Tổng hợp câu hỏi ôn tập Chương 1,2 - Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Tổng hợp câu hỏi ôn tập Chương 1,2 - Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lênin (FC.001.03)
Trường: Học viện Ngoại giao
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
23:23 3/8/24 tong hop noi dung MỘT SỐ NỘI DUNG
Phần 1 (chương 1 và 2):
1.Nguồn gốc, bản chất của ý thức :
+ nguồn gốc thiên nhiên : (Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao
nhất là bộ óc con người. Thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người để hình
thành ý thức). Đó là bộ não của con người và sự tác động của thế giới bên ngoài để
bộ óc phản ánh lại sự tác động đó. (Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một
hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.)
+ các hthuc phản ánh: Phản ánh vật lý, hóa học: giới vô cơ
Phán ánh có tính kích thích: TV và ĐV bậc thấp
Phán ánh mang tính cảm ứng: ĐV bậc cao
Phán ánh tâm lý: ĐV cao cấp Phản ánh ý thức
+ nguồn gốc xã hội: “Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ … đó là
hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của
con người, tâm lý động vật thành ý thức” (Ph.Ăngghen). Nhờ có LĐ con người mới có
dáng đi thẳng đứng, 2 chi trước được giải phóng, các giác quan ngày càng hoàn thiện.
LĐ mang lai khả năng tư duy trừu tượng, suy luận, phán đoán. Giúp con người chuyển
biến nguồn thức ăn, giúp bộ não phát triển. Ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, là
hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, truyền đạt kinh
nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác...
+ bản chất của ý thức: Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. ý thức là
hình ảnh tinh thần của hiện thực ấy(Tính sáng tạo, năng động). Ý thức là sự di
chuyển của vật chất vào bộ óc người và được cải biến đi ở trong đó(Tính chủ động,
tích cực). Ý thức không thể tồn tại nếu tách rời bộ não.(mang bản chất xã hội.) 1 about:blank 1/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
2.Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, rút ra nguyên tắc phương pháp luận
và liên hệ với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Liên hệ bản thân.
+ Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức : vc qđ nguồn gốc, nd, bản chất, sự vận động và pt của yt
CNDT : YT, tinh thần có trước, là tính thứ nhất, thế giới VC là bản sao, là tính thứ hai.
CNDVSH : tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, không thấy vai trò, tác động trở lại
của YT đối với VC, rơi vào thụ động, ỉ lại,
CNDVBC : VC quyết định YT, YT tác động trở lại VC thông qua hoạt động
thực tiễn. (YT có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng. YT
tác động trở lại VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người, theo hai
chiều: Tích cực, tiêu cực. YT chỉ đạo hành động, hoạt động của con người. Nhờ
ý thức mà hoạt động của con người trở nên chủ động, tích cực; xác định được
mục đích của hoạt động, XD được chương trình, kế hoạch, v.v…. XH càng phát
triển thì vai trò của YT ngày càng to lớn…
+ Ý nghĩa phương pháp luận : phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
và hành động theo qui luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí. Phát huy tính
năng động chủ quan sáng tạo của ý thức, chống bảo thủ trì trệ, trông chờ, ỉ lại vào hoàn cảnh.
+ Vận dụng của ĐCS Việt Nam vào sự nghiệp đổi mới - Từ lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, kinh nghiệm những thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học kinh nghiệm quan trọng đó là "Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Cụ thể:
• Trước đổi mới: Kinh tế (vật chất): Cơ sở vật chất yếu kém, cơ cấu kinh tế
nhiều mặt mất cân đối, năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu
đời sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân,
nguyên liệu công nghiệp hàng hóa cho xuất khẩu. Chính trị (ý thức). Chúng ta
chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân địch thực của sự trì trệ trong nền
kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương chính sách toàn diện về
đổi mới. Nhất là về kinh tế, chúng ta chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, trì
trệ trong bổ trị cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý nền kinh tế và
những sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu thông.
• Sau đôi mới:Về chính trị, Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu phân tích
tình hình, lấy ý kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư
duy về kinh tế. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm lớn,
trong đó: phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật 2 about:blank 2/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
khách quan. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt trong sự
nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Và đến Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, ta đã đánh giá tình hình chính trị xã hội Việt Nam sau hơn bốn năm
thực hiện đường lối đổi mới: công cuộc đổi mới bước đầu đã đạt được những
thành tựu rất quan trọng, tỉnh hình chính trị của đất nước ổn định.
Về Kinh tế: Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn,
đời sống vật chất tỉnh thần của một bộ phân nhân dân có phần được cải thiện.
Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.
+ Liên hệ bản thân : Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ta có thể liên hệ bản thân
để rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu đối với quá trình học tập và làm việc.
Trước hết, trong quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần
phải coi trọng thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm cho căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
Bên cạnh đó, cần phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy vai trò tích
cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Như vậy, để đạt được thành
công trong mọi lĩnh vực, con người cần trang bị các tri thức cần thiết và xác định đúng
đắn mục tiêu, phương hướng hoạt động và tổ chức thực hiện. Cùng với nỗ lực và ý chí
mạnh mẽ của mình để đạt được mục tiêu đề ra. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức liên hệ bản thân, cá nhân tôi thấy được rằng bản thân phải luôn phát huy tính
năng động sáng tạo của ý thức, phát huy nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới
khách quan. Đặc biệt cần tránh tình trạng bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.
3.Hai nguyên lý cơ bản của PBC DV. Liên hệ thực tế, bản thân trong quán triệt quan
điểm : toàn diện, lịch sử cụ thể, phát triển.
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: - Khái niệm:
Liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển
hoá lẫn nhau giữa các SV - HT hay giữa các mặt, các yếu tố trong một SV - HT
Liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ diễn ra ở nhiều SV - HT cả
trong tự nhiên, xã hội và tư duy
Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới (3 phát minh KH) - Tính chất: 3 about:blank 3/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
Tính khách quan: Mối liên hệ là vốn có trong bản thân sự vật, hiện tượng
Tính phổ biến: Tồn tại cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy; trong mọi không gian, thời gian
Tính đa dạng, phong phú: Có rất nhiều mối liên hệ khác nhau, phụ thuộc vào
góc độ xem xét; mối loại mối liên hệ có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của SV- HT - Ý nghĩa:
Quán triệt quan điểm toàn diện
Nhận thức SV- HT trong mối liên hệ qua lại với các SV-HT khác; trong sự tác
động, liên hệ giữa các yếu tố cấu thành SV
Xem xét SV trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người
Phải biết phân biệt từng mối liên hệ, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm,
tránh xem xét dàn trải, bình quân
Chống quan điểm phiến diện, chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.
Quán triệt quan điểm quan điểm lịch sử - cụ thể:
Khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển
Khi vận dụng một nguyên lý, một học thuyết khoa học nào đó phải luôn luôn
gắn vơi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. - Liên hệ thực tiễn:
* Nguyên lý về sự pt: Phát triển là phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. - Tính chất:
Tính khách quan: Phát triển là hiện tượng khách quan vốn có của các SV-HT do các
mâu thuẫn bên trong của SV quy định
Tính phổ biến: Phát triển là quá trình phổ biến diễn ra ở ở mọi SV – HT trong cả TN, XH và TD
Tính đa dạng, phức tạp:
Phát triển là quá trình không chỉ là sự thay đổi về lượng mà bao hàm cả sự thay đổi về chất của SV
Phát triển là quá trình quanh co, phức tạp, bao hàm cả sự thụt lùi 4 about:blank 4/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
Mỗi SV-HT có quá trình phát triển khác nhau - Ý nghĩa pp luận:
Xem xét SV-HT trong sự vận động và phát triển theo các quy luật khách quan của chúng
Phải thấy được tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển của SV-HT
Tư duy phải mềm dẻo, luôn được sửa đổi, bổ sung và phát triển cho phù hợp
với sự biến đổi của bản thân SV-HT
Phải chống quan điểm siêu hình, giản đơn về sự phát triển; chống tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, bệnh giáo điều.
* vận dụng nguyên lý phát triển
Quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó
khăn, nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh
chung của các nước xã hội chủ nghĩa như bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ
quan duy ý chí... dẫn đến sự suy thoái khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng
vẫn khẳng định “chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ những bài học thành công và thất
bại cũng như từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả
năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.” (văn kiện Đại hội IX). Nhận định này xuất phát từ
nguyên lý về sự phát triển và quan điểm phát triển trong triết Mác Lênin và thực tiễn
tỉnh hình thế giới cũng như tỉnh hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bệnh
bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với những bệnh chủ quan duy ý chí là những
căn bệnh chung của các nước xã hội chủ nghĩa và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản
trở, thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế xã hội, đưa chúng ta đến những sai lầm
nghiêm trọng .Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh
phê phán với những quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến Văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ XI có viết : “...Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp,
thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai."
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
là căn cứ vào quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin
tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện nay
Chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang ở giai đoạn thoái trào và công cuộc quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội của đất nước ta cũng như các nước Chủ nghĩa xã hội đứng trước
nhiều khó khăn thử thách.
* Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào công cuộc thời kỳ đổi mới của Đảng ở Việt Nam 5 about:blank 5/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng...) chứ không ở một lĩnh vực nào. Như đại hội VII
của Đảng nêu kinh nghiệm bước đầu đổi mới “Một là phải giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, hai là đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để
nhưng phải có bớt đi hình thức và cách làm phù hợp.” Thực tiễn cho thấy đổi mới là
cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trên từng lĩnh vực
nội dung đổi mới bao gồm nhiều mặt đổi mới cơ chế, chính sách tổ chức, cán bộ,
phong cách và lề lối làm việc. Đảng Cộng sản Việt Nam không tách mình ra khỏi quỹ
đạo của sự phát triển nhân loại, đó chính là tham gia Toàn cầu hóa. Việt Nam dưới sự
dẫn dắt của Đảng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 170 quốc gia, tao mối quan hệ
thương mại với hơn 220 vùng lãnh thổ, đấy chính là một trong những thành quả cho
việc phát triển đúng hướng của Việt Nam. Ở quy mô nhỏ hơn, chính là xây dựng đội
ngũ quản lý ở các địa phương, luôn biết đặt mình trong tổng thể liên kết để tạo ra một
chính quyền đồng bộ, thống nhất. Có như vậy mới phát triển bền vững được.
4.Ba quy luật cơ bản của PBCDV : QL mâu thuẫn, ql lượng - chất, ql phủ định của pđ.
Liên hệ vận dụng ql này với cách mạng VN, công cuộc đổi mơi và bản thân.
- đối với cmvn: Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, cách mạng Việt Nam đã
và đang thực hiện bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội - con đường quá độ bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa. Đối với Việt Nam, thực hiện bước quá độ gián tiếp là một con
đường hoàn toàn mới nhưng “phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển
của lịch sử”. Do đó, cần có sự vận dụng một cách sáng tạo học thuyết mác-xít về mâu
thuẫn nói chung và những tư tưởng của V. I. Lê-nin về nhận định và giải quyết các
mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng vào điều kiện
nước ta để tạo ra động lực nội tại to lớn, thúc đẩy nhanh quá trình cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới phát triển vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, cần khẳng định sự tồn tại của các mâu thuẫn trong thời kỳ quá độ ở Việt
Nam là một tất yếu khách quan. Chối bỏ mâu thuẫn hiện thực, nuôi ảo tưởng về một
thế giới không có mâu thuẫn là xa rời thực tiễn. V. I. Lê-nin đã dạy: “tính chất biện
chứng của sự phát triển xã hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn”.
Những mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ nhân dân là những xung lực trực tiếp để xã hội
luôn luôn vận động và phát triển đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu đúng bản chất, phân
tích cụ thể. Thái độ đúng đắn đối với mâu thuẫn không phải là phủ nhận, tìm cách xóa 6 about:blank 6/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
bỏ nó một cách chủ quan mà phải nghiên cứu, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực, giải quyết kịp thời để thúc đẩy sự phát triển.
Thứ hai, cần nhận thức rõ ràng mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay. Đó là mâu
thuẫn giữa khuynh hướng tư bản chủ nghĩa với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Là
mặt đối lập với khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, khuynh hướng tư bản chủ nghĩa vừa
tồn tại trong tàn dư của xã hội cũ, vừa tồn tại trong các yếu tố mới hình thành trong
công cuộc đổi mới. Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay biểu hiện tập trung ở lĩnh
vực chính trị là mâu thuẫn giữa chủ thuyết độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội và khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; giữa những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với âm mưu và các thủ đoạn chống
phá của các thế lực thù địch...
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, mâu thuẫn cơ bản được biểu hiện tập trung giữa
quá trình hoàn thiện nền văn hóa tiên tiến, đàm đà bản sắc dân tộc với tình trạng tha
hóa, xuống cấp về văn hóa, đạo đức, lối sống trong xã hội; mâu thuẫn giữa truyền
thống và hiện đại, giữa tăng trưởng kinh tế và mục tiêu tiến bộ công bằng xã hội;...
Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay, nổi bật nhất là trên lĩnh vực kinh tế, đó là
mâu thuẫn giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự lỗi thời, thiếu hoàn
thiện của hệ thống tổ chức, quản lý tương ứng; giữa mục tiêu từng bước thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu với tình trạng phát triển còn thấp của lực lượng sản xuất; giữa đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nguy cơ hủy hoại môi trường sinh thái. Cùng
với đó, ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế có lợi ích khác biệt, trong đó kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Thừa nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế tư nhân trong suốt thời kỳ quá độ ở
Việt Nam, về bản chất, là thừa nhận sự đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Song, do
nó vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển nên vẫn được xem là một động lực quan trọng
của nền kinh tế. Trên thực tế, sự vận dụng ấy đã và đang đem lại hiệu quả tích cực,
góp phần to lớn vào thành tựu của 30 năm đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 7 about:blank 7/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
Thứ ba, vận dụng tư tưởng của V. I. Lê-nin phải phân biệt rõ giữa mâu thuẫn đối
kháng và mâu thuẫn không đối kháng trong xã hội để xác định phương hướng giải quyết đúng đắn.
Trong xã hội nước ta hiện nay, các mâu thuẫn phổ biến thuộc về mâu thuẫn không
đối kháng. Đó là mâu thuẫn giữa các giai tầng, các nhóm xã hội có lợi ích cục bộ, tạm
thời khác biệt. Để giải quyết các mâu thuẫn ấy chủ yếu phải thông qua các biện pháp
giáo dục, thuyết phục, thỏa thuận, hợp tác... mà không cần đến sự trấn áp bằng sức
mạnh bạo lực. Đặc biệt, đối với vấn đề xây dựng liên minh công nhân - nông dân - trí
thức, việc nhận thức và giải quyết các mâu thuẫn không đối kháng trên cơ sở thống
nhất chung về lợi ích là một phương hướng hữu hiệu, góp phần hoàn thiện nền tảng
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - một động lực to lớn để phát triển xã hội.
Bên cạnh đó, những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội ta không phải đã mất đi.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hoàn toàn đối lập
“một mất, một còn” với khuynh hướng tư bản chủ nghĩa; sự chống phá quyết liệt của
các thế lực thù địch cũng hoàn toàn mâu thuẫn với sự nghiệp cách mạng nước ta. Do
vậy, trong suốt thời kỳ quá độ, cuộc đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng giữa
các lực lượng đối kháng này chính là quá trình giải quyết một cách triệt để các mâu thuẫn đối kháng.
Việc vận dụng, nhận định, phân tích, làm rõ các mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam là
một vấn đề có ý nghĩa to lớn, góp phần làm sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác về mâu
thuẫn trong đời sống xã hội, đặc biệt trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- đối với công cuộc đổi mới: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
(quy luật mâu thuẫn) là hiện tượng, vẫn để có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã
hội và tư duy con người.
Mâu thuẫn giữa ổn định chính trị và đổi mới chính trị: ổn định và đồi mới về
chính trị là 2 mặt đối lập nhưng thống nhất và biện chứng với nhau, có ổn định mới có
đổi mới và đổi mới điều kiện ổn định, hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó
chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên nên tàng của đổi mới kinh tế. 8 about:blank 8/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu
kìm hãm diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng
cách nào? Đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, chuyển đôi nền kinh tế mà cuộc
chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng, thể hiện tích chất cách mạng của công cuộc đôi mới hiện nay ở Việt Nam
là phần đầu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và cơ chế thị trường: Trong điều
kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ
sản phẩm đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng phát triển.
Thực tiễn ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời cho
nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Điều này cho thấy kết cấu bên
trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phủ hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa: Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải
có con người xã hội chủ nghĩa, yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong
sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn
của cải vật chất và văn hoá con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phủ về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây
dựng xã hội mới, là mục tiêu của xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải lấy con người làm
điểm xuất phát. Từ đó, chúng ta thấy rằng đối mới ở nước ta hiện nay không thể xây
dựng và phát triển con người nếu thiều yếu tổ kinh tế thị trường. Việc xây dựng cũng
có, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến
lược xây dựng, phát triển con người xã hội chủ nghĩa. - Bản thân:
Mỗi cá thể, mỗi người đều có quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau, không phải
trong mọi trường hợp hoàn cảnh chúng ta đều đồng quan điểm hay có biện pháp, cách
giải quyết giống nhau. Vì vậy khi thấy có sự mâu thuẫn trong chính bản thân mình: 9 about:blank 9/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
điều em hiểu ra được khi thấy bản thân mình có sự mâu thuần đó chính là em sẽ
không làm gì cả, tìm một nơi thật yên tĩnh và ngồi một chỗ, đây là lúc em tự vấn đáp
bản thân mình. Nghe qua thì có hơi lạ nhưng nó rất hiệu quả. Tự hỏi bản thân mình là
cách mà bản thân em thấy hiệu quả nhất để phát triển tư duy cũng như thế giới quan
của bản thân về sự vật, hiện tượng.
VÍ DỤ: như khi em bị điểm kém vì một bài kiểm tra hay kì thì thì đây là lúc bản thân
xây ra mâu thuẫn. Tại sao lại như vậy? Đây là lúc em phải tự ngồi xuống nhìn nhận lại
bản thân mình. Em đặt ra vô số câu hỏi cho bản thân như: Em có thực sự cố gắng
chưa? Em có dành nhiều thời gian với môn học này chưa? Em đã có tìm hiểu bài và
học bài kĩ chưa? Thì khi đó là lúc em nhận ra bản thân em đã không làm được, em
chưa cổ găng, em còn sự xao nhân, còn lướt mạng xã hội quá nhiều, mà cái cần ưu
tiên và quan trọng hơn là việc học bài và ôn tập cho bài kiểm tra. Qua nhiều lần tự hỏi
và phê bình bản thân em đã thấy được mặt hạn chế cũng như mâu thuẫn của bản thân
(muốn điểm cao nhưng lại lười biếng) vì thế mà em có động lực, có cái để sửa sai và
rút kinh nghiệm trong những bài kiểm tra sau.
5.Cặp phạm trù nhân – quả ; chung riêng và liên hệ vận dụng.
* chung riêng: Với bản thân em, gia đình luôn luôn là tổ ấm mà em muốn tìm về, là
nơi đã chở che cho em từ những ngày thơ bé, là nơi an toàn nhất đối với mỗi người.
Ngoài ra gia đình còn là một bến bờ vững chắc nếu chúng ta có sa cơ lỡ vận. Ngoài ra
gia đình còn là một tổ hợp chính thể của tất cả những quan hệ ông – bà, con – cháu,
vợ - chồng, anh – em. Họ là một tổ hợp của lối sống đầm ấm, chan hoà. Ở đó chúng ta
có tình thương yêu vô bờ bến không có khoảng cách, được gieo trồng và vun đắp
trong mỗi con người. Đó là những cái chung còn về bản thân của chúng ta là một cái
riêng trong cái chung đó. Mà trong đó con người chúng ta có những đặc tính, đặc
điểm, học vấn, tínhcách khác nhau giữa mỗi con người. Cái riêng này tạo ra những
khác biệt cho mỗi người trong gia đình. Cụ thể hóa một chút ta thấy mỗi con người
sinh ra đều có họ tên, ngày tháng năm sinh, có các đặc điểm nhận dạng dấu vân tay,…
đặc điểm di truyền như ADN, tính cách: nhu mì, hiền lành… tất cả những đăc điểm đó 10 about:blank 10/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
tạo nên sựkhác biệt giữa các thành viên với nhau, cũng như giữa con ngưới với
conngười trong một xã hội. Còn đối với gia đình, khi ta nhắc đến 2 từ đó thôi thìta
cũng có thể hình dung ra được những đặc điểm chung nhất để tạo nên mộtgia đình đó
là mỗi thành viên trong gia đình đó có mối liên hệ với nhau vềmặt huyết thống hay có
mối liên hệ vể mặt luật pháp: ông, bà, cha, mẹ, con,anh chị em… Tất cả cùng sống
trong một mái nhà cùng lao động, cùng sinhhoạt, cùng xây đắp nên một gia đình hoàn
chỉnh hơn. Và gia đình là nơidưỡng dục về thể chất, tinh thần, hình thành nhân cách
cho mỗi con người trong xã hội.
*nhân quả: Bạo lực học đường do một số nguyên nhân như sau:
Thứ nhất: Có thể thấy tình trạng bạo lực diễn ở môi trường học tập chủ yếu ở độ tuổi
12-17 tuổi. Đây là độ tuổi thay đổi tâm sinh lý của của học sinh – độ tuổi vô cùng
nhạy cảm. Bản thân các em chưa làm chủ được nhận thức và hành động của bản thân
mà dễ cáu gắt, bực tức và có những hành vi gây bạo lực học đường.
Thứ hai: Từ phía gia đình Cuộc sống ngày nay ngày càng đòi hỏi vật chất nên phụ
huynh bận rộn kiếm tiền, ít quan tâm đến con cái, thậm chí vù áp lực cuộc sống hay
trút giận lên chính đứa con của mình. Nhiều gia đình lục đục nên con cái chứng kiến và bị ảnh hưởng.
Thứ ba: Từ nhà trường Nhiều trường học chỉ chú trọng đào tạo giáo dục mà ko để ý
giáo dục nhân cách, kĩ năng cư xử phẩm chất cho học sinh. Hoặc khi có bạo lực không
có hướng giải quyết nên học sinh không sợ.
Thứ tư: Từ phía xã hội Sự ảnh hưởng do thời đại 4.0 internet phát triển mạnh mẽ và
không được kiểm duyệt. Văn hóa bạo lực trong các bộ phim ảnh, sách báo và các trò
chơi, game mang xu hướng bạo lực tràn lan trên mạng và không được kiểm duyệt
đàng hoàng dẫn đến những đối tượng ở độ tuổi vị thành niên này bị tò mò và tiếp xúc
nên có tâm lý bạo hành học đường ở ngoài đời.
Thứ năm: Do biến chất về mặt tâm lý Nhiều học sinh, giáo viên suy thoái đạo đức
nghề nghiệp, có những cách nhìn nhận méo mó, lệch lạc biến thái.
Kết quả là nạn bạo lực học đường ngày càng gia tăng với sự phức tạp. Các hành vi
đánh đập, bứt tóc, xô đẩy, dứt tóc, xé quần áo, đổ đồ ăn lên người, trấn lột cướp đồ 11 about:blank 11/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
giữa học sinh với nhau hết sức phổ biến trong các trường. Không chỉ vậy mà học sinh
còn sử dụng những hành vi hoặc lời nói gây xúc phạm, gán ghép hoặc bôi nhọ, sỉ
nhục, chế nhạo hoặc bắt người khác làm theo ý mình. Hành vi này có thể ở giáo viên
đối với học sinh hoặc học sinh với nhau. Việc xâm phạm tình dục, có thể động chạm
những bộ phận nhạy cảm hoặc thậm chí có những hành vi cưỡng ép tình dục, hiếp
dâm, … gây rúng động dư luận thời gian qua cũng rất báo động và cần được xử lý nghiêm.
Có thể thấy mối quan hệ giữa nguyên nhân của bạo lực học đường dẫn đến những hậu
quả đáng tiếc trên thực tế. Từ những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan mà học
sinh có các hành vi đánh đập, chế nhạo hoặc xâm phạm, xúc phạm,… bạn bè thầy cô.
Từ đó mà bỏ học, nghỉ học đuổi học kéo theo hệ lụy phía sau.
6.Con đường nhận thức chân lý ; nguyên lý thống nhất giữa lý luận với thực tiễn; vận
dụng trong đổi mới ở VN và liên hệ với bản thân sv từ nguyên lý này.
*nguyên lý: Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và của lý luận nhận thức
mácxít nói riêng. Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được thể
hiện ở những nội cụ thể sau:
Thứ nhất, giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Lý luận được
hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ với thực tiễn. Giữa
lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau, ràng
buộc lẫn nhau, đấu tranh và chuyển hóa lẫn nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết
định, ngược lại lý luận luôn có tác động trở lại hướng dẫn hoạt động thực tiễn.
Thứ hai, lý luận trở thành khoa học khi gắn liền với thực tiễn. Thực chất nội dung
này là sự khẳng định vai trò to lớn của thực tiễn đối với lý luận. Ăngghen nhận xét
rằng: "Từ trước tới nay khoa học tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi thường
ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn, một mặt chỉ biết
có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự 12 about:blank 12/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở
chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển
song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên".
Trong quá trình tồn tại, con người không được thế giới đáp ứng thỏa mãn, nên con
người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính trong quá trình
biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực
bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận
thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức
của mình về thế giới. Thực tiễn cũng đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát
triển của nhận thức, lý luận. Nhu cầu, thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng
kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, thúc đẩy sự ra đời phát triển của các ngành khoa học.
Thứ ba, thực tiễn chỉ đạt được mục đích khi có lý luận dẫn dắt. Bên cạnh việc đề
cao vai trò của thực tiễn đối với lý luận, nguyên tắc cũng chỉ ra vai trò của lý luận đối
với thực tiễn thể hiện ở tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nó. Hay nói cách khác,
bản thân lý luận, khoa học không có mục đích tự thân. Lý luận sau khi ra đời quay về
phục vụ thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực
sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn, phục vụ cho mục tiêu
phát triển. Lý luận tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông
qua hoạt động của con người.
*ccdmvn: Từ khi đổi mới đến nay, dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tưtưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước,Đảng ta
không ngừngphát triển lý luận, nhất là lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên
chủ nghĩa xãhội và bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định.Về mô hình chủ
nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh (1991), đã đề cập sáu đặc trưngcủa xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ cônghữu về các tư liệu
sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,con người được
giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởngtheo lao động, có 13 about:blank 13/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diệncá nhân; các dân
tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Công tác lý luận của Đảng
ta thời gian qua đã có bước phát trển mới.Tuy nhiên nhìn chung công tác nghiên cứu
lý luận, tổng kết thực tiễn vẫn chưa thực sựđáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp đổi
mới. Nhận thức trên một số vấn đề cụ thể củacông cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu
thống nhất. Công tác dự báo trong nhiều lĩnhvực còn yếu…Trong Văn kiện Đại hội
XII Đảng ta cũng chỉ rõ: “Công tác tổng kếtthực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập,
chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trongquá trình mới để định hướng trong thực
tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch địnhđường lối của Đảng, Chính sách và
pháp luật của nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xãhội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thựctiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục
làm rõ”. Chính vì vậy, hiện nay Đảng vẫn phải tiếptục, không ngừng phát triển hoàn
thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lênchủ nghĩa xã hội ở nước ta.
*bản thân svien: Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng tại các Trường
Chính trị từng bước đổi mới về nội dung, phương pháp; đội ngũ giảng viên được tăng
cường cả về số lượng và chất lượng, qua đó chất lượng đào tạo, bồi dưỡng có những
chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng còn nhiều
hạn chế do một số nguyên nhân như: nội dung chương trình một số chuyên đề còn
nặng về lý luận, công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn phục vụ giảng dạy
chưa đáp ứng được yêu cầu, bài giảng chủ yếu là lý thuyết, thiếu sinh động và sức
thuyết phục. Do vậy, để nâng cao chất lượng công tác giảng dạy lý luận chính trị trong
tình hình mới, gắn lý luận với thực tiễn, cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất, giảng viên cần tích cực học tập, nâng cao trình độ lý luận. Thứ hai, trong
quá trình giảng dạy, từ những kiến thức lý luận, giảng viên cần hướng vào việc lý giải
và làm sáng tỏ những vấn đề của thực tiễn đã và đang diễn ra. Thứ ba, giảng viên
thường xuyên quan tâm đến việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn; cập nhật tình hình
thế giới, tình hình trong nước và các địa phương; chú trọng công tác nghiên cứu thực 14 about:blank 14/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
tế. Thứ tư, chú trọng đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy lý luận để tạo hứng
thú và phát huy vai trò tích cực, chủ động của người học. Phần 2 (chương 3) :
1.QL mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX và liên hệ với VN hiện nay (từ 1986 đến nay).
Sau cuộc chiến tranh kéo dài để bảo vệ đất nước, kinh tế nước ta vốn đã nghèo
nàn, lạc hậu lại càng trở nên trì trệ, khó khăn chồng chất khó khăn, lực lượng sản xuất
còn thấp kém và không có điều kiện để phát triển. Khi ấy, trình đô của người lao động
không cao, hầu hết đề không có kỹ năng chuyên môn và chưa được qua đào tạo, chủ
yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp dựa theo kinh nghiệm được truyền miệng từ
thế hệ trước. Rất ít trường dạy nghề, chủ yếu chỉ tập trung ở các thành phố lớn nên
trình đô của người dân nơi này có phần cao hơn.
Tư liệu sản xuất đặc biệt là công cụ lao động nước ta thời kỳ đó còn rất thô sơ, lạc
hậu, mặc dù tập chung sản xuất nông nghiệp nhưng công cụ lao động chủ yếu chỉ có
cuốc, cày. Trong hoàn cảnh đó, Đảng và Nhà nước chủ trương xây dựng quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất gồm thành phần
kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh té hợp tác xã thuộc sở
hữu tập thể của người dân lao động.
Trong thời kỳ bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hôi, đã nhấn mạnh sự tích cự của
quan hệ sản xuất, nó mở đường tao đông lực cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Tuy
nhiên, có nhiều nơi, người lao động không được chú trọng về trình độ cũng như thái
độ nên đã trở nên thụ động trong cơ chế quan liêu bao cấp, Nhà nước đề cao vấn đề sở
hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập thể hoá khiến người lao động bị biệt lập với đối
tượng lao động. Quan hệ sản xuất lên cao tách rời lực lượng sản xuất dẫn đến sản xuất
bị kìm hãm, đời sống nhân dân đi xuống, năng xuất lao động quá thấp hiến nên kinh tế
nước ta lại lần nữa lâm vào khủng hoảng.
Nhận thức được điều đó, Đảng đã chủ trương đổi mới phương thức quản lý kinh tế
và đã đạt được nhiều thành quả to lớn. Mở rộng nhiều trường dạy nghề ở các cấp, đôi
ngũ trí thức tăng lên nhanh chóng với hàng ngàn sinh viên mỗi năm, đáp ứng đầy đủ 15 about:blank 15/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
nhu cầu lao động cho đất nước. Tuy nhiên thi trường lao động vẫn bị phân chia mất
cân đối giữa cung và cầu ở một số ngành nghề, chất lượng lao động của nhân lực ở
Việt Nam ta còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy manh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo quan hệ sản xuất mới.
Máy móc và các thiết bị thông minh, hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi trong
nhiều ngành nghề: nông nghiệp (máy cày, máy cấy, ....), công nghiệp (máy chế tạo,
máy chế biến, ...) nhưng nhìn chung vẫn còn nghèo nàn, chậm phát triển, hiệu quả còn
chưa cao. Từ đây, Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi năng lực sản xuất.
Trong khi lực lượng sản xuất đang không ngừng phát triển, Đảng và Nhà nước ta
chủ trương đa dạng các mối quan hệ xã hội đã bước đầu vận dụng đúng quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tăng cường, mở rộng
hợp tác quốc tế, tham gia nhiều tổ chức quốc tế: ASEAN, APEC, WTO, ... và đạt
được nhiều thành tự đang kể: thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA, ...),
xúc tiến manh thương mại, đầu tư, mở rộng xuất nhập khẩu. Đồng thời ban hành nhiều
chính sách và pháp luật để hoàn thiện các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa
2.Biện chứng giữa CSHT và KTTT – Liên hệ với VN hiện nay (từ 1986 đến nay).
Trước đổi mới (1986): đề cao thái quá vai trò của kiến trúc thượngtầng, chính trị
là thống soái, Nhà nước, cơ quan quản lí can thiệp thôbạo vào kinh tế bằng những
mệnh lệnh chủ quan; vi phạm các quyluật kinh tế khách quan => khủng hoảng kinh tế, xã hội.
Từ 1986 đến nay: Thực hiện đổi mới toàn diện (kinh tế, chính trị, vănhóa, xã hội),
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới vềchính trị, trước hết là đổi mới
tư duy về kinh tế; giải quyết tốt mốiquan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ
vững định hướng xãhội chủ nghĩa.
->Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị tác động mạnh mẽ qua lạivới kinh tế.
Thực trạng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiệnnay: 16 about:blank 16/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung Về sơ sở hạ tầng:
- Nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện.
Đất nước đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã
hội. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá, phát
triển kinh tế thị trường định hướngxã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân
dân được cải thiện rõrệt. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả
năng; chấtlượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh
tếchuyển dịch chậm. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nướctrong khu
vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại.
Về kiến trúc thượng tầng:
-Qua 25 năm đổi mới: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đilên chủ
nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lýluận về công cuộc đổi mới,
về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đườngđi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình
thành trên những nét cơbản”
-Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề: Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực
chậm đổi mới; một số vấn đềở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên
chưa đạt đượcsự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch
địnhchính sách, chỉ đạo điều hành.
-Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấpyếu kém về
phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gươngmẫu vừa không đủ trình độ,
năng lực hoàn thành nhiệm vụ.-Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với chức
năng quản lýcủa NN có lúc có nơi chưa rõ ràng, chồng chéo, buông lỏng.
-Ý thức chấp hành PL của cán bộ, nhân dân còn yếu, hệ thống PL chưađồng bộ,
hoàn chỉnh; đạo đức lối sống sa sút đáng lo ngại, bản chấtvăn hóa dân tộc bị sói mòn,
tội phạm, tệ nạn XH có xu hướng giatăng; sự tấn công của các mặt trái cơ chế thị
trường cũng như nhữngâm mưu chống phá của các thế lực thù địch với VN càng ngày càng lộrõ và gia tăng.
-Tệ quan liêu tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng 17 about:blank 17/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
3.Nguồn gốc, bản chất của nhà nước, đặc trưng va phương hướng xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN ở VN hiện nay. (trong sách)
4.Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại XH và Ythuc XH - liên hệ trong xây dựng ý
thức xh mới ở VN hiện nay. SV Ngoại giao cần làm gi đẻ XD ý thức Xh mới ?
*Việt nam: Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn
đề bức thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát
triển đất nước trên cả hai mặt đời sống tinh thần và đời sống vật chất trong thời kỳ
đổi mới và hội nhập, kèm theo là chống những biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng
đó (ví dụ của những biểu hiện cản trở như: dao động về lý tưởng, mục tiêu và con
đường phát triển của dân tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền thống
của dân tộc...) Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận trong sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá,
phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát
triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm
sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá, xây dựng con người mới.
Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội
chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền
thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tính kế thừa của ý thức
xã hội có ý nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh thần của xã
hội xã hội chủ nghĩa. V.I Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần
phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nhân loại từ cổ
chí kim trên cơ sở thế giới quan Mác - xít. Nắm vững nguyên lý về tính kế thừa của ý
thức xã hội có một ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Trong kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu
quốc tế, Đảng ta khẳng định: “Phát triển văn hóa dân tộc đi đôi với mở rộng giao 18 about:blank 18/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
lưu văn hóa với nước ngoài, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.”
*Sinh viên: xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp toàn dân, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh
sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm
cho văn hóa thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh
thần của xã hội. xây dựng ý thức xã hội mới gắn với việc tăng cường học tập lý luận,
tuyên truyền, giáo dục, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở thành nền tảng và kim chỉ nam
cho nhận thức, hành động của toàn Đảng và nhân dân. xây dựng ý thức xã hội mới cần
ý thức sâu sắc sự kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”.
Thứ nhất, thế hệ trẻ cần phải chăm chỉ, sáng tạo, có mục đích và động cơ học tập
đúng đắn, học tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu được học tập tốt là yêu nước.
Tuổi trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng đóng vai trò rất quan
trọng trong việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, có đầy đủ kiến thức, kỹ
năng để thích ứng với những bước phát triển mới trong khoa học và công nghệ.
Thứ hai, tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh,
tránh xa các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng,
thực dụng, xa rời các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc. Đây sẽ là một
động lực quan trọng để phát huy giá trị truyền thống của dân tộc, phát huy giá trị tốt
đẹp của con người Việt Nam nói chung và tuổi trẻ Việt Nam nói riêng để đóng góp
vào sự phồn thịnh của đất nước.
Thứ ba, luôn nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tránh nhạt Đảng, khô
Đoàn, xa rời chính trị. Hiện nay, các thiết bị công nghệ hiện đại và hệ thống mạng xã
hội đang ngày càng phát triển đã tạo ra nhiều ảnh hưởng lớn đến sinh viên, bao gồm
cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, một trong số đó là khiến giới trẻ nói chung,
trong đó có sinh viên sống tách biệt với xã hội, hình thành lối sống vô tâm, vô cảm,
thờ ơ chính trị. Bên cạnh đó, nhiều bạn trẻ chủ yếu đọc báo qua những bài được chia 19 about:blank 19/23 23:23 3/8/24 tong hop noi dung
trẻ trên mạng xã hội chưa được kiểm chứng cụ thể, thay vì chủ động tiếp cận tới các
nguồn tin chính thức, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch truyền bá những thông tin
xuyên tạc Đảng và Nhà nước mà nếu không có những nhận thức chính trị đầy đủ,
người đọc sẽ hình thành suy nghĩ sai lệch, gây ra những hệ lụy khôn lường cho tình
hình an ninh xã hội. Sinh viên Việt Nam phải có nhiệm vụ tự mình nâng cao nhận
thức trị, học và làm theo Bác, hỗ trợ Đảng và Nhà nước trong việc loại bỏ các thông
tin xuyên tạc, tiêu cực khỏi các nền tảng mạng xã hội, tuyên truyền đến người thân,
bạn bè có cách tiếp nhận thông tin đúng đắn, chính xác.
Thứ tư, biết trau dồi các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển
của công nghệ, phát triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội. Trong
quá trình xây dựng nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, ta không nên mù quáng phủ
nhận tất cả những sản phẩm Chủ nghĩa Tư bản đã tạo ra mà phải chắt lọc, kế thừa
những thành tựu phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước. Trong đó, sinh viên
với bản chất năng động, sáng tạo, nhiệt huyết, nhanh nhạy là đối tượng lý tưởng để
tiếp thu các công nghệ mới, tham gia giao lưu, hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trong quá
trình hội nhập phải luôn tỉnh táo để không đánh mất bản sắc văn hóa của dân tộc, phải
dung hòa được nếp sống hiện đại với những giá trị truyền thống.
Tích cực trau dồi lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa để tránh bị tác
động bởi các thế lực thù địch, phản động. Chủ động phấn đấu theo mẫu hình thanh
niên Việt Nam: tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn, tiên phong trong công cuộc xây dựng
và đổi mới đất nước, góp sức mình vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
5.Bản chất con người theo quan điểm của CN Mác – LN - Giải pháp phát triển con người ở VN hiện nay.
Con người luôn là yếu tố trung tâm, trọng điểm trong sự phát triển. Dù là lĩnh vực
hoạt động nào, khía cạnh nào được bàn đến cũng tập trung vào bàn bạc và tìm ra giải
pháp nhằm tạo ra các điều kiện để phục vụ cho sự phát triển toàn diện của con người.
Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Phát huy tối đa nhân tố con
người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát 20 about:blank 20/23