Tồn tại xã hội và ý thức xã hội - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Tồn tại xã hội và ý thức xã hội - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

I. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH
1. Khái niệm:
- Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với
tự nhiên và giữa con người với nhau.
- Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con
người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá
trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
VD: Thời tiền sử,c bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công
cụ còn rất thô song đã những bước tiến lớn trong kỹ thuật chế tác, nhiều
loại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời này con người nhận biết tận
dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó
điều kiện khí hậu thuận lợi cộng với sự đa dạng của các loài động thực vật tạo nên
nguồn tài nguyên rất phong phú.
2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội gồm có:
- Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó.
Ví dụ: phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều
kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.
- Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như: các điều kiện
khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của không gian sinh tồn của
cộng đồng xã hội.
- Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư, mô
hình tổ chức dân cư,...
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành
điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố
cơ bản nhất. Bởi vì: trình độ của phương thức sản xuất như thế nào sẽ quyết định sự tác động
của con người đến môi trường tự nhiên và quy mô phát triển dân số như thế ấy.
Ví dụ: trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông ngòi,... tất yếu làm hình
thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất đối với người Việt Nam. Để tiến
hành được phương thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có
tính ổn định bền vững,...
II. Ý THỨC XÃ HỘI VÀ KẾT CẤU Ý THỨC XÃ HỘI
1. Khái niệm
- Ý thức hội toàn bộ đời sống tinh thần của hội, bao gồm những quan
điểm, tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn
tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
dụ: Dân tộc Việt Nam truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa;
truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt Nam
hệ thống tưởng lớn chi phối dân tộc Việt trong nhiều thế kỷ, nhất
phong kiến là tư tưởng Nho giáo.
Ta cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân.
- Ý thức nhân thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý
thức của các nhân đều phản ánh tồn tại hội với những mức độ khác nhau.
Do đó, hiển nhiên mang tính hội. Song, ý thức nhân không phải bao
giờ cũng thể hiện quan điểm, tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng,
một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định.
- Ý thức hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái
khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau.
- Ý thức xã hội ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với
nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.
2. Kết cấu của ý thức xã hội
a) Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận
- Ý thức hội thông thường những tri thức, những quan niệm của con người
hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ
thống hóa, khái quát hóa.
- Ý thức luận những tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành các học thuyết hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm
trù, quy luật…
- Ý thức hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống
hàng ngày, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Trình độ ý thức thông thường
tuy thấp hơn ý thức luận, nhưng tri thức kinh nghiệm phong phú của nó là tiền
đề quan trọng cho sự hình thành các lý thuyết khoa học.
b) Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng
Tâm lý xã hội
- Tâm hội khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập
quán… của con người, của một bộ phận hội hoặc của toàn hội hình
thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ phản ánh
đời sống đó.
- Đặc điểm:
+ Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người.
+ Đây là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của
tồn tại xã hội.
+ Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan
hệ xã hội của con người.
+ Vẫn còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt luận, còn
yếu tố trí tuệ thì đan xen với yếu tố tình cảm.
- Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm hội
trong sự phát triển của ý thức xã hội.
Hệ tư tưởng
- Hệtưởng khái niệm chỉ trình độ cao của ý thức hội, được hình thành
khi con người nhận thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của
mình.
- Đặc điểm:
+ Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng
+ Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội
+ Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định
và truyền bá trong xã hội
+ Hệ tưởng nhận thức luận về tồn tại hội, hệ thống những quan
điểm, tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…), kết
quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội.
c) Mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng
Tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng tâm
hội hệ tưởng mối liên hệ tác động qua lại với nhau. Chúng chung
nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội.
- Tâm hội thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở cho sự hình thành,
truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định.
- Trái lại, hệ tưởng, luận hội làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm
hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm hội phát triển theo chiều hướng
đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội
- Tuy nhiên, hệtưởng không ra đời trực tiếp từ tâm hội, không phải
sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
dụ: Hệ tưởng Mác Lênin không trực tiếp ra đời từ tâm hội của giai cấp công
nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp sản, sự khái quátluận từ tổng
số những tri thức của nhân loại, từ những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân,kế thừa trực tiếp các học thuyết kinh tế, hội triết học vào cuối thế kỷ 18, đầu
thế kỷ 19.
Như vậy, hệ tưởng liên hệ với tâm hội, chịu sự tác động của tâm hội,
nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
3. Tính giai cấp của ý thức xã hội
– Trong xã hội có giai cấp, do các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau,
những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp quy định, nên ý thức xã hội của các giai
cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
– Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư tưởng xã hội.
+ Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có
thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác
+ Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc hơn nhiều.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những tư tưởng hoặc hệ tư tưởng
đối lập nhau: Tư tưởng của giai cấp bóc lột và bị bóc lột, của giai cấp thống trị và bị
thống trị
+ Tuy nhiên, ý thức của các giai cấp trong xã hội cũng có sự tác động qua lại với nhau.
Không chỉ giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị mà giai cấp
thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp bị trị
– Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn những điều kiện sinh hoạt
vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc, chẳng
hạn như những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên được
hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc.
Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâm
lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách… của dân tộc, truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.
III. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
1. Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội nào thì
có ý thức xã hội ấy. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm và xu
hướng biến đổi, phát triển của ý thức xã hội. Ý thức xã hội phản ánh cái logic
khách quan của tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi. Khi
tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất, thay đổi thì những từ tưởng, quan
điểm về chính trị, pháp luật và triết học sớm hay muộn cũng sẽ có những sự thay
đổi nhất định.
Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận,
hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh
tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế
được phản ánh, bằng cách này hay cách khác, trong các tư tưởng ấy. Như vậy, sự
phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã hội phải được xem xét một cách biện chứng.
2. Tính độc lập tương đối ý thức xã hội.
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Lịch sử xã hội loài người cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi rất lâu rồi, song ý
thức xã hội do xã hội đó sản sinh ra vẫn tiếp tục tồn tại. Điều này biểu hiện rõ nhất
ở các khía cạnh khác nhau của tâm lý xã hội như truyền thống, thói quen và nhất là
tập quán. Chính vì vậy, V.I.Lênin đã khẳng định, “sức mạnh của tập quán ở hàng
triệu và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê gớm nhất”.
→ Nguyên nhân của điều này chúng ta có thể kể đến là:
- Thứ nhất, do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của
con người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ánh
của ý thức xã hội.
- Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và do cả tính bảo
thủ của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại xã hội mới
cũng chưa đủ để làm cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ hoàn
toàn mất đi.
- Thứ ba, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của các
giai cấp nào đó trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu thường níu
kéo, bám chặt vào những tư tưởng lạc hậu để bảo vệ và duy trì quyền lợi ích kỉ
của họ, chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội.
→ Vì vậy, muốn xây dựng xã hội mới thì nhất định phải từng bước xóa bỏ được
những tàn dư, những tư tưởng và ý thức xã hội cũ song song với việc bồi đắp,
xây dựng và phát triển ý thức xã hội mới. Tuy nhiên, khi thực hiện những nhiệm
vụ này thì không được nóng vội, không được dùng các biện pháp hành chính
như đã từng xảy ra ở các nước XHCN và cả ở nước ta nhiều năm trước đây.
Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
- Triết học Mác thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội
nhưng cũng có thể vượt trước tồn tại xã hội. Thực tế là nhiều tư tưởng khoa
học và triết học trong những điều kiện nhất định có thể vượt trước tồn tại xã
hội của thời đại rất xa, hướng hoạt động thực tiễn của con người vào mục đích
nhất định. Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng đó là do nó phản ảnh đúng được
những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội. Lịch
sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng lớn phải sau một thời gian,
có thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực tiễn xác nhận. Nhiều dự báo của
C.Mác đang trở thành sự thật trong thời đại chúng ta đã hoàn toàn khẳng định
điều đỏ.
- Chẳng hạn, dự báo tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đang được
thực tiễn của của cuộc cách mạng chuyển đổi công nghệ số, thời đại trí tuệ
nhân tạo hay cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, thời đại tế tri thức
xác nhận.
- Hay như Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng là một ví dụ điển hình khác. Chủ nghĩa
Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của thời đại – giai cấp
công nhân, tuy ra đời vào thế kỷ XIX trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng đã
chỉ ra được những quy luật vận động tất yếu của xã hội loài người nói chung,
của xã hội tư bản nói riêng, qua đó chỉ ra rằng xã hội tư bản nhất định sẽ bị
thay thế bằng xã hội cộng sản.
Ý thức xã hội có tính kế thừa.
- Tiến trình phát triển đời sống tinh thần của xã hội loài người cho thấy rằng,
các quan điểm lý luận, các tư tưởng lớn của thời đại sau bao giờ cũng dựa vào
những tiền đề đã có từ các giai đoạn lịch sử trước đó. Chính C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng đã thừa nhận rằng, ngay cả chủ nghĩa cộng sản phát triển
cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật Pháp… Và, “nếu trước đó
không có triết học Đức, đặc biệt là triết học Hêghen, thì sẽ không bao giờ có
chủ nghĩa xã hội khoa học Đức, chủ nghĩa xã hội duy nhất khoa học tồn tại từ
trước đến nay.” Vì vậy, hoàn toàn hợp quy luật rằng, chủ nghĩa Mác không chỉ
đã tiếp thu tất cả những gì là tinh hoa trong lịch sử văn minh nhân loại mà còn
kế thừa trực tiếp từ nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
- Trong sự phát triển của mình ý thức xã hội có tính kế thừa nên không thể giải
thích một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào trình độ, hiện trạng phát triển kinh
tế và các quan hệ kinh tế - xã hội. Chẳng hạn, trình độ phát triển kinh tế của
nước Pháp vào thế kỷ XVIII kém xa nước Anh nhưng tư tưởng lý luận thì
nước Pháp tiên tiến hơn nước Anh nhiều. Tương tự như vậy, kinh tế nước Đức
đầu thế kỷ XIX kém xa nước Anh và nước Pháp nhưng nền triết học của nước
Đức thì vượt xa hai nước kia. Điều đó chứng tỏ rằng, sự phát triển của ý thức
xã hội không phải bao giờ cũng song hành với sự phát triển kinh tế và các
quan hệ kinh tế.
- Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong các xã hội có giai cấp thì các giai cấp khác
nhau sẽ kế thừa những di sản khác nhau của những giai đoạn trước. Giai cấp
tiến bộ đang lên sẽ chọn kế thừa những tư tưởng tiến bộ của thời đại trước, trái
lại, giai cấp lỗi thời, đi xuống bao giờ cũng chọn tiếp thu những tư tưởng và lý
thuyết bảo thủ, phản tiến bộ để cố gắng tìm cách duy trì sự thống trị của mình.
VD: Khi làm cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên tiến của
giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời cổ đại.
- Quan điểm của triết học Mác Lênin về tính kế thừa của ý thức hội ý
nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của hội
hội chủ nghĩa. V.I. Lênin nhấn mạnh rằng, văn hoá hội chủ nghĩa cần phải
phát huy những thành tựu truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hoá nhân
loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan mác-xít.
3. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội ảnh hưởng tới tồn tại xã hội.
Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có
những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi phối các
hình thái ý thức xã hội khác. Điều này nói lên rằng, các hình thái ý thức xã hội
không chỉ chịu sự tác động quyết định của tồn tại xã hội, mà còn chịu sự tác động
lẫn nhau. Mối liên hệ và tác động lẫn nhau đó giữa các hình thái ý thức xã hội làm
cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những tính chất và những mặt không thể giải
thích trực tiếp được bằng các quan hệ vật chất.
VD: Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt to lớn; còn ở
Tây Âu trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần xã hội như
triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền.
Bên cạnh đó, trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị
vai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng
cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác. Trong
điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tưởng như triết học, văn học
nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng sẽ không tránh
khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp
cách mạng của nhân dân.
4. Ý thức xã hội tác động ngược trở lại tồn tại xã hội
Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội mạnh hay
yếu còn phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào các quan hệ kinh tế vốn
là cơ sở hình thành các hình thái ý thức xã hội; vào trình độ phản ánh và sự xâm
nhập của ý thức xã hội vào quần chúng cả chiều sâu, chiều rộng; và đặc biệt là vào
vai trò lịch sử của giai cấp đại diện cho ngọn cờ tư tưởng đó. Do đó, cần phân biệt
ý thức xã hội tiến bộ với ý thức xã hội lạc hậu, cản trở sự tiến bộ xã hội. Ta có thể
kết luận, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực tác động
ngược trở lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức
hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần
hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
** Ý nghĩa phương pháp luận:
- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống
hội. vậy công cuộc cải tạo hội cũ, xây dựng hội mới phải được tiến
hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
- Cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức
xã hội.
Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại hội mới tất yếu dẫn
đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của hội ngược lại, những tác động
của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi
mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Cần thấy rằng chỉ thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của hội hội chủ
nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác
lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
IV. LIÊN HỆ VIỆT NAM
a) Tình hình Việt Nam hiện nay
- Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội
nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi khó khăn, thách thức đan xen. Một
mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tưởng văn hóa, phát huy tác động tích cực của
đời sống tinh thần hội đối với quá trình phát triển kinh tế vào công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan trong việc xây
dựng văn hóa, con người mới. Cụ thể, Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế đã thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất
Việt Nam, kết cấu hạ tầng kinh tế, hội phát triển nhanh, cấu kinh tế sự
chuyển dịch tích cực từ nông lâm ngư nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
- Những đã đang làm chao đảo nhiều giá trịtác động tiêu cực của toàn cầu hoá
tinh thần nói chung, nhân cách con người nói riêng. Đặc biệt, một số giá trị đạo đức
tốt đẹp, thiêng liêng… vốn vị trí quan trọng trong hệ giá trị văn hoá truyền thống
của dân tộc Việt Nam đang nguy bị mai một bào mòn. Trong quá trình điều
chỉnh theo chế thị trường, dễ dẫn đến cuộc làm giàu bằngcạnh tranh, ganh đua
mọi thủ đoạn, làm phá vỡ những giá trị văn hóa.
VD: Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra lối sống hưởng thụ, xa hoa, lãng phí và cũng hình thành nên
tâm lí sính ngoại của người dân.
- Không chỉ vậy, là nhân tố đặc biệt quan trọng, quy cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
định sự phát triển, vận hành xã hội trong thế kỷ 21. Đặc trưng nổi bật của cách mạng
công nghiệp 4.0 sự kết hợp công nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau, nhờ đó xóa
bỏ dần các ranh giới tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, hội
cùng rất nhiều những thành tựu.
- Nhưng bên cạnh đó, vấn đề chính trị, tôn giáo còn nhiều bất cập, xuất hiện cả
những hệ tư tưởng lệch lạc.
VD: Tình trạng tham gia biểu tình, chống đối gây bất ổn chính trị trong nước.
- Đặc biệt, giới trẻ ở Việt Nam đang gặp phải những vấn đề không phải ai cũng
có thể tự nhận ra
+ Thứ nhất, thế hệ trẻ ngày nay có sự tiếp xúc, học hỏi từ nhiều nền văn hóa. Do đó,
táo bạo, dám nghĩ dám làm kim chỉ nam cho những ý tưởng của họ. Cũng từ
đó, một bộ phận bước đầu đạt được thành công đã ngủ quên trên chiến thắng,
không tiếp tục học tập thế hệ đi trước.
+ Thứ hai, việc giáo dục tưởng đạo đức hoặc chưa được coi trọng trọng đúng
mức, hoặc quá cứng nhắc nên người trẻ còn chưa được trang bị đầy đủ lý luận về
mặt tư tưởng khi bước ra hội nhập với thế giới.
b) Xây dựng ý thức xã hội ở Việt Nam
Từ những tình hình nói trên của Việt Nam, nhóm chúng em đã nghiên cứu và tìm hiểu được
một vài biện pháp để Xây dựng ý thức xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0. Có thể thể nói, xây dựng ý thức xã hội là quá trình lâu dài, phức tạp, để có
hiệu quả, trước hết chúng ta cần:
+ Đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con người
mới. Khi nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã khái quát: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn
tại hội của họ quyết định ý thức của họ”. Ý thức hội mới luôn bị chi phối bởi
điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội mới. Vì vậy, xây dựng ý thức
xã hội mới phải bắt đầu từ việc xây dựng đời sống vật chất của xã hội mới.
+ Không ngừng hoàn thiện ý thức hội mới theo hướng khoa học, cách mạng,
tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng hội mới, con người mới. Chúng ta cần đẩy
mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
đồng thời cần chú trọng vấn đề kế thừa và đổi mới những giá trị truyền thống của dân
tộc. Đó không chỉ sự gìn giữ, bảo lưu các giá trị truyền thống, còn tiếp thu
chọn lọc các giá trị tinh thần được du nhập từ bên ngoài.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phát huy vai trò của các phương
tiện thông tin đại chúng trong quá trình tuyên truyền, giáo dục ý thức hội
mới. Tăng cường vai trò của báo chí, của các phương tiện thông tin đại chúng khác
trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng dư
luận theo chiều hướng tích cực, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái, luận
điệu phản động.
+ Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính chủ động,
tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
+ Đảng ta cũng khẳng định, trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc
tế, phải đặc biệt quan tâm , kế thừa giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc
phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh
hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam.
| 1/9

Preview text:

I.
TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH 1. Khái niệm: -
Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, là những mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với
tự nhiên và giữa con người với nhau. -
Trong đó, quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ vật chất, kinh tế giữa con
người với nhau là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá
trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội.
VD: Thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công
cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kỹ thuật chế tác, có nhiều
loại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời kì này con người nhận biết và tận
dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó
điều kiện khí hậu thuận lợi cộng với sự đa dạng của các loài động thực vật tạo nên
nguồn tài nguyên rất phong phú.
2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội gồm có: -
Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó.
Ví dụ: phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều
kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam. -
Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như: các điều kiện
khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của không gian sinh tồn của cộng đồng xã hội. -
Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư, mô hình tổ chức dân cư,...
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo thành
điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố
cơ bản nhất. Bởi vì: trình độ của phương thức sản xuất như thế nào sẽ quyết định sự tác động
của con người đến môi trường tự nhiên và quy mô phát triển dân số như thế ấy.
Ví dụ: trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông ngòi,... tất yếu làm hình
thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất đối với người Việt Nam. Để tiến
hành được phương thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có
tính ổn định bền vững,...
II. Ý THỨC XÃ HỘI VÀ KẾT CẤU Ý THỨC XÃ HỘI 1. Khái niệm -
Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những quan
điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn
tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ví dụ: Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa;
truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt Nam
có hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân tộc Việt trong nhiều thế kỷ, nhất là
phong kiến là tư tưởng Nho giáo.
Ta cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. -
Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể. Ý
thức của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ khác nhau.
Do đó, nó hiển nhiên là mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân không phải bao
giờ cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng,
một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định. -
Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái
khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức khác nhau. -
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với
nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.
2. Kết cấu của ý thức xã hội
a) Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận -
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người
hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ
thống hóa, khái quát hóa. -
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật… -
Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống
hàng ngày, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Trình độ ý thức thông thường
tuy thấp hơn ý thức lý luận, nhưng tri thức kinh nghiệm phong phú của nó là tiền
đề quan trọng cho sự hình thành các lý thuyết khoa học.
b) Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng ● Tâm lý xã hội
- Tâm lý xã hội là khái niệm chỉ toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập
quán… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình
thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó. - Đặc điểm:
+ Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống hàng ngày của con người.
+ Đây là sự phản ánh có tính tự phát, thường ghi lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội.
+ Không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối quan
hệ xã hội của con người.
+ Vẫn còn mang tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, còn
yếu tố trí tuệ thì đan xen với yếu tố tình cảm.
- Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội
trong sự phát triển của ý thức xã hội. ● Hệ tư tưởng
- Hệ tư tưởng là khái niệm chỉ trình độ cao của ý thức xã hội, được hình thành
khi con người nhận thức sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của mình. - Đặc điểm:
+ Được hình thành khi con người nhận thức sâu sắc về sự vật, hiện tượng
+ Có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội
+ Được hình thành tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định
và truyền bá trong xã hội
+ Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan
điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…), kết
quả của sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội.
c) Mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng
Tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng tâm
lý xã hội và hệ tư tưởng có mối liên hệ tác động qua lại với nhau. Chúng có chung
nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. -
Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở cho sự hình thành,
truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định. -
Trái lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã
hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng
đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội -
Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không phải là
sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
Ví dụ: Hệ tư tưởng Mác – Lênin không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai cấp công
nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp tư sản, mà là sự khái quát lý luận từ tổng
số những tri thức của nhân loại, từ những kinh nghiệm của cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân, và kế thừa trực tiếp các học thuyết kinh tế, xã hội và triết học vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19.
→ Như vậy, hệ tư tưởng liên hệ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của tâm lý xã hội,
nhưng nó không phải đơn giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
3. Tính giai cấp của ý thức xã hội
– Trong xã hội có giai cấp, do các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau,
những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp quy định, nên ý thức xã hội của các giai
cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
– Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư tưởng xã hội.
+ Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có
thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác
+ Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc hơn nhiều.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những tư tưởng hoặc hệ tư tưởng
đối lập nhau: Tư tưởng của giai cấp bóc lột và bị bóc lột, của giai cấp thống trị và bị thống trị
+ Tuy nhiên, ý thức của các giai cấp trong xã hội cũng có sự tác động qua lại với nhau.
Không chỉ giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị mà giai cấp
thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp bị trị
– Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn những điều kiện sinh hoạt
vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc, chẳng
hạn như những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên được
hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc.
Vì vậy, trong ý thức xã hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâm
lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách… của dân tộc, truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.
III. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
1. Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội nào thì
có ý thức xã hội ấy. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm và xu
hướng biến đổi, phát triển của ý thức xã hội. Ý thức xã hội phản ánh cái logic
khách quan của tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi. Khi
tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất, thay đổi thì những từ tưởng, quan
điểm về chính trị, pháp luật và triết học sớm hay muộn cũng sẽ có những sự thay đổi nhất định.
Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận,
hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh
tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế
được phản ánh, bằng cách này hay cách khác, trong các tư tưởng ấy. Như vậy, sự
phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã hội phải được xem xét một cách biện chứng.
2. Tính độc lập tương đối ý thức xã hội.
● Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Lịch sử xã hội loài người cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi rất lâu rồi, song ý
thức xã hội do xã hội đó sản sinh ra vẫn tiếp tục tồn tại. Điều này biểu hiện rõ nhất
ở các khía cạnh khác nhau của tâm lý xã hội như truyền thống, thói quen và nhất là
tập quán. Chính vì vậy, V.I.Lênin đã khẳng định, “sức mạnh của tập quán ở hàng
triệu và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê gớm nhất”.
→ Nguyên nhân của điều này chúng ta có thể kể đến là: -
Thứ nhất, do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của
con người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ánh của ý thức xã hội. -
Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và do cả tính bảo
thủ của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại xã hội mới
cũng chưa đủ để làm cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ hoàn toàn mất đi. -
Thứ ba, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của các
giai cấp nào đó trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu thường níu
kéo, bám chặt vào những tư tưởng lạc hậu để bảo vệ và duy trì quyền lợi ích kỉ
của họ, chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội.
→ Vì vậy, muốn xây dựng xã hội mới thì nhất định phải từng bước xóa bỏ được
những tàn dư, những tư tưởng và ý thức xã hội cũ song song với việc bồi đắp,
xây dựng và phát triển ý thức xã hội mới. Tuy nhiên, khi thực hiện những nhiệm
vụ này thì không được nóng vội, không được dùng các biện pháp hành chính
như đã từng xảy ra ở các nước XHCN và cả ở nước ta nhiều năm trước đây.
Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. -
Triết học Mác thừa nhận rằng, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội
nhưng cũng có thể vượt trước tồn tại xã hội. Thực tế là nhiều tư tưởng khoa
học và triết học trong những điều kiện nhất định có thể vượt trước tồn tại xã
hội của thời đại rất xa, hướng hoạt động thực tiễn của con người vào mục đích
nhất định. Sở dĩ ý thức xã hội có khả năng đó là do nó phản ảnh đúng được
những mối liên hệ logic, khách quan, tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội. Lịch
sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng lớn phải sau một thời gian,
có thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực tiễn xác nhận. Nhiều dự báo của
C.Mác đang trở thành sự thật trong thời đại chúng ta đã hoàn toàn khẳng định điều đỏ. -
Chẳng hạn, dự báo tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đang được
thực tiễn của của cuộc cách mạng chuyển đổi công nghệ số, thời đại trí tuệ
nhân tạo hay cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, thời đại tế tri thức xác nhận. -
Hay như Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng là một ví dụ điển hình khác. Chủ nghĩa
Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của thời đại – giai cấp
công nhân, tuy ra đời vào thế kỷ XIX trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng đã
chỉ ra được những quy luật vận động tất yếu của xã hội loài người nói chung,
của xã hội tư bản nói riêng, qua đó chỉ ra rằng xã hội tư bản nhất định sẽ bị
thay thế bằng xã hội cộng sản.
Ý thức xã hội có tính kế thừa. -
Tiến trình phát triển đời sống tinh thần của xã hội loài người cho thấy rằng,
các quan điểm lý luận, các tư tưởng lớn của thời đại sau bao giờ cũng dựa vào
những tiền đề đã có từ các giai đoạn lịch sử trước đó. Chính C.Mác và
Ph.Ăngghen cũng đã thừa nhận rằng, ngay cả chủ nghĩa cộng sản phát triển
cũng trực tiếp bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật Pháp… Và, “nếu trước đó
không có triết học Đức, đặc biệt là triết học Hêghen, thì sẽ không bao giờ có
chủ nghĩa xã hội khoa học Đức, chủ nghĩa xã hội duy nhất khoa học tồn tại từ
trước đến nay.” Vì vậy, hoàn toàn hợp quy luật rằng, chủ nghĩa Mác không chỉ
đã tiếp thu tất cả những gì là tinh hoa trong lịch sử văn minh nhân loại mà còn
kế thừa trực tiếp từ nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp. -
Trong sự phát triển của mình ý thức xã hội có tính kế thừa nên không thể giải
thích một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào trình độ, hiện trạng phát triển kinh
tế và các quan hệ kinh tế - xã hội. Chẳng hạn, trình độ phát triển kinh tế của
nước Pháp vào thế kỷ XVIII kém xa nước Anh nhưng tư tưởng lý luận thì
nước Pháp tiên tiến hơn nước Anh nhiều. Tương tự như vậy, kinh tế nước Đức
đầu thế kỷ XIX kém xa nước Anh và nước Pháp nhưng nền triết học của nước
Đức thì vượt xa hai nước kia. Điều đó chứng tỏ rằng, sự phát triển của ý thức
xã hội không phải bao giờ cũng song hành với sự phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế. -
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong các xã hội có giai cấp thì các giai cấp khác
nhau sẽ kế thừa những di sản khác nhau của những giai đoạn trước. Giai cấp
tiến bộ đang lên sẽ chọn kế thừa những tư tưởng tiến bộ của thời đại trước, trái
lại, giai cấp lỗi thời, đi xuống bao giờ cũng chọn tiếp thu những tư tưởng và lý
thuyết bảo thủ, phản tiến bộ để cố gắng tìm cách duy trì sự thống trị của mình.
VD: Khi làm cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng tiên tiến của
giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời cổ đại. -
Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý
nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của xã hội xã
hội chủ nghĩa. V.I. Lênin nhấn mạnh rằng, văn hoá xã hội chủ nghĩa cần phải
phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hoá nhân
loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế giới quan mác-xít.
3. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội ảnh hưởng tới tồn tại xã hội.
Thông thường, trong mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có
những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi phối các
hình thái ý thức xã hội khác. Điều này nói lên rằng, các hình thái ý thức xã hội
không chỉ chịu sự tác động quyết định của tồn tại xã hội, mà còn chịu sự tác động
lẫn nhau. Mối liên hệ và tác động lẫn nhau đó giữa các hình thái ý thức xã hội làm
cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những tính chất và những mặt không thể giải
thích trực tiếp được bằng các quan hệ vật chất.
VD: Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt to lớn; còn ở
Tây Âu trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần xã hội như
triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền.
Bên cạnh đó, trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị
có vai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng
cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác. Trong
điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học, văn học
nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng sẽ không tránh
khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
4. Ý thức xã hội tác động ngược trở lại tồn tại xã hội
Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội mạnh hay
yếu còn phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào các quan hệ kinh tế vốn
là cơ sở hình thành các hình thái ý thức xã hội; vào trình độ phản ánh và sự xâm
nhập của ý thức xã hội vào quần chúng cả chiều sâu, chiều rộng; và đặc biệt là vào
vai trò lịch sử của giai cấp đại diện cho ngọn cờ tư tưởng đó. Do đó, cần phân biệt
ý thức xã hội tiến bộ với ý thức xã hội lạc hậu, cản trở sự tiến bộ xã hội. Ta có thể
kết luận, ý thức xã hội, với tính cách là thể thống nhất độc lập, tích cực tác động
ngược trở lại lên tồn tại xã hội nói riêng và lên đời sống xã hội nói chung.
→ Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần
xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
** Ý nghĩa phương pháp luận: -
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống
xã hội. → Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến
hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. -
Cần quán triệt rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội.
Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn
đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động
của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi
mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ
nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác
lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
IV. LIÊN HỆ VIỆT NAM
a) Tình hình Việt Nam hiện nay -
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Một
mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy tác động tích cực của
đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế vào công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan trong việc xây
dựng văn hóa, con người mới. Cụ thể, Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất ở
Việt Nam, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch tích cực từ nông lâm ngư nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. -
Những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá đã và đang làm chao đảo nhiều giá trị
tinh thần nói chung, nhân cách con người nói riêng. Đặc biệt, một số giá trị đạo đức
tốt đẹp, thiêng liêng… vốn có vị trí quan trọng trong hệ giá trị văn hoá truyền thống
của dân tộc Việt Nam đang có nguy cơ bị mai một và bào mòn. Trong quá trình điều
chỉnh theo cơ chế thị trường, dễ dẫn đến cuộc cạnh tranh, ganh đua làm giàu bằng
mọi thủ đoạn, làm phá vỡ những giá trị văn hóa.
VD: Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra lối sống hưởng thụ, xa hoa, lãng phí và cũng hình thành nên
tâm lí sính ngoại của người dân. -
Không chỉ vậy, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là nhân tố đặc biệt quan trọng, quy
định sự phát triển, vận hành xã hội trong thế kỷ 21. Đặc trưng nổi bật của cách mạng
công nghiệp 4.0 là sự kết hợp công nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau, nhờ đó xóa
bỏ dần các ranh giới và có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội
cùng rất nhiều những thành tựu. -
Nhưng bên cạnh đó, vấn đề chính trị, tôn giáo còn nhiều bất cập, xuất hiện cả
những hệ tư tưởng lệch lạc.

VD: Tình trạng tham gia biểu tình, chống đối gây bất ổn chính trị trong nước. -
Đặc biệt, giới trẻ ở Việt Nam đang gặp phải những vấn đề mà không phải ai cũng có thể tự nhận ra
+ Thứ nhất, thế hệ trẻ ngày nay có sự tiếp xúc, học hỏi từ nhiều nền văn hóa. Do đó,
táo bạo, dám nghĩ dám làm là kim chỉ nam cho những ý tưởng của họ. Cũng từ
đó, một bộ phận bước đầu đạt được thành công đã ngủ quên trên chiến thắng,
không tiếp tục học tập thế hệ đi trước.
+ Thứ hai, việc giáo dục tư tưởng đạo đức hoặc chưa được coi trọng trọng đúng
mức, hoặc quá cứng nhắc nên người trẻ còn chưa được trang bị đầy đủ lý luận về
mặt tư tưởng khi bước ra hội nhập với thế giới.
b) Xây dựng ý thức xã hội ở Việt Nam
Từ những tình hình nói trên của Việt Nam, nhóm chúng em đã nghiên cứu và tìm hiểu được
một vài biện pháp để Xây dựng ý thức xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0. Có thể thể nói,
xây dựng ý thức xã hội là quá trình lâu dài, phức tạp, để có
hiệu quả, trước hết chúng ta cần:
+ Đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con người
mới. Khi nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã khái quát: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn
tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Ý thức xã hội mới luôn bị chi phối bởi
điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội mới. Vì vậy, xây dựng ý thức
xã hội mới phải bắt đầu từ việc xây dựng đời sống vật chất của xã hội mới.
+ Không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa học, cách mạng,
tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới. Chúng ta cần đẩy
mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
đồng thời cần chú trọng vấn đề kế thừa và đổi mới những giá trị truyền thống của dân
tộc. Đó không chỉ là sự gìn giữ, bảo lưu các giá trị truyền thống, mà còn tiếp thu có
chọn lọc các giá trị tinh thần được du nhập từ bên ngoài.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phát huy vai trò của các phương
tiện thông tin đại chúng trong quá trình tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội
mới.
Tăng cường vai trò của báo chí, của các phương tiện thông tin đại chúng khác
trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng dư
luận theo chiều hướng tích cực, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái, luận điệu phản động.
+ Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính chủ động,
tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
+ Đảng ta cũng khẳng định, trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc
tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và
phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh
hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam.