhà
văn Kim Lân:
- Nghệ thuật xây dựng tình truyện độc đáo đặt nhân vật vào trong một
tình cảnh trớ trêu, để từ đó nhân vật bộc lộ phẩm chất của chính mình
- Ngôn ngữ miêu tả tinh tế, sinh động; đan xen giữa kể tả một cách
linh hoạt để tái hiện chân dung nhân vật gần gũi, chân thực
- Cách dùng từ ngữ mộc mạc, bình dị, mang đậm dấu ấn của làng quê
Bắc Bộ
- Đan xen những lời thoại phù hợp, thể hiện được chất thôn quê” dân
dã rất riêng, rất tự nhiên
- Nhân vật thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc:
Đồng cảm với số phận bất hạnh
Ngợi ca vẻ đẹp của con người
Đồng tình với khát vọng giải phóng
C.
1. Giới thiệu khái quát nhân vật
- Là nạn nhân của nạn đói khủng khiếp năm 1945 nạn đói không chỉ
làm héo mòn dần thân xác của người phụ nữ già cả, gần đất xa trời
mà còn “vắt kiệt” niềm tin, niềm hy vọng vào cuộc sống (Dẫn chứng:
Bà gần như không chăm sóc nhà cửa)
- Gia cảnh: nghèo khó, thiếu thốn, neo người cậu con trai đã lớn
nhưng vẫn ngây ngô, khó lấy được vợ
- Tình huống truyện: Giữa bối cảnh tối sầm lại vì đói khát, giữa những
ngày tháng ngặt nghèo khó khăn, con trai lại bất ngờ mang về nhà
một người phụ nữ, thông báo nên duyên vợ chồng Một người phụ
nữ đã kinh qua biết bao hỉ nộ ái ố ở đời – vẫn phải bất ngờ, kinh ngạc
trước sự kiện trớ trêu này
2. Trong lần gặp gỡ đầu tiên với thị:
- Chân dung của bà cụ Tứ:
Húng hắng ho – lọng khọng đi vào – vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì đó
hình ảnh của một người phụ nữ già cả, động tác chậm chạp, hành động đã bắt
đầu phần lẩm cẩm dấy lên một nỗi xót thương trong lòng người đọc
(khiến chính chúng ta cũng nhớ đến ông bà, bố mẹ của
mình - ta xót xa nhận ra thời gian của họ đang dần ngắn lại)
- Thái độ của bà trước hành động khác thường của con trai:
Nhấp nháy hai con mắt chậm chạp hỏi ngay lập tức nhận ra sự
khác lạ trong hành động của con trai, dường như trong cõi lòng bà cũng
bắt đầu thấp thoáng những hoài nghi về một sự việc mà bà còn chưa nắm
phấp phỏng bước theo con (lo lắng, thấp thỏm về một điều gì đó)
- Trong cuộc gặp gỡ với thị:
+ Khi nhìn thấy một người đàn bà ở trong nhà đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn
- hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn
NHÂN VẬT BÀ CỤ TỨ
lão vô cùng kinh ngạc không thể tin vào mắt mình. Dù đã già,
đã có nhiều kinh nghiệm sống, dù bình thường “Sấm cũng bớt bất ngờ
- Trên hàng cây đứng tuổi” (Hữu Thỉnh) nhưng chưa bao giờ
thể hình dung tới tình huống này
+ Không nhận ra thị, quay lại nhìn con, tỏ ý không hiểu không hiểu
không phải đã già, đã lẩm cẩm, bởi sự việc trớ trêu này vượt ra
ngoài cả sự tưởng tượng của bà cụ Tứ giữa bối cảnh tối sầm lại vì đói khát
+ lão lập cập bước vào đôi chân lập cập run rẩy ấy không chỉ bởiyếu
tố tuổi tác, sức lực – mà còn bởi trong lòng bà đang dấy lên một nỗi lo lắng,
một sự hoài nghi khó lý giải
+ Không đáp lại hai lời chào của thị (thị chào bằng “U”) không phải
bởi vì bà già cả, điếc lác, mà bởi vì bà không tin nổi sự việc đang diễn ra
+ Khi Tràng trình bày ràng, mạch lạc về câu chuyện “phải duyên phải kiếp”
giữa hai người lão cúi đầu nín lặng . Bà lão hiểu rồi. Lòng người
mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu sự, vừa ai oán vừa xót thương
cho số kiếp đứa con mình.”
Nín lặng:
(-) một sự bị động, khi bà cụ Tứ không nói nên lời và không biết phải nói
(-) dường như bà đang nghẹn ngào lo lắng, đang giấu đi cả nỗi buồn mênh
m ang vừa mới chớm nở; bà nuốt ngược những giọt nước mắt tủi phận vào
bên trong
Từ im lặng chỉ là sự ngưng lại của lời nói nhưng “nín lặng” còn một
khoảng lặng yên của xúc cảm, của tâm hồn đang nghẹn ngào thổn thức
Bà cụ đã hiểu ra tường tận câu chuyện còn hiểu cả những điều anh
cu Tràng chưa kịp nói tới
lẽ bởi lòng thương con bờ sự thấu hiểu lẽ đời n bà hiểu
cả những lời con chưa nói
Tủi thân, tủi phận, tự trách bản thân mình Người mẹ ấy nhận lỗi về mình
và bắt đầu lo lắng cho các con
cụ Tứ quyền phản đối cuộc kết duyênlạ này. Bà cụ hoàn toàn thể
trách sự bộp chộp của Tràng, sự thiếu ý tcủa thị, nhưng lòng bao dung
tình yêu thương vô bờ không cho phép người mẹ già làm như thế… Điều
dẫn lối cho hành động và sự lựa chọn của bà cTứ không chỉ là tình mẫu tử,
mà còn là lòng thương giữa người với người
+ quan sát người đàn ấy thật càng – mọi điều nghĩ đều theo hướng
thông cảm, vỗ về, xót xa cho thân phận của thị; bà còn tự xoa dịu lòng mình
rằng con trai cuối cùng cũng đã có vợ bà ưu tiên niềm hạnh phúc của con
hơn cả nỗi lo lắng khi cái chết cận kề trong nạn đói. Bà không hề coi thường
hay đối xử ko tốt với thị, bởi bà thực lòng trân trọng nàng dâu mới
+ cụ Tứ đồng ý cho hai con nên duyên vợ chồng: u cũng mừng lòng(#
bằng lòng; # hài lòng)
Dân gian ta có câu “mừng mừng tủi tủi”, vậy nên Kim Lân đã sử dụng
từ “mừng lòng” trong lời thoại của bà cụ Tứ như để ngầm khắc họa
những sự tủi hờn đang len lỏi dần trong tâm trí của người phụ nữ khốn
khổ. Sau đó còn động viên các con để thị Tràng cố gắng phấn
đấu
- Thế nhưng, hiện thực vẫn bao phủ, vẫn không thể lảng tránh bóng
tối đang trùm lấy cả xóm ngụ cư: “Bóng tối trùm lấy hai con mắt”
lo lắng đối diện với sự thật: cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con.
Trong bóng tối ấy, bà nhớ vquá khứ để trăn trở về tương lai; ngẫm
lại về cuộc đời dài dằng dặc những nỗi khổ để rồi xót xa không biết
liệu con mình có đỡ khổ hơn mình trước kia không
- cụ Tứ dặn thị về hoàn cảnh thiếu thốn của gia đình, để rồi nghẹn
ngào “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Sau đó, đến lời
nói cũng không thể bộc lộ hết tình thương, chỉ còn là những giọt nước
mắt chảy xuống ròng ròng
Kẽ mắt kèm nhèm rỉ xuống hai dòng nước mắt đoạn này, bà chưa
dám khóc, lẽ sợ các con buồn. cố giấu nước mắt, cố nuốt
đi những nghẹn ngào của bản thân
Nhưng đến cuối đoạn, bà lại khóc “ròng ròng”. Dường như, nỗi lo
lắng và tình yêu thương khiến không thể kìm lòng mình lại nữa,
mà để cho những giọt nước mắt tuôn rơi
CỤ TỨ MỘT NGƯỜI TỪNG TRẢI, THẤU HIỂULẼ
ĐỜI, GIÀU LÒNG YÊU THƯƠNG
3. Trong buổi sáng hôm sau:

Preview text:

lOMoAR cPSD| 23136115 “VỢ NHẶT” (Kim Lân)
1. KHÁI QUÁT TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1. Tác giả Kim Lân:
“cây bút độc đáo của làng quê Việt Nam”
“là nhà văn một lòng với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của
cuộc sống nông thôn”
 Đề tài nổi bật trong các tác phẩm của ông: Cuộc sống nông thôn – thân phận ng nông dân
- Sự nghiệp văn chương khiêm tốn – vô cùng đặc sắc → Đối với văn
chương, Kim Lân đã thực sự tìm kiếm được một con đường riêng, một
vùng thực tại, một vùng thẩm mỹ riêng biệt
- Truyện ngắn là đặc sản của nhà văn
- Phong cách sáng tác: Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, gần gũi với cuộc
sống đời thường của người nông dân; mang đậm dấu ấn văn hóa của làng quê Bắc Bộ 2. Tác phẩm:
- Có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – nhưng sau đó đã bị mất bản thảo
- Đến khi hòa bình lập lại (1954), dựa vào một phần tích truyện cũ, Kim
Lân đã viết nên “Vợ nhặt”
- Lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945
2. NHAN ĐỀ TÁC PHẨM “VỢ NHẶT”
- Nhan đề gợi tình huống éo le của câu chuyện:
Anh cu Tràng – nhặt được vợ - giữa nạn đói
+ nhặt: một hành động bâng quơ, vu vơ, không có chủ ý, vô thưởng vô
phạt → gắn với những đồ vật nhỏ bé, ít khi được coi trọng
2 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI lOMoAR cPSD| 23136115
+ vợ: một danh xưng thiêng liêng, cao quý; là mối quan hệ gắn bó bền
chặt nghĩa tình với người đàn ông → Dựng vợ gả chồng vốn là chuyện
trọng đại của cả một đời người, cần phải được thực hiện tỉ mỉ, cẩn
thận, theo phong tục của người Việt
Ấy vậy mà, từ “nhặt” lại trở thành một cách định danh cho người vợ
- Nhan đề đã khắc họa hiện thực xã hội thời kì ấy → thân phận con người bị rẻ rúng
 Bộc lộ thái độ phê phán, tố cáo hiện thực của nhà văn -
Nhan đề là “Vợ nhặt” chứ không phải là “Nhặt vợ”:
+ Vợ nhặt: Nhấn mạnh vào giá trị của người vợ → Dù chỉ là người vợ được
nhặt về giữa hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn nhưng thị vẫn nhận được sự
tôn trọng và tình yêu thương
+ Nhặt vợ: Nhấn mạnh vào sự bâng quơ của hành động “nhặt”; từ đó làm cho thân
phận con người càng thêm bị hạ thấp một cách thê thảm
 Nhan đề đã phần nào bộc lộ giá trị nhân đạo sâu sắc trong ngòi bút của nhà văn Kim Lân
3. TÌNH HUỐNG TRUYỆN
Tình huống truyện chính là sự việc có tính chất bước ngoặt → thúc đẩy diễn
biến của câu chuyện, đặt nhân vật vào những tình thế éo le, buộc nhân vật
phải thay đổi hoặc đưa ra một sự lựa chọn → từ đó, giúp ta hiểu hơn

về bản chất của nhân vật và thông điệp của ng cầm bút VỢ NHẶT
- Tình huống truyện: Anh cu Tràng nhặt được vợ giữa nạn đói
 Một sự việc bất thường, thậm chí vô lý
- Sự việc này đã tác động đến tất cả các nhân vật trong câu chuyện + Tràng + Thị + Bà cụ Tứ
+ Tạo nên sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả người dân xóm ngụ cư
- Tạo nên một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện – từ đó gửi gắm ý
đồ nghệ thuật của nhà văn; đồng thời gợi mở các giá trị của tác phẩm
Giá trị hiện thực: Nhà văn đã phản ánh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 một
cách chân thực, sinh động và vô cùng ám ảnh, day dứt. Giá trị nhân đạo:
+ Đồng cảm với số phận bất hạnh của con người
+ Ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của con người
+ Đồng tình với khát vọng giải phóng của các nhân vật
4. BỐI CẢNH: NẠN ĐÓI
Kim Lân miêu tả về cái đói một cách vô cùng chân thực, day dứt và ám ảnh
“Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào.
Nhà văn sử dụng thủ pháp nhân hóa kết hợp động từ mạnh – để khắc
họa sự hoành hành, sự tấn công mạnh mẽ của nạn đói – như một kẻ thù
đang lao tới cướp đi sinh mạng của con người

Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng
bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ.
Nhà văn sử dụng một loạt các từ láy tượng hình + thủ pháp so sánh - để
khắc họa chân dung của những người đói: họ cố gắng bám víu lấy cơ hội sống
nhỏ nhoi và ít ỏi; nguồn sinh lực sống bên trong họ dường như cũng đang bị
rút cạn dần – họ sống mà chỉ như chờ chết

Hai câu văn mở đầu như mâu thuẫn và đối lập, khẳng định một thực tế:
cái đói càng mạnh mẽ - con người càng yếu đuối
Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm
đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn
lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.”

+ Rất nhiều người đã không giữ được mạng sống vì cái đói
+ Cái chết trở thành một hình ảnh quen thuộc, bình thường, không gây bất
ngờ cho người dân
+ Nhà văn bày tỏ sự xót xa và lo lắng trước sự bình thản đến hững hờ của con
người khi chứng kiến đồng loại của mình ra đi. Ông sợ rằng khi con người ta
ở lâu trong cái đói, cái khổ; khi người ta mặc nhiên coi cái chết là một điều
thường tình; người ta sẽ đánh mất lòng trắc ẩn – sẽ dần lụi tàn tình yêu thương bên

trong trái tim mình. Ông sợ rằng một ngày nào đó – họ sẽ trở thành những kẻ
vô cảm từ lúc nào chẳng hay II. PHÂN TÍCH
NHẮC LẠI KIẾN THỨC CHUNG:
(THÂN BÀI NLVH VỀ NHÂN VẬT)
- Khái quát tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu khái quát về nhân vật VD VỢ NHẶT: + Nạn đói
+ Hoàn cảnh/đặc điểm chung của nhân vật
+ Tình huống truyện (trừ khi đề bài hỏi về tình huống truyện)
+ Khái quát ngắn gọn các sự việc xảy ra trước VĐNL - Phân tích VĐNL
(chia thành các luận điểm – mỗi luận điểm tương ứng với 1 đoạn văn – mỗi đoạn
văn nên triển khai theo lối DIỄN DỊCH hoặc T-P-H)
- Đánh giá đặc sắc trong tư tưởng và nghệ thuật (với truyện: nhận xét
chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc) VD: VỢ NHẶT
Cách 1: Phân tích “thị” ở từng sự việc (BỔ DỌC)
+ Trong hai lần gặp gỡ đầu tiên
+ Trên đường về nhà, đi qua xóm ngụ cư
+ Lúc mới về nhà Tràng
+ Khi gặp bà cụ Tứ
+ Trong bữa cơm sáng hôm sau
Cách 2: Phân tích “thị” ở các tiêu chí (BỔ NGANG) +
Thị là một người phụ nữ có lòng ham sống mãnh liệt Dẫn chứng:
Lần gặp gỡ thứ 1
Lần gặp gỡ thứ 2
+ Thị có khát vọng, ước mơ về một hạnh phúc gia đình bình dị + Thị có sự ý
tứ, duyên dáng, hiền hậu của một người phụ nữ - ý thức vai trò và trách nhiệm
của một người vợ, một người con dâu
Dẫn chứng: Sự thay đổi trong thái độ, hành động và cử chỉ
+ Thị còn mang trong mình khát vọng giải phóng đáng trân trọng
Dẫn chứng: Thị là người gợi mở câu chuyện về ánh sáng Cách mạng…
A. NHÂN VẬT ANH CU TRÀNG
1. Khái quát nhân vật:
- Là dân ngụ cư (là người ăn nhờ, ở đậu) → thường dễ bị coi thường, khinh rẻ
- Gia cảnh khó khăn, thiếu thốn (sống một mình với mẹ già ở căn nhà xiêu
vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại)
→ cuộc sống nghèo, tạm bợ
- Tuy đã lớn xác nhưng vẫn rất ngây ngô, hồn nhiên đến ngờ nghệch, thường
chơi với lũ trẻ trong xóm
 Nếu trong cuộc sống đời thường, chắc hẳn Tràng sẽ rất khó để lấy được vợ
- Tình huống: Anh nhặt được vợ giữa bối cảnh nạn đói → trớ trêu, bất thường,
gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người
+ Nhận xét ngắn gọn về tình huống
+ Bình luận ngắn gọn về nạn đói
2. Tâm trạng của anh cu Tràng khi đưa thị qua xóm ngụ cư:
- Anh cu Tràng ko giấu nổi niềm vui khi bỗng dưng có vợ - niềm của anh như
sáng bừng lên giữa màn đêm của cái đói:
+ Tối sầm lại vì đói khát (ngoại cảnh) >< vẻ bề ngoài tràn đầy hạnh phúc của
anh cu Tràng (tâm cảnh) Phớn phở khác thường Tủm tỉm
Hai mắt sáng lên lấp lánh
 Kim Lân sử dụng hệ thống từ láy phong phú, đa dạng, để khắc họa
niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt nhân vật
+ Niềm vui của Tràng không chỉ là sự khác thường của một cá nhân; không
chỉ là hạnh phúc đặc biệt so với chính anh mọi hôm – mà nó còn là những biểu
cảm, thái độ có phần xa xỉ so với chính bối cảnh xã hội thời kì
ấy. Khi tất cả mọi người đều đang chật vật với miếng ăn; giành giật lấy sự
sống từ tay Tử thần; thì anh cu Tràng lại vui một niềm vui quá đỗi kì lạ →
Niềm vui ấy khiến tất cả mọi người kinh ngạc
- Anh cu Tràng có sự chín chắn, nghiêm túc khác thường trong hành động
Vội vàng nghiêm nét mặt lại
Lắc đầu ra hiệu không bằng lòng
 Có lẽ trong sâu thẳm, Tràng nhận thức được rằng cuộc đời mình đã dần
sang một trang mới; đã không còn những chuỗi ngày có thể hồn nhiên
chơi đùa cùng lũ trẻ. Vì thế, hành động, cử chỉ, thái độ của Tràng có
phần “người lớn” hơn.
 Hình như Tràng còn cố gắng để giữ gìn hình ảnh của mình trước mặt thị
- thể hiện sự nghiêm túc, trân trọng thị và trân trọng mối quan hệ
- Sự việc Tràng “nhặt” được vợ còn tác động đến những người xung qua:
+ Lũ trẻ thay vì ủ rũ như mọi khi thì đã chạy theo, cong cổ lên gào để trêu anh cu
Tràng – Tràng cũng bật cười đáp lại “Bố ranh!”
 Một khung cảnh rất đỗi bình thường, êm ả nhưng lại vô cùng xa xỉ trong bối cảnh nạn đói
+ Người dân trong xóm thấy lạ lắm:
• Họ vô cùng bất ngờ vì anh cu Tràng ngờ nghệch có ngày lấy vợ; họ cũng
không tin nổi trước mắt mình khi giữa bối cảnh nạn đói – khi người ta chỉ
“đi” chứ không “đến” – thì thị, một người phụ nữ xa lạ, lại sẵn lòng đến
với mảnh đất u ám này
• Kim Lân bày tỏ niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu thương nơi
sâu thẳm trái tim những con người khốn khổ. Nhà văn tin rằng họ luôn có
lòng trắc ẩn dù hoàn cảnh có thiếu thốn, bất lực đến đâu.
→ Họ quan tâm tới câuchuyện của người khác– họ vui lây với niềm vui của anh cu Tràng
• Chính hành động nhặt vợ của a Tràng đã nhen nhóm lên trong trái tim u
tối của họ một tia hy vọng le lói của sự sống – khiến họ nhớ lại về niềm
Xác xơ, heo hút, úp - Thấy lạ
súp, tối om, dật dờ, -
Đứng ra ngưỡng cửa bàn tán → dường như rất lâu rồi, họ mới lại
lặng lẽ, thê thiết
quan tâm đến một điều gì đó khác ngoài cái đói -
Hình như họ hiểu được đôi phần -
Khuôn mặt bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên
vui giản dị của chính mình khi xưa, khiến họ nhận ra một con người khác
mà mình đã từng quên lãng
• Họ không chỉ mừng lây theo niềm vui của Tràng – mà còn lo lắng thay,
thương thay cho thân phận của hai vợ chồng giữa nạn đói
 Kim Lân bày tỏ niềm tin vào sức mạnh của tình yêu thương trong
trái tim mỗi người; tin rằng con người sẽ không cúi đầu trước hoàn
cảnh mà đánh mất chính mình; không vì hoàn cảnh chết chóc đói
khát mà làm lụi tàn khát vọng sống
- Anh cu Tràng không hề ngại ngùng khi trở thành “tâm điểm” của sự chú
ý – mà ngược lại còn “vênh lên tự đắc” bởi anh rất tự hào, hãnh diện khi lấy được vợ
 Dù thị chỉ là một người vợ nhặt, nhưng anh cu Tràng không hề coi thường
thị hay xem đây là một chuyện tầm phào. Ngược lại, anh coi đây là một việc
trọng đại; anh rất trân trọng thị và trân trọng cuộc kết duyên kì lạ này, như
“một đám cưới nhỏ giữa một đám ma khổng lồ”.
3. Tâm trạng của anh Tràng khi đưa thị vào nhà
- Niềm vui vẫn lan tỏa trong từng hành động, cử chỉ của Tràng – trong đó
đan xen cả sự ngại ngùng khi lần đầu tiên có một người phụ nữ về thăm nhà:
Xăm xăm bước vào trong nhà Thu dọn nhà cửa
Cười cười nhìn thị: “Không có người đàn bà…”
 Hành động vụng về nhưng rất đỗi tự nhiên, chân thành; thể hiện rõ niềm
vui khi từ nay nhà có thêm một thành viên mới – một “người đàn bà”
→ Kim Lân ngầm thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình luôn cháy
bỏng trong trái tim nhân vật. Dường như, Tràng đã mơ về ngày này từ rất lâu…
Vỗ xuống giường đon đả
Tràng rất chủ động trong việc tạo sự thoải mái nhất có thể với thị - Tràng sợ thị
buồn, sợ thị lo lắng, sợ thị ngại ngùng
Bỗng cùng ngượng nghịu → chợt hắn thấy sờ sợ  Nỗi sợ
của Tràng là một tâm lý thường tình: Sợ mẹ không chấp nhận nàng dâu mới
Sợ thị có điều gì không bằng lòng – sợ thị đổi ý
Sợ vì không đoán được suy nghĩ của thị- không biết phải làm gì, nói gì
Sợ mình làm gì sai, nói gì sai để thị phật lòng
 Anh rất nghiêm túc và trân trọng mối quan hệ này; anh thực lòng mong
muốn có thể nên duyên vợ chồng với người phụ nữ xa lạ kia
- Tràng rất quan tâm tới suy nghĩ và cảm nhận của thị (nghĩ bụng…)
 Chính anh cũng có lúc không tin rằng mình đã có vợ
4. Câu chuyện nên duyên của hai vợ chồng: (Hai lần gặp gỡ của Tràng
và thị) - Lần gặp thứ nhất:
+ Khi hắn xe thóc Liên đoàn lên tỉnh
+ Gặp mấy chị con gái → hò chơi cho đỡ nhọc → mấy cô gái đẩy thị ra với hắn
+ Thị liếc mắt, cười tít với Tràng → Tràng thích lắm, vì đây là lần đầu tiên có người
cười với hắn tình tứ như thế
 Anh cu Tràng quá đỗi ngây thơ, trong sáng; có niềm vui mộc mạc, chân phương, giản đơn biết mấy
 Trong sâu thẳm, Tràng luôn khao khát về một hạnh phúc lứa đôi, về một mái ấm gia đình
- Lần gặp thứ hai:
Ở lần gặp thứ nhất, Tràng là người chủ động – còn ở lần 2, thì thị là người chủ động
+ Tràng không nhận ra thị vì hôm nay thị rách quá
+ Khi nhận ra → ngay lập tức toét miệng cười
Tràng không hề đánh giáhay thay đổi thái độ vớithị do ngoại hình của cô,
mà ngược lại, vẫn rất đon đả và dịu dàng → trọng tình trọng nghĩa, tôn
trọng lời hứa của bản thân
+ Tràng mời thị ăn một cách phóng khoáng, hào sảng “muốn ăn gì thì ăn” →
Sự hào sảng đầy xa xỉ giữa bối cảnh nạn đói ấy không đến từ việc nhân vật
giàu vật chất – mà đến từ tấm lòng giàu tình cảm của Tràng
+ Không hề đánh giá những hành động kém duyên của thị - mà còn mở lời mời thị về nhà
“Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”
• Câu cầu hôn vụng về và đầy xúc động được cất lên giữa bối cảnh nạn đói, khi
người ta chỉ tập trung vào bản thân, vào “cái chân đau” của mình thì anh cu
Tràng lại sẵn lòng đèo bòng một người phụ nữ xa lạ
• Bộc lộ khao khát mãnh liệt về tình yêu lứa đôi và hạnh phúc gia đình → Kim
Lân tin rằng dù là ai đi chăng nữa, dù ở trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa,
con người ta vẫn khao khát yêu và được yêu – vẫn mơ về một mái ấm hạnh phúc của riêng mình

Liên hệ với câu “cầu hôn” của Chí Phèo dành cho Thị Nở: “Hay là mình với
tớ về ở cùng một nhà cho vui”
+ Thấy thị về thật – cũng chợn (sợ)
 Sự chuyển biến tâm lý hoàn toàn phù hợp và chân thực
 Sau đó thì “tặc lưỡi một cái: “Chậc, kệ!” → Chỉ cần một cái tặc lưỡi như
thế thôi, Tràng đã bỏ lại sau lưng mọi gánh nặng về cơm áo gạo tiền, Tràng
đã gạt đi bóng đêm bao phủ của cái đói; để mở rộng vòng tay cưu mang
một con người, để thắp lên ánh sáng le lói mang tên hạnh phúc gia đình
(mong mỏi về một mái ấm gia đình còn lớn hơn nỗi sợ trước nạn đói)
5. Tâm trạng của Tràng khi bà cụ Tứ trở về nhà - Niềm vui
phấn khởi, háo hức khi mẹ trở về:
Reo lên như một đứa trẻ
Gọi với vào trong nhà
Lật đật chạy ra đón
Tràng nóng ruột đợi chờ mẹ về, có lẽ để khoe mẹ thật sớm về nàng dâu mới
– và cũng là để được lắng nghe quyết định của mẹ về chuyện nên duyên giữa Tràng và thị
- Tràng nghiêm túc và trưởng thành hơn trong hành động và lời nói → dường
như Tràng dần ý thức được trách nhiệm của một người chồng → Có lẽ Tràng
cũng muốn chứng minh với mẹ là mình đã đủ trưởng thành
- Tràng thông báo với mẹ về việc mình đã có vợ - chứ không phải là xin phép và hỏi ý kiến mẹ
 Dường như, Tràng rất quả quyết và chắc chắn với quyết định này; và Tràng
mong mẹ hiểu được điều đó thông qua những câu nói chững chạc, rõ ràng, rành mạch
- Sau khi được mẹ đồng ý, Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi →
Trước đó, hẳn Tràng rất căng thẳng và lo lắng; vì thế khi được đồng ý, anh
mới dám nhẹ nhõm và trút đi được những áp lực trong lòng
6. Tâm trạng anh cu Tràng sáng hôm sau:
- Tràng thực sự hạnh phúc
Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra → Dường như
đối với Tràng, lấy được vợ thực sự là một giấc mơ hạnh phúc; vẫn còn ngỡ ngàng
chưa dám tin vào sự thực
Trước đó, không gian tối sầm lại vì đói khát >< ánh nắng buổi sáng mùa hè ngập tràn
 Sự thay đổi của không gian ngoại cảnh chịu tác động từ chính thế giới nội tâm của nhân vật
- Nhận ra sự thay đổi mới lạ trong căn nhà – ngôi nhà đã gọn gàng, sạch sẽ,
tinh tươm hơn bởi bàn tay hai người phụ nữ >bộn, lộn xộn ở đoạn đầu tiên, trước khi có thị
Hành động dọn dẹp nhà cửa cho thấy những nỗ lực chăm sóc lại mái ấm,
và cả những sự cố gắng để “dọn dẹp” lại sự bề bộn trong chính tâm hồn của mỗi nhân vật
 Tràng thấm thía và cảm động khi nhìn vợ và mẹ chăm sóc nhà cửa, bởi lẽ hắn
nhận ra hắn đã có một gia đình, hắn nhận ra sợi dây liên
kết gắn bó bền chặt giữa mình và hai người phụ nữ, hắn cảm nhận niềm hạnh
phúc sẽ khởi sinh từ chính căn nhà này
- Hắn thấy hắn nên người → Hắn ý thức được trách nhiệm và bổn phận của
mình với gia đình, với vợ con sau này
Xăm xăm chạy ra giữa sân…. dự phần tu sửa lại căn nhà
 Sự chủ động của nhân vật trong việc nỗ lực “tái tạo” lại sự sống của riêng mình
- Rất ngoan ngoãn với bà cụ Tứ trong bữa cơm – mặc dù bữa cơm ngày đói
vô cùng thảm hại, nhưng cả gia đình vẫn gật gù nói chuyện tương lai - chưa
bao giờ cả nhà hòa hợp, đàm ấm như thế → bởi lẽ họ đang có chung một
giấc mơ, một khát vọng - Chi tiết kết:
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
 Kết mở - tạo nên một không gian mênh mang cho người đọc có những sự tưởng tượng của riêng mình.
 Kết bằng “lá cờ đỏ bay phấp phới” như biểu tượng của lý tưởng Cách mạng;
khiến ta có quyền tin rằng các nhân vật cuối cùng cũng sẽ tìm thấy lối thoát; sẽ
tạo nên ánh sáng để thoát khỏi đêm đen mịt mù.
B. NHÂN VẬT NGƯỜI VỢ NHẶT
VÌ SAO NHAN ĐỀ LẠI TẬP TRUNG VÀO HÌNH TƯỢNG VỢ NHẶT CHỨ
KHÔNG PHẢI MỘT NHÂN VẬT, HAY MỘT CHI TIẾT NGHỆ THUẬT NÀO KHÁC?
- Thị chính là tác nhân quan trọng tạo nên tình huống truyện độc đáo và giàu ý
nghĩa nhân đạo. Thị là tâm điểm của vòng tròn yêu thương giữa khung cảnh tối
sầm vì đói khát; thị là sợi dây kết nối giữa người với người; thị là người đã thắp
lên ánh sáng le lói của hy vọng – của niềm tin nơi tận cùng sự sống
- Thị là một nhân vật không có tên riêng → tác giả mong muốn điển hình hóa nhân vật
 Thị không chỉ kể câu chuyện của mình – mà còn đại diện cho câu chuyện của
biết bao người dân khốn khổ khác; đại diện cho vẻ đẹp tâm hồn khuất lấp
của những con người dù bị đẩy vào
đường cùng vẫnkhông đánh mất chính mình,vẫn không buông xuôi sự sống
1. Khái quát về nhân vật: - Hoàn cảnh:
+ Xuất hiện giữa bối cảnh tối sầm lại vì đói khát
“ngồi vêu” đợi nhặt hạt thóc rơi vãi
+ Không tên tuổi, không gia đình, không người thân thiết
 Phải chăng cái đói đã cướp đi của thị mọi thứ? Phải chăng cái đói đã dồn thị
vào bước đường cùng mà chính cô cũng không thể có sự lựa chọn khác?
Cái tên: sự định danh của ta với cuộc đời – để ta không cảm giác mình bị lãng quên,
mình bị xóa mờ khỏi “tấm bản đồ” của đời sống “Không có tên, người ta gọi là vô
danh. Vô danh thì không đọng lại được trong tâm trí bất kỳ ai, không phân biệt được
với ai.” (“Tôi là Bê tô – Nguyễn Nhật
Ánh)
 “Vợ nhặt” là một danh phận mới của thị, là sự định danh của cô với cuộc đời.
Từ đây, thị không còn là một người đơn độc, không người thân thích – bởi cô đã có một gia đình
 “Vợ nhặt” không phải là một sự rẻ rúng thân phận thị - mà ngược lại, là sự đồng
cảm, là sự ngợi ca những vẻ đẹp khuất lấp bên trong một người phụ nữ vô danh khốn khổ 2.
Hai lần gặp gỡ đầu tiên giữa thị và Tràng: a.
Lần gặp thứ nhất:
Thái độ - hành động: cong cớn, vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe, liếc mắt, cười tít
Lời nói: như một sự dò xét dí dỏm để xem câu hò có bao nhiêu phần trăm sự thật →
thể hiện sự chủ động của người phụ nữ khi gọi người đàn ông xa lạ là “nhà tôi ơi”
 Thị đâu cố tình lẳng lơ với anh cu Tràng; mà thái độ - sự chủ động của
thị là dành cho miếng ăn “cơm trắng mấy giò” trong câu hò vu vơ của
người đàn ông lần đầu gặp mặt
 Dường như, nạn đói đã khiến con người không nghĩ được gì khác ngoài
miếng ăn. Họ sẵn sàng bấu víu lấy mọi cơ hội để tồn tại – dù cơ hội
ấy có mong manh đến thế nào b. Lần gặp thứ hai:
Thái độ, hành động: sầm sập (chạy nhanh, mạnh đến mức tạo ra tiếng động
lớn); sưng sỉa (thái độ khó chịu, không bằng lòng)
Vẻ bề ngoài: rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, khuôn mặt
lưỡi cày xám xịt → Tràng còn không nhận ra
 Dường như, cái đói đang tấn công và hủy hoại dần cả về ngoại hình
lẫn nhân cách của người phụ nữ ấy
Thị cong cớn trong lời nói, thiếu duyên dáng trong hành động, cử chỉ: +
Những lời thoại của nhân vật mang đầy sự trách móc, dỗi hơn, như muốn bắt
đền anh cu Tràng để “đòi” bằng được bữa ăn trong câu hò hôm nào
+ hai con mắt trũng hoáy sáng lên – đon đả
 Thị vui mừng, phấn khởi khi được mời ăn; được lấp đầy cái dạ dày
lép kẹp chẳng biết đã phải nhịn đói bao nhiêu hôm rồi
+ sà xuống – ăn thật – cắm đầu ăn một chặp bốn bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì
 Thị không còn quan tâm điều gì khác, không chủ động giữ gìn hình
ảnh hay ngại ngùng ý tứ trước Tràng. Thị đã bị cuốn hút bởi miếng
ăn có thật – và đó là tất cả những gì thị khao khát ở thời điểm này
+ Thị sẵn sàng theo một người đàn ông xa lạ về nhà chỉ với bốn bát bánh đúc;
thị sẵn sàng trở thành vợ người ta chỉ với một bữa ăn
 Kim Lân khắc họa chân dung nhân vật đâu phải để chê bai thị thiếu
duyên dáng ý tứ. Ông tạo nên nhân vật để trước hết là xót xa cho thân
phận con người khốn khổ thời kì ấy, phải gạt bỏ đi cả sĩ diện của
chính mình để tiếp tục tồn tại. Nhưng đồng thời, nhà
văn đồng quê cũngngợi ca vẻ đẹp của sức sốngmãnh liệt, của lòng
ham sống bên trong nhân vật - Chi tiết Bốn bát bánh đúc:
+ Bốn – một con số quá cụ thể, như một sự định giá cho nhân phẩm của người
phụ nữ đáng thương ấy
+ đó chính là sính lễ bình dị, mộc mạc, chất phác trong hôn lễ kì lạ giữa hai
người lần thứ hai gặp mặt
“một đám cưới nhỏ giữa một đám ma khổng lồ”
+ bốn bát bánh đúc chỉ là một món ăn thôn quê dân dã nhưng đối với thị lại
là một thứ cao lương mĩ vị mà thị đã mơ suốt bấy lâu; là chiếc phao cứu sinh
giữ thị lại bên bờ vực chơi vơi giữa sự sống và cái chết + Trong văn hóa dân
gian ở một số vùng miền, bánh đúc còn là tượng trưng cho sính lễ cổ truyền
ngày cưới → Dường như, Kim Lân đang ngầm “hợp thức hóa” cuộc nên
duyên kì lạ giữa Tràng và thị; để biến đây thực sự thành một lễ cưới “thiếu
tất cả mà lại đủ tất cả” 3.
Trên đường về nhà, đi qua xóm ngụ cư
- Anh cu Tràng: phấn khởi, háo hức, rạng rỡ, dương dương tự đắc vì mình đã có vợ
- >< thị: rón rén, e thẹn; khó chịu khi bị trêu chọc, lấy chiếc nón rách
tàng để che khuất đi nửa khuôn mặt; càng ngượng nghịu → Thị vô
cùng ngại ngùng, bối rối khi bao ánh mắt đổ dồn về mình >< khác hoàn
toàn với cô thị cong cớn, mạnh bạo, kém duyên dáng ở đoạn “đòi ăn”
Phải chăng thị đã bắt đầu ý thức được về thân phận của mình, thị biết rằng
từ đây mình đã có một gia đình, một mái ấm mới; thế nên cô đã trút bỏ
lớp vỏ bọc xù xì thô ráp kia – trở lại là một người phụ nữ ý tứ, nhẹ nhàng, thẹn thùng? 4.
Khi về nhà Tràng a. Lúc mới về:
- Khi nhìn căn nhà rúm ró của Tràng, nhận ra gia cảnh của người đàn ông
này cũng chẳng mấy khấm khá
“nén một tiếng thở dài” (Tiếng thở dài mang theo sự thất vọng,
mang theo nỗi lo âu, mang theo sự thấp thỏm về cuộc sống phía trước).
 Thị vẫn cố gắng giấu đi cảm xúc thật của mình để không làm Tràng
lo lắng, đồng thời thị không bỏ đi – vì thị muốn có trách nhiệm với quyết
định của mình, và bản thân cô cũng luôn khao khát về một hạnh phúc gia
đình. Biết đâu, ánh sáng le lói này lại là cơ hội mong manh biến giấc mơ
của cô thành hiện thực? Và cũng bởi, thị mang ơn Tràng – và trong thâm
tâm, thị biết Tràng là một người tử tế, sẵn sàng cưu mang mình. - Ngượng ngùng, bối rối:
Ngồi mớm xuống mép giường
Cả hai bỗng cùng ngượng nghịu
Hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần
 Không còn hình ảnh cô nàng “sầm sập”, “sưng sỉa”, “cong cớn” đòi
miếng ăn nữa – mà thay vào đó, là một người phụ nữ dịu dàng, e
thẹn, ý tứ trong lần đầu tiên ra mắt mẹ chồng b.
Khi gặp bà cụ Tứ:
- Chủ động gọi bà cụ Tứ bằng u
- Khi tưởng bà cụ Tứ chưa nghe thấy, thị cất tiếng chào lần nữa: “U đã về ạ!”
 Thị là một người phụ nữ ngoan ngoãn, lễ phép, nỗ lực nắm bắt lấy
cơ hội hạnh phúc của cuộc đời (bản thân thị cũng mong muốn bà
cụ Tứ sẽ chấp nhận cuộc nên duyên kì lạ này).
 Dường như thị không chỉ sợ cái đói, không chỉ lo lắng về sinh m
ạng của mình; mà cô còn sợ sự cô đơn – cô không muốn rơi vào
hoàn cảnh bơ vơ không nơi nương tựa thêm một lần nữa (Đối với
thị, căn nhà rúm ró của Tràng vẫn là hiện hình của hạnh phúc –
một thứ hạnh phúc chắp vá mà thiêng liêng biết nhường nào)
- Đối diện với ánh mắt đăm đăm nhìn của bà cụ Tứ, thị cúi mặt xuống,
tay vân vê tà áo đã rách bợt → Ta thấy thị bối rối, ta thấy thị ngượng
ngùng, ta thấy thị lo lắng, ta thấy thị nghèo khổvà cô đơn biết bao nếu
không được bà cụ Tứ chấp thuận
- Kể từ khi được bà cụ Tứ “mừng lòng” vun vén cho hạnh phúc của hai
người, thị không còn là “thị” – không còn là một người phụ nữ cô đơn,
bơ vơ giữa dòng đời; mà từ đây, thị sẽ trở thành một “nàng dâu mới” –
thị đã có một danh phận, đã có một gia đình, đã có một điểm tựa tinh thần 5.
Bữa cơm sáng hôm sau
- Chăm chỉ dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng
- Thị “khác lắm” trong góc nhìn ngây ngô mà chân thành của người
chồng: “rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì
chao chát, chỏng lỏn”

 Thị ý thức được về thân phận của mình; thị muốn làm tròn trách
nhiệm của một người làm vợ, làm con dâu; thị không còn phải
gồng mình lên để đơn độc chống chọi với sự hủy diệt của cái đói
 Có lẽ, thị không “thay đổi”- thị “trở về” là chính mình thì đúng hơn.
- Trong bữa cơm ngày đói:
+ Lúc đầu, bữa cơm rất vui vẻ, ngon lành dù vô cùng thảm hại, thiếu thốn + Khi
bà cụ Tứ bê ra nồi “chè khoán”:
Hai con mắt thị tối lại → hiện thực lại một lần nữa gõ cửa, như xua tan đi ánh sáng hy
vọng mà cả gia đình vừa mới nỗ lực thắp lên
Thế nhưng, thị không hề tỏ thái độ với bát cháo cám, mà còn giấu đi sự thất
vọng, lo lắng của mình thông qua hành động “điềm nhiên và vào miệng” –
có lẽ bởi thị không muốn làm bà cụ Tứ buồn, thị không muốn đánh mất không
khí tràn ngập hy vọng mà khó khăn lắm cả nhà mới có được
+ Thị là người kể chuyện phá kho thóc Nhật → mang tới câu chuyện về Cách
mạng, về ánh sáng, về một lối thoát cho tất cả
 Người vợ nhặt là hiện thân của tình yêu thương giữa bối cảnh con người
ta tưởng chừng chỉ biết đến “cái chân đau” của mình. Dường như,
thông qua nhân vật thị, Kim Lân lại một lần nữa
khẳng định sức mạnh lớn lao của tình yêu thương, của lòng trắc ẩn,
của sự san sẻ giữa người với người
6. Đánh giá đặc sắc nghệ thuật trong ngòi bút khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân:
- Nghệ thuật xây dựng tình truyện độc đáo → đặt nhân vật vào trong một
tình cảnh trớ trêu, để từ đó nhân vật bộc lộ phẩm chất của chính mình
- Ngôn ngữ miêu tả tinh tế, sinh động; đan xen giữa kể và tả một cách
linh hoạt để tái hiện chân dung nhân vật gần gũi, chân thực
- Cách dùng từ ngữ mộc mạc, bình dị, mang đậm dấu ấn của làng quê Bắc Bộ
- Đan xen những lời thoại phù hợp, thể hiện được chất “thôn quê” dân
dã rất riêng, rất tự nhiên
- Nhân vật thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc: •
Đồng cảm với số phận bất hạnh •
Ngợi ca vẻ đẹp của con người •
Đồng tình với khát vọng giải phóng
C. NHÂN VẬT BÀ CỤ TỨ
1. Giới thiệu khái quát nhân vật
- Là nạn nhân của nạn đói khủng khiếp năm 1945 → nạn đói không chỉ
làm héo mòn dần thân xác của người phụ nữ già cả, gần đất xa trời –
mà còn “vắt kiệt” niềm tin, niềm hy vọng vào cuộc sống (Dẫn chứng:
Bà gần như không chăm sóc nhà cửa)

- Gia cảnh: nghèo khó, thiếu thốn, neo người – có cậu con trai đã lớn
nhưng vẫn ngây ngô, khó lấy được vợ
- Tình huống truyện: Giữa bối cảnh tối sầm lại vì đói khát, giữa những
ngày tháng ngặt nghèo khó khăn, con trai bà lại bất ngờ mang về nhà
một người phụ nữ, thông báo nên duyên vợ chồng → Một người phụ
nữ đã kinh qua biết bao hỉ nộ ái ố ở đời – vẫn phải bất ngờ, kinh ngạc
trước sự kiện trớ trêu này
2. Trong lần gặp gỡ đầu tiên với thị:
- Chân dung của bà cụ Tứ:
Húng hắng ho – lọng khọng đi vào – vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì đó
hình ảnh của một người phụ nữ già cả, động tác chậm chạp, hành động đã bắt
đầu có phần lẩm cẩm – dấy lên một nỗi xót thương trong lòng người đọc
(khiến chính chúng ta cũng nhớ đến ông bà, bố mẹ của
mình - ta xót xa nhận ra thời gian của họ đang dần ngắn lại)
- Thái độ của bà trước hành động khác thường của con trai:
Nhấp nháy hai con mắt – chậm chạp hỏi Bà ngay lập tức nhận ra sự
khác lạ trong hành động của con trai, và dường như trong cõi lòng bà cũng
bắt đầu thấp thoáng những hoài nghi về một sự việc mà bà còn chưa nắm
rõ → phấp phỏng bước theo con (lo lắng, thấp thỏm về một điều gì đó)
- Trong cuộc gặp gỡ với thị:
+ Khi nhìn thấy một người đàn bà ở trong nhà → đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn
- hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn
 Bà lão vô cùng kinh ngạc và không thể tin vào mắt mình. Dù bà đã già,
đã có nhiều kinh nghiệm sống, dù bình thường “Sấm cũng bớt bất ngờ
- Trên hàng cây đứng tuổi” (Hữu Thỉnh) – nhưng bà chưa bao giờ có
thể hình dung tới tình huống này
+ Không nhận ra thị, quay lại nhìn con, tỏ ý không hiểu → Bà không hiểu
không phải vì bà đã già, đã lẩm cẩm, mà bởi vì sự việc trớ trêu này vượt ra
ngoài cả sự tưởng tượng của bà cụ Tứ giữa bối cảnh tối sầm lại vì đói khát
+ Bà lão lập cập bước vào → đôi chân lập cập run rẩy ấy không chỉ bởiyếu
tố tuổi tác, sức lực – mà còn bởi trong lòng bà đang dấy lên một nỗi lo lắng,
một sự hoài nghi khó lý giải
+ Không đáp lại hai lời chào của thị (thị chào bà bằng “U”) → không phải
bởi vì bà già cả, điếc lác, mà bởi vì bà không tin nổi sự việc đang diễn ra
+ Khi Tràng trình bày rõ ràng, mạch lạc về câu chuyện “phải duyên phải kiếp”
giữa hai người → “Bà lão cúi đầu nín lặng . Bà lão hiểu rồi. Lòng người
mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương
cho số kiếp đứa con mình.”
• Nín lặng:
(-) một sự bị động, khi bà cụ Tứ không nói nên lời – và không biết phải nói gì
(-) dường như bà đang nghẹn ngào lo lắng, bà đang giấu đi cả nỗi buồn mênh
m ang vừa mới chớm nở; bà nuốt ngược những giọt nước mắt tủi phận vào bên trong
→ Từ im lặng chỉ là sự ngưng lại của lời nói – nhưng “nín lặng” còn là một
khoảng lặng yên của xúc cảm, của tâm hồn đang nghẹn ngào thổn thức
• Bà cụ đã hiểu ra tường tận câu chuyện – và còn hiểu cả những điều mà anh
cu Tràng chưa kịp nói tới
 Có lẽ bởi lòng thương con vô bờ và sự thấu hiểu lẽ đời – nên bà hiểu
cả những lời con chưa nói
• Tủi thân, tủi phận, tự trách bản thân mình → Người mẹ ấy nhận lỗi về mình
và bắt đầu lo lắng cho các con
Bà cụ Tứ có quyền phản đối cuộc kết duyên kì lạ này. Bà cụ hoàn toàn có thể
trách sự bộp chộp của Tràng, sự thiếu ý tứ của thị, nhưng lòng bao dung và
tình yêu thương vô bờ không cho phép người mẹ già làm như thế… → Điều
dẫn lối cho hành động và sự lựa chọn của bà cụ Tứ không chỉ là tình mẫu tử,
mà còn là lòng thương giữa người với người
+ Bà quan sát người đàn bà ấy thật kĩ càng – mọi điều bà nghĩ đều theo hướng
thông cảm, vỗ về, xót xa cho thân phận của thị; bà còn tự xoa dịu lòng mình
rằng con trai cuối cùng cũng đã có vợ → bà ưu tiên niềm hạnh phúc của con
hơn cả nỗi lo lắng khi cái chết cận kề trong nạn đói. Bà không hề coi thường
hay đối xử ko tốt với thị, bởi bà thực lòng trân trọng nàng dâu mới
+ Bà cụ Tứ đồng ý cho hai con nên duyên vợ chồng: “u cũng mừng lòng” (# bằng lòng; # hài lòng)
 Dân gian ta có câu “mừng mừng tủi tủi”, vậy nên Kim Lân đã sử dụng
từ “mừng lòng” trong lời thoại của bà cụ Tứ như để ngầm khắc họa
những sự tủi hờn đang len lỏi dần trong tâm trí của người phụ nữ khốn
khổ. Sau đó bà còn động viên các con để thị và Tràng cố gắng phấn đấu
- Thế nhưng, hiện thực vẫn bao phủ, bà vẫn không thể lảng tránh bóng
tối đang trùm lấy cả xóm ngụ cư: “Bóng tối trùm lấy hai con mắt” →
Bà lo lắng đối diện với sự thật: cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con.
Trong bóng tối ấy, bà nhớ về quá khứ để trăn trở về tương lai; bà ngẫm
lại về cuộc đời dài dằng dặc những nỗi khổ để rồi xót xa không biết
liệu con mình có đỡ khổ hơn mình trước kia không
- Bà cụ Tứ dặn dò thị về hoàn cảnh thiếu thốn của gia đình, để rồi nghẹn
ngào “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Sau đó, đến lời
nói cũng không thể bộc lộ hết tình thương, chỉ còn là những giọt nước
mắt chảy xuống ròng ròng
Kẽ mắt kèm nhèm rỉ xuống hai dòng nước mắt → Ở đoạn này, bà chưa
dám khóc, có lẽ vì sợ các con buồn. Bà cố giấu nước mắt, bà cố nuốt
đi những nghẹn ngào của bản thân
Nhưng đến cuối đoạn, bà lại khóc “ròng ròng”. Dường như, nỗi lo
lắng và tình yêu thương khiến bà không thể kìm lòng mình lại nữa,
mà để cho những giọt nước mắt tuôn rơi
BÀ CỤ TỨ LÀ MỘT NGƯỜI TỪNG TRẢI, THẤU HIỂULẼ
ĐỜI, GIÀU LÒNG YÊU THƯƠNG
3. Trong buổi sáng hôm sau: