


Preview text:
1. Phát sinh chất thải rắn trên thế giới
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ phát sinh CTR sinh hoạt trung
bình toàn cầu khoảng 0,74 kg/người/ngày, trong đó ở quốc gia thấp nhất là 0,11
kg/người/ngày, cao nhất là 4,54 kg/người/ngày. Tổng khối lượng CTR đô thị
phát sinh trên toàn cầu vào khoảng 2 tỷ tấn năm 2016, trong đó nhiều nhất là ở
khu vực Đông Á-Thái Bình Dương với 468 triệu tấn (~23%) và thấp nhất là
Trung Đông và Bắc Phi với 129 triệu tấn (~6%). Ước tính tổng khối lượng các
loại CTR có thể vào khoảng 7-10 tỷ tấn/năm 2016. Dự báo CTR đô thị sẽ tăng
lên 2,59 tỷ tấn năm 2030 và 3,4 tỷ tấn năm 2050, trong đó tốc độ tăng nhanh
nhất ở các khu vực châu Phi cận Sahara, Nam Á và Trung Đông (Silpa K. et al, 2018).
Ở Việt Nam, lượng CTR sinh hoạt phát sinh khoảng khoảng 25,5 triệu tấn năm
2018, trong đó CTR sinh hoạt đô thị khoảng 38.000 tấn/ngày và CTR sinh hoạt
nông thôn - khoảng 32.000 tấn/ngày (TCMT, 2019). CTR sinh hoạt ở các đô thị
hiện chiếm hơn 50% tổng lượng CTR sinh hoạt của cả nước và chiếm khoảng
60-70% tổng lượng CTR đô thị (Bộ TNMT, 2017). Dự báo lượng CTR sinh hoạt
ở Việt Nam sẽ tăng lên 54 triệu tấn vào năm 2030 (Ngân hàng Thế giới, 2019).
Thời gian qua, chất thải nhựa đang nổi lên như là vấn đề môi trường bức xúc,
được sự quan tâm của cả thế giới do những tác động đến môi trường. Ước tính
tổng lượng chất thải nhựa phát sinh khoảng 242 triệu tấn, chiếm 12% lượng
CTR đô thị toàn cầu (Silpa K. et al, 2018). Ở nhiều nước, chất thải nhựa không
được quản lý tốt, đã và đang được xả thải ra các đại dương, gây nhiều tác động
xấu đối với môi trường và hệ sinh thái biển. Năm 2015, Jambeck và cộng sự đã
nghiên cứu CTR tại 192 quốc gia ven biển và đưa ra ước tính hàng năm, khoảng
4,8-12,7 triệu tấn chất thải nhựa được thải ra đại dương. Trong đó, Việt Nam
được xếp thứ 4 trên thế giới về lượng chất thải nhựa trên biển (chỉ sau Trung
Quốc, Indonesia và Phillipines) với ước tính khoảng 0,28-0,73 tấn/năm (Jambeck et al, 2015).
2. Thực trạng quản lý chất thải rắn trên thế giới
a) Phân loại và thu gom, vận chuyển
Tỷ lệ CTR đô thị được thu gom thay đổi theo mức thu nhập của các quốc gia,
theo đó, thu nhập của quốc gia càng cao thì tỷ lệ thu gom CTR càng cao. Cụ thể,
tỷ lệ thu gom CTR ở các nước thu nhập cao và các nước Bắc Mỹ đạt gần 100%.
Các nước thu nhập trung bình thấp có tỷ lệ thu gom trung bình khoảng 51%,
trong khi ở các nước thu nhập thấp, tỷ lệ này chỉ khoảng 39%. Ở các nước thu
nhập trung bình thấp, tỷ lệ thu gom đạt 71% ở các đô thị và 33% ở khu vực nông
thôn. Tỷ lệ bao phủ dịch vụ thu gom ở các nước Châu Á – Thái Bình Dương
trung bình đạt khoảng 77% ở đô thị và 45% ở nông thôn (Silpa K. et al, 2018).
Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt ở đô thị đạt khoảng 85,5% và
ở nông thôn – khoảng 40-55% năm 2018 (TCMT, 2019), cao hơn mức bình
quân của các nước thu nhập trung bình thấp trên thế giới. b) Tái chế CTR
Theo nghiên cứu của UNEP năm 2015 và Ngân hàng Thế giới 2018, tỷ lệ tái chế
CTR đô thị tăng đều trong 30 năm qua ở các nước thu nhập cao, trung bình đạt
khoảng 29%. Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ CTR đô thị được tái chế ước tính
thấp hơn 10%, cụ thể là chỉ khoảng 6% đối với nhóm nước thu nhập trung bình
thấp. Tái chế kim loại, giấy, nhựa được triển khai mạnh mẽ, trong đó Trung
Quốc, Ấn Độ… là các nước tái chế nhiều nhất. Trước 2018, Trung Quốc nhập
khẩu 60% nhôm phế liệu, 70% giấy tái chế, 56% nhựa phế liệu (UNEP, ISWA,
2015; Silpa K. et al, 2018). Tuy nhiên, từ 2018, Trung Quốc đã thực hiện hạn
chế nhập khẩu phế liệu để tái chế.
Ước tính khoảng 84% chất thải điện tử trên toàn cầu được tái chế, phần lớn được
thực hiện ở các nước đang phát triển (như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam…),
với giá trị vật liệu của chất thải điện tử toàn cầu ước tính khoảng 48 tỷ Euro năm
2014 (Balde et al, 2015). Các loại chất thải trong nông nghiệp, chăn nuôi thường
được tái chế thành năng lượng ở các dạng bioga. Chất thải xây dựng được tái
chế tỷ lệ cao ở các nước phát triển, đạt đến 99% ở Nhật Bản, New Zealand. (UNEP, ISWA, 2015). c) Xử lý/tiêu hủy CTR
Tính trung bình trên toàn cầu năm 2016, có 70% lượng CTR sinh hoạt được xử
lý/tiêu hủy bằng phương pháp chôn lấp, trong đó 33% bằng các bãi chôn lấp các
loại và 37% bằng các bãi đổ lộ thiên; có 19% CTR sinh hoạt được tái chế và làm
phân compost, còn lại 11% được tiêu hủy bằng phương pháp đốt. Các nước thu
nhập cao áp dụng chôn lấp hợp vệ sinh, tái chế và đốt thu hồi năng lượng tương
ứng với 39%, 29% và 22% lượng CTR. Các nước thu nhập trung bình thấp đang
chôn lấp khoảng 84% (trong đó đổ lộ thiên 66%, chôn lấp 18%). Tỷ lệ đốt thu
hồi năng lượng ở các nước thu nhập trung bình cao đã tăng nhanh, lên 10% năm
2016 do sự chuyển đổi ở Trung Quốc.
Bài viết gốc: Tổng quan về quản lý chất thải rắn trên thế giới và một số giải pháp cho Việt Nam
Tài liệu tham khảo của bài viết gốc:
- Silpa K., L. Yao, P. Bhada-Tata and F. Van Woerden, What a Waste 2.0 A
Global Snapshot of Solid Waste Management to 2050, World Bank, 2018. (What
a Waste 2.0 : A Global Snapshot of Solid Waste Management to 2050)
- UNEP, ISWA (2015). Global Waste Management Outlook. (Global Waste
Management Outlook (2015) | International Environmental Technology Centre)
- Baldé, C. P., Wang, F., Kuehr, R., & Huisman, J. (2015). The global e-waste
monitor-2014. United Nations University, IAS – SCYCLE, Bonn, Germany.
(The Global E-waste Monitor 2014: Quantities, flows and resources - UNU Collections)
- Tổng cục Môi trường (TCMT) (2019), Tài liệu Hội thảo “Mô hình quản lý và
công nghệ xử lý CTR sinh hoạt” ở Việt Nam ngày 08/5/2019.
- Bộ TNMT (2017), Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia - Quản lý CTR.
(File “Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia, quản lý rác thải - 2017)
- Ngân hàng Thế giới (2019), Đánh giá công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt
và chất thải công nghiệp nguy hại – Các phương án và hành động nhằm thực
hiện chiến lược quốc gia. (file)
Current status of waste pollution and water pollution in Vietnam – Center for
Environment and Community Research