Tổng hợp câu hỏi tự luận thi cuối kỳ - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

Tổng hợp câu hỏi tự luận thi cuối kỳ - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Thông tin:
49 trang 12 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tổng hợp câu hỏi tự luận thi cuối kỳ - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

Tổng hợp câu hỏi tự luận thi cuối kỳ - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

368 184 lượt tải Tải xuống
Thi cuối kỳ
1. Tại sao nói sự ra đời của TTHCM là một tất yếu lịch sử ?
Bối cảnh Việt Nam cuối 19 – đầu 20:
HCM sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động.
Chính quyền nhà Nguyễn vào thời điểm này từng bước khuất phục tư bản Pháp. Triều
đình liên tiếp thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động… Việc này
hoàn toàn chặn đứng hội tiếp xúc bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Cùng
với đó, điều này cũng khiến Việt Nam không thể phát huy được thế mạnh của dân tộc
nhằm chống lại âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Sau khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược Việt Nam tại bán đảo Sơn Trà
(Đà Nẵng) vào năm 1858, chính quyền nhà Nguyễn hầu như hoàn toàn bất lực lần
lượt kết các hiệp ước: Nhâm Tuấn (1862), Giáp Tuất (1874), Harmand (1883)
cuối cùng Hiệp ước Patenôtre (1884). Hiệp ước sau cùng tại kinh thành Huế đã
chuyển giao toàn bộ quyền hành, lãnh thổ vào tay thực dân Phápthừa nhận sự bảo
hộ của chủ nghĩa thực dân.
Sau khi bình định xong, thực dân Pháp đã biến Việt Nam từ một nước phong kiến độc
lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Chính sách khai thác thuộc địa đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc và
xuất hiện 2 mâu thuẫn cơ bản: mẫu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc. Điều này làm
cho dân ta rơi vào tình trạng một cổ hai tròng, tạo tiền đề bên trong cho phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX.
Cuối thế kỉ XIX, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi ra chiếu “Cần Vương”
làm bùng lên các cuộc khởi nghĩa trang do các văn thân, sỹ phu lãnh đạo: Phạm
Bành, Đinh Công Tráng (Khởi nghĩa Ba Đình), Nguyễn Thiện Thuật (Khởi nghĩa Bãi
Sậy), Phan Đình Phùng (Khởi nghĩa Hương Khê) Hoàng Hoa Thám (Khởi nghĩa
Yên Thế)... Sự thất bại của phong trào Cần Vương đã chấm dứt một thời đấu tranh
yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến.
Đầu thế kỉ XX, chịu ảnh hưởng bởi các cuộc cách mạngsản (Minh Trị - Nhật Bản,
Tân Hợi Trung Quốc, cách mạng sản Anh 1640, Mỹ 1776, Pháp 1789), phong
trào đấu tranh yêu nước của Việt Nam lúc này mang màu sắc mới theotưởng hệ
sản. Tiêu biểu Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học… nhưng tất cả
đều thất bại. Lúc này phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào cảnh khó khăn, khủng
hoảng về con đường đấu tranh để giải phóng dân tộc nhằm thoát khỏi chủ nghĩa thực
dân, giành độc lập dân tộc.
Bối cảnh Thế Giới cuối 19 – đầu 20:
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát triển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Một số nước đế quốc Anh, Pháp,
Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Nga, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, v.v… đã chi phối
toàn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh đã
trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các nước đế quốc.
Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư bản là mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư bản; mâu thuẫn giữa các nước
đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế
quốc. Sang đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn này ngày càng phát triển gay gắt. Giành độc
lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ là đòi hỏi của riêng họ, mà còn là mong muốn
chung của giai cấp vô sản quốc tế; tình hình đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới phát triển.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác - Lênin
ở một nước lớn rộng một phần sáu thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã đánh đổ giai
cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên một xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi mở ra con đường giải phóng cho các dân
tộc bị áp bức và cả loài người, mở ra một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
Ngày 2-3-1919, Quốc tế Cộng sản ra đời ở Mátxcơva. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc
tế Cộng sản đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm Cách mạng
Tháng Mười Nga ra khắp thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ
của các đảng cộng sản ở nhiều nước.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Xô viết và Quốc tế Cộng
sản cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế
giới tìm mục tiêu và con đường cứu nước mới
Kết luận: => Sự ra đời của TTHCM đã giải quyết được những vấn đề mà CM Việt Nam đặt
ra và nó phù hợp với xu thế của CM thế giới vì vậy nó là một tất yếu
Câu 2.Nêu những tiền đề tưởng luận hình thành tưởng
HCM? Trong những tiền đề đó, tiền đề nào quan trọng nhất, quyết
định bản chất TTHCM
1. Giá trị truyền thống của dân tộc VN
yêu nước
Bất khuất
Đoàn kết
Nhân nghĩa
Lạc quan
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại vượt qua mọi
khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển. Chính chủ nghĩa yêu nước là
nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường
cứu nước, và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường cứu nước, cứu dân.
Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì
độc lập, tự do của Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ
của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trịnh
trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” .
Không có gì quý hơn độc lập tự do - chân lý lớn của thời đại được Hồ Chí Minh
khẳng định, đồng thời cũng chính là một điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí Minh hết
sức chú trọng kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam là yêu nước gắn liền với yêu dân, có tinh thần đoàn kết, dân chủ, nhân ái, khoan
dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang; tinh thần cần cù, dũng
cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của dân tộc Việt Nam. Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành công của cách
mạng; nước lấy dân làm gốc; gốc có vững cây mới bền; xây lầu thắng lợi trên nền
nhân dân; đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế là một nguyên tắc chiến lược
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử, trân
trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và những giá trị tốt đẹp khác của
dân tộc. Đó chính là một cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn hóa
kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng;
cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
xây dựng nền văn hoá mới của Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh là một biểu tượng cao
đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây.
2. Tinh hoa văn hoá nhân loại
Tinh hoá văn hoá phương Đông
Về Nho giáo: Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình nhà Nho yêu nước, từ rất sớm đã
chịu ảnh hưởng của Nho học từ người cha và nhiều nhà Nho yêu nước ở quê hương.
Người tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo như: Triết lý hành động, tư tưởng
nhập thế, hành đạo giúp đời, là khát vọng về một xã hội đại đồng, là hòa mục, hòa
đồng, là triết lý nhân sinh tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa, lễ giáo, hiếu học và
Người đã phê phán loại bỏ những yếu tố tiêu cực và thủ cựu của nó.
Về Phật giáo: Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc những tư tưởng tốt
đẹp của Phập giáo như: vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể
thương thân, nếp sống đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo việc thiện, ca ngợi lao
động, phê phán lười biếng, chủ trương gắn bó với dân, với nước.
Khi trở thành người mác xít, Hồ Chí Minh chú ý tìm hiểu chủ nghĩa “Tam Dân” (dân
tộc độc lập; dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của Tôn Trung Sơn, vì thấy trong
đó “những điều thích hợp với điều kiện nước ta”.
Tinh hoa văn hoá phương Tây
Cùng với tư tưởng triết học phương Đông, Hồ Chí Minh còn tiếp thu nền văn hóa dân
chủ và cách mạng của phương Tây. Người chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng tự do,
bình đẳng trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, năm 1776 và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Đại Cách mạng Pháp, năm 1791.
2. Triết học Mác Lênin
Chủ nghĩa Mác Lênin sở thế giới quan phương pháp luận của
tưởng Hồ Chí Minh. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin trên nền tảng
những tri thức văn hóa tinh túy của nhân loại cùng với sự hiểu biết chính trị
phong phú được tích lũy qua hoạt động thực tiễn đấu tranh mục tiêu cứu
nước, giải phóng dân tộc của chính mình.
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đi vào nghiên
cứu chủ nghĩa Mác. Người tiếp thu luận Mác Lênin theo phương pháp
macxít, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan
điểm, phương pháp biện chứng của Chủ nghĩa Mác Lênin để giải quyết
những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết
luận có sẵn trong sách vở.
Như vậy, chính thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
đã giúp Hồ Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của
mình để từ đó tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta.
Trong các tiền đề trên chủ nghĩa Mác- Lê nin là tiền đề quan trọng nhất là vì: Chủ nghĩa
Mác- Lê nin là thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, là chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có định hướng khoa học và
cách mạng đúng đắn. Tinh hoa văn hóa nhân loại làm phong phú và sâu sắc thêm chủ nghĩa
yêu nước và tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Hồ
Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình để từ đó tìm ra con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc – con đường cách mạng vô sản; cùng với quy luật cách
mạng Việt Nam là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”
Câu 3:Từ tư tưởng phê bình và tự phê bình của Hồ Chí Minh. Anh/Chị
hãy liên hệ với việc chỉnh đốn hoàn thiện nhân cách của bản thân
TTHCM về tự phê bình và phê bình /131
Tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên,
“như mỗi ngày phải rửa mặt” . Người viết trong Di chúc: “Trong Đảng thực hành dân chủ
rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố
sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng” . Người cho rằng, tự phê bình và phê bình là “thang
thuốc” tốt nhất để làm cho phần tốt trong mỗi tổ chức và mỗi con người nẩy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi; tự phê bình và phê bình phải trung thực, kiên quyết, đúng
người, đúng việc, phải có văn hóa…Trong Đảng, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau” .
Liên hệ bản thân
Trong 1 tập thể chỉ ra lỗi sai góp ý lỗi sai của thành viên để cùng sửa chữa và giúp tập thể
cùng hoàn thiện công việc chung. Nhận lỗi của bản thân tuqj kiểm điểm nhận lỗi và tìm cách
khắc phục lỗi sai để không làm ảnh hưởng đến tập thể. Cần nêu cao tinh thần tự giác, dám
nhận lỗi, tập cách tự tin dám nói trước đám đông, Khắc phục được tâm lý tự ti, sợ bị trù dập
nên không dám phê bình người khác
3. Từ tư tưởng giữ gìn bản sắc dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân
loại/210
TTHCM
Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại. Bản sắc văn hóa dân tộc là
những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; là thành quả của quá
trình lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu của con người Việt Nam.
Bản sắc văn hóa dân tộc được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ. Về nội dung, đó là lòng yêu
nước, thương nòi; tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc... Về hình thức, cốt cách văn hóa
dân tộc biểu hiện ở ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, truyền thống, cách cảm và nghĩ...
Bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng giá trị lớn và có một ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó phản ánh những nét độc đáo, đặc tính dân tộc. Nó là ngọn
nguồn đi tới chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh nói rằng, âm nhạc dân tộc ta rất độc đáo,
phải khai thác và phát triển lên; rằng, những người cộng sản chúng ta rất quý trọng cổ điển,
có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ những ngọn nguồn cổ điển đó; vì vậy, trách nhiệm của con
người Việt Nam là phải trân trọng, khai thác, giữ gìn, phát huy, phát triển những giá trị của
văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn lịch sử. Theo
Người, “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”; “càng thấm nhuần
chủ nghĩa Mác-Lênin càng phải coi trọng những truyền thống tốt đẹp của cha ông”. “Mỗi dân
tộc cần phải chăm lo đặc tính dân tộc mình trong nghệ thuật”. Chăm lo cốt cách dân tộc, đồng
thời cần triệt để tẩy trừ mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc, tôn
trọng phong tục tập quán, văn hóa của các dân tộc ít người.
Trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tiếp
biến văn hóa (tiếp nhận và biến đổi) là một quy luật của văn hóa. Theo Hồ Chí Minh, “văn
hóa Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại...
Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam.
Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam
thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ” .
Hồ Chí Minh chú trọng chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Trao đổi với một nhà văn Liên
Xô, Người nhấn mạnh rằng “các bạn chớ hiểu là tôi cho rằng chúng tôi cần dứt bỏ văn hóa
nào đó, dù là văn hóa Pháp đi nữa. Ngược lại, tôi muốn nói điều khác. Nói đến việc mở rộng
kiến thức của mình về văn hóa thế giới, mà đặc biệt hiện nay là văn hóa Xôviết - chúng tôi
thiếu - nhưng đồng thời tránh nguy cơ trở thành kẻ bắt chước... Văn hóa của các dân tộc khác
cần phải được nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể được nhiều hơn
cho văn hóa của chính mình” . Nhận diện về hiện tượng văn hóa Hồ Chí Minh, một nhà báo
Mỹ viết: “Cụ Hồ không phải là một người dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi, mà cụ là một người yêu
mến văn hóa Pháp trong khi chống thực dân Pháp, một con người biết coi trọng những truyền
thống cách mạng Mỹ trong khi Mỹ phá hoại đất nước cụ” .
Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt
Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Nội dung tiếp thu là toàn diện
bao gồm Đông, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt, các khía cạnh. Tiêu chí tiếp thu là có cái gì hay,
cái gì tốt là ta học lấy. Mối quan hệ giữa giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa
nhân loại là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó là điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân
loại.
Liên hệ
Đấu tranh xóa bỏ các tư tưởng lạc hậu Trọng nam khinh nữ, mê tín dị đoan, phải có
con trai nối dõi. Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt không lạm dụng tiếng nước
ngoài. Học hỏi, bảo vệ về lịch sử bản sắc văn hóa dân tộc như giữ gìn nhạc cụ dân
tộc, giữ gìn nét đẹp của áo dài, tinh thần yêu nước, bất khuất, đoàn kết. Đưa văn hóa,
hình ảnh của người Việt Nam đến các bạn quốc tế
4. Từ tư tưởng Cần, kiệm, liêm chính của HCM liên hệ rèn luyện đạo
đức
TTHCM
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó là phẩm
chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề
cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, phản ánh ngay từ cuốn sách Đường cách
mệnh đến bản Di chúc cuối đời.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không
bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay
ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho
nước cho dân”. Với ý nghĩa như vậy, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là một biểu
hiện cụ thể của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền
thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những
nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai” . “Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả
hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc” . Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao
động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không
lười biếng. Phải thấy rõ, “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc
của chúng ta” .
“Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Kiệm tức là
tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân
mình; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. “Tiết kiệm không phải là
bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm,
việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui
lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là
kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ” . “Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai
chân của con người” . Hồ Chí Minh yêu cầu “Phải cần kiệm xây dựng nước nhà” .
Liêm “là trong sạch, không tham lam” ; là liêm khiết, “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công,
của dân”, “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không
ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có
một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. “Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng
như chữ Kiệm phải đi với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được”.
“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng
thắn, tức là tà” . Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: “Đối với mình - Chớ tự kiêu,
tự đại”. “Đối với người:… Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải
chân thành, khiêm tốn,… Phải thực hành chữ Bác – Ái” . “Đối với việc: Phải để công việc
nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù
nhỏ mấy cũng tránh” .
Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai
cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực hành trước để làm kiểu mẫu
cho dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, công chức, những người trong các công sở đều có
nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại,
biến thành sâu mọt của dân.
Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công bằng, không
chút thiên tư, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên trên
hết, trước hết; chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô
tư là chống chủ nghĩa cá nhân. Người nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với
việc” ; “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước,… khi hưởng thụ thì mình nên
đi sau” .
Chí công vô tư về thực chất là sự tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính. Người giải thích: “Trước
nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to
hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công
vi tư”. Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân” .
Liên hệ
Cần: Chăm chỉ trau dồi kiến thức từ việc học qua sách vở sách vở rèn luyện kỹ năng mềm đi
làm thêm để có thêm kinh nghiệm, khi gặp kiến thức mới kiên trì không bỏ cuộc để đạt được,
không ngại khó.
Kiệm: tiết kiệm thời gian không sử dụng thời gian lãng phí vào việc chơi game thay vào đó
em dùng thời gian đọc sách, trải nghiệm trau dồi thêm kiến thức
Liêm: trong sạch trong học thuật khi tham gia các bài kiểm tra các kỳ thi không quay cóp.
Không làm việc xấu chỉ vì đồng tiền
Chính: Khiêm tốn và không khinh thường với những người nhỏ tuổi hơn, trong mối quan hệ
luôn duy trì sự chân thành. Khi làm việc sai tự nhận lỗi biết xin lỗi và sẵn sàng nghe góp ý và
tự sửa lỗi của bản thân.
Chí công, vô tư: Chí công là tính từ chỉ sự công bằng không một chút thiên vị. Vô tư thể hiện
thái độ đường đường chính chính, làm việc ngay thẳng, phân minh, không một chút tư tâm
5. Sáng tạo là gì? Hãy phân tích 1 luận điểm có tính sáng tạo trong
TTHCM
Định nghĩa:
Quá trình hoạt động của con người, tạo nên những giả trị tinh thần và vật chất mới về chất.
Sáng tạo là khả nặng nảy sinh trong lao động của con người nhằm tạo nên từ vật liệu do hiện
thực cung cấp (trên cơ sở nhận thức được các quy luật của thế giới khách quan) một thực tại
mới thỏa mãn được các nhu cầu đa dạng xã hội. Các hình thức sáng tạo được quy định bởi
tính chất của hoạt động có tính chất xây dựng (sự sáng tạo của người phát minh, của người tổ
chức, sự sáng tạo khoa học và nghệ thuật,…)
Phân tích một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh
Luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của ĐCS phản ánh cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đến thời kỳ tự giác. ĐCS
là sản phảm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân. Lý luận về
tính tất yếu của sự kết hợp ấy đã được đề ra trong học thuyết Mac-Lênin. Song, trong mỗi
nước, sự kết hợp ấy lại là một sản phẩm của lịch sử, lại được thực hiện bằng con đường riêng
biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian.
- Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác -
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Học thuyết Mác - Lênin
khẳng định rằng, Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân. Quy luật chung này được đồng chí Nguyễn ái Quốc vận dụng sáng tạo
vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp công nhân còn ít về số lượng, nhưng người vô sản bị áp
bức, bóc lột thì đồng. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nông và phong
trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Muốn xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải coi trọng đầy đủ cả ba yếu tố trên.
- Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền cao và thống nhất của
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng ta là con đẻ của phong trào cách mạng
của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động và trưởng thành thông qua đấu tranh chống
đế quốc, chống phong kiến. Muốn củng cố và phát triển Đảng, đòi hỏi phải củng cố và phát
triển phong trào cách mạng của quần chúng. Đảng mật thiết liên hệ với quần chúng, hướng
dẫn, lãnh đạo phong trào quần chúng, thông qua thực tiễn phong trào cách mạng mà củng cố
và phát triển Đảng.
- Thứ ba, phong trào công nhân kết hợp phong trào nông dân. Đầu tk XX nông dân chiếm
90% dân số, công nhân xuất thân từ nông dân. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp
thành quân chủ lực của Cách mạng
- Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức VN là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các
yếu tố cho sự ra đời ĐCSVN. Trí thức VN:
+ Số lượng không nhiều nhưng là “ngòi nổ” cho phong trào chống Pháp.
+ Thúc đẩy sự canh tân chấn hưng đất nước.
+ Là người lãnh đạo của các tổ chức yêu nước.
+ Nhạy cảm thời cuộc, chủ động đón nhận “luồng gió mới”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những sáng tạo trong việc kết hợp yếu tố dân tộc (chủ nghĩa dân
tộc và phong trào yêu nước) và yếu tố giai cấp (Chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công
nhân) để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kết hợp thành công yếu tố dân tộc và yếu tố
giai cấp trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một sáng tạo lớn, một thành công
lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin
trong hoàn cảnh thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sự sáng tạo ấy không chỉ là nhân tố quan
trọng dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn góp phần làm phong phú thêm
kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về sự ra đời của đảng cộng sản ở các nước thuộc
địa, kém phát triển.
Nêu những luận điểm cơ bản của HCM về cách mạng giải phóng dân tộc và
hãy phân tích 1 luận điểm mang tính sáng tạo trong những luận điểm nêu
trên
Năm luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
- Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi phải do Đảng
cộng sản lãnh đạo.
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đoàn kết toàn dân tộc, lấy liên minh
công - nông làm nền tảng.
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Cách mạng giải phóng dân tộc chỉ được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng.
Trong năm luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, luận điểm
“Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc” là luận điểm thể hiện cao nhất sự sáng tạo lý luận của
Người.
Phân tích luận điểm có tính sáng tạo của Hồ Chí Minh
a) Quan điểm của Quốc tế cộng sản về cách mạng thuộc địa (cách mạng giải phóng dân
tộc).
Do chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc địa nên Quốc tế cộng
sản có lúc xem nhẹ vai trò của cách mạng thuộc địa, coi cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở chính quốc. Đại hội VI Quốc tế cộng sản năm 1928 đã thông qua Những
luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nữa thuộc địa, trong đó có
đoạn viết rằng: chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi
giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này có tác động
không tốt, làm giảm đi tính chủ động, sáng tạo của nhân dân các nước thuộc địa trong công
cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập cho dân tộc. Quán triệt tư tưởng của
V.I.Lênin về mối quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với phong trào giải
phóng dân tộc thuộc địa, từ rất sớm Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ khắng khít, tác động
qua lại lẫn nhau giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc - mối quan hệ
bình đẳng, không lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau. Năm1924, tại Đại hội V của Quốc tế cộng
sản, Người nói: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp
vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các
thuộc địa”1 . Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) , Người cũng viết: “Chủ
nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái
vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng
thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút
máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”2 . Là
một người dân thuộc địa, là người cộng sản và là người nghiên cứu rất kỹ về chủ nghĩa đế
quốc,
b) Quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng
vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu
nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực
dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một
trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Luận điểm sáng tạo trên của Hồ Chí Minh dựa trên các cơ sở sau:
Thuộc địa có một vị trí,vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc, là nơi duy
trì sự tồn tại, phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa đế quốc nhưng lại là khâu yếu
nhất trong hệ thống các nước đế quốc. Cho nên, cách mạng ở thuộc địa sẽ có khả năng nổ ra
và thắng lợi .
Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa, mà theo Người nó
sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ” khi được tập hợp, hướng dẫn và
giác ngộ cách mạng.
Căn cứ vào luận điểm của C.Mác về khả năng tự giải phóng của giai cấp công nhân, trong
Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa, khi kêu gọi các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh
giành quyền độc lập dân tộc, Người viết: “Hỡi anh em ở các thuộc địa…Anh em phải làm thế
nào để được giải phóng? Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em
rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nổ lực của bản thân anh
em” .
Chứng minh: Với thực tiễn thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam cũng như phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới đã thành công vào những năm 60, trong khi cách mạng vô sản ở chính
quốc chưa nổ ra và thắng lợi, càng chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí Minh là độc đáo,
sáng tạo, có giá trị lí luận và thực tiễn to lớn.
STUDOCU:
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu 1: Trình bày khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Ý nghĩa học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
TRẢ LỜI:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc, là tài sản tinh thần
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, là nền tảng tư tưởng là kim chỉ nam hành
động của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng
tạo chỉ dẫn cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí
Minh vẫn được vận dụng sáng tạo cho đến ngày nay.
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh
1.1. Khái niệm tư tưởng
- Hiểu theo nghĩa phổ thông, tư tưởng là sự phản ánh hiện
thực vào ý thức, ý nghĩ của mỗi người.
- Khái niệm “tư tưởng” trong “Tư tưởng Hồ Chí Minh” không phải dùng với nghĩa tinh thần -
tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng, mà với nghĩa là một hệ thống
những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng thế giới quan và
phương pháp luận (nền tảng triết học) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một
giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
1.2 Khái niêm “nhà tư tưởng”
- Theo từ điển tiếng Việt, “nhà tư tưởng” là những người có những tư tưởng triết học sâu sắc.
Lênin cũng đã lưu ý rằng: Một người xứng đáng là nhà tư tưởng khi nào biết giải quyết trước
người khác tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề về t? chức, về những yếu tố
vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.
→Với hai khái niệm trên chúng ta có thể khẳng định Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng thực
thụ và tư tưởng của Người có vị trí, vai trò và tầm quan trọng to lớn đối với sự nghiệp cách
mạng của dân tộc.
1.3. Khái niêm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu ở tầm khái quát cao, là hệ thống những
luận điểm,
học thuyết chủ nghĩa được hình thành từ bộ phận đến chỉnh thể thống
nhất.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đánh dấu một cột mốc
quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã
khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nèn tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) và Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (1/2011) xác định khá toàn diện và
có hệ thống những vấn đề cốt yếu thuộc nội hàm khái niệm tư tưởng Hồ
Chí Minh.
- “Tương tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toan diện va sâu sắc
về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng va phát triển
sáng tạo chủ nghĩa.
Mác – Lênin vao điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa va phát triển các
giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; la tai sản
tinh thần vô cùng
to lớn va quý giá của Đảng va dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của
nhân dân ta gianh thắng lợi “.
- Trong định nghĩa này, Đảng ta đã làm rõ được:
+ Một là bản chất cách mạng, khoa học và nội dung của tư tưởng Hồ Chí
Minh: Hệ thống
quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản, những vấn đề có
tính quy luật của cách
mạng Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lênin là nền
tảng tư tưởng, kim
chỉ nam hành động của Đảng và dân tộc.
+Hai là nguồn gốc tư tưởng lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa
Mác – Lênin, giá trị văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại.
+ Ba là giá trị ý nghĩa, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh: tài sản
tinh thần to lớn của Đảng, dân tộc, mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân ta giành thắng lợi
- Dù định nghĩa theo cách nào, thì tư tưởng Hồ Chí Minh đều được nhìn
nhân với tư cách là một hệ thống lý luận.Hiện đang tồn tại hai phương
thức tiếp cận hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
+Tư tưởng Hồ Chí Minh là hê thống tri thức tổng hợp gồm: tư tưởng triết
học, tư tưởng kinh
tế, tư tưởng chính trị, tư tưởng quân sự, tư tưởng đạo đức-văn hóa-nhân
văn.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là hê thống các quan điểm về cách mạng Việt
Nam: tư tưởng về vấn đề dân tôc và cách mạng giải phóng dân tôc; về
CNXH và con đường quá đô lên CNXH ở Viêt Nam; về Đảng Công sản Viêt
Nam; về đại đoàn kết dân tôc và đoàn kết quốc tế; về dân chủ và Nhà
nước của dân, do dân, vì dân; về văn hóa và đạo đức,..
.4. Hệ thống nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
- Hệ thống quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung:
+ Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
+ Về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh
thời đại
+Về sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước của dân, do dân và
vì dân
+
Về quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Về phát triển kinh tế và văn văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tư tưởng
nhân dân.
+ Về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, trí, công, vô tư.
+ Về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
+ Về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Những luận điểm nêu trên là một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ
biện chứng của cấu
Những luận điểm nêu trên là một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ
biện chứng của cấu
Những luận điểm nêu trên là một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ
biện chứng của cấu
=>Những luận điểm nêu trên là một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ
biện chứng của cấu trúc tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những luận điểm nêu trên là một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ
biện chứng của cấu
- Nội dung cốt lõi: Tư tưởng HCM có cấu trúc logic, chặt chẽ. Trong đó nội
dung cốt lõi là:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây cũng chính là nội dung
cơ bản của con
đường cách mạng dân tộc Việt Nam.
2. Ý nghĩa học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh
a, Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp học tập, công tác cho
sinh viên.
- Thông qua tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho sinh viên nâng cao nhân thức
về vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với đời sống cách mạng Viêt
Nam; làm cho tư tưởng của Người ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của thế hệ trẻ Viêt Nam.
- Thông qua học tâp, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng, củng
cố cho sinh viên,
thanh niên lâp trường thế giới quan cách mạng trên nền tảng CNMLN và
TTHCM; kiên định
mục tiêu đôc lâp dân tộc gắn liền với CNXH ở Viêt Nam.
- Học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần nâng cao tinh thần
yêu nước, ý thức
dân tôc, nhờ đó sinh viên xác định đúng trách nhiêm và nghĩa vụ của mình
đối với quê hương,đất nước, nhân dân.
b.Bồi dưỡng phGm chHt đJo đKc cách mJng và rLn luyện bản lĩnh chính tri
Hồ Chí Minh là nhà đạo đức học, bản thân Người là môt tấm gương đạo
đức cách mạng. Vân dụng TTHCM vào cuôc sống, có đóng góp thiết thực
và hiêu quả cho sự nghiêp cáchmạng theo con đường Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã lựa chọn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho
=>Tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam chomọi hành động của Đảng và của nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta vượt qua muôn trùng
khó khăn để đi đến những thắng lợi có ý nghĩa lịch
sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
lý luận, có cấu
trúc lôgic chặt chẽ và có hạt nhân cốt lõi, đó là tư tưởng về độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm giải
phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Không chỉ ở Việt Nam mà ở cả
nhiều nước trên thế
giới, nhiều chính khách, nhiều nhà nghiên cứu đã nhìn nhận và khẳng định
Hồ Chí Minh là
một nhà tư tưởng, một nhà lý luận cách mạng độc đáo.
7 Câu
Câu hỏi 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu, đặc trưng bản
chất, động lực cơ bản của CNXH ở Việt Nam; sự vận dụng của Đảng ta
hiện nay.
1. Trả lời gợi ý:
Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam:
Hồ Chí Minh luận chứng cho sự ra đời của CNXH dựa trên các cơ sở
sau:
o Sự ra đời của CNXH xuất phát từ quy luật vận động, phát triển
khách quan của lịch sử xã hội loài người, từ nội dung, tính chất
và xu thế vận động tất yếu của thời đại.
o CNXH ra đời chính từ sự tàn bạo của CNTB. Chính sự bóc lột
nặng nề của chủ nghĩa thực dân đã bộc lộ những khuyết tật phi
nhân tính, không thể khắc phục được của CNTB và đó chính là
cơ sở để người lao động ý thức, giác ngộ sứ mệnh của mình đối
với quốc gia dân tộc, chờ thời cơ để vùng dậy, thủ tiêu xiềng xích
thực dân, thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng chính họ thoát
khỏi bất kỳ một hình thức áp bức bóc lột nào, và đây chính là
điều kiện quan trọng nhất để nhân dân thuộc địa giác ngộ về
CNXH, CNCS.
o Tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam còn được Hồ Chí Minh
luận chứng trên nhiều góc độ khác:
Thứ nhất, về phương diện lý luận, Hồ Chí Minh đã kế thừa
tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác -
Lênin để luận chứng một cách toàn diện khả năng đi tới
CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN của nước ta.
Thứ hai, cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một
cuộc cách mạng không phải là lý tưởng, khẩu hiệu được
nêu ra mà là ở quy mô giải phóng quần chúng bị áp bức.
Chỉ có CNXH mới làm được việc đó.
Dưới góc độ giải phóng, độc lập dân tộc mới chỉ là cấp độ
đầu tiên. Độc lập dân tộc là tiền đề để tiến lên CNXH, đi tới
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Chính vì vậy, trong tư tưởng HCM muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản. Người chủ trương “Làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Việc đặt cách mạng giải phóng dân tộc nằm
trong phạm trù cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với
CNXH, đã khiến quan điểm giải phóng dân tộc của HCM
mang tính toàn diện và triệt để.
Đặc trưng bản chất:
o Hồ Chí Minh thống nhất với các nhà kinh điển về CNXH, song Hồ
Chí Minh đã phát biểu một số vấn đề thể hiện quan điểm mới của
Người về CNXH. Con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam theo Hồ
Chí Minh là “không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục
tập quán khác, có lịch sử, địa lý khác”.
o Có thể khái quát các đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội
Việt Nam theo quan điểm của Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, có chế độ chính trị do nhân dân làm chủ, mọi
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Thứ hai, dân giàu nước mạnh, từng bước xóa bỏ bóc lột,
bất công.
Thứ ba, có nền kinh tế phát triển cao gắn liền với sự phát
triển khoa học kỹ thuật.
Thứ tư, xã hội phát triển ở trình độ cao về văn hóa, đạo
đức.
Thứ năm, CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do
nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản. Đó là một CNXH của dân, do dân, vì dân, là hiện
thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử nhân loại.
Ngoài ra khi nói về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chí Minh còn chỉ rõ chủ nghĩa xã hội là một xã hội có quan
hệ hữu nghị, bình đẳng với các quốc gia dân tộc trên thế
giới, trên tinh thần hữu nghị hợp tác, tôn trọng độc lập, chủ
quyền và hai bên cùng có lợi; CNXH là công trình tập thể
của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh
đạo của Đảng…
Động lực cơ bản:
o Để xây dựng và phát triển của CNXH, cần phải huy động
được tất các các nguồn lực, trong đó nguồn lực con người
giữ vai trò quan trọng nhất, xem xét trên cả hai bình diện: cộng
đồng và cá nhân.
Trên bình diện cộng đồng:
Động lực của CNXH bao gồm tất cả các tầng lớp
nhân dân, mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo... Xây dựng
CNXH khoogn chỉ là sự nghiệp riêng của công nông
mà là toàn thể dân tộc. CNXH không chỉ là vấn đề
giai cấp mà còn là vấn đề dân tộc. Chỉ xây dựng
thành công CNXH mới tăng cường được sức mạnh
dân tộc, mới giữ vững độc lập dân tộc.
Để phát huy sức mạnh cộng đồng phải thực hiện đại
đoàn kết dân tộc và phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân trong xây dựng CNXH.
Trên bình diện cá nhân:
Tác động vào nhu cầu và lợi ích, trước hết là lợi ích
vật chất thiết thân đối với người lao động.
Tác động vào các động lực chính trị, tinh thần:
Phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của
người lao động
Thực hiện công bằng xã hội
Sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố
tinh thần khác như văn hóa, đạo đức, pháp
luật, phải nâng cao dân trí, coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu...
o Ngoài các động lực bên trong, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tăng cường
đoàn kết quốc tế, gắn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
vô sản, sử dụng tốt các thành quả khoa học kỹ thuật…để thúc
đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
o Đi đôi với việc khai thông các động lực, Hồ Chí Minh yêu cầu phải
nhận diện và khắc phục các lực cản, và Người đã chỉ ra những
căn bệnh có nguy cơ dẫn đến sự thoái hóa biến chất của một
đảng cầm quyền, tới sự tồn vong của chế độ là: chủ nghĩa cá
nhân; tệ tham nhũng, lãng phí, quan lieu; tệ chia rẽ, bè phái, mất
đoàn kết làm giảm sút uy tín của Đảng, của cách mạng; tệ chủ
quan, bảo thủ lười biếng không chịu học tập cái mới.
Vận dụng:
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH trong hoàn cảnh
mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, làm sáng tỏ hơn về CNXH và con đường
đi lên CNXH ở nước ta. Điều này được khẳng định rõ trong cương lĩnh
và văn kiện các đại hội của Đảng. Đảng luôn xác định xây dựng XHCN
ở nước ta là một quá trình của cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, là
sự đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Đảng đã đề ra những phương
hướng và nhiệm vụ để thực hiện thành công mục tiêu CNXH.
Câu 2
2
Câu hỏi 2: Quan điểm của Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xác định
bước đi, các bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ ở nước ta; sự vận dụng của Đảng ta hiện
nay.
Trả lời gợi ý:
Nguyên tắc xác định bước đi:
Hồ Chí Minh nêu lên 2 nguyên tắc có tính phương pháp luận trong việc
xác định bước đi và cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam:
o Xây dựng chủ nghĩa xã hội là hiện tượng phổ biến, mang tính
quốc tế vì vậy phải quán triệt các nguyên lý cơ bản của chu
nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh nghiệm của các nước anh em
nhưng không được giáo, điều máy móc.
o Xác định bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
cần căn cứ vào điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và
khả năng thực tế của nhân dân.
Về bước đi của thời kì quá độ:
o Thứ nhất, ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu. Người giải thích: Chúng ta vừa ra khỏi chiến
tranh, “Nếu để dân đói là chính phủ có lỗi, mọi chính sách của
Đảng không thực hiện được”, “Muốn phát triển công nghiệp, phát
triển kinh tế nói chung thì phải lấy phát triển nông nghiệp làm
gốc, làm chính”; “Phải ưu tiên phát triển nông nghiệp còn bởi vì
chúng ta có “thiên thời” (khí hậu, đất đai), “nhân hòa” (lực lượng
lao động nông nghiệp). Vì vậy, “Trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
ta phải dựa vào nông nghiệp và phát triển nông nghiệp là cực kỳ
quan trọng”.
o Thứ hai, phát triển tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ.
o Thứ ba, phát triển công nghiệp nặng.
Biện pháp:
o Muốn bớt mò mẫm, đỡ phạm sai lầm phải học tập kinh nghiệm
các nước anh em, tuy nhiên không được rập khuôn, giáo điều,
sao chép, mà phải học một cách sáng tạo, phải chú ý đến thực
tiễn nước ta.
o Phải đi sâu vào thực tiễn để điều tra, khảo sát, từ thực tiễn mà đề
xuất các vấn đề phương pháp cho cách mạng Việt Nam.
o Người nhấn mạnh tới vai trò quyết định của biện pháp tổ chức
thực hiện và nhắc nhở khi soạn thảo và thực hiện kế hoạch phải
thực hiện phương châm: Chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết
tâm hai mươi,... có như thế kế hoạch mới hoàn thành tốt được.
o Thực hiện phát triển kinh tế xã hội hài hòa đảm bảo cho các
thành phần kinh tế, thành phần xã hội đều có điều kiện phát triển.
o Biện pháp cơ bản lâu dài, quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phải “Đem tài dân, sức dân,
của dân mà làm lợi cho dân”.
Vận dụng:
o Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, tiếp tục con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đổi mới, vì thế, là
quá trình vận dụng và tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chứ
không phải thay đổi mục tiêu.
o Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà
nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực
hiện cần kiệm xây dựng CNXH.
Câu hỏi 3
3
Câu hỏi 3: Những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa của nó đối với quá trình xây dựng
Đảng ta trong sạch vững mạnh.
Trả lời gợi ý:
Luận điểm:
o Đảng CSVN là sản phẩm của sự kết hợp CN Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Khác với CN
Mác - Lênin cho rằng Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết
hợp lý luận của CN Mác - Lênin với phong trào công nhân. Còn
với Hồ Chí Minh, bằng sự vận dụng CN Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể của cách mạng VN, nếu kết hợp CN Mác - Lênin với
phong trào công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn nhỏ
bé, phong trào công nhân còn non yếu, trong khi đó phong trào
yêu nước của nhân dân ta rất mãnh liệt. Bên cạnh hai yếu tố
trên, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ 3 đó là phong trào yêu
nước. Đây là yếu tố có trước và là một phong trào thực sự to lớn,
thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Phong
trào yêu nước với phong trào công nhân có mục tiêu chung là
giải phóng dân tộc, quyền lợi giai cấp công nhân và của toàn thể
dân tộc hòa quyện làm một. Yêu nước chân chính là yêu nước
trên lập trường giai cấp công nhân và chỉ có kết hợp với phong
trào yêu nước của dân tộc, giai cấp công nhân mới có thể đưa
sự nghiệp cách mạng đến thành công. Nói đến phong trào yêu
nước trước hết phải nói tới phong trào yêu nước của nông dân.
Phong trào yêu nước có tới 90% là nông dân - đồng minh tự
nhiên của giai cấp công nhân. Mặt khác, trong phong trào yêu
nước có lực lượng trí thức - nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết
hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng CSVN và là cầu nối đưa
CN Mác - Lênin vào Việt Nam.
o Đảng CSVN - Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời cũng
là của dân tộc Việt Nam. Đây là luận điểm sáng tạo và là điểm
mới của Hồ Chí Minh, bổ sung vào học thuyết Mác - Lênin về
Đảng cộng sản. Bác khẳng định: Trong giai đoạn này, quyền lợi
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là
một. Chính vì Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc
Việt Nam. Luận điểm này chỉ đạo cách thức tổ chức và hoạt động
của Đảng CSVN, làm cho nó gắn bó máu thịt với giai cấp, với
dân tộc. Là nguồn cội của Đảng.
Ý nghĩa:
o Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng thể hiện quan hệ biện chứng
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Mọi hoạt động cách
mạng của Đảng đều đồng thời giải quyết cả vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp.
o Đây là tư tưởng lớn, sáng tạo, cho phép khơi dậy sức mạnh đoàn
kết thống nhất của cả dân tộc, vì lợi ích chung của cả dân tộc.
Nhận thức được vai trò quan trọng của Đảng CSVN với vận
mệnh dân tộc nên Đảng phải phấn đấu, rèn luyện để trở thành
một Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng trên cơ sở lấy dân
làm gốc.
o Theo Hồ Chí Minh khi trở thành Đảng cầm quyền, đem lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, Đảng phải tăng cường chỉnh đốn lại nội
bộ, khiến Đảng là tổ chức chặt chẽ nhất, tiên tiến nhất của giai
cấp công nhân, là người lãnh đạo của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, song không phải vì thế mà Đảng trở thành vĩ
đại.
Câu hỏi 4
4
Câu hỏi 4: Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc và vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết ở nước ta hiện nay.
Trả lời gợi ý:
Khái niệm, vai trò:
o Khái niệm: Đại đoàn kết là một hệ thống các luận điểm, các
nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp để giáo dục, tổ chức,
hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng nhằm phát
huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội
o Vai trò:
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết
định thành công của cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng, của dân tộc.
Nội dung cơ bản:
o Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Khái niệm “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm mọi
người Việt Nam, là “con dân của nước Việt”, là “mỗi một
con Rồng cháu Tiên”, là không phân biệt “già, trẻ, gái, trai,
giầu, nghèo, quý, tiện”, trong đó đông đảo nhất là công
nhân và nông dân.
Nói tới đại đoàn kết dân tộc là phải tập hợp được tất cả
mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không phải là một tập hợp
ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời, mà phải là một tập hợp bền
vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức,
có sự lãnh đạo dựa trên một cơ sở lý luận khoa học.
Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh có phạm vi rộng lớn,
nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ. Trên phạm vi dân tộc, hình
thức tổ chức đoàn kết là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Đại đoàn kết phải dựa trên cơ sở lấy liên minh công nông
và trí thức làm cơ sở, làm trụ cột để đoàn kết toàn dân
trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mối quan hệ giữa Mặt trận dân tộc thống nhất với liên minh
công, nông và trí thức là sự phản ánh về mặt tổ chức xã
hội, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai
cấp vì vậy mà không thể tuyệt đối hóa một mặt nào.
Trong khối đại đoàn kết, Đảng không chỉ là một bộ phận
bình đẳng, mà còn là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của
khối đại đoàn kết dân tộc.
o Phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân,
tin vào con người.
Xã hội luôn phải đối diện với nhiều vấn đề phức tạp do lịch
sử để lại, nếu không có lòng khoan dung độ lượng đối với
con người thì không thể khép lại quá khứ, hướng đến
tương lai. Cần phải khoan dung độ lượng thì mới xóa bỏ
được thành kiến, định kiến, chân thành đoàn kết, giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là lòng khoan
dung rộng lớn trước tính đa dạng của con người.
Để thực hiện đoàn kết rộng rãi, cần phải có lòng tin vào
nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào
nhân dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là
nguyên tắc tối cao chi phối mọi suy nghĩ và hành động của
Người.
Vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết hiện nay:
o Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cách mạng được HCM và
Đảng ta đề ra từ rất sớm, trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
tiến trình cách mạng VN. Hiện nay việc xây dựng khối đoàn kết ở
nước ta đang đứng trước những thuận lời và khó khăn cơ bản:
o Thuận lợi:
Thế giới đang vận động theo chiều hướng các dân tộc trên
thê giới ngày càng xích lại gần nhau hơn, nhân loại ngày
càng nhận thức sâu sắc và khao khát về một xã hội hòa
bình, tiến bộ, hợp tác, cùng phát triển.
Khoa học phát triển vô cùng mạnh mẽ dã đặt cả thế giới
trước xu thế toàn cầu hóa, góp phần làm tăng cường tình
hữu nghị giữa các dân tộc, tuy cũng chứa đựng khả năng
phân hóa giữa các dân tộc sẽ ngày càng trở nên gay gắt
hơn.
Ở trong nước, chúng ta bước vào thế kỷ mới sau hơn 20
năm đổi mới với hững thành tựu đáng ghi nhận, vị thế của
dân tộc ta trên thê giới được nâng cao rõ nét, niềm tin của
nhân dân vào chính sách đổi mới được giữ vững và tăng
cường.
o Khó khăn, thách thức:
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, xu hướng ly khai, chia
cắt cũng đang tồn tại.
Cuộc đấu tranh ý thức hệ vẫn diễn ra dai dẳng, gay gắt,
các thế lực thù địch vẫn muốn tiêu diệt CNXH tới tận gốc.
Nền kinh tế thị trường cùng với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đặt ra nhiều vấn đề như sự phân hóa giàu
nghèo giữa các tầng lớp dân cư, các vùng..., các hiện
tượng tiêu cực trong xã hội vẫn còn là hiện tượng tương
đối phổ biến.
o Việc xây dựng khối đại đoàn kết ở nước ta hiện nay, cần chú
ý:
Mục tiêu chung: khơi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quyết
tâm chấn hưng đất nước, không bỏ lỡ cơ hội, rửa được cái
nhục đói nghèo, lạc hậu, cái nhục tụt hậu xa hơn về kinh
tế, khoa học kỹ thuật, công nghẹ so với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Các nhiệm vụ cụ thể:
Về chính trị, cần tiếp tục phát triển tư tưởng HCM và
truyền thống phương Đông về “Cầu đồng tồn dị”, xóa
bỏ dần những mặc cảm, những thiên kiến khác
nhau, lấy liên minh công – nông – trí thức là nòng
cốt, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh.
Về kinh tê – xã hội, phải tạo cho mọi người dân một
cơ hội bình đẳng về pháp luật trong làm ăn kinh tế.
Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển,
khuyến khích làm giàu chính đáng, đi đôi với việc
giúp dân xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa...
Về chính sách đối ngoại, cần có sự nhận thức đúng
(cả mặt tích cực và tiêu cực) về vấn đề toàn cầu hóa
từ đó xây dựng chiến lược hội nhập của đất nước ta
vào khu vực và thế giới; thực hiện chính sách đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế theo phương châm
“Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước” vì hòa
bình, hợp tác và phát triển, đồng thời có sách lược
mềm dẻo trong các quan hệ đa dạng và phức tạp
của thế giới, đảm bảo cho chúng ta hòa nhập nhưng
không bị hòa tan.
Câu hỏi 5
3
Câu hỏi 5: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
kiểu mới ở Việt Nam (làm rõ các luận điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về xây dựng nhà nước, mối quan hệ giữa đạo đức và pháp
luật trong xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam) và sự vận
dụng quan điểm của Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước ta
hiện nay.
Trả lời gợi ý:
Nội dung:
o Xây dựng một nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân
dân lao động:
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà
nước là chủ trương của Người xây dựng một Nhà nước do
nhân dân lao động làm chủ... Theo Hồ Chí Minh, tất cả mọi
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải ghé vai gánh
vác một phần.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì
dân được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
Dân là chủ, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân....
Quyền bính của cán bộ, công chức nhà nước là do
dân ủy nhiệm, giao phó cho.
Tư tưởng Nhà nước do dân của Hồ Chí Minh được
thể hiện: dân cử ra các đại diện của mình; dân ủng
hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt
động; dân phê bình, xây dựng, tạo điều kiện để Nhà
nước ngày càng hoàn thiện hơn.
Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải vì nhân dân,
hướng vào việc phục vụ nhân dân. Đem lại quyền lợi
cho nhân dân là mục tiêu cơ bản của Nhà nước ta.
Cán bộ, công chức nhà nước đồng thời còn là người
lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân.
o Tư tưởng về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân
với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước:
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân. Bởi vì:
Thứ nhất, nhà nước ta là nhà nước do Đảng Cộng
sản - Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Thứ hai, nhà nước ta tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ - một nguyên tắc cơ
bản thể hiện bản chất giai cấp công nhân của nhà
nước ta.
Thứ ba, mục tiêu hoạt động của Nhà nước ta là đưa
đất nước quá độ lên CNXH.
Thứ tư, cốt lõi của Nhà nước ta là khối liên minh
giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta không làm
triệt tiêu tính nhân dân, tính dân tộc mà thống nhất, hài hòa
trong nhà nước đại đoàn kết dân tộc. Điều này thể hiện:
Nhà nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài,
gian khổ với sự phấn đấu hy sinh của nhiều thế hệ
cách mạng.
Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích
của dân tộc làm nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí
Minh đứng đầu luôn là chính phủ đại đoàn kết dân
tộc.
Ngay từ khi mới ra đời nhà nước ta đã phải đảm
nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả
của cách mạng.
o Tư tưởng về xây dựng một Nhà nước pháp quyền có hiệu
lực pháp lý mạnh mẽ:
Hồ Chí Minh đã ý thức rất sớm về tầm quan trọng của
pháp luật trong quản lý xã hội. Người yêu cầu phải “thay
chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”.
Người đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng một Nhà nước
hợp pháp, hợp hiến.
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề thực thi hiến pháp, pháp
luật trong thực tế.
Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh phải là nhà nước
quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật
có hiệu lực trong thực tế.
Những biện pháp cơ bản để xây dựng nhà nước có hiệu
lực pháp lý.
o Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. Để xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, Hồ Chí Minh nhấn mạnh các
nội dung sau:
Tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp
Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong bộ máy nhà
nước. Người yêu cầu phải chống đặc quyền, đặc lợi và các
tiêu cực khác, giữ cho nhà nước luôn trong sạch, vững
mạnh. Hồ Chí Minh đã giải thích cụ thể về các căn bệnh:
trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo. Theo
Người, không phải cứ dán lên trán hai chữ cộng sản là dân
tin, dân yêu, đừng có vác mặt quan cách mạng mà đặc
quyền đặc lợi, thu vén cá nhân,…
Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo
đức cách mạng
Kiên quyết chống ba thứ "giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí,
quan liêu
Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật:
Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách
mạng:
o Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội kết hợp, bổ
sung cho nhau trong thực tế trị nước.
o Trong lịch sử, những người được coi là thành công trong sự
nghiệp trị nước đều biết kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cười
pháp luật.
o Nhà Nho chủ trương đức trị, nhưng cũng không hề loại bỏ hình
luật; các nhà pháp trị cũng không hề bỏ qua tấm gương của các
ông vua thánh, chúa minh, những vị quan đức độ và kẻ sĩ hiền
tài.
o Trong xây dựng nhà nước pháp quyền phải nhấn mạnh tới vai trò
của pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, cần đẩy
mạnh việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân. Đồng
thời cũng phải tránh tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật. Thực tế
chỉ ra rằng pháp luật chỉ phát huy tác dụng đầy đủ khi nó được
hỗ trợ bởi các nhân tố khác, trong đó có vấn đề giáo dục đạo
đức.
o Trong 24 năm lãnh đạo nhà nước, Hồ Chí Minh là một tấm
gương mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn chú
trọng giáo dục đạo đức, đồng thời không ngừng nâng cao vai trò,
sức mạnh của pháp luật. Người yêu cầu “phải thẳng tay trừng trị
những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy, làm nghề nghiệp gì.”
Vận dụng:
o Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy nhà nước
trong sạch.
o Cải cách toàn bộ bộ máy hành chính Nhà nước, xây dựng một
nền hành chính dân chủ trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả, đủ khả năng hiện thực hoá đường lối lãnh đạo của
Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước trong cuộc sống.
o Tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, gắn việc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính.
o Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
o Xây dựng và đảm bảo một cơ chế làm chủ, nghĩa là tạo ra các
điều kiện cần thiết để nhân dân là lực lượng chủ yếu vận hành
mọi hoạt động trong xã hội.
o Nhân dân lao động là những người làm chủ đất nước. Tuyên
truyền, giáo dục để nâng cao trình độ, ý thức của nhân dân.
Câu hỏi 6
3
Câu hỏi 6: Nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh (vai trò
của đạo đức cách mạng, các chuẩn mực và các nguyên tắc rèn
luyện đạo đức mới) và ý nghĩa của nó đối với việc “lập thân, lập
nghiệp” của thế hệ trẻ hiện nay?
Trả lời gợi ý:
Vai trò của đạo đức cách mạng:
o “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng”
Đạo đức là tiêu chuẩn hàng đầu của người lãnh đạo trong
điều kiện Đảng cầm quyền.
Trong tương quan giữa đức và tài, Hồ Chí Minh luôn coi
đạo đức là “gốc”, là “nguồn”, là “nền tảng” là nhân tố “chủ
chốt” của người cách mạng.
Đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ thành
xã hội mới, xây dựng mỹ tục thuần phong mà còn giúp
người cách mạng tự hoàn thiện mình và không ngừng phát
triển đi lên.
o Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CNXH. Theo Hồ
Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội trước hết ở những
giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản
ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình chiến đấu
cho lý tưởng đó thành hiện thực.
o Một trong những cống hiến đặc sắc, nổi bật nhất của Hồ Chí
Minh là trên lĩnh vực đạo đức cách mạng. Ở Hồ Chí Minh có sự
thống nhất, hòa quyện giữa chính trị, đạo đức, văn hóa, nhân
văn, một nền chính trị rất đạo đức, rất văn hóa và đạo đức, văn
hóa lại rất chính trị. Chính vì vậy, những vấn đề đạo đức được
Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện với mọi đối tượng, trên
mọi lĩnh vực hoạt động của con người.
Các chuẩn mực đạo đức cách mạng:
o Trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất đạo đức bao
trùm, quan trọng nhất và giữ vai trò nền tảng để hình thành và
thực hiện tốt những phẩm chất đạo đức khác.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của
đất nước, suốt đời phấn đấu mang lại lợi ích cho nhân dân.
Hiếu với dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân
chủ, dân nắm mọi quyền hạn, bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
phải thân dân, lấy trí tuệ ở dân, gắn bó, dựa vào dân, kính
trọng học hỏi dân...
Người lãnh đạo phải nắm vững dân tính, hiểu rõ dân tâm,
thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân
trí; giúp dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người
chủ đất nước. Người lãnh đạo được dân tin yêu, quí trọng
sẽ tạo được sức mạnh to lớn cho cách mạng.
o Yêu thương con người, sống có tình nghĩa
Tình yêu thương con người trước hết dành cho những
người cùng khổ, người lao động.
Nghiêm khắc với mình mà rộng lượng, tôn trọng, nâng
người khác lên, chứ không được hạ thấp hay vùi dập con
người.
Tình yêu thương con người còn được thể hiện ở tấm lòng
bao dung đối với những người có sai lầm khuyết điểm,
nhưng đã nhận rõ và quyết tâm sửa chữa sai lầm khuyết
điểm, kể cả những người đã lầm đường lạc lối.
Dũng cảm đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ cái thiện trong
cuộc sống.
o Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đây là những phẩm
chất cần thiết đối với con người Việt Nam trong suốt quá trình
đấu tranh cách mạng đặc biệt là trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch,
sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực
cánh sinh, không lười biếng, không ỉ lại, không dựa dẫm.
Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi...
Liêm là trong sạch, không tham lam... tham tiền của, tham
địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon là bất liêm.
Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì
không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà.
Chí công vô tư “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, là lòng
mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào, “phải lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
o Tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết,
thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất
cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ
trên toàn cầu, chống lại sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và
phân biệt chủng tộc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh,
biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền…
Các nguyên tắc rèn luyện đạo đức mới:
o Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Nói đi đôi với làm là phương pháp tu dưỡng là phải gắn lời
nói với hành động trong thực tiễn, mọi lúc, mọi nơi, mọi
hoàn cảnh, là nguyên tắc rèn luyện đạo đức quan trọng
bậc nhất.
Nêu gương đạo đức là một nguyên tắc rèn luyện đạo đức,
đồng thời là cơ sở để phân biệt đạo đức cách mạng và đạo
đức cũ.
Hồ Chí Minh yêu cầu đạo làm gương phải được quán triệt
trong tất cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực.
o Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng
rộng rãi
Phải kết hợp giữa xây và chống là vì không phải “người
người đều tốt, việc việc đều hay”, Người yêu cầu phải kiên
quyết chống ba loại kẻ thù nguy hiểm: tư tưởng thực dân
đế quốc, thói quen lạc hậu và chủ nghĩa cá nhân.
Người yêu cầu, với từng người, trước hết phải chiến thắng
lòng tà trong mình, phải phê phán, đấu tranh loại bỏ những
hiện tượng phi đạo đức, tàn dư đạo đức cũ.
Về quan hệ giữa chống và xây, Hồ Chí Minh chỉ rõ chống
là nhằm để xây, chống đi liền với xây, lấy xây làm chính,
lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn
nhau.
o Tu dưỡng rèn luyện đạo đức suốt đời thông qua thực tiễn
cách mạng
Theo Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng không phải tự nhiên
mà có, nó chỉ hình thành trong quá trình rèn luyện, phấn
đấu suốt đời.
Trong lĩnh vực đạo đức, chỉ cần lơi lỏng việc, tu dưỡng, rèn
luyện một phút, giây là con người đã có thể sa ngã, biến
chất, có thể hủy hoại một cuộc đời, một sự nghiệp đã nhiều
năm phấn đấu, rèn luyện gian khổ trước đó và gây ra
những hậu quả tai hại cho sự nghiệp cách mạng.
Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự
nguyện tự giác, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư
luận của quần chúng. Người khẳng định làm cách mạng thì
khó tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, song vấn đề là phải cố
gắng sửa chữa sai lầm khuyết điểm.
Ý nghĩa:
o Tôn vinh, nâng cao giá trị của bản thân còn tạo ra sức mạnh nội
sinh giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách.
o Kiên trì tu dưỡng đạo đức Hồ Chí Minh, định hướng cho bản thân
có phương hướng rèn luyện phấn đấu.
o Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, sinh viên sẽ phải ra
sức học tập, ra sức tăng gia sản xuất, làm cho tổ quốc mỗi ngày
càng giàu mạnh thêm, phát triển khoa học kĩ thuật.
o Hiểu rõ và ý thức: “đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà cần
hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”, phải cống hiến cho nước
nhà nhiều hơn.
o Chống lười biếng, coi khinh lao động, sống khoe khoang.
Câu hỏi 7
Câu hỏi 7: Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
chiến lược “trồng người”.
Trả lời gợi ý:
Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người:
Phương pháp tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề con người có thể
được nhìn nhận dưới những khía cạnh sau:
o Người xem xét con người như một chỉnh thể, đa chiều: con
người luôn có xu hướng vươn tới cái chân - thiện - mỹ, mặc dù
“có thế này, thế khác”; con người trong sự thống nhất của hai
mặt đối lập: thiện - ác, hay và dở, tốt và xấu nhưng “dù là xấu,
tốt, văn minh hay dã man đều có cái tình”.
o Người xem xét con người trong tính lịch sử, cụ thể của nó. Người
xem xét con người trong các quan hệ xã hội, giai cấp, giới tính,
lứa tuổi, nghề nghiệp…đó là con người cụ thể, hiện thực, cảm
tính, khách quan.
o Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
khẳng định: Bản chất con người mang tính xã hội. Con người
vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử. Khi nói về con
người, bao giờ Hồ Chí Minh cũng thể hiện tư tưởng nhân văn
cộng sản cao đẹp:
Một là, sự cảm thông hết sức sâu sắc với những đau khổ
của người nô lệ và người cùng khổ.
Hai là, quyết tâm hy sinh chiến đấu để giải phóng con
người và đem lại tự do và hạnh phúc cho con người.
Ba là, tin tưởng tuyệt đối ở khả năng tự giải phóng của con
người và không ngừng rèn luyện, phát huy khả năng ấy.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người:
o Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng.
Con người là sức mạnh đầu tiên và cũng là mục tiêu cuối
cùng của cách mạng, vì vậy con người là vốn quý nhất,
phải hết sức bảo vệ con người như bảo vệ sinh mệnh của
cách mạng.
Con người là vốn quý nhất, cho nên, phải hòa bình trong
độc lập tự do là nguyện vọng thiêng liêng nhất của con
người. Mục tiêu của cách mạng là phải giành cho kỳ được
độc lập, tự do và một nền hòa bình chân chính.
Mọi việc trong xã hội từ nhỏ đến lớn, từ gần đến xa đều do
con người làm ra trong đó nhân dân là chủ thể của lịch sử,
người sáng tạo ra lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân, có dân là có tất cả.
o Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng.
Mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại
tự do, hạnh phúc cho con người. Mọi chủ trương, đường
lối, chính sách của Hồ Chí Minh và Đảng ta đều nhằm mục
tiêu giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc cho
con người.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân vì vậy
mà “Phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân’
và “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con
người xã hội chủ nghĩa”, “Có dân thì có tất cả”.
Con người chỉ trở thành động lực của cách mạng khi họ
được giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo và định hướng hành
động đúng đắn. Vì vậy việc phát huy động lực con người
phải gắn liền với việc nâng cao vai trò lãnh đạo đúng đắn
của đảng cộng sản và những người cán bộ cách mạng.
Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con
người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người -
động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại tăng cường được sức
mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt
được mục tiêu của cách mạng.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”:
o “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu
dài của cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của sự
phát triển vì vậy mà trồng người, bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau và công việc đối với con người... là
những việc làm rất quan trọng, rất cần thiết và là những
việc phải làm đầu tiên. Người rất quan tâm tới sự nghiệp
giáo dục đào tạo, rèn luyện con người.
Hồ Chí Minh yêu cầu phải đặt ra nhiệm vụ, ngay từ đầu
xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu
cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn
xã hội. Con người mới xã hội chủ nghĩa phải là con người
kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
đồng thời phải hình thành nên những phẩm chất mới như:
có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, có đạo đức xã hội chủ nghĩa,
có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ, có tác phong xã hội chủ
nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng…
Xây dựng con người phải toàn diện, có đủ đức tài trong đó
đức là gốc, vì vậy, sự nghiệp trồng người phải bắt đầu từ
việc xây dựng nền tảng đạo đức.
o Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận
hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Để thực
hiện chiến lược “trồng người” phải coi trọng sự nghiệp giáo dục -
đào tạo.
Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng con người một cách
toàn diện trên tất cả các mặt đức, trí, thể, mỹ...Trong đó bồi
dưỡng trí tuệ, nhân cách đạo đức là điều quan trọng có ý
nghĩa hàng đầu và xuyên suốt sự nghiệp cách mạng.
Trong chiến lược “trồng người”, gia đình, nhà trường và xã
hội đóng vai trò rất quan trọng. Mục đích, nội dung và
phương pháp giáo dục có ý nghĩa quyết định tới công dân,
tới đội ngũ cán bộ tương lai tốt hay không tốt. Người khẳng
định nêu gương là một phương pháp tốt trong quá trình
giáo dục con người.
o “Trồng người” là công việc “trăm năm”, do đó không thể nóng
vội, không phải làm một lúc là xong, cũng không được tuỳ tiện
đến đâu hay đó. Việc nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý
nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người,
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Bộ câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ( TTHCM )
C1:Hãy trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 5 giai đoạn
1. Từ 1890-1911: thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng
cách mạng. Bác tiếp thu truyền thống dân tộc, hấp thụ vốn văn hoá
Quốc học và Hán học, tiếp xúc với văn hoá phương Tây, chứng kiến
cuộc sống khổ cực của đồng bào. Bác nảy ý định đi tìm đường cứu
nước, sang phương Tây tìm hiểu xem thế giới làm gì rồi trở về giúp
đồng bào mình.
2. Từ 1911-1920: thời kỳ tìm tòi con đường cứu nước giải phóng dân
tộc. Năm 1911, Bác sang Pháp, sau đó sang Anh, Mỹ. Năm 1913,
Người từ Mỹ quay lại Anh tham gia công đoàn thuỷ thủ Anh. Năm
1917, Người từ Anh lại sang Pháp vào lúc nổ ra cách mạng Tháng
Mười Nga, Pa-ri sôi động tìm hiểu cách mạng tháng Mười. Năm
1919, Nguyễn Ái Quốc ra nhập Đảng xã hội Pháp. Tháng 8/1919,
Bác gửi bản yêu sách của nhân dân An-nam đến hội nghị Véc-xay.
Đại hội XVIII Đảng xã hội Pháp thảo luận vấn đề gia nhập Quốc tế
III, ngày 30/12/1920 Hồ Chí Minh biểu quyết tán thành Đảng cộng
sản Pháp, trở thành người cộng sản. Giai đoạn này đánh dấu sự
phát triển vượt bậc thế giới quan của Hồ Chí Minh từ giác ngộ chủ
nghĩa dân tộc đến giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ chiến sĩ chống
thực dân trở thành chiến sĩ cộng sản Việt Nam.
3. Từ 1921-1930: thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường cách mạng Việt Nam: vừa khoa học vừa thực tiễn. Hồ
Chí Minh đã hoạt động thực tiễn và lý luận phong phú trên địa bàn
Pháp như: tích cực hoạt động trong ban nghiên cứu thuộc địa của
Đảng xã hội Pháp, xuất bản tờ Le Paria nhằm truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam (từ 1921-1923). Năm 1923-1924, tại Liên-
Xô, dự đại hội Quốc tế Nông dân, dự đại hội V Quốc tế cộng sản.
Năm 1924, Bác về Quảng Châu, tổ chức Việt Nam thanh niên cách
mạng, mở lớp huấn luyện cán bộ. Năm 1925, tác phẩm “Bản án chế
độ thực dân Pháp” được xuất bản tại Pa-ri. Năm 1927, Bác xuất bản
tác phẩm “Đường Kách Mệnh”. Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ
trì hội nghị hợp nhất và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Người
trực tiếp thảo văn kiện “Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của
Đảng”. Ngày 3/2/1930, Hồ Chí Minh trở thành nhà tư tưởng theo
đúng nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam được
hình thành cơ bản. Có thể tóm tắt nội dung chính của những quan
điểm lớn, độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh về con đường cách
mạng Việt Nam như sau:
– Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường
cách mạng vô sản.
– Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật
thiết với nhau.
– Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mạng”, đánh đuổi
đế quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do.
– Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tập hợp lực lượng
dân tộc thành một sức mạnh to lớn chống đế quốc và tay sai.
– Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế.
– Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải đoàn kết dân tộc, phải tổ
chức quần chúng, lãnh đạo và tổ chức đấu tranh bằng hình thức và khẩu hiệu
thích hợp.
– Cách mạng trước hết phải có đảng lãnh đạo, vận động và tổ chức quần
chúng đấu tranh. Đảng có vững cách mạng mới thành công…
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh trong
những năm 20 của thế kỷ XXđược truyền bá vào Việt Nam, làm cho phong
trào dân tộc và giai cấp ở nước ta là phong trào tự giác.
4. Từ 1930-1945: thời kỳ thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu
cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền dân tộc cơ bản.
Đây là thời kỳ thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh cả về phương diện lý luận
và phương diện thực tiễn. Khẳng định quan điểm của Hồ Chí Minh về con
đường cách mạng Việt Nam là đúng đắn. Thời kỳ này Hồ Chí Minh và Quốc
tế cộng sản mâu thuẫn trong nhận thức về liên minh các lực lượng cách
mạng, Hồ Chí Minh đã giữ vững quan điểm cách mạng của mình, vượt qua
khuynh hướng “tả” của Quốc tế cộng sản, lãnh đạo cách mạng Việt Nam
thắng lợi. Điều này phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức
sống của tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Từ 1945-1969: thời kỳ phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và
kiến quốc.
Đây là thời kỳ mà Hồ Chí Minh cùng trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta
vừa tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có bước phát triển mới:
– Tư tưởng kết hợp kháng chiến với kiến quốc, tiến hành kháng chiến kết hợp
với xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng khác nhau.
– Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính.
– Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do
dân, vì dân.
– Xây dựng Đảng Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền…
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành trên cơ sở khoa học và cách mạng, có quá
trình trưởng thành liên tục trong đấu tranh cách mạng chống kẻ thù, chống
nhận thức chưa phù hợp giữa trong nước và quốc tế về cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam trong
thời đại mới, là nhọn cờ thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh
vì độc lập, tự do, vì giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một chân lý, có ý nghĩa lớn trong những năm đầu thế kỷ XXI này.
C2:Hãy nêu phương pháp nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh?
– Về phương pháp luận:
+ Phải đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác Lênin để xem xét mọi
vấn đề liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Thống nhất giữa tính Đảng vô sản và tính khoa học.
+ Phải kết hợp phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc
+Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở nắm vững phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng nguyên lý kế
thừa và phát triển sáng tạo.
+Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả,
phân tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân
văn.
+Học tập phương pháp của Hồ Chí Minh: gắn lý luận với thực tiễn trong quá
trình cách mạng Việt Nam; lý trí cách mạng với tình cảm cao đẹp.
C3: Chứng minh rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của các dân tộc
vừa mang tính cách mạng, khoa học vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Tính khoa học
+Hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc
sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không
thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập
thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà
bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo
vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và
độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Tính cách mạng
+Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh thấy rõ mối quan
hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp của
giai cấp vô sản. “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
CNCS và của cách mạng thế giới”.
+ Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc khác. Hồ Chí Minh
không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho tất cả
các dân tộc bị áp bức. “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các
dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”. Chủ nghĩa dân tộc thống
nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần tự
quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình trong
việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở một
Tính nhân văn sâu sắc
Thương yêu con người, thương yêu nhân dân.
+ Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự.
Độc lập trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn
lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định.
Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc
địa và theo nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc
Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can
thiệp nào từ bên ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự
do, hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng
ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ
no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách
mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng
liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với Tuyên ngôn độc lập của
Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1791, Người đã
khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái
Quốc đấu tranh để đòi các quyền cho nhân dân An Nam:+ Tất cả các dân tộc
trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc lập trên tất cả các
mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của
chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông
Dương như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế
bằng chế độ đạo luật.
Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự
do báo chí, hội họp, tự do cư trú … Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay
mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản
yêu sách của nhân dân An-nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.
Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn
bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc- làm cách mạng,
muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng
của bản thân mình.
Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế quốc
Pháp và phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng
Tháng 8 thành công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng
định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.
C4: Vì sao Hồ Chí Minh lại khẳng định: Đảng là nhân tố quyết định hàng
đầu để đưa cách mạng Việt Nam tới thắng lợi.
1.Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Hơn 7 thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân
ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, gian
khổ nhưng đã giành được những thắng lợi rất vẻ vang:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của
nhân dân, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễnViệt Nam và
bối cảnh quốc tế mới.
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc
địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế
theo con đường xã hội chủ nghĩa, cóquan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày
càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô
lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam giành
được trong hơn 7 thập kỷ qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố
hàng đầu quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta-
Đảng Cộng sảnViệt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện –
một Đảng cách mạng thực sự vì nước, vì dân, ngoài lợi ích đó Đảng không có
lợi ích nào khác. Giành độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân là
mục tiêu lý tưởng của Đảng. Vì vậy, vượt lên mọi thách thức, trong phong ba
bão táp, Đảng ta vẫn kiên định vững vàng không xa rời mục tiêu lý tưởng,
không run sợ trước kẻ thù, không nhụt chí trước những khó khăn chồng chất,
không hạ thấp vị trí tiên phong chiến đấu và trách nhiệm của người lãnh đạo,
người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng, một lòng một dạ phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân.
2. Đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng – nhân tố hàng
đầu bảo đảm vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ
trương, chính sách của Đảng. Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết
thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân, tạo nên sức mạnh
của Đảng và của cách mạng.
Đường lối chính trị đúng đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu
thế vận động của lịch sử, đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân
chính của đa số nhân dân. Sức mạnh của Đảng chính là sự đồng tình ủng hộ
của nhân dân, mà sự đồng tình và tin cậy của nhân dân đối với Đảng trước
hết nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy
lùi những khuynh hướng sai lầm về chính trị và tư tưởng làm cho Đảng ngày
càng vững mạnh.
Sở dĩ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn vì: Đảng có một nền tảng lý
luận vững chắc, một lý luận tiên phong dẫn đường, đó là chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như Lênin đã nói: “Không có lý luận cách
mạng không có phong trào cách mạng…” Chỉ Đảng nào có được một lý luận
tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên
phong. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nắm vững, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn
của cách mạngViệt Nam để đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với sự phát
triển của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Hơn thế nữa, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng
tạo, chân lý là cụ thể. Vì vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng
một cách độc lập, sáng tạo vào thực tiễnViệt Nam . Một trong những bài học
được Đảng ta rút ra là phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tế,
kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt, sáng tạo
về phương pháp, đó là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Mọi sự giáo điều, chủquan duy ý chí, xa rời thực tiễn cũng như xa rời các
nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của cách mạng thì sẽ dẫn đến nguy cơ sai lầm,
làm mất sự lãnh đạo của Đảng.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách mạng và
năng lực công tác, thật sự là những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong
của giai cấp công nhân.
Mỗi đảng viên của Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, trung thành với lợi ích của
giai cấp và của dân tộc, một đời hy sinh phấn đấu vì lý tưởng của cách mạng
và lợi ích của nhân dân.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, lấy tự phê bình và
phê bình làm vũ khí đấu tranh để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh. Đồng
thời, luôn củng cố, giữ vững và tăng cường sự đoàn kết trong Đảng, đảm bảo
sự nhất trí cao về mục tiêu lý tưởng của Đảng, để làm cho Đảng ngày càng
vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo, bên cạnh
những ưu điểm, trong Đảng cũng còn những yếu kém, thậm chí có lúc sai
lầm, khuyết điểm, song điều quan trọng, Đảng đã sớm phát hiện ra những
yếu kém của mình. Đảng công khai tự phê bình nhận khuyết điểm trước nhân
dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được
nhân dân tin yêu, thừa nhận là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo duy
nhất của dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định rằng: ở nước ta, ngoài
Đảng Cộng sản Việt Nam, không có lực lượng nào khác có đủ sức mạnh lãnh
đạo cách mạng. Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng
ta vẫn có quyền tự hào nói rằng: Đảng ta thật vĩ đại.
Học tập, nghiên cứu để hiểu biết về quá trình đấu tranh cách mạng và truyền
thống của Đảng không phải chỉ để tự hào về Đảng, mà quan trọng hơn là
thanh niên cần nâng cao hơn nữa niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức
phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, để công cuộc đổi mới
giành thắng lợi to lớn hơn. Trên những vị trí công tác, lao động và học tập của
mình, thanh niên phải góp phần tích cực vào công tác xây dựng, bảo vệ
Đảng, góp phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; ra sức học
tập, rèn luyện phấn đấu để trở thành những đảng viên của Đảng, đem tài
năng và sức trẻ cống hiến cho sự nghiệp của Đảng, làm cho những thành tựu
và truyền thống của Đảng ngày càng phát triển và phong phú hơn.
C5: Vì sao phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vào
sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta.
Vì các lý do sau đây
1.Khơi dậy CN yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn lực mạnh mẽ nhất để
xây dựng và bảo vệ tổ quốc:
Trong đổi mới Đảng ta luôn khẳng định tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế độc lập dân tộc
và CNXH nhằm tạo ra nguồn lực mới để phát triển đất nước. Trong đó cần
phát huy tối đa nguồn nội lực, nhất là nguồn lực con người (trí tuệ, truyền
thống dân tộc, vốn, tài nguyên) kiên quyết không chịu nghèo hèn, thấp kém,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vững bước tiến lên CNXH.
2. Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm của giai cấp CN:
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao chủ nghĩa yêu nước nhưng
luôn vững vàng trên lập trường giai cấp CN trong giải quyết vấn đề dân tộc.
Đảng ta luôn khẳng định: Giai cấp CN Việt Nam là giai cấp độc quyền lãnh
đạo CM Việt Nam từ khi có Đảng . Đại đoàn kết nhưng phải trên nền tảng liên
minh công nông trí thức do giai cấp CN lãnh đạo. Trong giành, giữ chính
quyền phải sử dụng bạo lực CM của quần chúng chống lại bạo lực phản CM.
Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH: Đây là nguyên tắc bất biến cần
vận dụng mọi hoàn cảnh.
(Phong trào CM thế giới có lúc tả, có lúc hữu, lúc nhấn mạnh lợi ích giai cấp
coi nhẹ lợi ích dân tộc, gần đây lại gạt bỏ lợi ích giai cấp, tuyệt đối hơn lợi ích
dân tộc, từ bỏ CM, từ bỏ CN quốc tế vô sản. Đảng ta vẫn khẳng định: Dù Liên
Xô, Đông Âu tan rã, thế giới biến động, đấu tranh giai cấp dân tộc diễn ra
dưới nhiều hình thức khác, nhưng không được buông lơi quyền lợi giai cấp,
nhấn mạnh lợi ích dân tộc làm suy yếu phong trào CM thế giới, tan rã CNXH,
bùng phát xung đột dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ là làm giàu cho bọn lái súng,…)
Cần chống lại quan điểm cho rằng đất nước đi theo con đường nào cũng
được, không nhất thiết độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, CNXH là lý tưởng
nhưng là không tưởng, ép ta từ bỏ CNXH, đa nguyên chính trị, từ bỏ sự lãnh
đạo của Đảng để có tự do tư sản.
Đảng ta khẳng định xây dựng CNXH vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh” không chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là vấn
đề dân tộc, ở Việt Nam chỉ có Đảng CS Việt Nam mới là đại biểu cho lợi ích
giai cấp CN,nhân dân lao động và dân tộc, mới xây dựng được khối đại đoàn
kết thực hiện mục tiêu nêu trên những lệch lạc tư tưởng tả hoặc hữu đều trái
với tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Chăm lo xây dựng khối đại đòan kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam:
Trong đổi mới, Đảng ta lấy mục tiêu dân giàu nước mạnh… làm điểm tương
đồng, đồng thời cũng chấp nhận những điểm khác nhưng không trái với lợi
ích dân tộc (5 ngón tay có ngón dài ngón vắn, nhưng dù dài vắn đều hợp lại
nơi lòng bàn tay), giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh để
hoàn thành mục tiêu trên.
ĐH 9 chỉ rõ: vấn đề dân tộc và đại đoàn kết luôn có vị trí chiến lược trong CM
Việt Nam. Bác Hồ chỉ rõ: Đồng bào miền núi có truyền thống cần cù trong CM
và kháng chiến, đã có nhiều công trạng vẻ vang và oanh liệt. Người chỉ thị
phải chăm lo phát triển KT-XH vùng dân tộc miền núi, thực hiện đền ơn đáp
nghĩa với đồng bào.
Những năm đổi mới vừa qua, đời sống các vùng dân tộc có những chuyển
biến rõ rệt, song nhìn chung còn nghèo, khó khăn còn nhiều, sắp tới phải đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế hàng hóa , xóa đói nghèo,
nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ, chống kì thị dân tộc, tự ty dân tộc, dân tộc
hẹp hòi.
C6: Chứng minh: Không có gì quý hơn độc lập, tự do hay còn có gì quý
hơn độc lập tự do?
Là một người dân của một đất nước độc lập, ta đã tìm, đọc, hiểu được rằng
tự do và độc lập đã phải đổ xương máu bao thế hệ thế và còn hơn thế nữa.
Là dân nước nô lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến tội ác dã
man của CN thực dân đối với đồng bào mình và các dân tộc bị áp bức trên
thế giới, người thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng vì dân tộc đó
mất độc lập, tự do.
Muốn có bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng
khỏi chủ nghĩa thực dân. Nên độc lập dân tộc phải thể hiện ở 3 điểm sau:
Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an ninh, toàn vẹn
lãnh thổ và quan trọng nhất là độc lập về chính trị.
Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia phải do người dân nước đó tự quyết định.
Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc
của người dân.
Vì thế, nền độc lập của Việt nam phải theo nguyên tắc nước Việt nam của
người Việt Nam, mọi vấn đề về chủ quyền quốc gia phải do người dân Việt
Nam tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Quyền độc lập, bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, quý giá nhất và bất
khả xâm phạm. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là lẽ sống, là triết lý Cách
mạng Hồ Chí Minh và của dân tộc VIệt Nam. Đó cũng là nguồn cổ vũ to lớn
đối với các dân tộc bị áp bức, đấu tranh cho một nền độc lập tự do, thống
nhất đất nước, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của người dân.
KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO
Trương Đình Lãm (1945 – 2000)
Toàn dân ta hân hoan xây dựng vùng Giải phóng
Toàn dân ta reo vui dưới cờ cách mạng
Dân ta quyết không bao giờ làm nô lệ
Dân ta quyết một lòng đánh đuổi xâm lăng
Cờ Giải phóng sẽ bay trên trời Sài Gòn
Tình Bắc Nam nối lại trong một ngày
C7: Bằng kiến thức tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội được liên hệ với cuộc sống của bản thân,
hãy phác thảo những nét lớn về cuộc sống trong tương lai của bạn và
phương hướng thực hiện.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là:
1. Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của
Người là mục tiêu giành độc lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho
nhân dân, làm cho nhân dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”. Để thực hiện mục tiêu đó cần thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính vì mục
tiêu cao cả đó, Người đi tìm đường cứu nước và đã tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp
giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.
2. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xó hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Người đã chỉ ra rằng: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người đã giải quyết đúng
đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại. Những tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một
đòi hỏi thực tiễn bức xúc: Phải chống chủ nghĩa thực dân, phải gắn liền cách
mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Con đường để giữ vững độc
lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con đường đi lên xã hội chủ
nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực. Độc lập
dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã
hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí
Minh.
3. Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, Hồ Chí Minh đã đưa vai trò của nhân dân lên tầm cao mới:
Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là người chủ thực sự của đất nước;
coi nhân tố con người là nguồn lực cơ bản tạo nên sức mạnh vô địch để
kháng chiến, kiến quốc. Người thường nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu;
khó vạn lần dân liệu cũng xong. Sức mạnh của nhân dân được nhân lên gấp
bội khi thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam.
Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công”..
4. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của
dân, do dân, vì dân.
Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN. Dân chủ là mục tiêu, là động lực của
cách mạng XHCN. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong nhân dân là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước là công
cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Do đó, Hồ Chí
Minh coi trọng việc xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, của dân, do
dân, vì dân. Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, có tính dân tộc
và nhân dân sâu sắc do Đảng lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, thống nhất quyền lực; đội ngũ cán bộ Nhà nước phải có đức, có tài,
phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là công bộc của nhân dân,
vì nhân dân mà phục vụ. Để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng
phí, quan liêu. Coi tham ô, lãng phí, quan liêu là ba thứ “giặc nội xâm” rất
nguy hiểm.
5. Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách
mạng, Hồ Chí Minh luôn coi bạo lực cách mạng là sức mạnh tổng hợp của
nhân dân, bao gồm các hình thức: Chính trị, quân sự và sự kết hợp giữa
chính trị và quân sự. Trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền, giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh việc chăm lo xây dựng lực lượng
chính trị, phải chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thực hành chiến tranh nhân
dân với sức mạnh tổng hợp. Người nhấn mạnh: Quân sự phải phục tùng
chính trị, lấy chính trị làm gốc. Quân đội ta là quân đội nhân dân, từ nhân dân
mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, quân đội ta là đội quân chính trị, đội quân
chiến đấu, đội quân công tác. Lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
6. Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân
dân. Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự
do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì! Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
7. Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Hồ Chí Minh luôn chăm lo giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và mọi người
dân về phẩm chất đạo đức cách mạng. Người đặt lên hàng đầu tư cách
“Người cách mệnh” và bản thân Người cũng là một tấm gương sáng về đạo
đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Người coi đạo đức
như là gốc của cây, là nguồn của các dòng sông. Người cộng sản mà không
có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Cốt
lõi của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là trung với nước,
hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do, vì CNXH.
8. Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Người coi bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng
và rất cần thiết “Vì lợi ích mười năm trồng cây; vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Người nói: Đảng cần phải chăm lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho
họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa
“chuyên”.
9. Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng,
Đảng có vững cách mạng mới thành công. Đảng muốn vững phải có chủ
nghĩa chân chính làm cốt, chủ nghĩa như trí khôn của người, như la bàn của
con tầu. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Muốn vậy, Đảng phải trong sạch, vững mạnh về mọi
mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, kiên định mục tiêu, lý tưởng; có đường lối
cách mạng đúng đắn; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thực
hành tự phê bình và phê bình; thực sự đoàn kết nhất trí; mỗi đảng viên phải
không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ để thật sự xứng đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, xứng
đáng với niềm tin yêu của quần chúng nhân dân.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi
đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng
Việt Nam đã vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời
đại sâu sắc.
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó
khăn, do đó mỗi người cần nghiên cứu, học tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và
pháp luật của Nhà nước để kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng: Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, như Bác Hồ hằng mong muốn.
Hãy trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức
của con người Việt Nam trong thời đại mới? ý nghĩa của quan điểm này
đối với công cuộc chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu ở nước ta hiện
nay?
A.Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời
đại mới
a. Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với
nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo
đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống
Việt Nam và phương Đông, xong có nội dung hạn hẹp. “Trung với vua, hiếu
với cha mẹ”, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ
Chí Minh đã vận dụng và đưa vào nội dung mới. Hồ Chí Minh đã kế thừa
những giá trị đạo đức truyền thống và vượt trội. Trung với nước là trung thành
với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ
của đất nước. “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì
dân”. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định
hướng chính trị- đạo đức cho mỗi người Việt Nam.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng,
đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với
Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung
thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng.
Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí
để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
– Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
– Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
– Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung của hiếu với dân là:
– Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
– Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực
hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
– Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng
suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ
lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn
hạnh phúc của con người.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân
dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to;
“Không xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi,”
Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không
tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ
có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm
là:… cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của
riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp
việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Cụ
Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng
tham lợi thì nước sẽ nguy.
Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc.
Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn
kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái
độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn,
không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:
“TrờI có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng
viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách
mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững
mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm
người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân,
phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết
vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. Thực hành chí
công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
“phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên
hạ chi lạc nhi lạc). Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì
mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí
Minh viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại,
có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến
và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí
công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững
vàng qua mọi thử thách : “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể
chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.
c. Yêu thương con người
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân
nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân
loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình
yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị
áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn
độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách
mạng, mới nói đến CNXH và CNCS.
Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả
những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt
đẹp trong mỗi con người. Bác căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn
trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh
thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó
là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ
trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào
mục tiêu lớn của thời đại hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
B.Ý nghĩa
Từ sự phân tích sâu sắc những biểu hiện, bản chất, nội dung, nguồn gốc của
tham ô, lãng phí, quan liêu, => những biện pháp nhằm chống các căn bệnh tệ
hại này một cách có hiệu quả:
Thứ nhất, phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thứ nhì, phải dựa vào quần chúng, phát động quần chúng tích cực tham gia
đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu và thực hành tiết kiệm.
Thứ ba, phải hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, đào tạo và nâng cao trình
độ của đội ngũ cán bộ.
Thứ tư phải tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra và xử lý kỷ luật
nghiêm minh những tập thể, cá nhân vi phạm.
Thứ năm, thường xuyên chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, đảng viên. Để thực hiện
có hiệu quả cần coi trọng và tiến hành đồng bộ các biện pháp. Người yêu
cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của
nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần
đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”.
Phân tích khái niệm “con người” trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự
nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ
đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là thành
viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá
nhân hài hòa, phong phú
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản
thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một
cách cụ thể
Tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất
của “cái cá nhân” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương
con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân
con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người
của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh
đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng
nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con
người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực
tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết
định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.
| 1/49

Preview text:

Thi cuối kỳ
1. Tại sao nói sự ra đời của TTHCM là một tất yếu lịch sử ?
Bối cảnh Việt Nam cuối 19 – đầu 20:
HCM sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động.
Chính quyền nhà Nguyễn vào thời điểm này từng bước khuất phục tư bản Pháp. Triều
đình liên tiếp thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động… Việc này
hoàn toàn chặn đứng cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Cùng
với đó, điều này cũng khiến Việt Nam không thể phát huy được thế mạnh của dân tộc
nhằm chống lại âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Sau khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược Việt Nam tại bán đảo Sơn Trà
(Đà Nẵng) vào năm 1858, chính quyền nhà Nguyễn hầu như hoàn toàn bất lực và lần
lượt kí kết các hiệp ước: Nhâm Tuấn (1862), Giáp Tuất (1874), Harmand (1883) và
cuối cùng là Hiệp ước Patenôtre (1884). Hiệp ước sau cùng tại kinh thành Huế đã
chuyển giao toàn bộ quyền hành, lãnh thổ vào tay thực dân Pháp và thừa nhận sự bảo
hộ của chủ nghĩa thực dân.
Sau khi bình định xong, thực dân Pháp đã biến Việt Nam từ một nước phong kiến độc
lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Chính sách khai thác thuộc địa đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc và
xuất hiện 2 mâu thuẫn cơ bản: mẫu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc. Điều này làm
cho dân ta rơi vào tình trạng một cổ hai tròng, tạo tiền đề bên trong cho phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX.
Cuối thế kỉ XIX, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi ra chiếu “Cần Vương”
làm bùng lên các cuộc khởi nghĩa vũ trang do các văn thân, sỹ phu lãnh đạo: Phạm
Bành, Đinh Công Tráng (Khởi nghĩa Ba Đình), Nguyễn Thiện Thuật (Khởi nghĩa Bãi
Sậy), Phan Đình Phùng (Khởi nghĩa Hương Khê) và Hoàng Hoa Thám (Khởi nghĩa
Yên Thế)... Sự thất bại của phong trào Cần Vương đã chấm dứt một thời kì đấu tranh
yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến.
Đầu thế kỉ XX, chịu ảnh hưởng bởi các cuộc cách mạng tư sản (Minh Trị - Nhật Bản,
Tân Hợi – Trung Quốc, cách mạng tư sản Anh 1640, Mỹ 1776, Pháp 1789), phong
trào đấu tranh yêu nước của Việt Nam lúc này mang màu sắc mới theo tư tưởng hệ tư
sản. Tiêu biểu là Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học… nhưng tất cả
đều thất bại. Lúc này phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào cảnh khó khăn, khủng
hoảng về con đường đấu tranh để giải phóng dân tộc nhằm thoát khỏi chủ nghĩa thực
dân, giành độc lập dân tộc.
Bối cảnh Thế Giới cuối 19 – đầu 20:
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát triển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Một số nước đế quốc Anh, Pháp,
Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Nga, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, v.v… đã chi phối
toàn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh đã
trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các nước đế quốc.
Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư bản là mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư bản; mâu thuẫn giữa các nước
đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế
quốc. Sang đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn này ngày càng phát triển gay gắt. Giành độc
lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ là đòi hỏi của riêng họ, mà còn là mong muốn
chung của giai cấp vô sản quốc tế; tình hình đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới phát triển.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác - Lênin
ở một nước lớn rộng một phần sáu thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã đánh đổ giai
cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên một xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi mở ra con đường giải phóng cho các dân
tộc bị áp bức và cả loài người, mở ra một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
Ngày 2-3-1919, Quốc tế Cộng sản ra đời ở Mátxcơva. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc
tế Cộng sản đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm Cách mạng
Tháng Mười Nga ra khắp thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ
của các đảng cộng sản ở nhiều nước.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Xô viết và Quốc tế Cộng
sản cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế
giới tìm mục tiêu và con đường cứu nước mới
Kết luận: => Sự ra đời của TTHCM đã giải quyết được những vấn đề mà CM Việt Nam đặt
ra và nó phù hợp với xu thế của CM thế giới vì vậy nó là một tất yếu
Câu 2.Nêu những tiền đề tư tưởng lý luận hình thành tư tưởng
HCM? Trong những tiền đề đó, tiền đề nào quan trọng nhất, quyết định bản chất TTHCM

1. Giá trị truyền thống của dân tộc VN  yêu nước  Bất khuất  Đoàn kết  Nhân nghĩa  Lạc quan
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại vượt qua mọi
khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển. Chính chủ nghĩa yêu nước là
nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường
cứu nước, và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường cứu nước, cứu dân.
Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì
độc lập, tự do của Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ
của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trịnh
trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” .
Không có gì quý hơn độc lập tự do - chân lý lớn của thời đại được Hồ Chí Minh
khẳng định, đồng thời cũng chính là một điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí Minh hết
sức chú trọng kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam là yêu nước gắn liền với yêu dân, có tinh thần đoàn kết, dân chủ, nhân ái, khoan
dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang; tinh thần cần cù, dũng
cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của dân tộc Việt Nam. Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành công của cách
mạng; nước lấy dân làm gốc; gốc có vững cây mới bền; xây lầu thắng lợi trên nền
nhân dân; đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế là một nguyên tắc chiến lược
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử, trân
trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và những giá trị tốt đẹp khác của
dân tộc. Đó chính là một cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn hóa
kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng;
cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
xây dựng nền văn hoá mới của Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh là một biểu tượng cao
đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây. 2.
Tinh hoa văn hoá nhân loại 
Tinh hoá văn hoá phương Đông
Về Nho giáo: Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình nhà Nho yêu nước, từ rất sớm đã
chịu ảnh hưởng của Nho học từ người cha và nhiều nhà Nho yêu nước ở quê hương.
Người tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo như: Triết lý hành động, tư tưởng
nhập thế, hành đạo giúp đời, là khát vọng về một xã hội đại đồng, là hòa mục, hòa
đồng, là triết lý nhân sinh tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa, lễ giáo, hiếu học và
Người đã phê phán loại bỏ những yếu tố tiêu cực và thủ cựu của nó.
Về Phật giáo: Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc những tư tưởng tốt
đẹp của Phập giáo như: vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể
thương thân, nếp sống đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo việc thiện, ca ngợi lao
động, phê phán lười biếng, chủ trương gắn bó với dân, với nước.
Khi trở thành người mác xít, Hồ Chí Minh chú ý tìm hiểu chủ nghĩa “Tam Dân” (dân
tộc độc lập; dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của Tôn Trung Sơn, vì thấy trong
đó “những điều thích hợp với điều kiện nước ta”. 
Tinh hoa văn hoá phương Tây
Cùng với tư tưởng triết học phương Đông, Hồ Chí Minh còn tiếp thu nền văn hóa dân
chủ và cách mạng của phương Tây. Người chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng tự do,
bình đẳng trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, năm 1776 và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Đại Cách mạng Pháp, năm 1791. 2. Triết học Mác Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin trên nền tảng
những tri thức văn hóa tinh túy của nhân loại cùng với sự hiểu biết chính trị
phong phú được tích lũy qua hoạt động thực tiễn đấu tranh vì mục tiêu cứu
nước, giải phóng dân tộc của chính mình.
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đi vào nghiên
cứu chủ nghĩa Mác. Người tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp
macxít, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan
điểm, phương pháp biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết
những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết
luận có sẵn trong sách vở.
Như vậy, chính thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
đã giúp Hồ Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của
mình để từ đó tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta.
 Trong các tiền đề trên chủ nghĩa Mác- Lê nin là tiền đề quan trọng nhất là vì: Chủ nghĩa
Mác- Lê nin là thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, là chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có định hướng khoa học và
cách mạng đúng đắn. Tinh hoa văn hóa nhân loại làm phong phú và sâu sắc thêm chủ nghĩa
yêu nước và tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Hồ
Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình để từ đó tìm ra con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc – con đường cách mạng vô sản; cùng với quy luật cách
mạng Việt Nam là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”
Câu 3:Từ tư tưởng phê bình và tự phê bình của Hồ Chí Minh. Anh/Chị
hãy liên hệ với việc chỉnh đốn hoàn thiện nhân cách của bản thân

TTHCM về tự phê bình và phê bình /131
Tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên,
“như mỗi ngày phải rửa mặt” . Người viết trong Di chúc: “Trong Đảng thực hành dân chủ
rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố
sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng” . Người cho rằng, tự phê bình và phê bình là “thang
thuốc” tốt nhất để làm cho phần tốt trong mỗi tổ chức và mỗi con người nẩy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi; tự phê bình và phê bình phải trung thực, kiên quyết, đúng
người, đúng việc, phải có văn hóa…Trong Đảng, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” . Liên hệ bản thân
Trong 1 tập thể chỉ ra lỗi sai góp ý lỗi sai của thành viên để cùng sửa chữa và giúp tập thể
cùng hoàn thiện công việc chung. Nhận lỗi của bản thân tuqj kiểm điểm nhận lỗi và tìm cách
khắc phục lỗi sai để không làm ảnh hưởng đến tập thể. Cần nêu cao tinh thần tự giác, dám
nhận lỗi, tập cách tự tin dám nói trước đám đông, Khắc phục được tâm lý tự ti, sợ bị trù dập
nên không dám phê bình người khác
3. Từ tư tưởng giữ gìn bản sắc dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại/210  TTHCM
Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại. Bản sắc văn hóa dân tộc là
những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; là thành quả của quá
trình lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu của con người Việt Nam.
Bản sắc văn hóa dân tộc được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ. Về nội dung, đó là lòng yêu
nước, thương nòi; tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc... Về hình thức, cốt cách văn hóa
dân tộc biểu hiện ở ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, truyền thống, cách cảm và nghĩ...
Bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng giá trị lớn và có một ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nó phản ánh những nét độc đáo, đặc tính dân tộc. Nó là ngọn
nguồn đi tới chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh nói rằng, âm nhạc dân tộc ta rất độc đáo,
phải khai thác và phát triển lên; rằng, những người cộng sản chúng ta rất quý trọng cổ điển,
có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ những ngọn nguồn cổ điển đó; vì vậy, trách nhiệm của con
người Việt Nam là phải trân trọng, khai thác, giữ gìn, phát huy, phát triển những giá trị của
văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn lịch sử. Theo
Người, “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”; “càng thấm nhuần
chủ nghĩa Mác-Lênin càng phải coi trọng những truyền thống tốt đẹp của cha ông”. “Mỗi dân
tộc cần phải chăm lo đặc tính dân tộc mình trong nghệ thuật”. Chăm lo cốt cách dân tộc, đồng
thời cần triệt để tẩy trừ mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc, tôn
trọng phong tục tập quán, văn hóa của các dân tộc ít người.
Trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tiếp
biến văn hóa (tiếp nhận và biến đổi) là một quy luật của văn hóa. Theo Hồ Chí Minh, “văn
hóa Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại...
Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam.
Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam
thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ” .
Hồ Chí Minh chú trọng chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Trao đổi với một nhà văn Liên
Xô, Người nhấn mạnh rằng “các bạn chớ hiểu là tôi cho rằng chúng tôi cần dứt bỏ văn hóa
nào đó, dù là văn hóa Pháp đi nữa. Ngược lại, tôi muốn nói điều khác. Nói đến việc mở rộng
kiến thức của mình về văn hóa thế giới, mà đặc biệt hiện nay là văn hóa Xôviết - chúng tôi
thiếu - nhưng đồng thời tránh nguy cơ trở thành kẻ bắt chước... Văn hóa của các dân tộc khác
cần phải được nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể được nhiều hơn
cho văn hóa của chính mình” . Nhận diện về hiện tượng văn hóa Hồ Chí Minh, một nhà báo
Mỹ viết: “Cụ Hồ không phải là một người dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi, mà cụ là một người yêu
mến văn hóa Pháp trong khi chống thực dân Pháp, một con người biết coi trọng những truyền
thống cách mạng Mỹ trong khi Mỹ phá hoại đất nước cụ” .
Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt
Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Nội dung tiếp thu là toàn diện
bao gồm Đông, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt, các khía cạnh. Tiêu chí tiếp thu là có cái gì hay,
cái gì tốt là ta học lấy. Mối quan hệ giữa giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa
nhân loại là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó là điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại.  Liên hệ
Đấu tranh xóa bỏ các tư tưởng lạc hậu Trọng nam khinh nữ, mê tín dị đoan, phải có
con trai nối dõi. Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt không lạm dụng tiếng nước
ngoài. Học hỏi, bảo vệ về lịch sử bản sắc văn hóa dân tộc như giữ gìn nhạc cụ dân
tộc, giữ gìn nét đẹp của áo dài, tinh thần yêu nước, bất khuất, đoàn kết. Đưa văn hóa,
hình ảnh của người Việt Nam đến các bạn quốc tế
4. Từ tư tưởng Cần, kiệm, liêm chính của HCM liên hệ rèn luyện đạo đức  TTHCM
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó là phẩm
chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề
cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, phản ánh ngay từ cuốn sách Đường cách
mệnh đến bản Di chúc cuối đời.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không
bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay
ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho
nước cho dân”. Với ý nghĩa như vậy, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là một biểu
hiện cụ thể của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền
thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những
nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai” . “Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả
hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc” . Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao
động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không
lười biếng. Phải thấy rõ, “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta” .
“Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Kiệm tức là
tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân
mình; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. “Tiết kiệm không phải là
bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm,
việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui
lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là
kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ” . “Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai
chân của con người” . Hồ Chí Minh yêu cầu “Phải cần kiệm xây dựng nước nhà” .
Liêm “là trong sạch, không tham lam” ; là liêm khiết, “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công,
của dân”, “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không
ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có
một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. “Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng
như chữ Kiệm phải đi với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được”.
“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng
thắn, tức là tà” . Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: “Đối với mình - Chớ tự kiêu,
tự đại”. “Đối với người:… Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải
chân thành, khiêm tốn,… Phải thực hành chữ Bác – Ái” . “Đối với việc: Phải để công việc
nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh” .
Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai
cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực hành trước để làm kiểu mẫu
cho dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, công chức, những người trong các công sở đều có
nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại,
biến thành sâu mọt của dân.
Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công bằng, không
chút thiên tư, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên trên
hết, trước hết; chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô
tư là chống chủ nghĩa cá nhân. Người nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với
việc” ; “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước,… khi hưởng thụ thì mình nên đi sau” .
Chí công vô tư về thực chất là sự tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính. Người giải thích: “Trước
nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to
hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công
vi tư”. Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân” .  Liên hệ
Cần: Chăm chỉ trau dồi kiến thức từ việc học qua sách vở sách vở rèn luyện kỹ năng mềm đi
làm thêm để có thêm kinh nghiệm, khi gặp kiến thức mới kiên trì không bỏ cuộc để đạt được, không ngại khó.
Kiệm: tiết kiệm thời gian không sử dụng thời gian lãng phí vào việc chơi game thay vào đó
em dùng thời gian đọc sách, trải nghiệm trau dồi thêm kiến thức
Liêm: trong sạch trong học thuật khi tham gia các bài kiểm tra các kỳ thi không quay cóp.
Không làm việc xấu chỉ vì đồng tiền
Chính: Khiêm tốn và không khinh thường với những người nhỏ tuổi hơn, trong mối quan hệ
luôn duy trì sự chân thành. Khi làm việc sai tự nhận lỗi biết xin lỗi và sẵn sàng nghe góp ý và
tự sửa lỗi của bản thân.
Chí công, vô tư: Chí công là tính từ chỉ sự công bằng không một chút thiên vị. Vô tư thể hiện
thái độ đường đường chính chính, làm việc ngay thẳng, phân minh, không một chút tư tâm
5. Sáng tạo là gì? Hãy phân tích 1 luận điểm có tính sáng tạo trong TTHCMĐịnh nghĩa:
Quá trình hoạt động của con người, tạo nên những giả trị tinh thần và vật chất mới về chất.
Sáng tạo là khả nặng nảy sinh trong lao động của con người nhằm tạo nên từ vật liệu do hiện
thực cung cấp (trên cơ sở nhận thức được các quy luật của thế giới khách quan) một thực tại
mới thỏa mãn được các nhu cầu đa dạng xã hội. Các hình thức sáng tạo được quy định bởi
tính chất của hoạt động có tính chất xây dựng (sự sáng tạo của người phát minh, của người tổ
chức, sự sáng tạo khoa học và nghệ thuật,…)
Phân tích một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh
Luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của ĐCS phản ánh cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đến thời kỳ tự giác. ĐCS
là sản phảm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân. Lý luận về
tính tất yếu của sự kết hợp ấy đã được đề ra trong học thuyết Mac-Lênin. Song, trong mỗi
nước, sự kết hợp ấy lại là một sản phẩm của lịch sử, lại được thực hiện bằng con đường riêng
biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian.
- Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác -
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Học thuyết Mác - Lênin
khẳng định rằng, Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân. Quy luật chung này được đồng chí Nguyễn ái Quốc vận dụng sáng tạo
vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp công nhân còn ít về số lượng, nhưng người vô sản bị áp
bức, bóc lột thì đồng. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nông và phong
trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Muốn xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải coi trọng đầy đủ cả ba yếu tố trên.
- Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền cao và thống nhất của
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng ta là con đẻ của phong trào cách mạng
của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động và trưởng thành thông qua đấu tranh chống
đế quốc, chống phong kiến. Muốn củng cố và phát triển Đảng, đòi hỏi phải củng cố và phát
triển phong trào cách mạng của quần chúng. Đảng mật thiết liên hệ với quần chúng, hướng
dẫn, lãnh đạo phong trào quần chúng, thông qua thực tiễn phong trào cách mạng mà củng cố và phát triển Đảng.
- Thứ ba, phong trào công nhân kết hợp phong trào nông dân. Đầu tk XX nông dân chiếm
90% dân số, công nhân xuất thân từ nông dân. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp
thành quân chủ lực của Cách mạng
- Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức VN là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các
yếu tố cho sự ra đời ĐCSVN. Trí thức VN:
+ Số lượng không nhiều nhưng là “ngòi nổ” cho phong trào chống Pháp.
+ Thúc đẩy sự canh tân chấn hưng đất nước.
+ Là người lãnh đạo của các tổ chức yêu nước.
+ Nhạy cảm thời cuộc, chủ động đón nhận “luồng gió mới”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những sáng tạo trong việc kết hợp yếu tố dân tộc (chủ nghĩa dân
tộc và phong trào yêu nước) và yếu tố giai cấp (Chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công
nhân) để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kết hợp thành công yếu tố dân tộc và yếu tố
giai cấp trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một sáng tạo lớn, một thành công
lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin
trong hoàn cảnh thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sự sáng tạo ấy không chỉ là nhân tố quan
trọng dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn góp phần làm phong phú thêm
kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về sự ra đời của đảng cộng sản ở các nước thuộc địa, kém phát triển.
Nêu những luận điểm cơ bản của HCM về cách mạng giải phóng dân tộc và
hãy phân tích 1 luận điểm mang tính sáng tạo trong những luận điểm nêu trên
Năm luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
- Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn thắng lợi phải do Đảng cộng sản lãnh đạo.
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đoàn kết toàn dân tộc, lấy liên minh
công - nông làm nền tảng.
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Cách mạng giải phóng dân tộc chỉ được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng.
Trong năm luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, luận điểm
“Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc” là luận điểm thể hiện cao nhất sự sáng tạo lý luận của Người.
Phân tích luận điểm có tính sáng tạo của Hồ Chí Minh
a) Quan điểm của Quốc tế cộng sản về cách mạng thuộc địa (cách mạng giải phóng dân tộc).
Do chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc địa nên Quốc tế cộng
sản có lúc xem nhẹ vai trò của cách mạng thuộc địa, coi cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở chính quốc. Đại hội VI Quốc tế cộng sản năm 1928 đã thông qua Những
luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nữa thuộc địa, trong đó có
đoạn viết rằng: chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi
giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này có tác động
không tốt, làm giảm đi tính chủ động, sáng tạo của nhân dân các nước thuộc địa trong công
cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập cho dân tộc. Quán triệt tư tưởng của
V.I.Lênin về mối quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với phong trào giải
phóng dân tộc thuộc địa, từ rất sớm Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ khắng khít, tác động
qua lại lẫn nhau giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc - mối quan hệ
bình đẳng, không lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau. Năm1924, tại Đại hội V của Quốc tế cộng
sản, Người nói: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp
vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các
thuộc địa”1 . Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) , Người cũng viết: “Chủ
nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái
vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng
thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút
máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”2 . Là
một người dân thuộc địa, là người cộng sản và là người nghiên cứu rất kỹ về chủ nghĩa đế quốc,
b) Quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng
vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu
nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực
dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một
trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Luận điểm sáng tạo trên của Hồ Chí Minh dựa trên các cơ sở sau:
Thuộc địa có một vị trí,vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc, là nơi duy
trì sự tồn tại, phát triển, là món mồi “béo bở” cho chủ nghĩa đế quốc nhưng lại là khâu yếu
nhất trong hệ thống các nước đế quốc. Cho nên, cách mạng ở thuộc địa sẽ có khả năng nổ ra và thắng lợi .
Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa, mà theo Người nó
sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ” khi được tập hợp, hướng dẫn và giác ngộ cách mạng.
Căn cứ vào luận điểm của C.Mác về khả năng tự giải phóng của giai cấp công nhân, trong
Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa, khi kêu gọi các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh
giành quyền độc lập dân tộc, Người viết: “Hỡi anh em ở các thuộc địa…Anh em phải làm thế
nào để được giải phóng? Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em
rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nổ lực của bản thân anh em” .
Chứng minh: Với thực tiễn thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam cũng như phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới đã thành công vào những năm 60, trong khi cách mạng vô sản ở chính
quốc chưa nổ ra và thắng lợi, càng chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí Minh là độc đáo,
sáng tạo, có giá trị lí luận và thực tiễn to lớn. STUDOCU:
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu 1: Trình bày khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Ý nghĩa học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh. TRẢ LỜI:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc, là tài sản tinh thần
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, là nền tảng tư tưởng là kim chỉ nam hành
động của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng
tạo chỉ dẫn cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí
Minh vẫn được vận dụng sáng tạo cho đến ngày nay.
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1. Khái niệm tư tưởng
- Hiểu theo nghĩa phổ thông, tư tưởng là sự phản ánh hiện
thực vào ý thức, ý nghĩ của mỗi người.
- Khái niệm “tư tưởng” trong “Tư tưởng Hồ Chí Minh” không phải dùng với nghĩa tinh thần -
tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng, mà với nghĩa là một hệ thống
những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng thế giới quan và
phương pháp luận (nền tảng triết học) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một
giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
1.2 Khái niêm “nhà tư tưởng”
- Theo từ điển tiếng Việt, “nhà tư tưởng” là những người có những tư tưởng triết học sâu sắc.
Lênin cũng đã lưu ý rằng: Một người xứng đáng là nhà tư tưởng khi nào biết giải quyết trước
người khác tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề về t? chức, về những yếu tố
vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.
→Với hai khái niệm trên chúng ta có thể khẳng định Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng thực
thụ và tư tưởng của Người có vị trí, vai trò và tầm quan trọng to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
1.3. Khái niêm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu ở tầm khái quát cao, là hệ thống những luận điểm,
học thuyết chủ nghĩa được hình thành từ bộ phận đến chỉnh thể thống nhất.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đánh dấu một cột mốc
quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã
khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nèn tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) và Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (1/2011) xác định khá toàn diện và
có hệ thống những vấn đề cốt yếu thuộc nội hàm khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
- “Tương tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toan diện va sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng va phát triển sáng tạo chủ nghĩa.
Mác – Lênin vao điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa va phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; la tai sản tinh thần vô cùng
to lớn va quý giá của Đảng va dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta gianh thắng lợi “.
- Trong định nghĩa này, Đảng ta đã làm rõ được:
+ Một là bản chất cách mạng, khoa học và nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh: Hệ thống
quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản, những vấn đề có tính quy luật của cách
mạng Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam hành động của Đảng và dân tộc.
+Hai là nguồn gốc tư tưởng lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa
Mác – Lênin, giá trị văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại.
+ Ba là giá trị ý nghĩa, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh: tài sản
tinh thần to lớn của Đảng, dân tộc, mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của nhân ta giành thắng lợi
- Dù định nghĩa theo cách nào, thì tư tưởng Hồ Chí Minh đều được nhìn
nhân với tư cách là một hệ thống lý luận.Hiện đang tồn tại hai phương
thức tiếp cận hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
+Tư tưởng Hồ Chí Minh là hê thống tri thức tổng hợp gồm: tư tưởng triết học, tư tưởng kinh
tế, tư tưởng chính trị, tư tưởng quân sự, tư tưởng đạo đức-văn hóa-nhân văn.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh là hê thống các quan điểm về cách mạng Việt
Nam: tư tưởng về vấn đề dân tôc và cách mạng giải phóng dân tôc; về
CNXH và con đường quá đô lên CNXH ở Viêt Nam; về Đảng Công sản Viêt
Nam; về đại đoàn kết dân tôc và đoàn kết quốc tế; về dân chủ và Nhà
nước của dân, do dân, vì dân; về văn hóa và đạo đức,..
.4. Hệ thống nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
- Hệ thống quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung:
+ Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
+ Về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
+Về sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc.
+ Về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân
+Về quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Về phát triển kinh tế và văn văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tư tưởng nhân dân.
+ Về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, trí, công, vô tư.
+ Về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
+ Về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
 Những luận điểm nêu trên là một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ biện chứng của cấu
 Những luận điểm nêu trên là một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ biện chứng của cấu
Những luận điểm nêu trên là một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ biện chứng của cấu
=>Những luận điểm nêu trên là một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ
biện chứng của cấu trúc tư tưởng Hồ Chí Minh.
 Những luận điểm nêu trên là một chỉnh thể thống nhất có mối quan hệ biện chứng của cấu
- Nội dung cốt lõi: Tư tưởng HCM có cấu trúc logic, chặt chẽ. Trong đó nội dung cốt lõi là:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây cũng chính là nội dung cơ bản của con
đường cách mạng dân tộc Việt Nam.
2. Ý nghĩa học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh
a, Nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp học tập, công tác cho sinh viên.
- Thông qua tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho sinh viên nâng cao nhân thức
về vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với đời sống cách mạng Viêt
Nam; làm cho tư tưởng của Người ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của thế hệ trẻ Viêt Nam.
- Thông qua học tâp, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để bồi dưỡng, củng cố cho sinh viên,
thanh niên lâp trường thế giới quan cách mạng trên nền tảng CNMLN và TTHCM; kiên định
mục tiêu đôc lâp dân tộc gắn liền với CNXH ở Viêt Nam.
- Học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức
dân tôc, nhờ đó sinh viên xác định đúng trách nhiêm và nghĩa vụ của mình
đối với quê hương,đất nước, nhân dân.
b.Bồi dưỡng phGm chHt đJo đKc cách mJng và rLn luyện bản lĩnh chính tri
Hồ Chí Minh là nhà đạo đức học, bản thân Người là môt tấm gương đạo
đức cách mạng. Vân dụng TTHCM vào cuôc sống, có đóng góp thiết thực
và hiêu quả cho sự nghiêp cáchmạng theo con đường Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
=>Tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam chomọi hành động của Đảng và của nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta vượt qua muôn trùng
khó khăn để đi đến những thắng lợi có ý nghĩa lịch
sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận, có cấu
trúc lôgic chặt chẽ và có hạt nhân cốt lõi, đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Không chỉ ở Việt Nam mà ở cả nhiều nước trên thế
giới, nhiều chính khách, nhiều nhà nghiên cứu đã nhìn nhận và khẳng định Hồ Chí Minh là
một nhà tư tưởng, một nhà lý luận cách mạng độc đáo. 7 Câu
Câu hỏi 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu, đặc trưng bản
chất, động lực cơ bản của CNXH ở Việt Nam; sự vận dụng của Đảng ta hiện nay. 1. Trả lời gợi ý:
Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam:
Hồ Chí Minh luận chứng cho sự ra đời của CNXH dựa trên các cơ sở sau: o
Sự ra đời của CNXH xuất phát từ quy luật vận động, phát triển
khách quan của lịch sử xã hội loài người, từ nội dung, tính chất
và xu thế vận động tất yếu của thời đại. o
CNXH ra đời chính từ sự tàn bạo của CNTB. Chính sự bóc lột
nặng nề của chủ nghĩa thực dân đã bộc lộ những khuyết tật phi
nhân tính, không thể khắc phục được của CNTB và đó chính là
cơ sở để người lao động ý thức, giác ngộ sứ mệnh của mình đối
với quốc gia dân tộc, chờ thời cơ để vùng dậy, thủ tiêu xiềng xích
thực dân, thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng chính họ thoát
khỏi bất kỳ một hình thức áp bức bóc lột nào, và đây chính là
điều kiện quan trọng nhất để nhân dân thuộc địa giác ngộ về CNXH, CNCS. o
Tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam còn được Hồ Chí Minh
luận chứng trên nhiều góc độ khác: 
Thứ nhất, về phương diện lý luận, Hồ Chí Minh đã kế thừa
tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác -
Lênin để luận chứng một cách toàn diện khả năng đi tới
CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN của nước ta. 
Thứ hai, cơ sở hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một
cuộc cách mạng không phải là lý tưởng, khẩu hiệu được
nêu ra mà là ở quy mô giải phóng quần chúng bị áp bức.
Chỉ có CNXH mới làm được việc đó. 
Dưới góc độ giải phóng, độc lập dân tộc mới chỉ là cấp độ
đầu tiên. Độc lập dân tộc là tiền đề để tiến lên CNXH, đi tới
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. 
Chính vì vậy, trong tư tưởng HCM muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản. Người chủ trương “Làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Việc đặt cách mạng giải phóng dân tộc nằm
trong phạm trù cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với
CNXH, đã khiến quan điểm giải phóng dân tộc của HCM
mang tính toàn diện và triệt để. Đặc trưng bản chất: o
Hồ Chí Minh thống nhất với các nhà kinh điển về CNXH, song Hồ
Chí Minh đã phát biểu một số vấn đề thể hiện quan điểm mới của
Người về CNXH. Con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam theo Hồ
Chí Minh là “không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục
tập quán khác, có lịch sử, địa lý khác”. o
Có thể khái quát các đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội
Việt Nam theo quan điểm của Hồ Chí Minh: 
Thứ nhất, có chế độ chính trị do nhân dân làm chủ, mọi
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. 
Thứ hai, dân giàu nước mạnh, từng bước xóa bỏ bóc lột, bất công. 
Thứ ba, có nền kinh tế phát triển cao gắn liền với sự phát
triển khoa học kỹ thuật. 
Thứ tư, xã hội phát triển ở trình độ cao về văn hóa, đạo đức. 
Thứ năm, CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do
nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản. Đó là một CNXH của dân, do dân, vì dân, là hiện
thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa lịch sử nhân loại. 
Ngoài ra khi nói về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chí Minh còn chỉ rõ chủ nghĩa xã hội là một xã hội có quan
hệ hữu nghị, bình đẳng với các quốc gia dân tộc trên thế
giới, trên tinh thần hữu nghị hợp tác, tôn trọng độc lập, chủ
quyền và hai bên cùng có lợi; CNXH là công trình tập thể
của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng… Động lực cơ bản: o
Để xây dựng và phát triển của CNXH, cần phải huy động
được tất các các nguồn lực, trong đó nguồn lực con người
giữ vai trò quan trọng nhất, xem xét trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá nhân. 
Trên bình diện cộng đồng: 
Động lực của CNXH bao gồm tất cả các tầng lớp
nhân dân, mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo... Xây dựng
CNXH khoogn chỉ là sự nghiệp riêng của công nông
mà là toàn thể dân tộc. CNXH không chỉ là vấn đề
giai cấp mà còn là vấn đề dân tộc. Chỉ xây dựng
thành công CNXH mới tăng cường được sức mạnh
dân tộc, mới giữ vững độc lập dân tộc. 
Để phát huy sức mạnh cộng đồng phải thực hiện đại
đoàn kết dân tộc và phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân trong xây dựng CNXH.  Trên bình diện cá nhân: 
Tác động vào nhu cầu và lợi ích, trước hết là lợi ích
vật chất thiết thân đối với người lao động. 
Tác động vào các động lực chính trị, tinh thần: 
Phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động 
Thực hiện công bằng xã hội 
Sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố
tinh thần khác như văn hóa, đạo đức, pháp
luật, phải nâng cao dân trí, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu... o
Ngoài các động lực bên trong, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tăng cường
đoàn kết quốc tế, gắn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
vô sản, sử dụng tốt các thành quả khoa học kỹ thuật…để thúc
đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. o
Đi đôi với việc khai thông các động lực, Hồ Chí Minh yêu cầu phải
nhận diện và khắc phục các lực cản, và Người đã chỉ ra những
căn bệnh có nguy cơ dẫn đến sự thoái hóa biến chất của một
đảng cầm quyền, tới sự tồn vong của chế độ là: chủ nghĩa cá
nhân; tệ tham nhũng, lãng phí, quan lieu; tệ chia rẽ, bè phái, mất
đoàn kết làm giảm sút uy tín của Đảng, của cách mạng; tệ chủ
quan, bảo thủ lười biếng không chịu học tập cái mới. Vận dụng:
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH trong hoàn cảnh
mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, làm sáng tỏ hơn về CNXH và con đường
đi lên CNXH ở nước ta. Điều này được khẳng định rõ trong cương lĩnh
và văn kiện các đại hội của Đảng. Đảng luôn xác định xây dựng XHCN
ở nước ta là một quá trình của cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, là
sự đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Đảng đã đề ra những phương
hướng và nhiệm vụ để thực hiện thành công mục tiêu CNXH. Câu 2 2
Câu hỏi 2: Quan điểm của Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xác định
bước đi, các bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ ở nước ta; sự vận dụng của Đảng ta hiện nay. Trả lời gợi ý:
Nguyên tắc xác định bước đi:
Hồ Chí Minh nêu lên 2 nguyên tắc có tính phương pháp luận trong việc
xác định bước đi và cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: o
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là hiện tượng phổ biến, mang tính
quốc tế vì vậy phải quán triệt các nguyên lý cơ bản của chu
nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh nghiệm của các nước anh em
nhưng không được giáo, điều máy móc. o
Xác định bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
cần căn cứ vào điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và
khả năng thực tế của nhân dân.
Về bước đi của thời kì quá độ: o
Thứ nhất, ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu. Người giải thích: Chúng ta vừa ra khỏi chiến
tranh, “Nếu để dân đói là chính phủ có lỗi, mọi chính sách của
Đảng không thực hiện được”, “Muốn phát triển công nghiệp, phát
triển kinh tế nói chung thì phải lấy phát triển nông nghiệp làm
gốc, làm chính”; “Phải ưu tiên phát triển nông nghiệp còn bởi vì
chúng ta có “thiên thời” (khí hậu, đất đai), “nhân hòa” (lực lượng
lao động nông nghiệp). Vì vậy, “Trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
ta phải dựa vào nông nghiệp và phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng”. o
Thứ hai, phát triển tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ. o
Thứ ba, phát triển công nghiệp nặng. Biện pháp: o
Muốn bớt mò mẫm, đỡ phạm sai lầm phải học tập kinh nghiệm
các nước anh em, tuy nhiên không được rập khuôn, giáo điều,
sao chép, mà phải học một cách sáng tạo, phải chú ý đến thực tiễn nước ta. o
Phải đi sâu vào thực tiễn để điều tra, khảo sát, từ thực tiễn mà đề
xuất các vấn đề phương pháp cho cách mạng Việt Nam. o
Người nhấn mạnh tới vai trò quyết định của biện pháp tổ chức
thực hiện và nhắc nhở khi soạn thảo và thực hiện kế hoạch phải
thực hiện phương châm: Chỉ tiêu một, biện pháp mười, quyết
tâm hai mươi,... có như thế kế hoạch mới hoàn thành tốt được. o
Thực hiện phát triển kinh tế xã hội hài hòa đảm bảo cho các
thành phần kinh tế, thành phần xã hội đều có điều kiện phát triển. o
Biện pháp cơ bản lâu dài, quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phải “Đem tài dân, sức dân,
của dân mà làm lợi cho dân”. Vận dụng: o
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, tiếp tục con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đổi mới, vì thế, là
quá trình vận dụng và tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chứ
không phải thay đổi mục tiêu. o
Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà
nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, thực
hiện cần kiệm xây dựng CNXH. Câu hỏi 3 3
Câu hỏi 3: Những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng
Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa của nó đối với quá trình xây dựng
Đảng ta trong sạch vững mạnh. Trả lời gợi ý: Luận điểm: o
Đảng CSVN là sản phẩm của sự kết hợp CN Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Khác với CN
Mác - Lênin cho rằng Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết
hợp lý luận của CN Mác - Lênin với phong trào công nhân. Còn
với Hồ Chí Minh, bằng sự vận dụng CN Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể của cách mạng VN, nếu kết hợp CN Mác - Lênin với
phong trào công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn nhỏ
bé, phong trào công nhân còn non yếu, trong khi đó phong trào
yêu nước của nhân dân ta rất mãnh liệt. Bên cạnh hai yếu tố
trên, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ 3 đó là phong trào yêu
nước. Đây là yếu tố có trước và là một phong trào thực sự to lớn,
thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Phong
trào yêu nước với phong trào công nhân có mục tiêu chung là
giải phóng dân tộc, quyền lợi giai cấp công nhân và của toàn thể
dân tộc hòa quyện làm một. Yêu nước chân chính là yêu nước
trên lập trường giai cấp công nhân và chỉ có kết hợp với phong
trào yêu nước của dân tộc, giai cấp công nhân mới có thể đưa
sự nghiệp cách mạng đến thành công. Nói đến phong trào yêu
nước trước hết phải nói tới phong trào yêu nước của nông dân.
Phong trào yêu nước có tới 90% là nông dân - đồng minh tự
nhiên của giai cấp công nhân. Mặt khác, trong phong trào yêu
nước có lực lượng trí thức - nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết
hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng CSVN và là cầu nối đưa
CN Mác - Lênin vào Việt Nam. o
Đảng CSVN - Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời cũng
là của dân tộc Việt Nam. Đây là luận điểm sáng tạo và là điểm
mới của Hồ Chí Minh, bổ sung vào học thuyết Mác - Lênin về
Đảng cộng sản. Bác khẳng định: Trong giai đoạn này, quyền lợi
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là
một. Chính vì Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc
Việt Nam. Luận điểm này chỉ đạo cách thức tổ chức và hoạt động
của Đảng CSVN, làm cho nó gắn bó máu thịt với giai cấp, với
dân tộc. Là nguồn cội của Đảng. Ý nghĩa: o
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng thể hiện quan hệ biện chứng
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Mọi hoạt động cách
mạng của Đảng đều đồng thời giải quyết cả vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. o
Đây là tư tưởng lớn, sáng tạo, cho phép khơi dậy sức mạnh đoàn
kết thống nhất của cả dân tộc, vì lợi ích chung của cả dân tộc.
Nhận thức được vai trò quan trọng của Đảng CSVN với vận
mệnh dân tộc nên Đảng phải phấn đấu, rèn luyện để trở thành
một Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng trên cơ sở lấy dân làm gốc. o
Theo Hồ Chí Minh khi trở thành Đảng cầm quyền, đem lại cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, Đảng phải tăng cường chỉnh đốn lại nội
bộ, khiến Đảng là tổ chức chặt chẽ nhất, tiên tiến nhất của giai
cấp công nhân, là người lãnh đạo của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, song không phải vì thế mà Đảng trở thành vĩ đại. Câu hỏi 4 4
Câu hỏi 4: Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc và vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết ở nước ta hiện nay. Trả lời gợi ý: Khái niệm, vai trò: o
Khái niệm: Đại đoàn kết là một hệ thống các luận điểm, các
nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp để giáo dục, tổ chức,
hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng nhằm phát
huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế
trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội o Vai trò: 
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết
định thành công của cách mạng. 
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc. Nội dung cơ bản: o
Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. 
Khái niệm “dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm mọi
người Việt Nam, là “con dân của nước Việt”, là “mỗi một
con Rồng cháu Tiên”, là không phân biệt “già, trẻ, gái, trai,
giầu, nghèo, quý, tiện”, trong đó đông đảo nhất là công nhân và nông dân. 
Nói tới đại đoàn kết dân tộc là phải tập hợp được tất cả
mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. 
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không phải là một tập hợp
ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời, mà phải là một tập hợp bền
vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức,
có sự lãnh đạo dựa trên một cơ sở lý luận khoa học. 
Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh có phạm vi rộng lớn,
nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ. Trên phạm vi dân tộc, hình
thức tổ chức đoàn kết là Mặt trận dân tộc thống nhất. 
Đại đoàn kết phải dựa trên cơ sở lấy liên minh công nông
và trí thức làm cơ sở, làm trụ cột để đoàn kết toàn dân
trong Mặt trận dân tộc thống nhất. 
Mối quan hệ giữa Mặt trận dân tộc thống nhất với liên minh
công, nông và trí thức là sự phản ánh về mặt tổ chức xã
hội, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai
cấp vì vậy mà không thể tuyệt đối hóa một mặt nào. 
Trong khối đại đoàn kết, Đảng không chỉ là một bộ phận
bình đẳng, mà còn là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của
khối đại đoàn kết dân tộc. o
Phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người. 
Xã hội luôn phải đối diện với nhiều vấn đề phức tạp do lịch
sử để lại, nếu không có lòng khoan dung độ lượng đối với
con người thì không thể khép lại quá khứ, hướng đến
tương lai. Cần phải khoan dung độ lượng thì mới xóa bỏ
được thành kiến, định kiến, chân thành đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. 
Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là lòng khoan
dung rộng lớn trước tính đa dạng của con người. 
Để thực hiện đoàn kết rộng rãi, cần phải có lòng tin vào
nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào
nhân dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là
nguyên tắc tối cao chi phối mọi suy nghĩ và hành động của Người.
Vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết hiện nay: o
Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cách mạng được HCM và
Đảng ta đề ra từ rất sớm, trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
tiến trình cách mạng VN. Hiện nay việc xây dựng khối đoàn kết ở
nước ta đang đứng trước những thuận lời và khó khăn cơ bản: o Thuận lợi: 
Thế giới đang vận động theo chiều hướng các dân tộc trên
thê giới ngày càng xích lại gần nhau hơn, nhân loại ngày
càng nhận thức sâu sắc và khao khát về một xã hội hòa
bình, tiến bộ, hợp tác, cùng phát triển. 
Khoa học phát triển vô cùng mạnh mẽ dã đặt cả thế giới
trước xu thế toàn cầu hóa, góp phần làm tăng cường tình
hữu nghị giữa các dân tộc, tuy cũng chứa đựng khả năng
phân hóa giữa các dân tộc sẽ ngày càng trở nên gay gắt hơn. 
Ở trong nước, chúng ta bước vào thế kỷ mới sau hơn 20
năm đổi mới với hững thành tựu đáng ghi nhận, vị thế của
dân tộc ta trên thê giới được nâng cao rõ nét, niềm tin của
nhân dân vào chính sách đổi mới được giữ vững và tăng cường. o Khó khăn, thách thức: 
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, xu hướng ly khai, chia cắt cũng đang tồn tại. 
Cuộc đấu tranh ý thức hệ vẫn diễn ra dai dẳng, gay gắt,
các thế lực thù địch vẫn muốn tiêu diệt CNXH tới tận gốc. 
Nền kinh tế thị trường cùng với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đặt ra nhiều vấn đề như sự phân hóa giàu
nghèo giữa các tầng lớp dân cư, các vùng..., các hiện
tượng tiêu cực trong xã hội vẫn còn là hiện tượng tương đối phổ biến. o
Việc xây dựng khối đại đoàn kết ở nước ta hiện nay, cần chú ý: 
Mục tiêu chung: khơi dậy tinh thần tự tôn dân tộc, quyết
tâm chấn hưng đất nước, không bỏ lỡ cơ hội, rửa được cái
nhục đói nghèo, lạc hậu, cái nhục tụt hậu xa hơn về kinh
tế, khoa học kỹ thuật, công nghẹ so với các nước trong
khu vực và trên thế giới.  Các nhiệm vụ cụ thể: 
Về chính trị, cần tiếp tục phát triển tư tưởng HCM và
truyền thống phương Đông về “Cầu đồng tồn dị”, xóa
bỏ dần những mặc cảm, những thiên kiến khác
nhau, lấy liên minh công – nông – trí thức là nòng
cốt, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh. 
Về kinh tê – xã hội, phải tạo cho mọi người dân một
cơ hội bình đẳng về pháp luật trong làm ăn kinh tế.
Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển,
khuyến khích làm giàu chính đáng, đi đôi với việc
giúp dân xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa... 
Về chính sách đối ngoại, cần có sự nhận thức đúng
(cả mặt tích cực và tiêu cực) về vấn đề toàn cầu hóa
từ đó xây dựng chiến lược hội nhập của đất nước ta
vào khu vực và thế giới; thực hiện chính sách đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế theo phương châm
“Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước” vì hòa
bình, hợp tác và phát triển, đồng thời có sách lược
mềm dẻo trong các quan hệ đa dạng và phức tạp
của thế giới, đảm bảo cho chúng ta hòa nhập nhưng không bị hòa tan. Câu hỏi 5 3
Câu hỏi 5: Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
kiểu mới ở Việt Nam (làm rõ các luận điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về xây dựng nhà nước, mối quan hệ giữa đạo đức và pháp
luật trong xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam) và sự vận
dụng quan điểm của Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước ta hiện nay. Trả lời gợi ý: Nội dung: o
Xây dựng một nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động: 
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà
nước là chủ trương của Người xây dựng một Nhà nước do
nhân dân lao động làm chủ... Theo Hồ Chí Minh, tất cả mọi
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải ghé vai gánh vác một phần. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì
dân được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây: 
Dân là chủ, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân....
Quyền bính của cán bộ, công chức nhà nước là do
dân ủy nhiệm, giao phó cho. 
Tư tưởng Nhà nước do dân của Hồ Chí Minh được
thể hiện: dân cử ra các đại diện của mình; dân ủng
hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt
động; dân phê bình, xây dựng, tạo điều kiện để Nhà
nước ngày càng hoàn thiện hơn. 
Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải vì nhân dân,
hướng vào việc phục vụ nhân dân. Đem lại quyền lợi
cho nhân dân là mục tiêu cơ bản của Nhà nước ta. 
Cán bộ, công chức nhà nước đồng thời còn là người
lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. o
Tư tưởng về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân
với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước: 
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân. Bởi vì: 
Thứ nhất, nhà nước ta là nhà nước do Đảng Cộng
sản - Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. 
Thứ hai, nhà nước ta tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ - một nguyên tắc cơ
bản thể hiện bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta. 
Thứ ba, mục tiêu hoạt động của Nhà nước ta là đưa
đất nước quá độ lên CNXH. 
Thứ tư, cốt lõi của Nhà nước ta là khối liên minh
giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo. 
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta không làm
triệt tiêu tính nhân dân, tính dân tộc mà thống nhất, hài hòa
trong nhà nước đại đoàn kết dân tộc. Điều này thể hiện: 
Nhà nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài,
gian khổ với sự phấn đấu hy sinh của nhiều thế hệ cách mạng. 
Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích
của dân tộc làm nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí
Minh đứng đầu luôn là chính phủ đại đoàn kết dân tộc. 
Ngay từ khi mới ra đời nhà nước ta đã phải đảm
nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả của cách mạng. o
Tư tưởng về xây dựng một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ: 
Hồ Chí Minh đã ý thức rất sớm về tầm quan trọng của
pháp luật trong quản lý xã hội. Người yêu cầu phải “thay
chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. 
Người đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến. 
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề thực thi hiến pháp, pháp luật trong thực tế. 
Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh phải là nhà nước
quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật
có hiệu lực trong thực tế. 
Những biện pháp cơ bản để xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý. o
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. Để xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, Hồ Chí Minh nhấn mạnh các nội dung sau: 
Tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp 
Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong bộ máy nhà
nước. Người yêu cầu phải chống đặc quyền, đặc lợi và các
tiêu cực khác, giữ cho nhà nước luôn trong sạch, vững
mạnh. Hồ Chí Minh đã giải thích cụ thể về các căn bệnh:
trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo. Theo
Người, không phải cứ dán lên trán hai chữ cộng sản là dân
tin, dân yêu, đừng có vác mặt quan cách mạng mà đặc
quyền đặc lợi, thu vén cá nhân,… 
Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng 
Kiên quyết chống ba thứ "giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí, quan liêu
Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật:
Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng: o
Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội kết hợp, bổ
sung cho nhau trong thực tế trị nước. o
Trong lịch sử, những người được coi là thành công trong sự
nghiệp trị nước đều biết kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cười pháp luật. o
Nhà Nho chủ trương đức trị, nhưng cũng không hề loại bỏ hình
luật; các nhà pháp trị cũng không hề bỏ qua tấm gương của các
ông vua thánh, chúa minh, những vị quan đức độ và kẻ sĩ hiền tài. o
Trong xây dựng nhà nước pháp quyền phải nhấn mạnh tới vai trò
của pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, cần đẩy
mạnh việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân. Đồng
thời cũng phải tránh tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật. Thực tế
chỉ ra rằng pháp luật chỉ phát huy tác dụng đầy đủ khi nó được
hỗ trợ bởi các nhân tố khác, trong đó có vấn đề giáo dục đạo đức. o
Trong 24 năm lãnh đạo nhà nước, Hồ Chí Minh là một tấm
gương mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn chú
trọng giáo dục đạo đức, đồng thời không ngừng nâng cao vai trò,
sức mạnh của pháp luật. Người yêu cầu “phải thẳng tay trừng trị
những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy, làm nghề nghiệp gì.” Vận dụng: o
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch. o
Cải cách toàn bộ bộ máy hành chính Nhà nước, xây dựng một
nền hành chính dân chủ trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả, đủ khả năng hiện thực hoá đường lối lãnh đạo của
Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước trong cuộc sống. o
Tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, gắn việc xây
dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành chính. o
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. o
Xây dựng và đảm bảo một cơ chế làm chủ, nghĩa là tạo ra các
điều kiện cần thiết để nhân dân là lực lượng chủ yếu vận hành
mọi hoạt động trong xã hội. o
Nhân dân lao động là những người làm chủ đất nước. Tuyên
truyền, giáo dục để nâng cao trình độ, ý thức của nhân dân. Câu hỏi 6 3
Câu hỏi 6: Nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh (vai trò
của đạo đức cách mạng, các chuẩn mực và các nguyên tắc rèn
luyện đạo đức mới) và ý nghĩa của nó đối với việc “lập thân, lập
nghiệp” của thế hệ trẻ hiện nay? Trả lời gợi ý:
Vai trò của đạo đức cách mạng: o
“Đạo đức là cái gốc của người cách mạng” 
Đạo đức là tiêu chuẩn hàng đầu của người lãnh đạo trong
điều kiện Đảng cầm quyền. 
Trong tương quan giữa đức và tài, Hồ Chí Minh luôn coi
đạo đức là “gốc”, là “nguồn”, là “nền tảng” là nhân tố “chủ
chốt” của người cách mạng. 
Đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo xã hội cũ thành
xã hội mới, xây dựng mỹ tục thuần phong mà còn giúp
người cách mạng tự hoàn thiện mình và không ngừng phát triển đi lên. o
Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CNXH. Theo Hồ
Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội trước hết ở những
giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản
ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình chiến đấu
cho lý tưởng đó thành hiện thực. o
Một trong những cống hiến đặc sắc, nổi bật nhất của Hồ Chí
Minh là trên lĩnh vực đạo đức cách mạng. Ở Hồ Chí Minh có sự
thống nhất, hòa quyện giữa chính trị, đạo đức, văn hóa, nhân
văn, một nền chính trị rất đạo đức, rất văn hóa và đạo đức, văn
hóa lại rất chính trị. Chính vì vậy, những vấn đề đạo đức được
Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện với mọi đối tượng, trên
mọi lĩnh vực hoạt động của con người.
Các chuẩn mực đạo đức cách mạng: o
Trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất đạo đức bao
trùm, quan trọng nhất và giữ vai trò nền tảng để hình thành và
thực hiện tốt những phẩm chất đạo đức khác. 
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của
đất nước, suốt đời phấn đấu mang lại lợi ích cho nhân dân. 
Hiếu với dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân
chủ, dân nắm mọi quyền hạn, bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
phải thân dân, lấy trí tuệ ở dân, gắn bó, dựa vào dân, kính trọng học hỏi dân... 
Người lãnh đạo phải nắm vững dân tính, hiểu rõ dân tâm,
thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân
trí; giúp dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người
chủ đất nước. Người lãnh đạo được dân tin yêu, quí trọng
sẽ tạo được sức mạnh to lớn cho cách mạng. o
Yêu thương con người, sống có tình nghĩa 
Tình yêu thương con người trước hết dành cho những
người cùng khổ, người lao động. 
Nghiêm khắc với mình mà rộng lượng, tôn trọng, nâng
người khác lên, chứ không được hạ thấp hay vùi dập con người. 
Tình yêu thương con người còn được thể hiện ở tấm lòng
bao dung đối với những người có sai lầm khuyết điểm,
nhưng đã nhận rõ và quyết tâm sửa chữa sai lầm khuyết
điểm, kể cả những người đã lầm đường lạc lối. 
Dũng cảm đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ cái thiện trong cuộc sống. o
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đây là những phẩm
chất cần thiết đối với con người Việt Nam trong suốt quá trình
đấu tranh cách mạng đặc biệt là trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch,
sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực
cánh sinh, không lười biếng, không ỉ lại, không dựa dẫm. 
Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi... 
Liêm là trong sạch, không tham lam... tham tiền của, tham
địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon là bất liêm. 
Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì
không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. 
Chí công vô tư “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, là lòng
mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào, “phải lo
trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. o
Tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết,
thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất
cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ
trên toàn cầu, chống lại sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và
phân biệt chủng tộc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh,
biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền…
Các nguyên tắc rèn luyện đạo đức mới: o
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức 
Nói đi đôi với làm là phương pháp tu dưỡng là phải gắn lời
nói với hành động trong thực tiễn, mọi lúc, mọi nơi, mọi
hoàn cảnh, là nguyên tắc rèn luyện đạo đức quan trọng bậc nhất. 
Nêu gương đạo đức là một nguyên tắc rèn luyện đạo đức,
đồng thời là cơ sở để phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức cũ. 
Hồ Chí Minh yêu cầu đạo làm gương phải được quán triệt
trong tất cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực. o
Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi 
Phải kết hợp giữa xây và chống là vì không phải “người
người đều tốt, việc việc đều hay”, Người yêu cầu phải kiên
quyết chống ba loại kẻ thù nguy hiểm: tư tưởng thực dân
đế quốc, thói quen lạc hậu và chủ nghĩa cá nhân. 
Người yêu cầu, với từng người, trước hết phải chiến thắng
lòng tà trong mình, phải phê phán, đấu tranh loại bỏ những
hiện tượng phi đạo đức, tàn dư đạo đức cũ. 
Về quan hệ giữa chống và xây, Hồ Chí Minh chỉ rõ chống
là nhằm để xây, chống đi liền với xây, lấy xây làm chính,
lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau. o
Tu dưỡng rèn luyện đạo đức suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng 
Theo Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng không phải tự nhiên
mà có, nó chỉ hình thành trong quá trình rèn luyện, phấn đấu suốt đời. 
Trong lĩnh vực đạo đức, chỉ cần lơi lỏng việc, tu dưỡng, rèn
luyện một phút, giây là con người đã có thể sa ngã, biến
chất, có thể hủy hoại một cuộc đời, một sự nghiệp đã nhiều
năm phấn đấu, rèn luyện gian khổ trước đó và gây ra
những hậu quả tai hại cho sự nghiệp cách mạng. 
Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự
nguyện tự giác, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư
luận của quần chúng. Người khẳng định làm cách mạng thì
khó tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, song vấn đề là phải cố
gắng sửa chữa sai lầm khuyết điểm. Ý nghĩa: o
Tôn vinh, nâng cao giá trị của bản thân còn tạo ra sức mạnh nội
sinh giúp họ vượt qua khó khăn, thử thách. o
Kiên trì tu dưỡng đạo đức Hồ Chí Minh, định hướng cho bản thân
có phương hướng rèn luyện phấn đấu. o
Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, sinh viên sẽ phải ra
sức học tập, ra sức tăng gia sản xuất, làm cho tổ quốc mỗi ngày
càng giàu mạnh thêm, phát triển khoa học kĩ thuật. o
Hiểu rõ và ý thức: “đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà cần
hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”, phải cống hiến cho nước nhà nhiều hơn. o
Chống lười biếng, coi khinh lao động, sống khoe khoang. Câu hỏi 7
Câu hỏi 7: Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
chiến lược “trồng người”. Trả lời gợi ý:
Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người:
Phương pháp tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề con người có thể
được nhìn nhận dưới những khía cạnh sau: o
Người xem xét con người như một chỉnh thể, đa chiều: con
người luôn có xu hướng vươn tới cái chân - thiện - mỹ, mặc dù
“có thế này, thế khác”; con người trong sự thống nhất của hai
mặt đối lập: thiện - ác, hay và dở, tốt và xấu nhưng “dù là xấu,
tốt, văn minh hay dã man đều có cái tình”. o
Người xem xét con người trong tính lịch sử, cụ thể của nó. Người
xem xét con người trong các quan hệ xã hội, giai cấp, giới tính,
lứa tuổi, nghề nghiệp…đó là con người cụ thể, hiện thực, cảm tính, khách quan. o
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
khẳng định: Bản chất con người mang tính xã hội. Con người
vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử. Khi nói về con
người, bao giờ Hồ Chí Minh cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cộng sản cao đẹp: 
Một là, sự cảm thông hết sức sâu sắc với những đau khổ
của người nô lệ và người cùng khổ. 
Hai là, quyết tâm hy sinh chiến đấu để giải phóng con
người và đem lại tự do và hạnh phúc cho con người. 
Ba là, tin tưởng tuyệt đối ở khả năng tự giải phóng của con
người và không ngừng rèn luyện, phát huy khả năng ấy.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người: o
Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. 
Con người là sức mạnh đầu tiên và cũng là mục tiêu cuối
cùng của cách mạng, vì vậy con người là vốn quý nhất,
phải hết sức bảo vệ con người như bảo vệ sinh mệnh của cách mạng. 
Con người là vốn quý nhất, cho nên, phải hòa bình trong
độc lập tự do là nguyện vọng thiêng liêng nhất của con
người. Mục tiêu của cách mạng là phải giành cho kỳ được
độc lập, tự do và một nền hòa bình chân chính. 
Mọi việc trong xã hội từ nhỏ đến lớn, từ gần đến xa đều do
con người làm ra trong đó nhân dân là chủ thể của lịch sử,
người sáng tạo ra lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân, có dân là có tất cả. o
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. 
Mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại
tự do, hạnh phúc cho con người. Mọi chủ trương, đường
lối, chính sách của Hồ Chí Minh và Đảng ta đều nhằm mục
tiêu giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. 
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân vì vậy
mà “Phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân’’
và “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con
người xã hội chủ nghĩa”, “Có dân thì có tất cả”. 
Con người chỉ trở thành động lực của cách mạng khi họ
được giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo và định hướng hành
động đúng đắn. Vì vậy việc phát huy động lực con người
phải gắn liền với việc nâng cao vai trò lãnh đạo đúng đắn
của đảng cộng sản và những người cán bộ cách mạng. 
Giữa con người - mục tiêu và con người - động lực có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con
người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người -
động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại tăng cường được sức
mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt
được mục tiêu của cách mạng.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người”: o
“Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng. 
Hồ Chí Minh luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của sự
phát triển vì vậy mà trồng người, bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau và công việc đối với con người... là
những việc làm rất quan trọng, rất cần thiết và là những
việc phải làm đầu tiên. Người rất quan tâm tới sự nghiệp
giáo dục đào tạo, rèn luyện con người. 
Hồ Chí Minh yêu cầu phải đặt ra nhiệm vụ, ngay từ đầu
xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu
cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn
xã hội. Con người mới xã hội chủ nghĩa phải là con người
kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
đồng thời phải hình thành nên những phẩm chất mới như:
có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, có đạo đức xã hội chủ nghĩa,
có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ, có tác phong xã hội chủ
nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng… 
Xây dựng con người phải toàn diện, có đủ đức tài trong đó
đức là gốc, vì vậy, sự nghiệp trồng người phải bắt đầu từ
việc xây dựng nền tảng đạo đức. o
Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận
hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Để thực
hiện chiến lược “trồng người” phải coi trọng sự nghiệp giáo dục - đào tạo. 
Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng con người một cách
toàn diện trên tất cả các mặt đức, trí, thể, mỹ...Trong đó bồi
dưỡng trí tuệ, nhân cách đạo đức là điều quan trọng có ý
nghĩa hàng đầu và xuyên suốt sự nghiệp cách mạng. 
Trong chiến lược “trồng người”, gia đình, nhà trường và xã
hội đóng vai trò rất quan trọng. Mục đích, nội dung và
phương pháp giáo dục có ý nghĩa quyết định tới công dân,
tới đội ngũ cán bộ tương lai tốt hay không tốt. Người khẳng
định nêu gương là một phương pháp tốt trong quá trình giáo dục con người. o
“Trồng người” là công việc “trăm năm”, do đó không thể nóng
vội, không phải làm một lúc là xong, cũng không được tuỳ tiện
đến đâu hay đó. Việc nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý
nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người,
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Bộ câu hỏi tự luận và đáp án môn Tư tưởng Hồ Chí Minh ( TTHCM )
C1:Hãy trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 5 giai đoạn
1. Từ 1890-1911: thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng
cách mạng. Bác tiếp thu truyền thống dân tộc, hấp thụ vốn văn hoá
Quốc học và Hán học, tiếp xúc với văn hoá phương Tây, chứng kiến
cuộc sống khổ cực của đồng bào. Bác nảy ý định đi tìm đường cứu
nước, sang phương Tây tìm hiểu xem thế giới làm gì rồi trở về giúp đồng bào mình.
2. Từ 1911-1920: thời kỳ tìm tòi con đường cứu nước giải phóng dân
tộc. Năm 1911, Bác sang Pháp, sau đó sang Anh, Mỹ. Năm 1913,
Người từ Mỹ quay lại Anh tham gia công đoàn thuỷ thủ Anh. Năm
1917, Người từ Anh lại sang Pháp vào lúc nổ ra cách mạng Tháng
Mười Nga, Pa-ri sôi động tìm hiểu cách mạng tháng Mười. Năm
1919, Nguyễn Ái Quốc ra nhập Đảng xã hội Pháp. Tháng 8/1919,
Bác gửi bản yêu sách của nhân dân An-nam đến hội nghị Véc-xay.
Đại hội XVIII Đảng xã hội Pháp thảo luận vấn đề gia nhập Quốc tế
III, ngày 30/12/1920 Hồ Chí Minh biểu quyết tán thành Đảng cộng
sản Pháp, trở thành người cộng sản. Giai đoạn này đánh dấu sự
phát triển vượt bậc thế giới quan của Hồ Chí Minh từ giác ngộ chủ
nghĩa dân tộc đến giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ chiến sĩ chống
thực dân trở thành chiến sĩ cộng sản Việt Nam.
3. Từ 1921-1930: thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường cách mạng Việt Nam: vừa khoa học vừa thực tiễn. Hồ
Chí Minh đã hoạt động thực tiễn và lý luận phong phú trên địa bàn
Pháp như: tích cực hoạt động trong ban nghiên cứu thuộc địa của
Đảng xã hội Pháp, xuất bản tờ Le Paria nhằm truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam (từ 1921-1923). Năm 1923-1924, tại Liên-
Xô, dự đại hội Quốc tế Nông dân, dự đại hội V Quốc tế cộng sản.
Năm 1924, Bác về Quảng Châu, tổ chức Việt Nam thanh niên cách
mạng, mở lớp huấn luyện cán bộ. Năm 1925, tác phẩm “Bản án chế
độ thực dân Pháp” được xuất bản tại Pa-ri. Năm 1927, Bác xuất bản
tác phẩm “Đường Kách Mệnh”. Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ
trì hội nghị hợp nhất và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Người
trực tiếp thảo văn kiện “Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của
Đảng”. Ngày 3/2/1930, Hồ Chí Minh trở thành nhà tư tưởng theo
đúng nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam được
hình thành cơ bản. Có thể tóm tắt nội dung chính của những quan
điểm lớn, độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam như sau:
– Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
– Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật thiết với nhau.
– Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mạng”, đánh đuổi
đế quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do.
– Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tập hợp lực lượng
dân tộc thành một sức mạnh to lớn chống đế quốc và tay sai.
– Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế.
– Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải đoàn kết dân tộc, phải tổ
chức quần chúng, lãnh đạo và tổ chức đấu tranh bằng hình thức và khẩu hiệu thích hợp.
– Cách mạng trước hết phải có đảng lãnh đạo, vận động và tổ chức quần
chúng đấu tranh. Đảng có vững cách mạng mới thành công…
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh trong
những năm 20 của thế kỷ XXđược truyền bá vào Việt Nam, làm cho phong
trào dân tộc và giai cấp ở nước ta là phong trào tự giác.
4. Từ 1930-1945: thời kỳ thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu
cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền dân tộc cơ bản.
Đây là thời kỳ thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh cả về phương diện lý luận
và phương diện thực tiễn. Khẳng định quan điểm của Hồ Chí Minh về con
đường cách mạng Việt Nam là đúng đắn. Thời kỳ này Hồ Chí Minh và Quốc
tế cộng sản mâu thuẫn trong nhận thức về liên minh các lực lượng cách
mạng, Hồ Chí Minh đã giữ vững quan điểm cách mạng của mình, vượt qua
khuynh hướng “tả” của Quốc tế cộng sản, lãnh đạo cách mạng Việt Nam
thắng lợi. Điều này phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức
sống của tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Từ 1945-1969: thời kỳ phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và kiến quốc.
Đây là thời kỳ mà Hồ Chí Minh cùng trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta
vừa tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có bước phát triển mới:
– Tư tưởng kết hợp kháng chiến với kiến quốc, tiến hành kháng chiến kết hợp
với xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau.
– Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
– Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
– Xây dựng Đảng Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền…
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành trên cơ sở khoa học và cách mạng, có quá
trình trưởng thành liên tục trong đấu tranh cách mạng chống kẻ thù, chống
nhận thức chưa phù hợp giữa trong nước và quốc tế về cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam trong
thời đại mới, là nhọn cờ thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh
vì độc lập, tự do, vì giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một chân lý, có ý nghĩa lớn trong những năm đầu thế kỷ XXI này.
C2:Hãy nêu phương pháp nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh?
– Về phương pháp luận:
+ Phải đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác Lênin để xem xét mọi
vấn đề liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Thống nhất giữa tính Đảng vô sản và tính khoa học.
+ Phải kết hợp phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc
+Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở nắm vững phép duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng nguyên lý kế
thừa và phát triển sáng tạo.
+Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả,
phân tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn.
+Học tập phương pháp của Hồ Chí Minh: gắn lý luận với thực tiễn trong quá
trình cách mạng Việt Nam; lý trí cách mạng với tình cảm cao đẹp.
C3: Chứng minh rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của các dân tộc
vừa mang tính cách mạng, khoa học vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Tính khoa học
+Hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc
sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không
thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập
thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà
bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo
vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và
độc lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tính cách mạng
+Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh thấy rõ mối quan
hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp của
giai cấp vô sản. “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
CNCS và của cách mạng thế giới”.
+ Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc khác. Hồ Chí Minh
không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho tất cả
các dân tộc bị áp bức. “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các
dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”. Chủ nghĩa dân tộc thống
nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần tự
quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình trong
việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở một Tính nhân văn sâu sắc
Thương yêu con người, thương yêu nhân dân.
+ Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự.
Độc lập trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn
lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định.
Theo Hồ Chí Minh độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc
địa và theo nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc
Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can
thiệp nào từ bên ngoài. Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự
do, hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng
ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ
no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách
mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng
liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với Tuyên ngôn độc lập của
Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1791, Người đã
khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái
Quốc đấu tranh để đòi các quyền cho nhân dân An Nam:+ Tất cả các dân tộc
trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc lập trên tất cả các
mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của
chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông
Dương như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế
bằng chế độ đạo luật.
Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự
do báo chí, hội họp, tự do cư trú … Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay
mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản
yêu sách của nhân dân An-nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam.
Bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn
bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc- làm cách mạng,
muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng của bản thân mình.
Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế quốc
Pháp và phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng
Tháng 8 thành công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng
định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.
C4: Vì sao Hồ Chí Minh lại khẳng định: Đảng là nhân tố quyết định hàng
đầu để đưa cách mạng Việt Nam tới thắng lợi.
1.Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hơn 7 thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân
ta đã vượt qua một chặng đường đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, gian
khổ nhưng đã giành được những thắng lợi rất vẻ vang:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của
nhân dân, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễnViệt Nam và
bối cảnh quốc tế mới.
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc
địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế
theo con đường xã hội chủ nghĩa, cóquan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày
càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô
lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam giành
được trong hơn 7 thập kỷ qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố
hàng đầu quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta-
Đảng Cộng sảnViệt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện –
một Đảng cách mạng thực sự vì nước, vì dân, ngoài lợi ích đó Đảng không có
lợi ích nào khác. Giành độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân là
mục tiêu lý tưởng của Đảng. Vì vậy, vượt lên mọi thách thức, trong phong ba
bão táp, Đảng ta vẫn kiên định vững vàng không xa rời mục tiêu lý tưởng,
không run sợ trước kẻ thù, không nhụt chí trước những khó khăn chồng chất,
không hạ thấp vị trí tiên phong chiến đấu và trách nhiệm của người lãnh đạo,
người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng, một lòng một dạ phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân.
2. Đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng – nhân tố hàng
đầu bảo đảm vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ
trương, chính sách của Đảng. Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết
thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân, tạo nên sức mạnh
của Đảng và của cách mạng.
Đường lối chính trị đúng đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu
thế vận động của lịch sử, đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân
chính của đa số nhân dân. Sức mạnh của Đảng chính là sự đồng tình ủng hộ
của nhân dân, mà sự đồng tình và tin cậy của nhân dân đối với Đảng trước
hết nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy
lùi những khuynh hướng sai lầm về chính trị và tư tưởng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.
Sở dĩ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn vì: Đảng có một nền tảng lý
luận vững chắc, một lý luận tiên phong dẫn đường, đó là chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như Lênin đã nói: “Không có lý luận cách
mạng không có phong trào cách mạng…” Chỉ Đảng nào có được một lý luận
tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên
phong. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nắm vững, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn
của cách mạngViệt Nam để đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với sự phát
triển của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Hơn thế nữa, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng
tạo, chân lý là cụ thể. Vì vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng
một cách độc lập, sáng tạo vào thực tiễnViệt Nam . Một trong những bài học
được Đảng ta rút ra là phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tế,
kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt, sáng tạo
về phương pháp, đó là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Mọi sự giáo điều, chủquan duy ý chí, xa rời thực tiễn cũng như xa rời các
nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của cách mạng thì sẽ dẫn đến nguy cơ sai lầm,
làm mất sự lãnh đạo của Đảng.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách mạng và
năng lực công tác, thật sự là những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Mỗi đảng viên của Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, trung thành với lợi ích của
giai cấp và của dân tộc, một đời hy sinh phấn đấu vì lý tưởng của cách mạng
và lợi ích của nhân dân.
Để giữ vững vai trò lãnh đạo, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, lấy tự phê bình và
phê bình làm vũ khí đấu tranh để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh. Đồng
thời, luôn củng cố, giữ vững và tăng cường sự đoàn kết trong Đảng, đảm bảo
sự nhất trí cao về mục tiêu lý tưởng của Đảng, để làm cho Đảng ngày càng
vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo, bên cạnh
những ưu điểm, trong Đảng cũng còn những yếu kém, thậm chí có lúc sai
lầm, khuyết điểm, song điều quan trọng, Đảng đã sớm phát hiện ra những
yếu kém của mình. Đảng công khai tự phê bình nhận khuyết điểm trước nhân
dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được
nhân dân tin yêu, thừa nhận là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo duy
nhất của dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định rằng: ở nước ta, ngoài
Đảng Cộng sản Việt Nam, không có lực lượng nào khác có đủ sức mạnh lãnh
đạo cách mạng. Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng
ta vẫn có quyền tự hào nói rằng: Đảng ta thật vĩ đại.
Học tập, nghiên cứu để hiểu biết về quá trình đấu tranh cách mạng và truyền
thống của Đảng không phải chỉ để tự hào về Đảng, mà quan trọng hơn là
thanh niên cần nâng cao hơn nữa niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức
phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, để công cuộc đổi mới
giành thắng lợi to lớn hơn. Trên những vị trí công tác, lao động và học tập của
mình, thanh niên phải góp phần tích cực vào công tác xây dựng, bảo vệ
Đảng, góp phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; ra sức học
tập, rèn luyện phấn đấu để trở thành những đảng viên của Đảng, đem tài
năng và sức trẻ cống hiến cho sự nghiệp của Đảng, làm cho những thành tựu
và truyền thống của Đảng ngày càng phát triển và phong phú hơn.
C5: Vì sao phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vào
sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta. Vì các lý do sau đây
1.Khơi dậy CN yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn lực mạnh mẽ nhất để
xây dựng và bảo vệ tổ quốc:
Trong đổi mới Đảng ta luôn khẳng định tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế độc lập dân tộc
và CNXH nhằm tạo ra nguồn lực mới để phát triển đất nước. Trong đó cần
phát huy tối đa nguồn nội lực, nhất là nguồn lực con người (trí tuệ, truyền
thống dân tộc, vốn, tài nguyên) kiên quyết không chịu nghèo hèn, thấp kém,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vững bước tiến lên CNXH.
2. Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm của giai cấp CN:
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao chủ nghĩa yêu nước nhưng
luôn vững vàng trên lập trường giai cấp CN trong giải quyết vấn đề dân tộc.
Đảng ta luôn khẳng định: Giai cấp CN Việt Nam là giai cấp độc quyền lãnh
đạo CM Việt Nam từ khi có Đảng . Đại đoàn kết nhưng phải trên nền tảng liên
minh công nông trí thức do giai cấp CN lãnh đạo. Trong giành, giữ chính
quyền phải sử dụng bạo lực CM của quần chúng chống lại bạo lực phản CM.
Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH: Đây là nguyên tắc bất biến cần
vận dụng mọi hoàn cảnh.
(Phong trào CM thế giới có lúc tả, có lúc hữu, lúc nhấn mạnh lợi ích giai cấp
coi nhẹ lợi ích dân tộc, gần đây lại gạt bỏ lợi ích giai cấp, tuyệt đối hơn lợi ích
dân tộc, từ bỏ CM, từ bỏ CN quốc tế vô sản. Đảng ta vẫn khẳng định: Dù Liên
Xô, Đông Âu tan rã, thế giới biến động, đấu tranh giai cấp dân tộc diễn ra
dưới nhiều hình thức khác, nhưng không được buông lơi quyền lợi giai cấp,
nhấn mạnh lợi ích dân tộc làm suy yếu phong trào CM thế giới, tan rã CNXH,
bùng phát xung đột dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ là làm giàu cho bọn lái súng,…)
Cần chống lại quan điểm cho rằng đất nước đi theo con đường nào cũng
được, không nhất thiết độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, CNXH là lý tưởng
nhưng là không tưởng, ép ta từ bỏ CNXH, đa nguyên chính trị, từ bỏ sự lãnh
đạo của Đảng để có tự do tư sản.
Đảng ta khẳng định xây dựng CNXH vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh” không chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là vấn
đề dân tộc, ở Việt Nam chỉ có Đảng CS Việt Nam mới là đại biểu cho lợi ích
giai cấp CN,nhân dân lao động và dân tộc, mới xây dựng được khối đại đoàn
kết thực hiện mục tiêu nêu trên những lệch lạc tư tưởng tả hoặc hữu đều trái
với tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Chăm lo xây dựng khối đại đòan kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam:
Trong đổi mới, Đảng ta lấy mục tiêu dân giàu nước mạnh… làm điểm tương
đồng, đồng thời cũng chấp nhận những điểm khác nhưng không trái với lợi
ích dân tộc (5 ngón tay có ngón dài ngón vắn, nhưng dù dài vắn đều hợp lại
nơi lòng bàn tay), giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh để
hoàn thành mục tiêu trên.
ĐH 9 chỉ rõ: vấn đề dân tộc và đại đoàn kết luôn có vị trí chiến lược trong CM
Việt Nam. Bác Hồ chỉ rõ: Đồng bào miền núi có truyền thống cần cù trong CM
và kháng chiến, đã có nhiều công trạng vẻ vang và oanh liệt. Người chỉ thị
phải chăm lo phát triển KT-XH vùng dân tộc miền núi, thực hiện đền ơn đáp nghĩa với đồng bào.
Những năm đổi mới vừa qua, đời sống các vùng dân tộc có những chuyển
biến rõ rệt, song nhìn chung còn nghèo, khó khăn còn nhiều, sắp tới phải đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế hàng hóa , xóa đói nghèo,
nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ, chống kì thị dân tộc, tự ty dân tộc, dân tộc hẹp hòi.
C6: Chứng minh: Không có gì quý hơn độc lập, tự do hay còn có gì quý hơn độc lập tự do?
Là một người dân của một đất nước độc lập, ta đã tìm, đọc, hiểu được rằng
tự do và độc lập đã phải đổ xương máu bao thế hệ thế và còn hơn thế nữa.
Là dân nước nô lệ đi tìm đường cứu nước, nhiều lần chứng kiến tội ác dã
man của CN thực dân đối với đồng bào mình và các dân tộc bị áp bức trên
thế giới, người thấy rõ một dân tộc không có quyền bình đẳng vì dân tộc đó mất độc lập, tự do.
Muốn có bình đẳng dân tộc thì các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng
khỏi chủ nghĩa thực dân. Nên độc lập dân tộc phải thể hiện ở 3 điểm sau:
Dân tộc đó phải được độc lập toàn diện về chính trị, kinh tế, an ninh, toàn vẹn
lãnh thổ và quan trọng nhất là độc lập về chính trị.
Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia phải do người dân nước đó tự quyết định.
Nền độc lập thực sự phải được thể hiện ở cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân.
Vì thế, nền độc lập của Việt nam phải theo nguyên tắc nước Việt nam của
người Việt Nam, mọi vấn đề về chủ quyền quốc gia phải do người dân Việt
Nam tự quyết định, không có sự can thiệp của nước ngoài.
Quyền độc lập, bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, quý giá nhất và bất
khả xâm phạm. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là lẽ sống, là triết lý Cách
mạng Hồ Chí Minh và của dân tộc VIệt Nam. Đó cũng là nguồn cổ vũ to lớn
đối với các dân tộc bị áp bức, đấu tranh cho một nền độc lập tự do, thống
nhất đất nước, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của người dân.
KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO
Trương Đình Lãm (1945 – 2000)
Toàn dân ta hân hoan xây dựng vùng Giải phóng
Toàn dân ta reo vui dưới cờ cách mạng
Dân ta quyết không bao giờ làm nô lệ
Dân ta quyết một lòng đánh đuổi xâm lăng
Cờ Giải phóng sẽ bay trên trời Sài Gòn
Tình Bắc Nam nối lại trong một ngày
C7: Bằng kiến thức tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội được liên hệ với cuộc sống của bản thân,
hãy phác thảo những nét lớn về cuộc sống trong tương lai của bạn và
phương hướng thực hiện.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là:
1. Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của
Người là mục tiêu giành độc lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho
nhân dân, làm cho nhân dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”. Để thực hiện mục tiêu đó cần thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính vì mục
tiêu cao cả đó, Người đi tìm đường cứu nước và đã tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp
giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.
2. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xó hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Người đã chỉ ra rằng: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người đã giải quyết đúng
đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại. Những tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một
đòi hỏi thực tiễn bức xúc: Phải chống chủ nghĩa thực dân, phải gắn liền cách
mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Con đường để giữ vững độc
lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con đường đi lên xã hội chủ
nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực. Độc lập
dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã
hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh.
3. Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, Hồ Chí Minh đã đưa vai trò của nhân dân lên tầm cao mới:
Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là người chủ thực sự của đất nước;
coi nhân tố con người là nguồn lực cơ bản tạo nên sức mạnh vô địch để
kháng chiến, kiến quốc. Người thường nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu;
khó vạn lần dân liệu cũng xong. Sức mạnh của nhân dân được nhân lên gấp
bội khi thực hiện được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên nền tảng liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam.
Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công”..
4. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.
Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN. Dân chủ là mục tiêu, là động lực của
cách mạng XHCN. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong nhân dân là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước là công
cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Do đó, Hồ Chí
Minh coi trọng việc xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, của dân, do
dân, vì dân. Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, có tính dân tộc
và nhân dân sâu sắc do Đảng lãnh đạo, hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, thống nhất quyền lực; đội ngũ cán bộ Nhà nước phải có đức, có tài,
phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là công bộc của nhân dân,
vì nhân dân mà phục vụ. Để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng
phí, quan liêu. Coi tham ô, lãng phí, quan liêu là ba thứ “giặc nội xâm” rất nguy hiểm.
5. Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách
mạng, Hồ Chí Minh luôn coi bạo lực cách mạng là sức mạnh tổng hợp của
nhân dân, bao gồm các hình thức: Chính trị, quân sự và sự kết hợp giữa
chính trị và quân sự. Trong quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền, giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh việc chăm lo xây dựng lực lượng
chính trị, phải chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thực hành chiến tranh nhân
dân với sức mạnh tổng hợp. Người nhấn mạnh: Quân sự phải phục tùng
chính trị, lấy chính trị làm gốc. Quân đội ta là quân đội nhân dân, từ nhân dân
mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, quân đội ta là đội quân chính trị, đội quân
chiến đấu, đội quân công tác. Lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
6. Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân
dân. Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự
do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì! Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
7. Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Hồ Chí Minh luôn chăm lo giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và mọi người
dân về phẩm chất đạo đức cách mạng. Người đặt lên hàng đầu tư cách
“Người cách mệnh” và bản thân Người cũng là một tấm gương sáng về đạo
đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Người coi đạo đức
như là gốc của cây, là nguồn của các dòng sông. Người cộng sản mà không
có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Cốt
lõi của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là trung với nước,
hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do, vì CNXH.
8. Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Người coi bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng
và rất cần thiết “Vì lợi ích mười năm trồng cây; vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Người nói: Đảng cần phải chăm lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho
họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”.
9. Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng,
Đảng có vững cách mạng mới thành công. Đảng muốn vững phải có chủ
nghĩa chân chính làm cốt, chủ nghĩa như trí khôn của người, như la bàn của
con tầu. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Muốn vậy, Đảng phải trong sạch, vững mạnh về mọi
mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, kiên định mục tiêu, lý tưởng; có đường lối
cách mạng đúng đắn; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thực
hành tự phê bình và phê bình; thực sự đoàn kết nhất trí; mỗi đảng viên phải
không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ để thật sự xứng đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, xứng
đáng với niềm tin yêu của quần chúng nhân dân.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi
đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng
Việt Nam đã vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó
khăn, do đó mỗi người cần nghiên cứu, học tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và
pháp luật của Nhà nước để kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng: Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, như Bác Hồ hằng mong muốn.
Hãy trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức
của con người Việt Nam trong thời đại mới? ý nghĩa của quan điểm này
đối với công cuộc chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu ở nước ta hiện nay?
A.Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới
a. Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với
nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo
đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống
Việt Nam và phương Đông, xong có nội dung hạn hẹp. “Trung với vua, hiếu
với cha mẹ”, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ
Chí Minh đã vận dụng và đưa vào nội dung mới. Hồ Chí Minh đã kế thừa
những giá trị đạo đức truyền thống và vượt trội. Trung với nước là trung thành
với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ
của đất nước. “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì
dân”. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định
hướng chính trị- đạo đức cho mỗi người Việt Nam.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng,
đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với
Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung
thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng.
Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí
để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
– Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
– Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
– Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung của hiếu với dân là:
– Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
– Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực
hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
– Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng
suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ
lại, không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn
hạnh phúc của con người.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân
dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to;
“Không xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi,”
Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không
tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ
có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm
là:… cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của
riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp
việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Cụ
Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng
tham lợi thì nước sẽ nguy.
Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc.
Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn
kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái
độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn,
không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:
“TrờI có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng
viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách
mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững
mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm
người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân,
phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết
vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. Thực hành chí
công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
“phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên
hạ chi lạc nhi lạc). Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì
mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí
Minh viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại,
có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến
và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí
công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững
vàng qua mọi thử thách : “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể
chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. c. Yêu thương con người
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân
nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân
loại qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình
yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị
áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn
độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành. Chỉ có tình yêu thương con người bao la đến như vậy mới có cách
mạng, mới nói đến CNXH và CNCS.
Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả
những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt
đẹp trong mỗi con người. Bác căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành.
Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn
trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh
thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó
là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ
trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào
mục tiêu lớn của thời đại hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. B.Ý nghĩa
Từ sự phân tích sâu sắc những biểu hiện, bản chất, nội dung, nguồn gốc của
tham ô, lãng phí, quan liêu, => những biện pháp nhằm chống các căn bệnh tệ
hại này một cách có hiệu quả:
Thứ nhất, phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thứ nhì, phải dựa vào quần chúng, phát động quần chúng tích cực tham gia
đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu và thực hành tiết kiệm.
Thứ ba, phải hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, đào tạo và nâng cao trình
độ của đội ngũ cán bộ.
Thứ tư phải tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra và xử lý kỷ luật
nghiêm minh những tập thể, cá nhân vi phạm.
Thứ năm, thường xuyên chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, đảng viên. Để thực hiện
có hiệu quả cần coi trọng và tiến hành đồng bộ các biện pháp. Người yêu
cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của
nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần
đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”.
Phân tích khái niệm “con người” trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự
nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ
đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là thành
viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản
thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể
Tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất
của “cái cá nhân” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương
con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân
con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người
của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh
đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng
nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con
người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực
tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết
định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.