TỔNG HỢP CÁC CÂU HỎI ĐÃ THI | Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Các câu hỏi đã thi thường bao gồm các chủ đề quan trọng trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, từ các sự kiện lịch sử, nhân vật lãnh đạo, đến các chính sách và chiến lược của Đảng. Việc tổng hợp các câu hỏi này giúp sinh viên hiểu rõ hơn về phạm vi và nội dung của môn học, đồng thời củng cố kiến thức và chuẩn bị tốt nhất cho kỳ thi.
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (LSD01)
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 41487147
Câu 1: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam?
− Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/5/1890 trong gia đình
nhà nho yêu nước, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc.
− Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên
thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong
trào đấu tranh chống thực dân, Người sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất
nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
− 5/6/1911 Người ra đi đường cứu nước. Người sang phương Tây chứ không sang
phương Đông bởi Người rút kinh nghiệm thất bại của thế hệ các nhà cách mạng tiền bối
Phan Bội Châu, Phan châu Trinh..., Người đến với nước Pháp để hiểu xem "nước Pháp và
các nước khác làm thế nào để về nước giúp đỡ đồng bào mình".
− Người tìm hiểu cách mạng Mỹ(1776), Cách mạng Pháp(1789). Nguyễn Ái Quốc khẳng
định “con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho
nhân dân và các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng”.
− Đăc biệt Người quan tâm tìm hiểu Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917. Cách Mạng
thành công đã nêu một tấm gương sáng về giải phóng dân tộc “mở ra trước mắt họ thời
đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
− 1919 Thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi “Bản yêu sách của nhân dân An
Nam” tới Hội nghị Vecxay đòi quyền tụ do, dân chủ, bình đẳng.
− 7/1920 Người đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và thuộc địa của Lênin. Người đã cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, vui mừng đến phát
khóc” vì Người đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.
− 12/1920 Nguyễn Ái Quốc gia nhập Quốc Tế Cộng Sản và tham gia thành lập Đảng
Cộng Sản Pháp.
− 1920-1930 Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam.
Đặc biệt xuất bản một số tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp. Đường Cách Mệnh.
− 6/1925 Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
− Từ 1925-1927, Hội VNCM thanh niên đã mở các lớp tập huấn chính trị
cho các cán bộ CMVN. − Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên
thành lập ở số nhà 5D, Hàm Long, Hà Nội.
− Ngày 1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở
Hương Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị
đó không được chấp nhận, trở về nước, ngày 17-6-1929, những đảng viên trong Chi bộ
Cộng sản thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25-7-1929 An Nam Cộng sản Đảng
được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9-1929 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành
lập ở Trung Kỳ.
− Sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ
dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh
đạo. Chính vì vậy từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại
Cửu Long dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập đảng
thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được xem như là
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, trong đó lấy độc lập tự do dân tộc làm tư tưởng
cốt lõi. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập ĐCSVN.
Kết luận, ý nghĩa Như vậy, Đảng ra đời là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, khoa
học của Nguyễn Ái Quốc về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đảng ra đời đã chấm dứt sự
khủng hoảng đường lối và giai cấp lãnh đạo sâu sắc, đưa nước ta sang giai đoạn mới, đi lOMoAR cPSD| 41487147
dần vào quỹ đạo theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Cách mạng Việt Nam trở nên
thống nhất về mặt tổ chức lãnh đạo trên cả nước. Lần đầu tiên, cách mạng Việt Nam có
một cương lĩnh chính trị tuy ngắn gọn nhưng đã phản ánh tương đối đầy đủ và đáp ứng
được yêu cầu cơ bản của nhân dân đồng thời phù hợp với xu thế phát triển của thời đại
mới; trở thành vũ khí chiến đấu sắc bén của những người cộng sản Việt Nam trước mọi
kẻ thù, làm cơ sở cho những chủ trương, đường lối của cách mạng Việt Nam trong hơn
80 năm qua, là nhân tố quan trọng nhất soi đường cho cách mạng Việt Nam.
Câu 2: Anh/chị hãy phân tích vai trò của Nghị quyết TW 15 (01/1959) đối với Cách mạng
miền Nam? (đề thi HKII 2019-2020)
Bối cảnh lịch sử: Sau Hiệp định Giơnevơ, ở miền Nam, Mỹ - Diệm thi hành chính sách
tàn bạo. phátxít hoá, trắng trợn vi phạm Hiệp định Giơnevơ, tổ chức tổng tuyển cử
riêng rẽ, khủng bố, đàn áp dã man phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam. Bối
cảnh lịch sử:
- Sau Hiệp định Giơnevơ, ở miền Nam, Mỹ - Diệm thi hành chính sách tàn bạo. phátxít
hoá, trắng trợn vi phạm Hiệp định Giơnevơ, tổ chức tổng tuyển cử riêng rẽ, khủng bố,
đàn áp dã man phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam. -
Qua nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh của nhân dân miền Nam và bản
Đề cương cách mạng miền Nam do đồng chí Lê Duẩn khởi thảo từ mùa thu năm 1956,
tháng 1- 1959, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương khoá II họp tại Hà Nội ra
Nghị quyết vế đường lối cách mạng miền Nam.
Nội dung cơ bản:
Nghị quyết chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việi Nam một là,mâu thuẫn giữa một
bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ phong kiến và bọn tư sản mại bản
quan liêu thống trị cả miền Nam và một bên là dân tộc Việt Nam, nhân dân cả nước Việt
Nam, bao gồm nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam; hai là, mâu thuẫn giữa con
đường Xã hội chủ nghĩa với con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai mâu thuẫn này
mang tính chất khác nhau, song chúng quan hệ biện chứng với nhau và tác động mạnh mẽ lẫn nhau.
- Từ sự phân tích mâu thuẫn trên, Nghị quyết chỉ ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn mới là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ
vững hoà bình: thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành
nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; ra sức củng cố miền Bắc và đưa miền
Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh; tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới. -
Về cách mạng miền Nam, Nghị quyết phân tích tình hình xã hội miền Nam sau năm 1954
có hai mâu thuẫn cơ bản: một là, mâu thuần giữa nhân dân miền Nam với bọn đế quốc xâm
lược, chủ yếu là đế quốc Mỹ; hai là, mâu thuẫn giữa nhân dân mìên Nam, trước
hết, là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với
đế quốc Mỹ xâm lược và tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm là mâu thuẫn chủ yếu trong
giai đoạn cách mạng hiện nay. lOMoAR cPSD| 41487147
+ Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
+ Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc xâm
lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế
quốc Mỹ; thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam; thực hiện
độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững
hoà bình; thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực bảo vệ
hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
+ Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực
lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ
ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân.
+ Về khả năng phát triển của tình hình, Nghị quyết dự báo: đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu
chiến nhất, cho nên trong bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam
cũng có khả năng chuyển thành cuộc khởi nghĩa vũ trang trường kỳ và thắng lợi cuối
cùng nhất định về ta.
+ Về lực lượng cách mạng, Nghị quyết xác định: lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân,
nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, lấy liên minh công nông làm cơ sở. Nghị quyết chủ
trương thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất riêng ở miền Nam, có cương
lĩnh phù hợp với tính chất, nhiệm vụ và thành phần nhằm tập hợp rộng rãi tất cả các lực
lượng chống đế quốc và tay sai.
+ Về vai trò của Đảng bộ miền Nam, Nghị quyết khẳng định: sự tồn tại và trưởng thành
của Đảng bộ miền Nam dưới chế độ độc tài phát-xít là một yếu tố quyết định thắng lợi
của phong trào cách mạng miền Nam. Vấn đề mấu chốt là phải củng cố, xây đựng Đảng
bộ miền Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong hoàn cảnh mới, Đảng
bộ phải hết sức đề cao công tác bí mật, triệt để lợi dụng khả năng hợp pháp để gìn giữ
lực lượng của Đảng... Để bảo vệ cơ quan đầu não và che giấu cán bộ cần xây dựng ở các
địa phương những cơ sở an toàn và khu an toàn. Ý nghĩa: -
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương khoá II (tháng 1-1959) có
tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển của cách mạng miền Nam. Nó phản ánh đúng
và giải quyết kịp thời yêu cầu của cách mạng miền Nam trong việc khẳng định phương pháp
đấu tranh dùng bạo lực cách mạng để tự giải phóng mình là đúng đắn, phù hợp với
tình thế cách mạng đã chín muồi, khi địch đã dùng bạo lực phản cách mạng thẳng tay giết
hại cán bộ và nhân dân ta. Như vậy, Nghị quyết 15 năm 1959 của Đảng là ngọn đuốc soi
sáng con đường cách mạng miền Nam nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung. Từ khi
có Nghị quyết 15, chuyển biển của cách mạng miền Nam ngày càng rõ rệt. Đạo luật 10/59 của
chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm không còn là nỗi khiếp sợ của lực lượng cách mạng lOMoAR cPSD| 41487147
miền Nam. Mà ngược lại, chính quyền Sài Gòn và Hoa Kỳ liên tục bị “bất ngờ” và khốn đốn
trước những cuộc nổi dậy khắp nơi của nhân dân miền Nam, bắt đầu bằng Đồng khởi năm 1960.
Câu 3: Vì sao Đảng ta thay đổi tư duy đối ngoại theo phương châm "đa phương hoá,
đa dạng hoá"? Anh/ chị hãy phân tích tác động của phương châm đó trong thời
kỳ đổi mới hiện nay (HKII, 2019-2020)
Phương châm đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa là một tất yếu. Đảng và
Nhà nước luôn xác định Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của thế giới, gắn liền
với tiến trình phát triển của thế giới. Hiểu biết sâu sắc tình hình thế giới là điều kiện không
thể thiếu để xác định những mục tiêu, nhiệm vụ cho đất nước. Xa rời với sự vận động
chung, tự cô lập mình với thế giới bên ngoài là những sai lầm nguy hại, có thể ảnh hưởng
đến sự sinh tồn của cả dân tộc. Chính vì vậy, Đảng ta đã có những điều chỉnh kịp thời
trong chính sách ngoại giao, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng và tính tất yếu của chủ
trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại.
Đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa là một tất yếu vì những lý do sau:
Đầu tiên, về mặt chính trị - ngoại giao, do không nắm bắt kịp thời xu thế phát triển của
thế giới mà chính sách đối ngoại của chúng ta mười năm trước đổi mới đã bộc lộ nhiều hạn
chế. Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, bị cô lập lại bị các thế lực thù địch chống
phá, cộng với các chính sách phát triển sai lầm, không phù hợp với hoàn cảnh khiến nước
ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng.
Những biến động của tình hình thế giới tác động sâu sắc đến nhận thức và tư duy
của Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệ thống xã hội
chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Từ đây, Đảng ta nhận thức
và rút kinh nghiệm, cần phải thay đổi mô hình xã hội chủ nghĩa cũ, cụ thể hơn là đổi mới
chủ trương và chính sách ngoại giao sao cho hợp lí, hiệu quả.
Xuất phát từ tình hình cụ thể trong, ngoài nước và nhu cầu phát triển của nước ta,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt
đầu đã có những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược về đường lối và chính sách
đối ngoại, đặc biệt coi trọng đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ ngoại giao.
Với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập là xu thế chung hiện nay, việc hợp tác đa phương
trên nhiều lĩnh vực là tất yếu. Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội,
lao động, thông tin - truyền thông, môi trường, du lịch...được mở rộng, từ đó thúc đẩy
tiến bộ xã hội, phát triển thị trường lao động và hệ thống an sinh xã hội, xóa đói giảm
nghèo… Hội nhập khu vực và quốc tế về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế
đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển nền khoa học, giáo dục tiên tiến, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, thông tin và y tế quốc gia đáp ứng nhu cầu của người dân,
tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới trong các lĩnh vực này.
Việc VN tham gia mạng lưới liên kết kinh tế đa phương đã góp từng bước mở
cửa, gắn nền kinh tế và thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tiếp thu những
nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát triển, tạo thêm động lực
xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
Câu 4: So sánh đường lốicông nghiệp hoá của Đảng thời kỳtrướcđổi mới và thời kỳ đổimới. lOMoAR cPSD| 41487147 Sự giống nhau:
– Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất
yêu, khách quan. Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các
nước tư bản chủ nghĩa đã thực hiện từ lâu, công nghiệp hóa còn được đề
cập trong chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đồng thời, tình hình đất nước ta tồn tại
nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh mún, lạc hậu…
– Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa nên cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và
thấp kém, năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân nghèo nàn, lạc hậu,
công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn…
– Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự khác nhau:
– Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý. Ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn
với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
– Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh
tế khép kín, hướng nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường
giúp khai thác hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu
quả để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
– Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp
hóa là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trở thành sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn
lực để thực hiện công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa
tập trung của Nhà nước, theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ
tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện bằng cơ chế kinh tế thị
trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế. lOMoAR cPSD| 41487147
– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao
động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hóa ở thời kỳ đổi mới, lấy phát huy nguồn lực con người là
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; coi phát triển khoa học
và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội,
giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm
đến hiệu quả kinh tế xã hội. Còn ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh
tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự
nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
– Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, kết hợp chặt chẽ phát triển công
nghiệp với phát triển nông nghiệp, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song
song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, ra sức phát triển công
nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương. Ở
thời kỳ đổi mới, phải phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Cơ chế quản lý công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới là kế hoạch hóa
tập trung quan liêu, bao cấp. Sau đổi mới là được tiến hành trong thể chế
thị trường định hướng XHCH và hội nhập kinh tế Quốc tế.
Câu 5. Đánh giá về đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ Đổi mới. (đề HKI 2017-2018)
Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất nhiều thách thức.
Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn
mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi
trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp
tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy
nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ mà
Đảng ta đã từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra
đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau.
Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ tiến hành
công cuộc Đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là
bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển."*
Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác
nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó ưu tiên lOMoAR cPSD| 41487147
cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, với các nước và trung tâm
chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc. Trong những năm qua, Việt
Nam đã chủ động đàm phán và ký kết với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn
khổ quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện cho thế kỷ 21. Các mối quan hệ song phương
và đa phương đó đã góp phần không nhỏ vào việc không ngừng củng cố môi trường hoà
bình, ổn định và tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan
trọng trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong bối
cảnh thế giới toàn cầu hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay.
Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và
khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả ở các tổ chức khu vực như
ASEAN, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn á - Âu (ASEM)
… Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động của các tổ chức, diễn đàn quốc tế đã
góp phần từng bước nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự tham gia
và hoạt động tích cực của Việt Nam ở Liên Hợp Quốc cũng được các nước đánh giá tích
cực và hiệu quả.
Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực
để cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói nghèo,
tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, ... Việt Nam đã tích cực
tham gia vào nỗ lực chung của các nước tăng cường hợp tác chống khủng bố trên cơ sở
song phương và đa phương nhằm loại trừ tận gốc nguy cơ của khủng bố đối với an ninh
và ổn định của các quốc gia.
Việc khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác
thể hiện tư duy đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo cần thiết của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền ở các nước nhằm trao đổi kinh nghiệm lãnh
đạo và quản lý đất nước, góp phần thúc đẩy quan hệ mọi mặt đã góp phần nâng cao vị thế
uy tín của Việt Nam trên các diễn đàn đa phương. Đương nhiên, trong quan hệ với
các đảng cầm quyền trên thế giới chúng ta cũng xác định rõ các nguyên tắc: độc lập tự chủ;
bình đẳng; tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; cùng nhau
thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và
tiến bộ; và Đảng ta không quan hệ với các đảng, các tổ chức cực đoan.
Đối với nước ta, xác định đường lối đối ngoại mà đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là
mục tiêu hàng đầu là vừa phù hợp với xu thế chung, vừa là ý Đảng lòng Dân và tạo sự
đồng thuận cao trong xã hội. Sự đúng đắn trong quan điểm chỉ đạo của Đảng thể hiện ở
việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là một
trong những vấn đề quan trọng nhất “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên
cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển... Trên cơ
sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững
hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước”
Đây là kết quả của quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để, khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng, trong đó có tư duy đối ngoại là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại hiện nay. Chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam mở rộng quan hệ với các đảng chính trị trên lOMoAR cPSD| 41487147
thế giới trong tình hình hiện nay là đúng đắn, là cần thiết, nhằm tạo nên sự đồng thuận
và cổ vũ cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
giành thắng lợi.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với thế và lực mới do những thành tựu và kinh nghiệm
30 năm đổi mới mang lại, với vị thế ngày càng nâng cao trên trường quốc tế, cơ hội rất lớn
và thách thức cũng không nhỏ. Đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng qua các kỳ Đại hội đã
thể hiện sự nhất quán, sáng tạo và hệ thống với tầm cao mới. Chúng ta tin tưởng rằng, với
kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng và đặc biệt trong 30 năm đổi mới toàn diện đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp để đưa sự nghiệp
cách mạng nước ta sang một bước ngoặt mới. Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của
Đảng, trong thời gian tới hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta sẽ đạt được
nhiều thành tựu to lớn, giữ vững môi trường hòa bình và phát huy ngoại lực sớm đưa nước
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Câu 6: Phân tích yếu tố thời cơ trong công cuộc giành chính quyền của Đảng
Cộng Sản Đông Dương (1939-1945) (đề HKII, 2017-2018)
74 năm trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, dân tộc Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, đánh đổ thực dân,
phong kiến; thành lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trong những yếu tố
góp phần làm nên thắng lợi to lớn là bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ cách mạng.
Thứ nhất là từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật Bản bị
thua to trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II, nên
phải gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng nhãn quan chính trị
nhạy bén, tầm nhìn chiến lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, Hồ Chí Minh và Ban Thường
vụ Trung ương Đảng đã nhóm họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ
trang trong cả nước. Ngay sau cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã được phát ra.
Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận được
thêm một tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị đầu hàng quân
Đồng minh. Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban
Khởi nghĩa toàn quốc; đồng thời soạn thảo “Quân lệnh số 1” và được phát đi ngay, hạ
lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima của
Nhật Bản, Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành
quyền độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, đồng chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần
tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.
Tại sao lại phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó là vì đồng chí Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng đã nhận định và nắm bắt được tình hình có sự chuyển biến nhanh
chóng: phát xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức; quân đội Nhật đã và đang tan rã, bị tước
vũ khí trên khắp các chiến trường; quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Vì vậy nếu
không khởi nghĩa giành chính quyền từ tay quân Nhật, mà để đến khi quân Đồng minh
kéo vào nhận bàn giao chính quyền từ tay quân Nhật, thì nhân dân ta không thể tiến hành
khởi nghĩa được nữa, vì lúc này Việt Minh đang cùng phe với quân Đồng minh.
Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp
nhận sự thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc lực lượng cách mạng đã
chớp thời cơ, tranh thủ thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Việc vua Bảo Đại thoái vị đánh lOMoAR cPSD| 41487147
dấu sự sụp đổ của chính quyền phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu mối quan trọng
mà các thế lực đế quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính
quyền cách mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta.
Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
“Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập và tự do đã ra đời; Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa cũng đã chính thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ
không tuyên bố độc lập, chủ quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào thì dù có cướp được
chính quyền cũng phải bàn giao lại cho quân Đồng minh tiếp quản. Vì vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí
Minh tiếp tục chớp thời cơ, khẩn trương chỉ đạo sớm tiến hành tổ chức Lễ Độc
lập liền sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công trên cả nước
chính là nhằm ngay lập tức khẳng định chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước các thế
lực đế quốc, phản động đội lốt dưới danh nghĩa quân Đồng minh.
Có thể khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng
Tháng Tám: Ðảng ta đã chọn đúng thời cơ "nổ ra đúng lúc". Ðó là lúc 16 nghìn quân Anh
chưa vào miền nam và 200 nghìn quân Tưởng chưa vào miền bắc để giải giáp quân Nhật;
cũng là lúc quân Nhật bại trận mất tinh thần, ngồi chờ Ðồng minh đến tước vũ khí; ngụy
quyền tay sai bỏ trốn hoặc đầu hàng chính quyền cách mạng. Chọn đúng thời cơ là một
khoa học, là một nghệ thuật, nhờ thế sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội,
tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước một cách nhanh, gọn, không đổ
máu và thành công triệt để.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Ðảng ta, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị
tốt lực lượng, sẵn sàng chủ động, chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi
nghĩa giành thắng lợi. Ðây là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi
nghĩa và cách mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.
Làm rõ yếu tố thời cơ của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay?
Những bài học lịch sử về Cách mạng Tháng Tám còn rất nhiều nhưng bài học về
nắm bắt thời cơ cho đến nay vẫn là bài học nóng hổi, mang tính thời sự trong công cuộc
phát triển đất nước hôm nay. Chúng ta đã ra khỏi chiến tranh, ra khỏi sự kiệt quệ kinh
tế và đang trở thành một trong những quốc gia phát triển trên thế giới. Một nước có
diện tích và dân số thuộc vào những nước đứng nhóm đầu, tiềm năng rất lớn còn cần
được khai thác; một đất nước ổn định về chính trị, an ninh quốc phòng ngày càng
được củng cố... tạo ra nhiều lợi thế đối nội và đối ngoại. Đó là cơ sở xuất hiện những
thời cơ để vươn lên dân giàu nước mạnh.
Ngày nay, thế giới đang diễn ra mạnh mẽ cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại,
tạo ra những kỹ thuật mũi nhọn đưa năng suất lao động lên rất cao. Xu thế khu vực hóa
và toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng mạnh. Đồng thời, xu thế hòa bình, hợp tác và phát
triển cũng diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Đó là những thời cơ mới tạo môi trường quốc
tế thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của nước ta. Chính đường lối, chính sách hơn 20
năm đổi mới của Đảng và Nhà nước đã mang lại những thành tựu to lớn, tạo thời cơ và
điều kiện cho đất nước tiến lên theo xu thế phát triển chung của thời đại. Đất nước ta
đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vững
bước đi lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ
trương tích cực và chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việc nước ta gia nhập Tổ lOMoAR cPSD| 41487147
chức Thương mại Thế giới (WTO) là dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Đó còn là kết quả của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ trong tình hình mới, chúng ta phải luôn quán
triệt sâu sắc phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra
và vận dụng thành công trong thời kỳ giành và giữ chính quyền năm 1945 - 1946. Đó là
thước đo bản lĩnh cách mạng, sự mẫn cảm và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta trong
thời kỳ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta.
Câu 7: Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường
định hướng Xã hội chủ nghĩa? (đề HKII, 2017-2018)
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát
triển kinh tế tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư
duy lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan,
những nội dung và đặc trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát
triển kinh tế ở nước ta.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (1986) và ngày càng được
hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường phát triển
kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi
mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời
tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta
phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh
thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và
an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta
lựa chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Nhận
thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với 6 đặc
trưng cơ bản và đến nay Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với
8 đặc trưng cơ bản là:
- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện. lOMoAR cPSD| 41487147
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi
cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước
tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn
phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị
trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy
luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song,
trong thực tế không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi
giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những
nền kinh tế hàng hóa cụ thể.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển
kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế
hàng hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người
sản xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội
cũng như trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là
phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột,
giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát
trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều
năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận
của Đảng cộng sản Việt Nam.
Câu 8: Vì sao nói sự ra đời của ĐCSVN là tất yếu? Hãy chỉ ra (và phân tích) tính
sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên?
Sự ra đời của ĐCSVN là tất yếu vì: Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi mở ra
một thời đại mới trong lịch sử nhân loại, có tác động thức tỉnh các dân tộc đang đấu tranh giải phóng.
– Những tư tưởng cách mạng cấp tiến dội vào các nước thuộc địa.
– Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt thêm các mâu thuẫn
cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam.
– Tình trạng khủng hoảng kinh tế –xã hội , đặc biệt là các mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã
dẫn đến nhu cầu đấu tranh để tự giải phóng.
– Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết cả nhân dân ta: là nhu cầu
bức thiết của dân tộc .
– Sự ra đời của Đảng là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước lOMoAR cPSD| 41487147
– Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành độc lập dân tộc tuy diễn ra liên
tục mạnh mẽ, nhưng các phong trào đều lần lượt bị thất bại vì đã không đáp ứng được
những yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc .
– Trong khi phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị khác nhau đang bế tắc về
đường lối thì khuynh hướng vô sản thắng thế: Phong trào dân tộc đi theo khuynh hướng vô sản.
– Đảng Cộng sản ra đời để giải quyết sự khủng hoảng này.
– Đảng ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam.
– Từ sự phân tích vị trí kinh tế xã hội của giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy chỉ có
giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
– Nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã đặt lên vai giai cấp công nhân Việt Nam.
– Phong trào công nhân ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử tồn tại tự nhiên.
Muốn trở thành phong trào tự giác nó phải được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin; Vũ khí lý luận và tư tưởng của giai cấp công nhân
– Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng được thì phải có Đảng cộng sản.
– Sự thành lập Đảng cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ
tự phát thành tự giác, nó được trang bị bằng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
– Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lênin và con
đường giải phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản.
– Nguyễn ái Quốc thực hiện công cuộc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam,
chuẩn bị về chính trị , tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam .
– Chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào công nhân
và phong trào yêu nước phát triển .
– Các phong trào đấu tranh từ năm 1925 đến năm 1929 chứng tỏ giai cấp công nhân đã
trưởng thành và đang trở thành một lực lượng độc lập. Tình hình khách quan ấy đòi hỏi
phải có một Đảng cộng sản lãnh đạo.
– Ba tổ chức cộng sản ra đời là: Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản đảng,
Đông Dương cộng sản đảng liên đoàn đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong
trào cách mạng
– Ngày 3-2-1930 thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam
Tính sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên là: Trong cuộcđời hoạtđộng cách
mạng của mình, lãnh tụNguyễn ÁiQuốcđã thểhiện rõnétvàsinh động vềtinh thần độc
lập tự chủsáng tạo trong việcvận dụng CNMácLN, truyền thống dân tộc, kinh nghiệm của
nước ngoài mộtcách nhuần nhuyễn vào thực tiễn VN, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng đặt ra và đượcthểhiện ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta,
thông qua tạiHộinghịthành lập ĐCSVN (từ ngày 3-7/2/1930).
Ngay từ khi Đảng CSVN mới thành lập, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng đã chỉra phương hướng cơ bản của cách mạng VN, đặt nền móng cho việcxácđịnh lOMoAR cPSD| 41487147
lýluận, đường lối, phương pháp cách mạng vànhững nguyên tắc chủyếu để xây dựng
chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân VN.
Tuy hết sức ngắn gọn, vắn tắt nhưng CLCT đầu tiên của Đảng đã kết hợp nhuần
nhuyễn quan điểm dân tộc vàgiai cấp, thấm đượm tính dân tộc vàthời đại với những luận
điểm sau nổi bật. Một là, cách mạng VN phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng để tiến lên xã hội cộng sản. (Thực chất đó là một cuộc cách mạng có 2 giai đoạn
: giai đoạn thứ nhất đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai là sau khi
giành được thắng lợi sẽ chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa để tiến tới xã hội
cộng sản.)Hai là, trong cách mạng tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống
đế quốc và chống phong kiến. (Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải
được tiến hành khắng khít không tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ chống đế quốc và
tay sai (phản đế) phải đặt lên hàng đầu.) Ba là, xác định lực lượng cách mạng, bao gồm :
giai cấp công - nông là gốc, những người yêu nước trong các giai cấp khác là đồng minh của
cách mạng.( Đảng phải vận động, thu phục giai cấp mình để lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn
vào dân cày nghèo, liên lạc với trung nông. Lực lượng cách mạng bao gồm : thứ nhất là giai
cấp công - nông là gốc, là động lực của cách mạng, thứ hai là những người yêu nước trong
các giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.) Bốn là, lãnh đạo cách mạng là giai cấp
công nhân thông qua đội tiên phong của giai cấp là Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm là, về
phương pháp cách mạng, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng bạo lực cách
mạng. Sáu là, cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa
trên thế giới để chống chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới.
Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng
tạo: vừa vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng
chính xác những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Sáng tạo trong vấn đề dân tộc, xác định thái độ với các giai cấp, liên minh giai cấp và
đoàn kết toàn dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn
cảnh Việt Nam, xác định rõ chủ trương "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản". Cuộc cách mạng này đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong
kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, nhân dân được các quyền dân chủ, tự do,
hạnh phúc. Đó chính là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xuyên suốt
các chủ trương đường lối cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ta ra đời đến nay. Trong tư
tưởng lớn đó, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ: xác định độc lập dân tộc là mục tiêu
cốt tử, trực tiếp trước mắt, là tiền đề, điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai
đoạn đầu của tiến trình cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ quan niệm lực lượng cách mạng ở nước ta là toàn
thể nhân dân. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên trong Đảng ta nêu ra tư
tưởng cần xây dựng liên minh Công-Nông-Trí dưới sự lãnh đạo của Đảng làm nòng cốt
cho lực lượng cách mạng Việt Nam bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Nguyễn Ái Quốc đánh giá đúng tầm quan trọng của nhân tố dân tộc trong cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, nêu ra chủ trương đoàn kết
tất cả các tầng lớp nhân dân có thể đoàn kết được, có thể tạo nên sức mạnh đánh đổ
đế quốc và phong kiến.
Câu 9: Đánh giá về đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ Đổi mới.
Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất nhiều thách thức. lOMoAR cPSD| 41487147
Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn
mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi
trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp
tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy
nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ mà
Đảng ta đã từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra
đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau.
Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ tiến hành
công cuộc Đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là
bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển."*
Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác
nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó ưu tiên cho
việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, với các nước và trung tâm
chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc. Trong những năm qua, Việt
Nam đã chủ động đàm phán và ký kết với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn
khổ quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện cho thế kỷ 21. Các mối quan hệ song phương
và đa phương đó đã góp phần không nhỏ vào việc không ngừng củng cố môi trường hoà
bình, ổn định và tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan
trọng trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong bối
cảnh thế giới toàn cầu hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay.
Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và
khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả ở các tổ chức khu vực như
ASEAN, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn á - Âu (ASEM)
… Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động của các tổ chức, diễn đàn quốc tế đã
góp phần từng bước nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự tham gia
và hoạt động tích cực của Việt Nam ở Liên Hợp Quốc cũng được các nước đánh giá tích
cực và hiệu quả.
Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực
để cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói nghèo,
tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, ... Việt Nam đã tích cực
tham gia vào nỗ lực chung của các nước tăng cường hợp tác chống khủng bố trên cơ sở
song phương và đa phương nhằm loại trừ tận gốc nguy cơ của khủng bố đối với an ninh
và ổn định của các quốc gia.
Việc khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác
thể hiện tư duy đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo cần thiết của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền ở các nước nhằm trao đổi kinh nghiệm lãnh
đạo và quản lý đất nước, góp phần thúc đẩy quan hệ mọi mặt đã góp phần nâng cao lOMoAR cPSD| 41487147
vị thế uy tín của Việt Nam trên các diễn đàn đa phương. Đương nhiên, trong quan hệ với các
đảng cầm quyền trên thế giới chúng ta cũng xác định rõ các nguyên tắc: độc lập tự chủ; bình
đẳng; tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; cùng nhau
thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và
tiến bộ; và Đảng ta không quan hệ với các đảng, các tổ chức cực đoan.
Đối với nước ta, xác định đường lối đối ngoại mà đặt lợi ích quốc gia - dân tộc là
mục tiêu hàng đầu là vừa phù hợp với xu thế chung, vừa là ý Đảng lòng Dân và tạo sự
đồng thuận cao trong xã hội. Sự đúng đắn trong quan điểm chỉ đạo của Đảng thể hiện ở
việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là một
trong những vấn đề quan trọng nhất “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên
cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển... Trên cơ
sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững
hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước”
Đây là kết quả của quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để, khẳng
định đường lối đổi mới của Đảng, trong đó có tư duy đối ngoại là hoàn toàn đúng đắn, sáng
tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại hiện nay.
Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam mở rộng quan hệ với các đảng chính trị trên
thế giới trong tình hình hiện nay là đúng đắn, là cần thiết, nhằm tạo nên sự đồng thuận và cổ
vũ cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướngXHCMgiànhthắnglợi.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với thế và lực mới do những thành tựu và kinh nghiệm
30 năm đổi mới mang lại, với vị thế ngày càng nâng cao trên trường quốc tế, cơ hội rất lớn
và thách thức cũng không nhỏ. Đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng qua các kỳ Đại hội đã
thể hiện sự nhất quán, sáng tạo và hệ thống với tầm cao mới. Chúng ta tin tưởng rằng, với
kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng và đặc biệt trong 30 năm đổi mới toàn diện đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp để đưa sự nghiệp
cách mạng nước ta sang một bước ngoặt mới. Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của
Đảng, trong thời gian tới hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta sẽ đạt được
nhiều thành tựu to lớn, giữ vững môi trường hòa bình và phát huy ngoại lực sớm đưa nước
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dânchủ,côngbằng,vănminh.
Câu10: trình bày hoàn cảnh lịch sử và nội dung chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược cách mạng của đảng trong giai đoạn 1939 đến 1941.
Trả lời :1. Hoàn cảnh lịch sử
- Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Pháp tham chiến. Ở Đông Dương,
Pháp thi hành chính sách cai trị thời chiến
.- Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm đảo lộn mọi mặt đờisống của nhân dân ta.
- Chính sách cai trị của Pháp đã làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc ta với
đế quốc Pháp xâm lược phát triển ngày càng gay gắt, quyếtliệt. Sự chuyển
biến của tình hình đòi hỏi Trung ương Đảng phải kịp thời điều chỉnh chiến
lược cách mạng, định ra chủ trương, chính sách mới phù hợp. lOMoAR cPSD| 41487147
2. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
Đảng kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm tập trung giải
quyết nhiệm vụ hàng đầu là đánh đổ đế quốc và tay sai, giành lại độc lập dân
tộc. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng thể hiện trong
Nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 6 (11/1939), 7 (11/1940), 8 (5/1941)
.2.1. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939)- Tạm gác khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc
.- Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt
trận Dân chủ. Lực lượng chính của Mặt trận là: công nhân, nông dân, đoàn kết với
các tầng lớp tiểu tư sản thành thị vànông thôn, đồng minh trong chốc lát hoặc cô lập
giai cấp tư sản bản xứ, trung, tiểu địa chủ. Mặt trận do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Chủ trương chuyển hướng về tổ chức: vừa xây dựng tổ chức hợp pháp,
đơn giản rộng rãi, vừa xây dựng các đoàn thể quần chúng cách mạng bí mật.
Xoay tất cả các cuộc đấu tranh vào hướng trung tâm là chống đế quốc và tay sai.
- Về xây dựng Đảng: Đảng phải liên lạc mật thiết với quần chúng. Phải khôi
phục hệ thống tổ chức Đảng. Phải vũ trang lý luận cách mạng. Phải thực hiện phê
và tự phê bình. Phải đấu tranh chống khuynh hướng hữu và "tả" khuynh.
2.2. Hội nghị lần thứ 7 (11-1940) Tiếp tục khẳng định quan điểm chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc.
2.3. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (05/1941)
- Đặt ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu:
+ Tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất.
+ Thống nhất lực lượng cách mạng trên toàn cõi Đông Dương.
- Giành quyền độc lập tự do cho các dân tộc Đông Dương theo quan
điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Ở Việt Nam, sau khi đánh đuổi Pháp -
Nhật sẽ lập nên nước Việt Nam mới theo chế độ Dân chủ Cộng hoà.
- Hội nghị xác định tính chất của cuộc cách mạng: Lúc này, cách mạng
Đông Dương mang tính chất là “cách mạng dân tộc giải phóng”.
- Về Mặt trận: Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 chủ trương
lấy tên là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Mặt trận Việt Minh.
Các giới quần chúng được tổ chức và tập hợp trong các Hội cứu quốc: Hội
Nông dân cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc,…
- Hội nghị xác định vị trí, điều kiện, hình thức khởi nghĩa:
+ Nhận định điều kiện để cuộc khởi nghĩa nổ ra thắng lợi: giai cấpthống trị
lâm vào khủng hoảng đến cực điểm, nhân dân không thểsống dưới ách thống trị
của Nhật - Pháp, sẵn sàng vùng dậy khởi nghĩa, phe dân chủ đại thắng ở mặt trận
Thái Bình Dương, Mặt trận cứu quốc đã thống nhất trên toàn quốc. lOMoAR cPSD| 41487147
+ Ra sức chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng
phần,giành chính quyền ở địa phương, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
- Về xây dựng Đảng: Yêu cầu của công tác xây dựng Đảng lúc này là nhằm
làm cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng.
+ Tổ chức Đảng ở miền Nam giúp đỡ việc xây dựng Đảng ở Campuchia.
+ Tổ chức Đảng ở miền Trung giúp việc xây dựng Đảng ở Lào. 3. Ý nghĩa
- Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giương cao ngọn cờ giải phóng
dân tộc của Hội nghị Trung ương lần 6, 7, 8 chính là sự kế tục và hoàn chỉnh
tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã vạch ra trong
Cương lĩnh tháng 02/1930. Đây là bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về
lãnh đạo chính trị, về xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc.
- Sự điều chỉnh chiến lược trên rất đúng đắn, sáng tạo, phát huy được
tiềm năng, sức mạnh của toàn dân tộc, trực tiếp dẫn đến thành công của cuộc
tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Câu 11 đề cương cô Thủy + chương X tài liệu Lê Trần Quang Khang.
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
I.CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Từ Đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hóa (CNH) là nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội và xác định thực chất là ''Quyết tâm thực
hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích lũy xã hội
chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng''. Quan điểm này tiếp tục được các kỳ
Đại hội Đảng tiếp theo củng cố và mở rộng.
Công nghiệp hóa là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên CNXH, nhất thiết phải trải qua CNH.
Vai trò Công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH): -
Giúp phát triển lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản công
nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động -
Là thời kỳ tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố và tăng
cường vai trò của kinh tế nhà nước trong điều tiết sản xuất và
dẫn dắt thị trường. -
Là động lực phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện tăng cường
củng cố an ninh-quốc phòng lOMoAR cPSD| 41487147 -
Là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức
tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Thuận lợi của nước ta: là nước đi sau, có thể học hỏi được kinh nghiệm thành công của
những nước đi trước có cơ hội rút ngắn thời gian thực hiện quá trình này. (VD: Anh thực hiện
CNH đầu tiên, mất 120 năm; Mỹ mất 90 năm; Nhật Bản mất 70 năm; và các nước công nghiệp
mới (NICs) có hơn 30 năm)
Việt Nam thực thực hiện quá trình trong bối cảnh loài người đang bắt đầu chuyển sang
phát triển kinh tế tri thức (KTTT), với sự bùng nổ của tự động hóa, công nghệ thông tin, gen,
nano, vật liệu mới... Việc chuyển nền kinh nước ta sang hướng phát triển dựa vào tri thức trở
thành yêu cầu cấp thiết không thể trì hoãn.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng ta phải
tiến hành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp
(CNHHĐH); chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp lên KTTT. Ở nước ta, hai quá trình này được lồng
ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, tức là gắn CNH-
HĐH với phát triển KTTT.
Phát triển KTTT nước ta là thực thi chiến lược vận dụng tri thức mới vào tất cả các
ngành kinh tế, làm tăng nhanh giá trị của sản phẩm; giảm tiêu hao tài nguyên và lao động. Nước
ta xác định, KTTT là công cụ hàng đầu để rút ngắn thời gian thực hiện quá trình CNH-HĐH.
Nội dung trung tâm của thực hiện CNH-HĐH gắn với phát triển KTTT là lựa chọn để có
thể bỏ qua một số thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào công nghệ cao, công nghệ mới
nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp
dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao.
Chúng ta cần phải đẩy mạnh việc sử dụng những tri thức mới của nhân loại bằng
nhiều hình thức khác nhau: -
cần chủ động học hỏi và nhập khẩu những công nghệ mềm -
đổi cách cải tiến để thích nghi với điểu kiện nước ta. -
tiếp cận là liên tục và không có điểm dừng.
⇨ Đây là điều kiện để chúng ta rút ngắn quá trình CNH-HĐH gắn
với việc vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế.
II. CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
thân thiện với môi trường
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có khả năng phòng
ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH.
Cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về nhận thức và hành động,
trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển KTTT.
III. CÔNG NGHIỆP HÓA THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI VÀ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG lOMoAR cPSD| 41487147
Nói chung tầm quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá đối với đất nước của Đảng ta là khá
nhất quán và xuyên suốt.
Khái niệm công nghiệp hoá đã được bổ sung thêm những nội dung mới, gắn công nghiệp hoá
theo nội dung mới ấy với sự phát triển lâu bền của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội.
Muốn có sự phát triển bền vững trong suốt quá trình công nghiệp hoá thì tăng trưởng kinh tế
phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phải sử dụng tiết kiệm các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, phải bảo vệ và cải thiện được môi trường.
Phát triển bền vững đó là sự phát triển kết hợp chặt chẽ được đồng thời ba mục tiêu: kinh tế,
xã hội, môi trường.
1. Hội nghị thành lập Đảng và cương lĩnh chính trị tháng 2/30?
● Bối cảnh lịch sử:
- Thế giới: -
Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản Âu-Mỹ có những chuyển biến mạnh mẽ
trong đời sống kinh tế-xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), đẩy
mạnh quá trình xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu
vực Mỹ-Latinh, biến các quốc gia này thành thuộc địa của các nước đế quốc -> phong
trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là ở châu Á . -
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi sâu
sắc tình hình thế giới. - - Trong nước: -
1/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng và từ đó
từng bước thôn tính Việt Nam. Triều đại phong kiến nhà Nguyễn bấy giờ
khủng hoảng trầm trọng, từng bước thỏa hiệp rồi đầu hàng thực dân Pháp.(
Hiệp ước Nhâm Tuất, Giáp Tuất, Hắc Măng và Pa tơ nốt) -
- Trái ngược với triều đình, nhân dân VN không chịu khuất phục. Rất nhiều phong
trào yêu nước diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ. Thế nhưng với sự chênh lệch quá lớn
về trang bị và lực lượng, đa số phong trào đều bị đàn áp rất đẫm máu. -
- Thực dân Pháp thực hiện chính sách "Chia để trị" và hai cuộc khai thác
thuộc địa (1897-1914 và 1919-1929) nhằm biến VN thành thị trường tiêu thụ
hàng hóa và vơ vét toàn bộ về cho chính quốc. Chúng thực hiện chính sách
"ngu dân", dùng rượu cồn và thuốc phiện đầu độc người dân. lOMoAR cPSD| 41487147
- Nhiều giai cấp mới được hình thành và giai cấp cũ bị phân hóa. Cơ bản nhất
có 2 giai cấp: Địa chủ và nông dân (đông đảo nhất). Ngoài ra còn có: giai cấp
công nhân ( quan trọng nhất), tư sản, tiểu tư sản, sĩ phu yêu nước. Mâu thuẫn
trong xã hội cũng ngày càng gay gắt hơn. -
- Nhiều luồng tư tưởng yêu nước được du nhập vào nước và được các nhà yêu
nước tiếp nhận như: Duy tân minh trị, Cách mạng tư sản Pháp, Cách mạng
Tân Hợi,... và quan trọng nhất là Cách mạng tháng 10 Nga. Và đồng thời lúc
đó, rất nhiều phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ( Nông dân Yên
Thế, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh). Thế nhưng hầu hết các phong trào
này rất nhanh chóng bị td Pháp đàn áp.
=> Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có
một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
● Chuẩn bị để thành lập Đảng:
● 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng
dân tộc. Qua trải nghiệm thực tế qua nhiều nước, Người đã nhận thức
được rằng một cách rạch ròi: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”, từ đó xác
định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
● Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ
tới nhận thức của Nguyễn Tất Thành-đây là cuộc “cách mạng đến nơi”.
Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị
hướng về tìm hiểu con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, về V.I.Lênin. ●
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến
bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong
Chiến tranh thế giới thứ nhất họp ở Versailles, (Vécxây, Pháp) , Tổng thống Mỹ
Wooderow Wilson (Uynxơn) tuyên bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các
nước thuộc địa. Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những
người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An
Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam) ngày
18-6-1919. Tiếc thay, bản yêu sách này không được tiếp nhận nhưng đã
tạo ra một tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế. ●
Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanité (Nhân đạo), số
ra ngày 16 và 17-7-1920. -> Người đã nhận thức được con đường đúng đắn và ủng
hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp
(12-1920) tại thành phố Tua (Tour). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã lOMoAR cPSD| 41487147
bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập).
Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán
thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế
Cộng sản-tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở
thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người
cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định
trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
● Tư tưởng:
● Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc
địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó
sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo
Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,...
● Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập,
Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương.
Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, Nguyễn
Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa
thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân
bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân,
xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến
hành tuyên truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, con đường cách
mạng theo lý luận Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người
cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
● Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa
ấy” . Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống như người không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận
Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
● Chính trị:
● Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể
là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách
mạng phải hướng tới giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng
bào, hướng tới xây dựng nhà nước mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
● Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. lOMoAR cPSD| 41487147 ●
Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
● Tổ chức: ●
Sau khi lựa chọn con đường cứu nước-con đường cách mạng vô sản-cho
dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng,
thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đ¬ưa họ ra đấu tranh giành tự do độc
lập” . Vì vậy, sau một thời gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát
thực tế về cách mạng vô sản, tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu (Trung
Quốc)-nơi có đông người Việt Nam yêu nước hoạt động-để xúc tiến các
công việc tổ chức thành lập đảng cộng sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn
một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn.
● Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công
bố chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập
tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế
giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản).
● Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp
chỉ đạo), tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, truyên truyền chủ nghĩa Mác-
Lênin và phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt
Nam. Báo in bằng tiếng Việt và ra hằng tuần, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày
21-6-1925 ra số đầu tiên, đến tháng 4-1927, báo do Nguyễn Ái Quốc phụ trách
và ra được 88 số. Sau khi Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu (4-1927) đi Liên Xô,
những đồng chí khác trong Tổng bộ vẫn tiếp tục việc xuất bản và hoạt động
cho đến tháng 2-1930 với 202 số (từ số 89 trở đi, trụ sở báo chuyển về Thượng
Hải). Một số lượng lớn báo Thanh niên được bí mật đưa về nước và tới các
trung tâm phong trào yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài. Báo Thanh
niên đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam.
● Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp phụ trách, đưa người từ trong nước đến để đào tạo và bồi
dưỡng lý luận chính trị.
● trở về Châu Á và hoạt động ở Xiêm (tức Thái Lan). ●
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những
người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp
bức ở Á Đông xuất bản thành cuốn Đường Cách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị
đầu tiên của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng
được đặt ở vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách
mạng tiên phong. Đường Cách mệnh xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng
và phương pháp đấu tranh của cách mạng. Tác phẩm thể hiện tư tưởng nổi bật của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 41487147
Mác-Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những điều kiện về tư tưởng, lý luận,
chính trị và tổ chức để thành lập Đảng đã được thể hiện rõ trong tác phẩm.
● đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ
sở ở trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập.
● Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
● Các tổ chức cộng sản được thành lập
● Ngày 17-6-1929, đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà
312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản
Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa liềm là Đảng kỳ và
quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
● Tháng 11-1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng
sản Đảng được thành lập tại Khánh Hội, Sài Gòn, công bố Điều lệ, quyết
định xuất bản Tạp chí Bônsơvích ●
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng (là một tổ chức thanh niên yêu nước có
cả Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai…) chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt Nam
Cách mạng thanh niên-đã đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Tháng
9-1929, những người tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng đảng họp bàn việc
thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
=> Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm
1929 đã khẳng định bước phát triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch
sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng
hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều
tự nhận là đảng cách mạng chân chính, không tránh khỏi phân tán về lực lượng và
thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước.
Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ngày
càng lên cao, nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp
lực lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc
ngày càng trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
● HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG: ●
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách
là phái viên của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đến
Hồng Kông (Trung Quốc) triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng
và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại Cửu Long (Hồng Kông) tiến hành hội lOMoAR cPSD| 41487147
nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam. ●
Thời gian Hội nghị từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930. (Sau này Đảng quyết
nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng) ●
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông
qua các văn kiện quan trọng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo:
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương
trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. ●
Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ
chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư
bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”. Quy định điều
kiện vào Đảng: là những người “tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình
đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh phục tùng mệnh
lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận đảng” . ●
Hội nghị chủ trương các đại biểu về nước phải tổ chức một Trung
ương lâm thời để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hệ thống tổ chức
Đảng từ chi bộ, huyên bộ, thị bộ hay khu bộ, tỉnh bộ, thành bộ hay đặc
biệt bộ và Trung ương. ●
Ngoài ra, Hội nghị còn quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức
công hội, nông hội, cứu tế, tổ chức phản đế và xuất bản một tạp chí lý
luận và ba tờ báo tuyên truyền của Đảng. ●
Đến ngày 24-2-1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
chính đảng duy nhất được hoàn thành với Quyết nghị của Lâm thời
chấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, chấp nhận Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. ●
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau Hội nghị,
Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Mở đầu Lời
kêu gọi, Người viết: “Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản giải quyết
vấn đề cách mạng nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”. ●
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG. ●
Bao gồm: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng. ●
Phản ánh: về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về
chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam ●
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng
Việt Nam: Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt
Nam-một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần
phải giải quyết, đi đến xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng
thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản. lOMoAR cPSD| 41487147 ●
Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và
chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và
ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho dân
tộc được đặt ở vị trí hàng đầu. ●
Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương diện xã hội và
phương diện kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã
hội, cần được giải quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn
diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại
bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,
đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp công nhân và nông dân. ●
Lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là lực
lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương
đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung
chống đế quốc và tay sai. Do vậy, Đảng “phải thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình”, “phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày,… hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào phe vô
sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho
họ đứng trung lập”. Đây là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp
nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước,cách mạng, trên cơ sở đánh
giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam. ●
Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh
khẳng định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng. ●
Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. ●
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản
giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm
cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng” . “Đảng là đội tiên phong
của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm
cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”
=> Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận
điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập,
tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong lOMoAR cPSD| 41487147
kiến Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và
chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực
thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện
đã xác định đường lối chiến lược và sách của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác
định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để
thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các tổ
chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín
chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và
chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội
nghị hợp nhất dù “vắt tắt”, nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và
lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới
● Ý nghĩa việc thành lập Đảng: ●
Chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về dường lối cứu nước, đưa cách mạng
Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam trở thành một bộ
phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Đó là kết quả của sự vận động phát
triển và thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị tích cực,
sáng tạo, bản lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đoàn kết, nhất trí của những chiến
sĩ cách mạng tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc. ●
Sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự
phát triển cao và thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin. ●
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua
tại Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản
cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng
những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại,
định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Đường lối đó là kết quả của sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới. ●
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã
khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam-con đường
cách mạng vô sản. Con đường duy nhất đúng giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản phù hợp
với nội dung và xu thế của thời đại mới. ●
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển
của dân tộc Việt Nam, trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. lOMoAR cPSD| 41487147
Câu 2 : Vai trò của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc ( 1930 - 1945 )
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là một mốc son lịch sử
đánh dấu bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đưa cuộc đấu tranh của dân tộc
vào thời kỳ phát triển mới. Với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn,
ngay trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), "Đảng ta đã tiêu biểu cả
tinh thần cách mạng của giai cấp và dân tộc, đủ lý thuyết, lãnh đạo năng lực của toàn
dân đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do".
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xác định nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
- Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, yêu cầu bức thiết của dân tộc Việt Nam là
tiến hành công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động,
giành độc lập dân tộc
- Hướng theo thành công của cách mạng tháng Mười Nga (1917) và chủ nghĩa Mác -
Lênin làm nền tảng, Đảng và Nguyễn Ái Quốc đã xác định con đường cách mạng
đúng đắn của dân tộc ta là con đường cách mạng vô sản
2. Đảng xác định lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
- Trước sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, Đảng đã
tập hợp đoàn kết nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Do sự chèn ép của tư bản đế quốc, Ban Thường vụ Trung ương Đảng trong Chỉ thị
Về vấn đề thành lập Hội "Phản đế đồng minh" (18-11-1930), chủ trương đoàn kết rộng
rãi lực lượng toàn dân tộc, bao gồm các giai cấp, tầng lớp và cá nhân yêu nước
- Đầu năm 1936, trong một bức thư ngỏ gửi các tổ chức cách mạng quốc gia và các
nhóm chống đế quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương "đoàn kết,
tăng cường và củng cố tất cả mọi lực lượng chống đế quốc ở Đông Dương".
- Từ tháng 7-1936, Đảng tập trung lãnh đạo cuộc vận động dân chủ, tập hợp rộng
rãi mọi lực lượng dân chủ, nhưng chủ yếu vẫn là lực lượng dân tộc.
- Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, tình hình Đông Dương có những biến
chuyển lớn, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương nhằm tập hợp rộng rãi "tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản
đế muốn giải phóng cho dân tộc".
- Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) đã giải quyết vấn đề
dân tộc trong từng nước ở Đông Dương, thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng.
- Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc,
quy tụ lực lượng và sức mạnh toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh cho độc lập tự do.
3. Chủ trương khởi nghĩa vũ trang, thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
Để lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, cần dùng bạo lực cách mạng chống
lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy và bảo vệ chính quyền
- Từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh xác định bạo lực
cách mạng là bạo lực của quần chúng dựa vào hai lực lượng : lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang, tiến hành dưới hình thức : đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
- Luận cương chính trị tháng 10/ 1930, chủ trương ra sức chuẩn bị cho quần chúng
về con đường “võ trang bạo động”
- Nhận thấy hoàn cảnh Đông Dương lúc bấy giờ, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (11/1940), đã phân tích nhận định để chuẩn bị lãnh đạo các dân tộc
bị áp bức nổi dậy giành độc lập dân tộc.
- Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) đề ra chủ trương khởi lOMoAR cPSD| 41487147
nghĩa vũ trang, nhấn mạnh chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn
Đảng, toàn dân ta “lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng
có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
- Trung ương Đảng khẳng định muốn gây cuộc khởi nghĩa bằng võ trang phải nhằm
vào các điều kiện chủ quan:
+ Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được toàn quốc.
+ Nhân dân không thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, mà đã sẵn sàng hy
sinh bước vào con đường khởi nghĩa.
+ Phe thống trị Đông Dương đã bước vào cuộc khủng hoảng phổ thông đến cực
điểm vừa về kinh tế, chính trị lẫn quân sự.
+ Những điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa như quân Tàu đại thắng
quân Nhật, cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật nổi dậy, phe dân chủ đại thắng ở Thái
Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng các thuộc địa Pháp, Nhật sôi nổi và nhất
là quân Tàu hay quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương.
- Với nghệ thuật khởi nghĩa dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta ra sức chuẩn bị
lực lượng, đi từ khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ ở nông thôn,
tiến lên đánh giá đúng thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ phát động tổng khởi
nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, dùng bạo lực cách mạng của quần chúng đập tan
bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai, thiết lập chính quyền cách mạng.
- Đảng có sự sáng tạo về hình thức chính quyền nhà nước, nhằm giải quyết vấn đề
cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
- Phù hợp với tính chất và lực lượng tham gia cách mạng, trong cuộc vận động cứu
nước 1939-1945, Đảng có chủ trương mới về hình thức chính quyền nhà nước. Hội
nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11-1939) chủ trương thành lập
chính quyền nhà nước với hình thức cộng hoà dân chủ trong phạm vi toàn Đông
Dương, mới về hình thức chính quyền nhà nước.
- Với đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản và tư tưởng độc
lập tự do của Hồ Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm Cách mạng Tháng
Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Không thể phủ nhận rằng vai trò của Đảng vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc (1930-1945). Một điển hình sáng tạo của Đảng và Hồ Chí Minh, không chỉ
có giá trị khoa học trong việc phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh
lịch sử cụ thể ở thuộc địa, mà còn có giá trị thực tiễn vô cùng to lớn trong toàn bộ sự
nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của dân tộc Việt Nam vì độc lập dân tộc và
thống nhất đất nước, để lại những bài học lịch sử vô cùng quý báu cho sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Câu 4: Hoàn cảnh nước ta sau CMT8 và chủ trương của Đảng trong giai đoạn
1945 - 1946, cho biết bài học có thể áp dụng trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước hiện nay?
Hoàn cảnh nước ta sau CMT8:
Sau khi CMT8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, công cuộc bảo vệ
và xây dựng đất nước đứng trước nhiều thuận lợi cơ bản và khó khăn thử thách. Thuận lợi: lOMoAR cPSD| 41487147
- Trên thế giới, CNXH đã trở thành hệ thống lớn mạnh do Liên Xô đứng đầu, phong
trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, phong trào dân chủ và hòa
bình cũng vươn lên mạnh mẽ.
- Trong nước, chính quyền nhân dân được thành lập, có hệ thống từ trung ương đến địa
phương. Nhân dân lao động đã làm chủ được đất nước.Lực lượng vũ trang được tăng
cường. Chính Phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa được toàn dân tin tưởng và ủng hộ. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi đó, chính quyền non trẻ đứng trước vô vàn những khó
khăn và thử thách cần phải vượt qua.
- Nền độc lập của chúng ta chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận.
- Thù trong, giặc ngoài chống phá quyết liệt.
+ Ở Miền Bắc: Cuối tháng 8- 1945 theo thỏa thuận của phe Đồng Minh ở hội nghị
Potsdam, trong tháng 9 – 1945, gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch
dưới danh nghĩa quân Đồng Minh kéo vào miền Mắc nước ta từ vĩ tuyến 16 trở ra
Bắc. Quân Tưởng với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật nhưng thực chất chỉ gây ra
cho ta nhiều khó khăn về kinh tế, rối ren về chính trị.
+ Ở Miền Nam: Quân Anh, quân Pháp đồng lõa với nhau đánh chiếm Sài Gòn
hòng tách Miền Nam ra khỏi Việt Nam
- Chúng ta còn phải đối mặt với những khó khăn về kinh tế do hậu quả của chế độ cũ để lại.
- Ngân sách nhà nước trống rỗng, nạn đói, nạn dốt, thiên tai.. khắp mọi nơi.Nền kinh
tế bị trì trệ, lạc hậu, ruộng đất bị bỏ hoang.
-Tệ nạn xã hội tràn lan, cướp của giết người…
Chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng.
Trước tình hình mới, Trung ương đảng đã sáng suốt phân tích tình thế cách mạng
thế giới, sức mạng mới của Dân tộc để vạch ra chủ trương, giải pháp nhằm giữ
vững chính quyền, bảo vệ độc lập. Ngày 25-11-1945, Đảng ra chỉ thị về kháng chiến
kiến quốc, vạch ra con đường đi lên của Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Về chỉ đạo chiến lược: Đảng ta xác định mục tiêu cần nêu cao của cách Mạng Việt
Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là “ Dân tộc trên hết, Tổ
quốc trên hết” nhưng không phải giành độc lập mà là giữ độc lập.
Về xác định kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước Đế quốc đối với Đông Dương
và chỉ rõ “ Kẻ thù chính của chúng t a là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn
lửa đấu tranh vào chúng”. Vì vậy phải lập “Mặt trận dân tộc thống nhất chống Thực dân
Pháp xâm lược”, mở rộng mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp của nhân dân. lOMoAR cPSD| 41487147
Về phương hướng nhiệm vụ: Đảng nêu ra 4 nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn
trương thực hiện là “ Củng cố chính quyền, Chống thực dân Pháp xâm lược, Bài trừ
nội phản và Cải thiện đời sống nhân dân”. Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm
bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa- Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới
Thạch và “Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp.
Ngoài ra Đảng còn đề ra các biện pháp để thực hiện các nhiệm vụ trên: -
Về chính trị xã hội: Tổ chức bầu cử quốc hội, lập ra hiến pháp, bộ máy chính quyền
hoàn thiện từ trung ương đến địa phương. Các đoàn thể như Mặt Trận Việt Minh, Hội Liên
Hiệp Quốc Dân Việt Nam, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam…được xây dựng và mở rộng. -
Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân kiên trì kháng chiến và tổ chức
lãnh đạo kháng chiến lâu dài. -
Về kinh tế: Phát động phong trào tăng gia sản xuất, xóa bỏ các thứ thuế, khôi
phục lại các nhà máy. -
Về ngoại giao: phải kiên trì nguyên tắc “ bình đẳng, tương trợ, thêm bạn,
bớt thù” trong quan hệ với các nước.
Bài học có thể áp dụng:
-Thứ nhất, bài học đề cao thế hợp pháp và sức mạnh của chính quyền cách mạng.
Tháng 8 năm 1945, khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đi vào giai đoạn kết thúc,
tình hình thế giới thay đổi với nhịp độ cực kỳ nhanh chóng. Nhờ dự đoán đúng tình
hình thế giới và trong nước, khi biết Nhật Bản sắp đầu hàng Đồng minh và ở Việt
Nam quân Nhật hoang mang cực độ. Vì vậy, Đảng chủ trương phải giành được
chính quyền và tuyên bố độc lập trước khi quân đồng minh vào; đề cao vị trí của
Việt nam Dân chủ Cộng hòa, giành thế hợp pháp cho chính quyền mới, tranh thủ sự
công nhận của quốc tế để tạo thuận lợi cho việc giao dịch với đồng minh.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trước quốc dân và thế giới. Lúc
này quân Trung Hoa Dân quốc đã xuống sát biên giới, sắp vào Việt Nam. Còn quân Anh
- Ấn thì đến ngày 6/9/1945 mới đổ bộ vào Sài Gòn. Như vậy, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời trái với mọi dự tính và dàn xếp của các nước lớn.
Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử Việt Nam được tổ chức
thành công, ngày 6/3/1946 ta ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ. Như vậy, chỉ trong một
thời gian ngắn, nhờ sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, ta đã thành lập được một
Chính phủ hoàn toàn hợp pháp, hợp hiến, đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam
thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại.
Ngày 3/10/1945, một tháng sau khi tuyên bố độc lập, Bộ Ngoại giao Chính phủ lâm
thời ra Thông cáo về chính sách ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng
định mục tiêu phấn đấu cho nền độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn của Việt Nam, hợp
tác thân thiện với các nước đồng minh và các dân tộc láng giềng, đồng thời kiên
quyết chống thực dân Pháp gây ra chiến tranh xâm lược.
Trong mấy tháng cuối năm 1945 đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhiều lần
gửi thư, công hàm đến các nước lớn Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Chủ tịch Đại
hội đồng Liên Hợp Quốc thông báo về sự ra đời và khẳng định tính hợp pháp của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tố cáo Pháp trở lại xâm lược Đông Dương. lOMoAR cPSD| 41487147
Có thể nói, những sách lược ngoại giao nêu trên đã góp phần đề cao thế hợp pháp và
sức mạnh của chính quyền cách mạng để đương đầu với các thế lực hung hãn, tạo khả
năng thêm bạn bớt thù, tạo thuận lợi cho các hoạt động của chính quyền cách mạng non
trẻ. Trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình trong nước và thế giới ngày càng diễn biến
phức tạp, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng bài học này và việc đẩy mạnh hoạt động đối
ngoại nhằm tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
để phát triển kinh tế, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua
việc từ chỗ bị bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại
giao với hơn 180 nước, quan hệ kinh tế - thương mại đầu tư với trên 220 quốc gia và
vùng lãnh thổ; quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và các trung tâm
kinh tế-chính trị hàng đầu, các nước bạn bè truyền thống và đối tác tiềm năng ngày càng
phát triển, đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững hơn. Với vai trò mở đường, phát huy sức
mạnh của ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hóa, ngành ngoại giao đã khai thông, mở
rộng và đưa quan hệ hợp tác của Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới
đi vào chiều sâu; đi tiên phong trong việc mở rộng các thị trường, các lĩnh vực hợp tác
quốc tế mới. Có thể nói chưa bao giờ Việt Nam có được quan hệ hợp tác quốc tế rộng rãi
và bình đẳng với các nước ở khắp các châu lục như ngày nay. Vai trò và vị thế của Việt
Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Với việc nâng cao vị thế đó trước hết giúp cho Đảng và Nhà nước ta chống lại các
thế lực thù địch đã và đang liên tục chống phá cách mạng nước ta hết sức tinh vi và
quyết liệt. Mặt khác, nâng cao vị thế còn tạo uy tín cho Việt Nam trên trường quốc
tế, điều này được thể hiện thông qua việc Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc sau khi đạt số phiếu gần
như tuyệt đối (183/190) vào năm 2007. Đối với các nước trong khu vực, Việt Nam
còn có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong tổ chức ASEAN.
Để tiếp tục phát huy thành quả đó, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định rõ
một trong ba mục tiêu đối ngoại và hội nhập kinh tế trong thời gian tới của Việt Nam
là: “nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
-Thứ hai, bài học biết phân hóa kẻ thù
Sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, một thách thức nghiêm trọng đối với
cách mạng Việt Nam trong thời điểm này là đối phó cùng một lúc với nhiều thế lực
quân sự đối địch ở các nước lớn có mặt tại Việt Nam.
Ở miền Bắc, gần 200.000 quân Tưởng vào Việt nam với danh nghĩa giải giáp quân đội
Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra, mang theo các nhóm người Việt sống lưu vong ở Trung
Quốc. Ở phía Nam, 26.000 quân Anh - Ấn vào giải giáp quân đội Nhật. Thời gian này,
ở nước ta còn có khoảng 60.000 quân Nhật đang chờ giải giáp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước này với nhau
và có sách lược phù hợp với từng đối tượng.
Đối với Trung Hoa Dân quốc: Để vô hiệu hóa mặt tiêu cực và chống lại chủ trương
Hoa quân nhập Việt, diệt cộng cầm Hồ mà lực lượng của Tưởng đề ra khi vào Việt
nam, chính quyền cách mạng đã nêu khẩu hiệu Hoa - Việt thân thiện và thực hiện hòa
hoãn với sách lược mềm mỏng và bình tĩnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư điện
cho Tưởng Giới Thạch khẳng định tình hữu nghị và quan hệ lịch sử, văn hóa truyền
thống lâu đời giữa hai nước; triển khai nhiều hoạt động tăng cường hữu nghị với
nhân dân Trung Quốc, nhắc nhở các địa phương thực hiện đúng Hoa - Việt thân
thiện, bảo vệ Hoa kiều, ngăn ngừa âm mưu ly gián người Việt và người Hoa... lOMoAR cPSD| 41487147
Khi phía Trung Hoa Dân quốc thấy không thể gây chuyện lật đổ chính quyền cách
mạng của ta, họ chuyển chính sách thúc đẩy các nhóm tay sai vu cáo, quấy phá, đòi
Hồ Chí Minh từ chức, đòi giải tán chính quyền...
Ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và rút vào hoạt
động bí mật. Ngày 2/3/1946, trong phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa I, ta đồng ý
cho tay sai của Trung Hoa Dân quốc một số chức vụ như Phó Chủ tịch, Bộ trưởng
kinh tế và 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử...
Những sách lược khéo léo và đúng đắn trên là nước cờ cao tay, xoa dịu sự chống đối
của Trung Hoa Dân quốc và tay sai, góp phần ngăn chặn được nhiều âm mưu phá hoại và
lật đổ của chúng, nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc giữ vững chính quyền trong tay.
Đối với Pháp: Trong khi thực hiện chính sách hòa hoãn với Trung Hoa Dân quốc,
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm dự đoán thực dân Pháp vẫn có khả
năng vừa mở rộng chiếm đóng khu vực phía Nam, vừa đưa quân ra Bắc thông qua
một thỏa hiệp thay quân với Tưởng Giới Thạch.
Ngày 28/2/1946, tại Trùng Khánh, Hiệp ước Hoa – Pháp được ký kết. Theo Hiệp ước này,
Trung Hoa Dân quốc đồng ý cho quân đội Pháp vào Bắc Đông Dương thay thế quân Trung
Hoa Dân quốc dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật. Đổi lại Pháp phải nhân nhượng cho
Trung Hoa Dân quốc một số quyền lợi về kinh tế. Như vậy, đây là lần thứ hai sau thỏa thuận
Postdam, Việt Nam lại phải đương đầu với một giải pháp do các nước lớn áp đặt.
Nhờ nhãn quan chính trị sáng suốt và sự nhạy bén trước chuyển biến mau lẹ của tình hình,
vào thời điểm khi cả Pháp và Trung Hoa Dân quốc đều cần phía Việt Nam thỏa thuận với Pháp
về một giải pháp mà hai bên có thể chấp nhận được để tránh cuộc xung đột mở rộng, thì Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng kịp thời nắm bắt khoảnh khắc lịch sử, ký bản Hiệp định
Sơ bộ 6/3/1946 theo những điều kiện có lợi nhất có thể được đối với Việt Nam, để nhanh
chóng đẩy 20 vạn quận Trung Hoa Dân quốc và tay sai của chúng ra khỏi nước ta, chuẩn bị
thực lực cho một cuộc chiến đấu mới mà ta biết không thể nào tránh khỏi.
Có thể nói với sự phân định về “bạn và thù” trong thời kỳ trước đây chính là cơ sở
cho Đảng ta định hình quan điểm “đối tác, đối tượng” trong thời kỳ đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế.
Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới đã xác định rõ mục tiêu, phương châm, quan điểm chỉ đạo và nội
dung, giải pháp để thực hiện; trong đó, việc xác định đối tác, đối tượng được đặc biệt coi
trọng. Đảng ta đã xác định: Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan
hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có
âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Như vậy, Đảng ta đã chỉ ra các dấu hiệu cơ bản quan
trọng để nhận thức đâu là “đối tác” có thể mở rộng quan hệ hợp tác, đâu là “đối tượng” cần
kiên quyết đấu tranh. Và khi đã nhận thức về “đối tác và đối tượng” trong cùng một chủ thể
thì phải lấy mục tiêu “xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” làm
tiêu chuẩn để quyết định mức độ quan hệ hợp tác. Nghĩa là, trong khi mở rộng quan hệ hợp
tác với “đối tác” cần nêu cao tinh thần cảnh giác phát hiện các mâu thuẫn có thể nảy sinh để
kịp thời đấu tranh. Đồng thời, trong đấu tranh với “đối tượng” không có nghĩa là phân tuyến
đối đầu mà cần tranh thủ mọi cơ hội tìm hiểu, tạo lòng tin để đi đến “tôn trọng độc lập, chủ
quyền” của nhau mà mở rộng hợp tác bình đẳng cùng có lợi. Mục tiêu cơ bản lâu dài trong
nhận thức và vận dụng quan điểm “đối tác, đối tượng” là nhằm không ngừng tăng cường
đoàn kết, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với bạn bè quốc tế. Đấu tranh với quan điểm, tư
tưởng nhận thức máy móc, khô cứng, khi xem “đối tác” là để hợp tác và chỉ rõ “đối tượng” là
để cô lập đấu tranh. Đặc biệt Đảng ta cũng khẳng định tính hai mặt tồn tại, đan xen một cách
phổ biến trong “mỗi đối tác” và “mỗi đối tượng”, đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn biện chứng
khoa học để trong từng thời điểm cụ thể nhận biết rõ đâu là đối tác để tranh thủ hợp tác và
đâu là đối tượng để đấu tranh. lOMoAR cPSD| 41487147
Với sự kế thừa những giá trị của Đảng trong hoạt động đối ngoại đó đã giúp cho
Việt nam có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn để “thêm bạn, bớt thù”, tăng
cường sự hợp tác hữu nghị với các nước. Đồng thời, tranh thủ khai thác, phát huy
được các mặt tích cực của các đối tác để phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế được
những mặt tiêu cực của đối tượng, góp phần bảo đảm sự ổn định chính trị, trật tự,
an toàn xã hội, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đến năm 2016, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước; thiết lập quan hệ
đối tác chiến lược theo ngành với 2 nước; xác lập quan hệ đối tác toàn diện với 10
nước; trở thành nước duy nhất tại Đông Nam Á xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác
chiến lược và đối tác toàn diện với tất cả 5 nước thành viên thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc và các nước lớn; có quan hệ đặc biệt với Lào, quan hệ hợp tác
toàn diện với Campuchia; xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với những nước có
vai trò quan trọng ở các khu vực khác như châu Phi, Mỹ La-tinh…
Ngoài các đối tác nêu trên, Việt Nam cũng đã nhận ra các đối tượng cụ thể hiện nay của
nước ta như: Đối tượng có âm mưu lật đổ chế độ XHCN; đối tượng có tham vọng về chủ
quyền lãnh thổ; đối tượng do bị tác động của “DBHB” dẫn đến “tự chuyển hóa” có thể
gây ra “biến động chính trị”, hoặc tự giác trở thành đồng minh của đối tượng có âm mưu
lật đổ chế độ ta; đối tượng gây thảm họa thiên tai, môi trường có thể dẫn đến khủng
hoảng kinh tế, chính trị - xã hội, tạo cơ hội để các đối tượng khác lợi dụng khoét sâu,
thực hiện mục tiêu chiến lược của họ… Trên cơ sở xác định các đối tượng cụ thể, Đảng
và Nhà nước ta đã có những chủ trương để đối phó với từng đối tượng khác nhau, từ đó
giúp cho chúng ta bảo vệ được nền hòa bình, độc lập dân tộc.
-Thứ ba, bài học biết nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có giới hạn, nhân nhượng có nguyên tắc
Ngày 02/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã phải đối mặt với những khó
khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa và đặc biệt là vấn đề an ninh quốc phòng. Đứng trước
tình hình đó, về mặt ngoại giao Đảng và Chính phủ đã thực hiện chính sách nhân
nhượng, hòa hoãn tạm thời, nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc độc lập và chủ quyền quốc
gia dân tộc. Thời gian đầu, trong điều kiện thực lực của chúng ta còn hạn chế, Đảng và
Chính phủ đã phải chấp nhận những điều kiện để thực hiện sách lược hòa với Trung
Hoa Dân quốc, tập trung chống thực dân Pháp xâm lược nhưng vẫn giữ vững nguyên
tắc độc lập dân tộc như: Chính phủ ta chấp nhận tiêu tiền Quan kim, Quốc tệ đã mất giá
của chúng; cung cấp lương thực thực phẩm cho chúng; nhượng cho tay sai của Trung
Hoa Dân quốc 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử, bởi ta biết rằng với số phiếu 70,
Trung Hoa Dân quốc vẫn không thể áp đặt được Chính quyền cách mạng.
Khi giữa Trung Hoa Dân quốc và Pháp ký với nhau bản Hiệp ước thay quân, ta đã
quyết định ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946), đồng ý cho Pháp đưa quân ra
miền Bắc thay Trung Hoa Dân quốc, tuy nhiên ta giới hạn số quân Pháp là 15.000
người, và số quân đó phải rút hết về nước trong 5 năm.
Trong quá trình đàm phán, vấn đề gay cấn nhất là việc ta đòi Pháp công nhận Việt
Nam là một quốc gia độc lập, Pháp chỉ công nhận Việt Nam là tự trị, cuối cùng Chủ
tịch Hồ Chí Minh đưa ra quy chế quốc gia tự do. Tự do – chưa phải là độc lập nhưng
là một nước có chủ quyền.
Sau Hiệp định Sơ bộ, ta và Pháp mở Hội nghị trù bị Đà Lạt, Hội nghị chính thức ở
Fontainebleau, tuy nhiên, do phía Pháp ngoan cố giữ lập trường thực dân hiếu chiến, muốn
tái lập lại chế độ thuộc địa trên toàn Đông Dương, nên các Hội nghị đều đi đến thất bại. Và để
có thêm một khoảng thời gian hòa hoãn nữa, ta quyết định ký với Pháp Tạm ước 14/9/1946,
nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa để ta có thêm thời gian
chuẩn bị lực lượng. Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định: Tạm ước 14/9 lOMoAR cPSD| 41487147
là một bước nhân nhượng cuối cùng, nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của
nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc.
Với Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước 14/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ta đã đi những
nước cờ mạnh bạo, sắc sảo, trước tiên thể hiện thiện chí hòa bình của nhân dân Việt Nam
đến nhân dân thế giới, đặc biệt là đến nhân dân Pháp, góp phần tạo một phong trào phản
chiến của nhân dân Pháp chống chiến tranh xâm lược. Việc ký kết các thỏa thuận này là
đỉnh cao của nghệ thuật nhân nhượng có nguyên tắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trên biển Đông có nhiều
biến đổi khôn lường khiến nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước, nhất là an ninh
trên biển ở Việt Nam trở thành nhiệm vụ khó khăn với nhiều thách thức. Từ bài học
lịch sử trên, Đảng và Nhà nước ta đã có sự kế thừa và vận dụng sáng tạo vào hoạt
động đối ngoại trong thời kỳ mới.
Dân tộc ta vốn đã từng hy sinh, tổn thất quá nhiều trong chiến tranh nên hơn ai hết
chúng ta rất yêu chuộng hòa bình. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương giải
quyết mọi vấn đề bằng con đường hòa bình, thương thảo, hữu nghị, pháp lý chứ
không bao giờ nhân nhượng, đặc biệt trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ.
Với chủ trương trên trong thời gian vừa qua, khi Trung Quốc công bố “đường lưỡi bò
chín khúc”, gây ra các vụ tranh chấp trên Biển Đông với các nước trong đó có Việt Nam.
Đặc biệt tháng 5/2014, Trung Quốc đã hạ đặtt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, sau đó còn liên tiếp gây khó khăn
cho ngư dân của ta trong việc đánh bắt xa bờ. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta
có những chủ trương khéo léo nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo như: kiên quyết yêu cầu
Trung Quốc di chuyển giàn khoan và các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của Việt Nam;
tuyên truyền để nhân dân và Chính phủ các nước hiểu hơn về chủ quyền của Việt Nam;
kêu gọi nghị viện các nước lên tiếng, trước hết là phải tuân thủ luật pháp Quốc tế, đặc
biệt là Luật Biển năm 1982 mà Trung Quốc là một thành viên cũng phải tuân thủ; cung
cấp tài liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù
hợp thực tế lịch sử và luật pháp quốc tế. Đồng thời, Nhà nước đã ban hành các chính
sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ để góp phần bảo vệ chủ quyền
biển, đảo; kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh quá trình dân sự hóa trên biển, nhất là ở
một số vùng biển, đảo có vị trí chiến lược kinh tế với xây dựng thế trận quốc phòng - an
ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển; tập trung nỗ
lực xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh… Từ đó kiên quyết bảo vệ
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
Lịch sử 86 năm ra đời và phát triển của Đảng ta cho thấy, càng trong những thời điểm khó
khăn, phức tạp thì bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, năng lực lãnh đạo của Đảng càng được khẳng
định. Với việc phát huy những bài học kinh nghiệm từ sách lược ngoại giao thời kỳ
1945-1946 trong giai đoạn hiện nay chính là một trong những yếu tố quan trọng đem
đến sự thành công về mặt đối ngoại của Đảng. Chúng ta tin tưởng rằng, bài học
thành công về mặt ngoại giao của Đảng trong giai đoạn 1945-1946 sẽ tiếp tục được
phát huy trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.