-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Top 15 mẫu phân tích bài thơ Đồng chí hay nhất | Ngữ văn 9
Đồng chí là một trong những bài thơ hay nhất của tác giả Chính Hữu khi viết về đề tài người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bố cục bài thơ Đồng chí được chia ra 3 đoạn đã mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực nhất về tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng và cao quý. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Dàn ý phân tích bài thơ Đồng chí I. Mở bài
- Giới thiệu tác phẩm: Đồng Chí, tác giả: Chính Hữu.
- Hoàn cảnh sáng tác: đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc. II. Thân bài
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí
- Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
● “Anh” ra đi từ vùng "nước mặn đồng chua", "tôi" từ miền "đất cày lên sỏi đá".
● Hai miền đất xa nhau và "đôi người xa lạ" nhưng cùng giống nhau ở cái "nghèo".
● Hai câu thơ giới thiệu thật giản dị hoàn cảnh xuất thân của người lính: Họ
là những người nông dân nghèo.
- Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát
cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu"
● Họ vốn "chẳng hẹn quen nhau" nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn
kết họ lại với nhau trong hàng ngũ quân đội cách mạng.
● "Súng" biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, "đầu" biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ.
● Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nên âm điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự
gắn kết, cùng chung lý tưởng, cùng chung nhiệm vụ.
- Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải "chung
chăn". Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở
thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành "đôi tri kỷ".
=> Sáu câu thơ đầu đã giải thích cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí giữa
những người đồng đội. Câu thơ thứ bảy như một cái bản lề khép lại đoạn thơ một để mở ra đoạn hai.
2. Những biểu hiện của tình đồng chí
- Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau. Những
người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
● Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê
hương: ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa. Từ "mặc kệ"cho thấy
tư thế ra đi dứt khoát của người lính.
● Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt
trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.
- Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính:
Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến
chống pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày, sự
khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ, trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ,
nói cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Nhưng những người lính vẫn cười
bởi họ có hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội "thương nhau tay nắm lấy bàn tay".
Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở "chân không giày" và thời
tiết "buốt giá". Cặp từ xưng hô "anh" và "tôi" luôn đi với nhau, có khi đứng chung
trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau diễn tả sự gắn bó,
chia sẻ của những người đồng đội.
3. Hình ảnh biểu tượng cho tình đồng chí
- Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng một hình ảnh thơ thật đẹp:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính "đứng cạnh
bên nhau chờ giặc tới". Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau
trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái
căng thẳng của những giây phút "chờ giặc tới". Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ,
giúp họ vượt lên tất cả...
- Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: "Đầu súng trăng treo". Đó là một hình ảnh thật
mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya.
- Nhưng nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa.
● "Súng" biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. "Trăng" biểu
tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn.
● Hai hình ảnh "súng" và "trăng" kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng
đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình
ảnh ấy mang được cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến - một nền thơ
giàu chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn.
● Vì vậy, câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả một tập
thơ - tập "Đầu súng trăng treo".
=> Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính. III. Kết bài
- Tóm tắt các ý đã phân tích. - Liên hệ bản thân.
2. Sơ đồ tư duy bài Đồng chí
3. Phân tích bài Đồng chí ngắn gọn
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đã tôi rèn lên biết bao nhà thơ
mặc áo lính. Một trong số đó phải nhắc đến nhà thơ Chính Hữu. Xuất thân từ người
nông dân áo vải miền biển, chính vì vậy các vần thơ của Chính Hữu giản dị và gần
gũi dễ đi vào lòng người đọc. Và một trong số các tác phẩm tiêu biểu nhất của
Chính Hữu khi viết về đề tài người lính chính là tác phẩm Đồng chí. Bài thơ là một
bức tranh đẹp về tình đồng chí đồng đội trong thời kì kháng chiến gian khổ.
Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân
đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ cua thời kì kháng chiến chín năm.
Họ là những người xuất thân là nhân dân lao động chỉ quen việc "cuốc cày" ở
những vùng quê hẻo lánh khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp
nhau từ xa lạ bỗng trở thành đồng đội thân quen. Chính Hữu đã kể về những con
người ấy bằng những lời thơ thật cảm động:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau."
Ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì lạ ở những người chiến sĩ.
Đó là sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội ta. Từ những con người
rất “xa lạ" trong đời sống lại trở thành những đồng chí rất thân thương trong chiến
đấu. Nhà thơ đã chọn lựa những chi tiết, những hình ảnh thơ rất chân thực để gợi tả
về cuộc sống của người chiến sĩ. Họ xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo
khó "nước mặn đồng chua", “đất cằn lên sỏi đá”. Thật là thú vị, nhà thơ không nói
hai người xa lạ mà là “đôi người xa lạ". Đôi là chỉ hai đối tượng cùng đi với nhau.
"Đôi người xa lạ" nghĩa là hai người cùng đi với nhau mà lại là xa lạ. Vì thế ý thơ
được nhấn mạnh thêm. Hình ảnh những phương trời xa cách, những con người
chẳng hẹn quen nhau nói lên cả một sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng
khi tham gia kháng chiến, những con người xa lạ ấy đã cùng nhau chiến đấu, cùng
chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế, họ trở thành thân nhau,
hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là "đồng chí”:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!"
Câu thơ vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng “súng bên súng, đầu sát bên
đầu". Tác giả đã tả thực những giờ phút bên nhau cùng chiến đấu đồng thời hình
ảnh ấy còn tượng trưng cho sự nghiệp chiến đấu chung, lí tưởng cách mạng chung
của quân đội ta. Câu thơ giúp ta hiểu thêm "đôi người xa lạ" ấy đã nảy nở một tình
cảm mới khi họ cùng chiến đấu vì một lý tưởng lớn lao. Tình cảm ấy thật thân
thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang tuôn liền mạch nhẹ nhàng bỗng bị ngắt nhịp
đột ngột. Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu
trúc thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản
nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ: “Đồng chí”
- một tiếng nói thiêng liêng. “Đồng chí” một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong
quan hệ tình cảm. Thế là thành "đồng chí”.
Tình cảm ấy lại được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề cận
bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện “ruộng nương gửi bạn thân
cày”, "gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ
người ra lính... Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng - Các anh chiến sĩ mỗi
người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi
ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ. Các anh lại cùng chia ngọt
sẻ bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả, họ lại tìm dược niềm vui,
niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những
lúc cùng chịu với nhau từng cơn ớn lạnh", những lúc “sốt run người vầng trán ướt
mồ hôi". Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu "áo anh"
có “rách vai”, quần tôi có “vài mảnh vá", dẫu trời có "buổi giá" thì miệng vẫn cười
tươi. Bằng những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc sống chiến đấu
gian khổ và sự gắn bó của tình đồng đội keo sơn. Tình cảm chân thành tha thiết ấy
không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng “thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Thật
giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất của cải, không phải là những lời
hoa mĩ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí là "bàn tay nắm
lấy bàn tay". Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng lièng
cao đẹp của mối tình đồng chí. Đoạn thơ với nhiều nét tả thực chi tiết mà không trần
trụi, vẫn gợi cảm nhờ hình ảnh "anh với tôi" gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm
động "thương nhau" nhưng không biết làm sao, chỉ biết lặng lẽ “tay nắm lấy bàn
tay". Chỉ có những con người cùng chung ý chí và lí tưởng cao cả mới có những
biểu hiện tình cảm đáng quý như thế.
Mối tình đồng chí lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài thơ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo”
Câu thơ vừa tả thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính đi
phục kích giặc trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng về phía trước, có ánh
trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời hình ảnh "Đầu súng
trăng treo" còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực
và lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang tính chiến đấu lại vừa
mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình
cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí, đang nảy nở, vươn cao, tỏa
sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị
cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp lí tưởng chiến đấu và mối tình
đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.
Qua ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái quát cao, Chính Hữu
đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm cách mạng trong quân đội, ở
đây, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực cuộc sống của những
người chiến sĩ, không phô trương, không lãng mạn hóa, thi vị hóa. Và chính những
nét thực đó tạo nên sự thành công của bài thơ "Đồng chí” đánh dấu một bước ngoặt
mới trong phương pháp sáng tác về cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong giai đoạn chống Pháp.
Đọc bài thơ "Đồng chí", mỗi chúng ta đều lắng lại những cảm xúc dào dạt. Chúng ta
đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ nhàng tha
thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng
lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế nhưng mỗi lần
đọc lại bài thơ “Đồng chí” ta như thấy rõ hình ảnh của anh bộ đội Cụ Hồ hiện lên
sáng rực thật cao đẹp, thật thân thương trong những lời thơ của Chính Hữu.
4. Phân tích bài thơ đồng chí học sinh giỏi
Tình cảm là thứ quan trọng nhất đối với mỗi con người. Nó như dòng nước ngọt
ngào chảy dọc trong ống nhựa tắm mát tâm hồn ta, tưới nước cho cái hạt giống tinh
thần bên trong ta nảy nở. Thiếu đi cái ngọt ngào của tình cảm, tả sẽ chỉ như cái ống
nước rỗng ruột, khô cứng, tâm hồn ta sẽ chẳng khác gì hoang mạc cằn khô nứt nẻ.
Tình cảm trong chiến tranh, trong những mưa bom bão đạn, những khói lửa mịt mù
lại càng đáng nhớ hơn, nó thể hiện sự gắn bó, yêu thương không điều kiện, đồng
cam cộng khổ vượt qua những chông gai của cuộc chiến. Thứ tình cảm thiêng liêng
ấy không gì khác chính là tình đồng chí. Nhà thơ Chính Hữu đã viết về tình cảm cao
đẹp ấy, đồng thời tái hiện lài một cách chân thực hình ảnh người lính chống Pháp,
qua bài thơ “Đồng chí” của ông.
Chính Hữu sáng tác thơ không nhiều nhưng trong số đó lại có những bài đặc sắc,
với cảm xúc dồn nén, dồi dào, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc. Hoạt động quân đội
trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, là một trong số những
chiến sĩ tham gia chiến đấu vì độc lập dân tộc, vì giải phóng miền Nam nên thơ ông
hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Bài “Đồng chí” được ông sáng tác sau
thắng lợi vẻ vang của quân ta trong chiến dịch Việt Bắc với niềm hân hoan tột độ và
sự thăng hoa cảm xúc của tác giả khi nhân dân ta thắng được bọn thực dân được
trang bị vũ khí hiện đại bằng tinh thần dân tộc, lòng yêu nước ngút cao và tình đồng
đội, đồng chí keo sơn gắn bó. Chính điều đó đã làm cho “Đồng chí” tuy có nói về
những thiếu thốn cơ cực của người lính nhưng vẫn chứa đầy sự lạc quan và ấm áp
tình người. Kể về hai người lính bộ đội cụ Hồ đến từ những vùng miền khác nhau,
tác phẩm đã làm nổi bật lên mối giao cảm khắng khít giữa họ khi cùng nhau đứng
trên một trận tuyến, cùng chống lại một kẻ thù chung. Và cái đưa đến mối giao cảm
đặc biệt giữa họ ấy, chính là tình đồng chí.
Xuyên suốt bài thơ nổi bật lên giọng thơ mộc mạc nhưng trữ tình, chân chất mà gợi
cảm. Từ mỗi hình ảnh, mỗi câu thơ đều tập trung vào miêu tả tình đồng chí, tình
đồng đội của những người lính. Hầu hết họ đều là nông dân, dưới ánh mặt trời rạng
soi của cách mạng mới khoác lên mình màu áo quân nhân, mới ra đi tìm lại độc lập
tự do cho dân tộc. Quê hương của họ đều không phải là nơi làng quê trù phú:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
“Anh” đến từ vùng đất phèn nước mặn, “tôi” lại đến từ nơi có thiên nhiên cằn cỗi. Kết
cấu sóng đôi, đối ứng và thành ngữ “nước mặn đồng chua” đã nói rõ tất cả về quê
hương của “anh” và xóm làng của “tôi”. Hai con người khác nhau từ những nơi chốn
khác nhau lại có cùng điểm chung: đều xuất thân từ miền quê nghèo khó, lam lũ.
Chính điểm chung về cảnh ngộ ấy đã dẫn đến tình giai cấp giữa nhưng người bộ
đội, đồng thời là mảnh đất màu mỡ cho hạt giống của tình đồng chí nảy nở, phát
triển. Tiếng gọi của Tổ quốc đã đưa những con người từ mọi miền đất nước, từ các
phương trời “xa lạ” đền gần nhau, để họ được cùng đứng trong một hàng ngũ quân
đội, để cùng “chẳng hẹn” mà lại quen nhau:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
“Anh với tôi đôi người xa lạ”. Từ đôi được tác giả sử dụng thay cho từ đồng nghĩa
“hai” lại có tác dụng, có giá trị biểu đạt rất lớn. Đã là “đôi” tức là lúc nào cũng gắn bó
chặt chẽ, lúc nào cũng hiểu lẫn nhau, và sợi dây tình cảm lúc nào cũng bền chặt,
thắm thiết. Cách dùng từ ngữ giản dị, không hoa mĩ này của tác giả như một lời
khẳng định, khẳng định tình thân, sự gắn bó giữa hai người lính, cái đẹp đẽ của tình
người – tình đồng chí. “Anh với tôi” tưởng như “chẳng hẹn” nhưng thật ra là có hẹn:
chung lòng yêu nước nồng nàn, chung ước mong, ý chí diệt giặc, chung trong một
đơn vị; tưởng chừng “xa lạ” nhưng lại rất thân quen: đến từ hai miền quê khác nhau
nhưng cùng sống trên mảnh đất Việt Nam, cùng chảy trong người dòng máu Việt
Nam, là đồng bào của nhau, để rồi quen, để rồi trở thành bạn tốt:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
“Tri kỉ” là người bạn tốt, người này luôn hiểu thấu tâm sự của người kia. Sự nghiệp
chung của đất nước đã xóa nhòa lằn ranh địa lý, khác biệt về văn hóa, đã đưa hai
con người “xa lạ” đến đứng cảnh nhau trên mặt trận, nâng tình đồng cảm giải cấp
giữa họ trở thành tình tri kỉ. Giữa hai người lính đã không còn khoảng cách nữa,
không còn xa lạ nữa, tất cả như hòa làm một, đằng sau những khẩu súng sát cạnh,
những mái đầu tựa vào nhau, và đằng sau những tấm chăn đắp chung. Tác giả sử
dụng cấu trúc sóng đôi độc đáo trong câu thơ, cùng cách miêu tả hàm súc: “Súng
bên súng, đầu sát bên đầu”. Nếu như “súng bên súng” nói về cái chung về hoàn
cảnh, kẻ thù, chung một trận tuyến, một khao khát độc lập tự do thì “đầu sát bên
đầu” còn là cái chung về tâm tư, tình cảm, sự quyện hòa tâm hồn của đôi bạn tâm
giao. Hình ảnh giàu cảm xúc đó còn cả ngợi sự đoàn kết giữa hai anh bộ đội cụ Hồ:
trong chiến đấu gian khổ vẫn kề vai sát cánh, trong khó khăn đời lính thì chia cho
nhau từng lời tâm sự, san sẻ cho nhau hơi ấm chung chăn trong đêm khuya giá rét.
Cái chăn đắp chung ấy có lẽ không chỉ là chiếc chăn bình thường, mà là chiếc chăn
của tình đồng đội, chiếc chăn ấm nồng sưởi nóng tâm hồn người lính trong cái rét
buốt da thịt triền miên, cái lạnh lùng vô tình của súng ống đạn bom. Đắp chung
chăn, anh và tôi cùng chia nhau hơi ấm tâm hồn, tiếp thêm cho nhau sức mạnh tinh
thần để rồi thêm nữa sự mạnh mẽ, cứng rắn. Tiếng gọi quê hương mới thật tha thiết
làm sao! Nó đã khiến “đôi người xa lạ” có thể trở thành “đôi tri kỉ”. Một hình ảnh đối
lập đẹp đến nao lòng. Bạn tri kỉ thật sự không dễ kiếm, có khi cả đời vẫn không tìm
được một ai. Vậy mà hai anh lính lại thành tri kỉ của nhau, gắn bó với nhau nhanh
chóng như vậy, bất chấp chiến trường nhiều kẻ địch, đường rừng lắm chông gai.
Phải chăng khi đứng giáp ranh giữa sự sống và cái chết của chiến tranh, khi quên
cả bản thân mình vì lợi ích chung, con người ta mới có những tình cảm tự nhiên và
sâu sắc đến vậy? Phải chăng khi đất nước hoạn nạn, đứng trước nguy cơ đánh mất
độc lập tự do thì tình bạn, tình tri kỉ mới sớm nảy nở nơi hai con người “xa lạ”? Câu
thơ với hình ảnh giản dị mà gợi cảm. Đắp chăn chung, hai người bộ đội đã như anh
em một nhà, chia ngọt sẻ bùi, tình thân thắm thiết đến mức không thể diễn tả nổi.
Nói đến cái lạnh buốt của đêm rừng nhưng người đọc vẫn cảm nhận được hơi ấm
tỏa ra từ ngọn lửa mang tên “tình đồng đội” trong sâu thẳm trái tim, hơi ấm mà cả
người lính lẫn người đều chẳng thể nào quên được: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp
cùng”. Đó chính là cơ sở vững vàng, là nguồn cội của tình đồng chí.
Và, như một phép màu, sự đồng cảnh, đồng cảm, đồng giai cấp, đồng tâm tư đã
hóa thành tình cảm cao quý thiêng liêng giữa hai anh, họ gọi nhau bằng cái tên chung: Đồng chí!
Câu thơ từ bảy, tám từ đột ngột rút lại thành hai tiếng “đồng chí” tha thiết, dâng trào
cảm xúc. Không chỉ đóng vai trò là tiếng gọi quân đội trang nghiêm mà đó còn là
tiếng gọi chân thành từ sâu thẳm con tim người lính chiến, là tiếng gọi reo vui của
hai con người cùng chung chí hướng, cùng chung lý tưởng, mục đích khi đứng dưới
lá cờ Cách mạng; không chỉ là danh từ mà còn là một tính từ bộc lộ tình cảm, niềm
xúc động xen lẫn lòng từ hào. Xúc động trước tình bạn tri giao cao đẹp, không lợi
dụng, tính toán, hai người bạn gắn bó với nhau vô điều kiện, bởi cả hai có rất nhiều
điểm chung: từ xuất thân, cảnh ngộ đến lòng căm giặc đến chung một tình cảm, một
tấm chăn. Tự hào khi tình cảm cao đẹp nay đã được nâng lên thành một thứ thiếng
liêng và quý giá hơn: tình đồng chí. Là kết tinh, tinh hoa của mọi thứ: tình người, cao
hơn tình người là tình giai cấp, cao hơn tình giai cấp là tình bạn, tình tri kỉ, và trên cả
tình tri kỉ chính là tình đồng chí. Hai tiếng “đồng chí” mới thiêng liêng làm sao, mới
tha thiết làm sao. Gọi nhau là “đồng chí”, anh với tôi dương như không còn nữa
những khác nhau về văn hóa, sự chênh lệch tuổi tác, những e dè của hai con người
đến từ hai phương trời khác biệt. Các cá thể khác nhau như quyện hòa làm một, trở
thành một khối với tình đoàn kết vững chắc. Tuy chỉ có hai tiếng ngắn ngủi nhưng
câu thơ lại đóng vai trò quan trọng trong bố cục toàn bài. Nó đánh dấu cột mốc mới
trong mạch cảm dúc của tác giả, bao hàm nhiều suy nghĩ sâu xa, nhiêu tư tưởng
mang tầm triết lý. Như nét chấm phá tuyệt vời trong bức tranh thủy mặc, như nốt
nhạc nhấn âm trong bản giao hưởng bằng lời thơ, hai tiếng “đồng chí” đã đem lại
cho bài thơ trữ tình người lính một kết cấu mạch lạc chỉ có ở văn thơ chính luận. Tất
cả đã làm cho giọng thơ như xao xuyến hơn, lời thơ như lưu luyến hơn, và bản hòa
ca bất tận của tình người trở nên sâu sắc hơn, lắng đọng hơn.
Tình đồng đội chân thành đã giúp các anh lính vượt qua bao khó khăn, bao nỗi nhớ về quê hương, làng xóm:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Cô đơn giữa núi rừng thăm thẳm, hai anh bộ đội đã tâm sự với nhau về những ngổn
ngang trong tâm tư. Là những người lính dũng cảm kiên cường trong chiến đấu, bất
khuất truóc kẻ thù nhưng họ cũng là những con của làng quê mộc mạc, chân chất,
bình dị. Và đã là người con của quê hương, xóm làng thì không ai đi xa mà lại không
luôn nhớ về. Người chiến sĩ cũng vậy. Họ đã gác lại cái yên bình ấm êm của bản
thân để ra đi cho niềm vui chung của toàn dân tôc. Nhưng bên trong những người
lính chiến ấy có ngày nào nguôi ngoai nỗi nhớ về vùng đất thân thương? Ở đó có
gian nhà, có mảnh ruộng, khu vườn_những gì quan trọng nhất đối với người nông
dân. Nhưng giờ đây, đối với anh trai làng mặc áo lính, không còn gì quan trọng hơn
sinh mệnh của đất nước, như Bác Hồ đã nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”,
anh đã tạm quên cái quý giá của cuộc đời mình để ra đi bảo vệ cái quý giá của đất
nước giang sơn. Ruộng nương được anh gửi lại cho người bạn thân cày . Và gian
nhà… tác giả Chính Hữu mới tài tình làm sao khi dùng chữ “không” khi miêu tả trong
“gian nhà không”. Gian nhà không nhiều vật dụng, đơn sơ vì cái nghèo quay quắt
lan tỏa vào đời sống từng người trong khoảng thời gian khó khăn ấy của đất nước;
nhưng từ không mà nhà thơ sự dụng lại không thảm thương bi đát như sự thực của
nó, cũng không lạc quan hóa quá đáng cái khổ mà vừa phải, vừa giàu sức gợi hình,
vừa mang tính gợi cảm. Ngôi nhà trống không vì đơn sơ, nay lại càng trống trải vì
vắng bóng người trai cần cù tháo vát nhưng anh vẫn “mặc kệ” để lên đường nhập
ngũ. Hai chữ “mặc kệ” hay chính là lòng quyết tâm, thái độ dứt khoát mạnh mẽ của
anh lính với lòng yêu nước trào dâng. Và cũng chính lòng yêu nước đã làm cho hình
tượng người lính cao cả như một vị anh hùng: dốc sức vì nước, không so đo, khư
khư giữ lấy hạnh phúc cho riêng mình. Một sự hi sinh thầm lặng và vô cùng đáng quý.
Nhưng cho dù dứt khoát ra đi như vậy, anh trai làng ở trận tuyến vẫn không thể
quên được hình bóng quê nhà thân thương:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng “Giếng nước gốc đa” vốn là biểu tượng đẹp của làng
quê Việt Nam, nay còn là cội nguồn của nỗi nhớ thương xuất phát từ hai chiều.
“Giếng nước gốc đa” không đơn thuần là cảnh vật quê hương mà còn là người thân,
cha mẹ, anh em, họ hàng, là tất cả những người quan trọng trong cuộc đời người bộ
đội. Dù “người ra đi đầu không ngoảnh lại” mặc cho “sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
(Nguyễn Đình Thi) nhưng trong lòng “người ra đi” ấy vẫn đau đáu nhớ về cái “thềm
nắng lá rơi đầy” quen thuộc, cũng như anh chiến sĩ dù “mặc kệ” cả căn nhà, bỏ lại
cả ruộng nương nhưng bên trong anh, ngọn lửa nhớ thương chưa bao giờ bị dập
tắt. Nhưng đó là nỗi nhớ từ nơi nao, là “giếng nước gốc đa” nhớ người đi hay chính
là nỗi nhớ cồn cào khôn nguôi của người đi về “giếng nước gốc đa”? Người đi lính
nhớ về người ở lại, kẻ ở lại lại nhung nhớ người ra đi; người ra trận luôn hướng tầm
mắt về nơi quê nhà, người ở quê nhà lại luôn dõi theo bước chân người ra trận.
Cùng một nỗi nhớ nhưng lại hằn sâu nơi cả hai miền kí ức. Hậu phương ủng hộ tiền
tuyến, luôn hướng về tiền tuyến, còn tiền tuyến lại như mạnh mẽ hơn trước niềm tin
mãnh liệt của hậu phương. Một hình ảnh chân thực và cảm động. Qua đó, hình
tượng người lính hiện lên thật anh hùng, mạnh mẽ dút khoát trước tiếng gọi của non
sông, song vẫn rất giàu tình nghĩa khi nhớ mãi về quê hương, nhà cửa, về người
thân, bạn bè. Có lẽ trong lòng anh chiến sĩ vẫn còn day dứt hình ảnh mẹ già lúc tiễn con ra trận: Chiều nay con ra trận Lòng mẹ thương
Nhưng thôi tình chẳng bận Đi đi mẹ lắng tin chờ (Chế Lan Viên)
Và lời hỏi “Bao giờ trở lại. Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong” (Hoàng Trung Thông)
nên cái hình bóng quê hương mới thật đậm sâu rõ nét như vậy. Chất đầy nỗi nhớ và
niềm tin, hành trang ra trận của người lính như đầy hơn bao giờ hết.
Bên cạnh điểm tựa tình cảm vững vàng mang tên “quê hương” một lòng sâu sắc,
người lính còn có thêm điểm tựa chắc chắc với tình bạn, tình đồng chí, cùng nhau
vượt qua những khó khăn đời lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Một bức tranh hiện xúc động hiện lên trước mắt ta, đầy rẫy những gian khổ chông
gai như chính cuộc đời người lính. Câu thơ đang vươn dài bỗng rút ngắn, âm điệu
thơ bỗng trở nên chậm rãi, trầm lắng, như khiến tâm hồn người đọc cũng như chùng
xuống trước bạo nhọc nhằn mà người bộ đội phải trải qua. Ra đi từ làng quê nghèo
khổ, các anh lại gặp thêm cái nghèo nàn nơi quân đội. Mấy câu thơ thôi mà phản
ánh được một thực trang, một thời kì khó khăn của cả nước. Đất nước ta nghèo do
bị thực dân bóc lột, và vì đất nước nghèo nên con người, và đến cả quân đội cũng
nghèo theo. Bằng phép liệt kê và giọng điệu thơ bùi ngùi trầm lặng, Chính Hữu đã
kể về những thiếu thốn của quân đội và của người lính Việt lúc bấy giờ: thiếu lương
thực, thuốc men, thiếu cả quân trang, quân phục. Kể sao cho xiết hằng hà sa số
những khó khăn kham khổ của các anh chiến sĩ thuở kháng Pháp? Từ những đợt
sốt rét quái ác hành hạ cơ thể con người, dù mình “ớn lạnh”, “sốt run người” nhưng
vầng trán lại “ướt mồ hôi”; đến bộ quần áo rách tả tơi vì dầm mưa dãi nắng, vì gai
cào xước chỉ. Ta bỗng nhớ lại hai câu thơ:
Phi sốt rét bất thành bộ đội
Phi áo vá bất thành bộ đội
mà thấy cay cay làm sao! Trong đời bộ đội có mấy ai là chưa từng nếm qua mùi vì
đắng ngắt của căn bệnh sốt rét đâu, có mấy ai mà quần áo vẫn lành lăn sau bao
ngày xông pha chốn rừng thiêng nước độc đâu. Nhưng, mới thật kì diệu, người lính
oai dũng vẫn không hề bị quật ngã bởi những cay cực nhọc nhằn. Nguồn cội của
sức mạnh kì diệu đó chính là tình đồng chí, tình đồng đội keo sơn khắng khít giữa
hai người. Cùng nhau trải qua gian lao cay đắng, khó khăn tưởng như quá lớn
không thể vượt qua đã được chia đôi trong khi sức mạnh tinh thần của họ lại được
nhân lên nhiều lần sức mạnh tinh thần nâng lên lại thúc đẩy sức mạnh thể xác đi
đến ngưỡng cao hơn. Từ “biết” mà nhà thơ sử dụng đã nói lên tất cả sự chia chia
ngọt sẻ bùi của người lính. Tôi biết anh khi đang trong “cơn ớn lạnh”, anh biết tôi khi
“sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Tôi biết anh áo rách vai, còn anh lại biết tôi
“quần có vài mảnh vá”. Tôi hiểu cho tâm tình của anh, anh thông cảm cho nỗi lòng
tôi. Và cũng vì không cô đơn trong khổ cực gian khó, hai người đồng chí mới bật
tung được hàng bao cảm xúc ấm áp, tự nhiên trong hoàn cảnh mìn bom chất đống, súng rơi đạn lạc: Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Người nông dân mặc áo lính bỗng trở nên vĩ đại hơn bao giờ hết. Thiếu thốn ngay
đến cả những phương tiện vật chất tối thiểu như quần áo, giày dép, nhưng người
lính lại rất giàu có về tâm hồn. Trong tình thế ngặt nghèo nhất, trong cảnh ngộ tăm
tối nhất, thế mà nụ cười vẫn nở trên môi các anh, dù đó là cái “miệng cười buốt giá”.
Đó là cái buốt giá của thời tiết hay cái lạnh lẽo của cuộc sống vốn lắm trêu ngươi,
gieo rắc khó khăn lên đời người lính? Dù là gì đi nữa thì nó vẫn là nụ cười đáng quý
nhất, vì được thắp lên trong gian nan ngặt nghèo, trong tình huống mà tưởng chừng
không thể mỉm cười nổi, tựa như ánh bình minh chiếu sáng cả một vùng trời đen tối,
như đóa hoa bung nở trong khu vườn băng đóng im lìm. Nụ cười ấy thật đáng yêu,
đáng quý và đáng khâm phục. Nụ cười ấy đã nói lên tất cả về người lính: tinh thần
lạc quan, khí phách anh hùng, không đầu hàng số phận. Đâu phải ai cũng có thể
cười lạc quan như các anh trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước,
con người, dân tộc? Cười ấy hoàn toàn không phải là cái cười thản nhiên lạnh lùng,
mà là cười trong buốt giá để vượt qua cái buốt giá, để tâm hồn ấm lên, để lòng thấy
tự tin hơn, vững vàng hơn. Hai người đồng chí đã vượt lên tất cả, từ cái rét tê tái
của thời tiết, cái lạnh run của bệnh sốt rừng, cái thiếu thốn quan áo (áo rách vai,
quần vá, không giày…) để đến được ngưỡng thăng hoa của tình cảm, của tình đồng
chí thiêng liêng, gắn bó: nắm lấy bàn tay nhau. Cao hơn hết thảy mọi cử chỉ quan
tâm, mọi lời nói sẻ chia, hai anh lính chiến nắm tay nhau trong cảnh rừng buốt giá ấy
lại chính là biểu tượng đẹp nhất của sự “thương nhau” giữa người với người, của
tình đồng chí mộc mạc và thấm thía. Giá buốt mà không lạnh lẽo, là khi hai người bộ
đội nắm chặt tay nhau, truyền cho nhau hơi ấm tình người, những khao khát vượt
lên số phận, những niềm tin chiến thắng hân hoan. Tác giả khéo léo sử dụng giọng
thơ trầm lắng, cảm động khi nói về hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” để bộc lộ tình
đồng chí chân thành, đậm sâu, hồn hậu như cây lúa củ khoai, như tấm lòng của anh
trai cày ra trận. Bàn tay im lặng như lại nói lên được tình cảm thiêng liêng - tình
đồng chí, tình người, tình anh em, Bàn tay thắt chặt tình thân, đốt cháy lên ngọn lửa
đoàn kết, tinh thần diệt giặc lập công nơi người lính… Một cách biểu lộ tình cảm tự
nhiên, xúc động, nó như làm ta nhớ lại câu thơ:
Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay ta đã nói
Biểu hiện của tình đồng chí càng được tô đậm hơn, khắc sâu hơn qua bức tranh
chiến đấu cuối bài thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.
Với nghệ thuật tả thực sống động, hai câu trên như một lời tự sự nhưng lại mang
màu sắc trữ tình và có giá trị miêu tả rất lớn. “Đêm nay rừng hoang sương muối” -
xót xa thay cho cuộc đời người chiến sĩ! Đã trải qua bao nhiêu vất vả giờ lại bị thiên
nhiên hoành hành bằng những đợt rét đậm rét hại cắt da cắt thịt; bằng những màn
sương muối phủ kín cả một cánh rừng hoang. Tuy trong thời tiết như thế, các anh
vẫn “đứng cạnh bên nhau “ để mà “chờ giặc tới”. Thật vậy! Tình đồng chí giữa họ
cao cả như thế đấy, không chỉ chia sẻ cùng nhau tâm tư nỗi nhớ, cùng nhau trải qua
gian nan khổ cực của cuộc chiến, mà giờ đây còn kề vai sát cánh bên nhau trên cái
nền lạnh giá của “rừng hoang sương muối”, cùng “chờ giặc tới” với tư thế hiên
ngang, chủ động, anh hùng và tinh thần lạc quan, đỏ rực lửa tình đồng đội. Bức
tranh chiến đấu ấy của người lính vừa mang hơi thở hiện thực và thời đại, vừa thấm
đẫm cái trữ tình bay bổng. Con đường kháng chiến của dân tộc hãy còn dài, khi mà
mỗi bước tiến trên con đường lại được đánh đổi bằng xương máu, bằng mạng sống
bao con người ngã xuống, thì sự lạc quan cùng bao tình cảm ấm nồng đã tiếp thêm
sức mạnh cho các anh đi đánh giặc, bên cạnh lòng yêu nước tràn đầy và ý chí chiến
đầu bền bỉ. Tư thế ung dung cùng tình đồng chí bền vững của hai người lính khi
cùng sát cánh bên nhau chờ để đối diện với giặc, để đánh tan chúng giành lại non
sông đất nước đã tạo cho ta một niềm cảm phục sâu sắc. Giặc mà tới, không ít thì
nhiều quan ta cũng phải có người hi sinh. Nhưng các anh đã lại “mặc kệ” chúng,
“mặc kệ” cái chết có thể đến bất kì lúc nào với bất kì ai, để cùng vui chung niềm vui
người lính: tận hưởng không khí rừng đêm, tận hưởng khung cảnh thiên nhiên tuyệt
vời mà ngay cả họ cũng là một phần của nó: “Đầu súng trăng treo”
Đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính. Trên nên xám lạnh của
cánh rừng hoang tĩnh mịch đêm khuya rực lên hình ảnh tuyệt đẹp: vầng trăng tròn
treo lủng lẳng trên đầu súng. Là người trực tiếp cầm súng tham gia cuộc chiến nên
tác giả Chính Hữu mới có được cái nhìn tinh tế như vậy, mới có những liên tương
phong phú và giàu chất bay bổng như vậy. Trời về khuya gần sáng, trăng xuống
thấp dần, thấp dần đến khi trăng chạm vào đầu súng, tạo nên bức tranh thiên nhiên
tuyệt diệu “đầu súng trăng treo” ắp đầy ý nghĩa biểu tượng: súng tượng trưng cho
người lính, cho tinh thần quyết chiến quyết thắng, cho sự chiến đấu hết mình không
quản ngại hiểm nguy; còn trăng là sự vật xuất hiện nhiều trong thơ, là biểu tượng
của người thi sĩ, của làng quê hiền hòa, của cái đẹp thanh bình, dịu dàng. Tính hiện
thực đến từ cách quan sát, nhìn nhận của tác giả và chất trữ tình từ một tâm hồn
thăng hoa càng làm cho hình ảnh thêm ý nghĩa, sống động: súng và trăng, là gần và
xa, là cứng rắn và mượt mà, thực tại và mộng mơ, oai dũng và hiền hòa, là thi nhân
và chiến sĩ. Súng và trăng còn là một cặp đồng chí: người lính cầm súng chiến đầu
cho hòa bình, cho vầng trăng tri kỉ mãi tỏa ánh trăng trong trên nền quê hương. Hai
hình ảnh đối lập tương phản này lại được nhà thơ đặt cạnh nhau, sóng đôi cùng
nhau, và cũng lại cùng nhau tạo nên một biểu tượng đẹp trong thơ văn kháng chiến,
thể hiện rõ bao phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam: cứng cỏi trong chiến
đấu nhưng lại hiền hòa trong đời thường, ý chí sắt đá kiên cường nhưng tâm hồn
cũng rất thơ mộng, bay bổng. Hình ảnh trăng lơ lửng treo đầu súng cũng là lời kết
của toàn bài thơ, và lời kết này có giá trị rất lớn: khẳng định vẻ đẹp chân thực của
cuộc chiến vệ quốc, vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ Cách mạng, động thời làm
giảm bớt đi cái ác liệt thảm khốc của chiến tranh, trở thành tiêu biểu của tình đồng
chí cao đẹp, thiêng liêng.
Với giọng điệu thơ trữ tình, giàu cảm xúc, ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn rất cô
đọng, chứng tỏ sự gọt giũa cẩn thận của tác giả kết hợp với những hình ảnh liên
tưởng lãng mãn sâu sắc, bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, cảm động tình
đồng chí vững vàng của các anh lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược. Dẫu còn gặp nhiều khó khăn trắc trở, nhưng tình đồng chí của họ vẫn
vượt lên hết thảy và trở thành tình cảm đẹp đẽ nhất, đáng trân trọng nhất giữa
những người bộ đội. Tác giả Chính Hữu đã thể hiện chân thực hình tượng người
người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của họ qua những chi tiết, hình ảnh,
ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
Bài thơ khép lại nhưng ấn tượng trong lòng thì mãi không bao giờ phai. Trước mắt
ta như vẫn hiện lên hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng, bên dưới là bóng hai
người chiến sĩ đứng cạnh bên nhau… Chiến tranh trôi qua, hòa bình này đã được
lập lại nhưng những năm tháng gian khổ thì mãi không bao giờ phai. Trước mắt ta
như vẫn hiện lên hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng, bên dưới là bóng hai
người chiến sĩ đứng cạnh bên nhau… Chiến tranh trôi qua, hòa bình này đã được
lập lại nhưng những năm tháng gian khổ mà hào hùng đó vẫn mãi là một chương
quan trọng trong cuốn sách với những trang sử vàng vẻ vang của dân tộc. Ta lại
càng ý thức hơn nữa lòng biết ơn dành cho các anh bộ đội cụ Hồ đã đổ bao xương
máu để đất nước giang sơn được như ngày hôm nay. Cùng chung lý tưởng, ý chí,
cảnh ngộ xuất thân, chung nhau trải qua gian nan ngặt nghèo, những người lính ấy
đã sống, chiến đấu, và nếu có hi sinh, đều như một người anh hùng.
Tuốt gươm không chịu sống quỳ
Tuổi xanh chẳng tiếc sá chi bạc đầu.
5. Phân tích bài thơ đồng chí lớp 9
Khi nhắc đến các tác phẩm văn học được viết trong thời kì kháng chiến chắc hẳn
người đọc sẽ không bao giờ quên được tác phẩm Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu.
Bài thơ được tác giả sáng tác năm 1948 khi đang cùng đồng đội tham gia chiến dịch
Việt Bắc. Với những lời thơ giản dị như lời tâm tình về tình đồng chí đồng đội, tác
giả đã cho người đọc cảm nhận được những tình cảm chân thành, sự sẻ chia quan
tâm của những người đồng đội dù không cùng quê hương bản xứ nhưng nguyện
chiến đấu vì nền hòa bình của dân tộc.
Những người lính vốn là những chàng trai khoẻ mạnh vốn chỉ quen với việc đồng
áng, cấy cày. Họ đến từ những vùng quê khác nhau, những vùng miền xa xôi, hẻo
lánh. Vì chung nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, quê hương, chung tình yêu đất nước, họ
không hẹn mà gặp nhau, quen nhau và gắn bó với nhau. Chính Hữu đã kể lại cuộc
gặp gỡ ấy như một lời kỉ niệm, hồi tưởng đẹp, giản dị và xúc động:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Thật lạ kì! Tình cảm của những con người ấy được tạo nên từ sự tình cờ, chẳng
hẹn quen nhau. Họ đều chiến đấu vì muốn thoát khỏi cái đói, cái khổ của những
người dân bị áp bức, bóc lột. Mảnh đất đã nuôi dưỡng họ lớn lên đều bị bủa vây bởi
khốn khó; những nương rẫy nước mặn đồng chua, vùng làng quê đất cày lên sỏi đá.
Từ sự xa lạ ban đầu giữa đôi người ấy, họ đã quen nhau, gắn bó với nhau, gọi nhau
là đồng chí. Đôi người - hai con người - cách dùng từ của tác giả đã làm nổi bật lên
cả đoạn thơ - tưởng chừng như số phận định mệnh, ngay từ đầu đã báo trước một
tình cảm nảy nở khăng khít trong chiến đấu:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Đồng chí!
Hình ảnh súng bên súng, đầu sát bên đầu vừa tả thực, vừa mang tính tượng trưng.
Nó không chỉ vẽ lên hình ảnh hai con người cùng kề vai sát cánh mà còn gợi ra
trong lòng người đọc lí tưởng cao đẹp: mục đích chung không của riêng ai mà là
khát vọng tự do của cả một dân tộc. Từ việc cùng chung lí tưởng, qua gian khổ,
thiếu thốn, tình cảm đã nảy sinh giữa đôi người xa lạ ấy. Đêm rét chung chăn thành
đôi tri kỉ là một hình ảnh chân thực mà cảm động lạ kì... Đâu cần phô trương, đâu
cần sự gắn kết gì cao xa, chỉ cần qua gian khổ, giữa con người cũng có thể thành tri
kỉ. Giọng thơ đột ngột bị ngắt nhịp bởi hai tiếng gọi thân thương: Đồng chí! Dường
như đó là tiếng gọi thốt ra từ trái tim, từ xúc cảm tha thiết, thân thương giữa những
người đồng đội. Câu thơ đã làm nên một nút thắt đặc biệt, một điểm nhấn, một nét
chấm phá riêng biệt cho bài thơ. Âm hưởng da diết của tiếng gọi đã làm rung động
lòng người: Đồng chí. Từ việc cùng chung chí hướng - trong gian nan đã tạo nên
niềm cảm kích, xúc động chân thành, trong giây lát, tiếng gọi Đồng chí vang lên -
phải chăng đó là cung bậc tình cảm cao quí nhất, thiêng liêng nhất sưởi ấm cho trái
tim những con người thổn thức nhớ về quê hương?
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà tranh mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Họ tâm tình, kể chuyện cho nhau nghe, về ruộng nương anh, về gian nhà không,
giếng nước, gốc đa. Hoài niệm, hồi ức của quê hương ùa về trong tâm trí họ. Để
cho ta hiểu rằng, họ bỏ quê hương cũng vì muốn tốt đẹp cho quê hương. Họ đành
dứt áo ra đi, mặc kệ tất cả, bỏ lại người thân, gia đình để dấn thân vào cuộc kháng
chiến trường kì gian khổ. Lạ lùng thay, cũng chính nơi đây, họ tìm được niềm đồng
cảm, sẻ chia và nó cũng chính là động lực giúp họ vượt qua biết bao khó khăn.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Những trận sốt rét rừng thâm độc không thể quật ngã ý chí một con người. Bởi bên
họ, luôn có sự tương trợ, giúp đỡ, luôn có tình đồng chí thân thương. Và tất cả thiếu
thốn trở thành vô nghĩa: Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày
Bằng những chi tiết rất thực, tác giả đã tạo nên hình ảnh hai người lính, tuy vất vả,
thiếu thốn về vật chất áo rách vai, quần có vài mảnh vá, chân, không giày, nhưng
vẫn cười trong cái giá lạnh của nơi rừng thiêng nước độc. Và họ đã sưởi ấm cho
nhau, bộc lộ tình cảm với nhau bằng cử chỉ giản dị mà đầy xúc động:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Chao ôi! Đâu cần vật chất của cải, đâu cần lời hay ý đẹp, những người đồng chí bộc
lộ tình cảm với nhau thật chân thành lặng lẽ nắm lấy bàn tay nhau. Chính hơi ấm
của đôi bàn tay ấy đã làm nên sức mạnh chiến thắng tất cả.
Kết thúc bài thơ, Chính Hữu thể hiện tình đồng chí qua những câu thơ đầy thi vị.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau, chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.
Cảnh rừng âm u buổi đêm như trở nên lãng mạn, đầy chất thơ, khi mà ở đó có hơi
ấm tình người. Đầu súng trăng treo - hình ảnh độc đáo và sáng tạo tuyệt vời. Hình
ảnh trăng tròn vành vạnh lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Rất chân
thực nhưng cũng rất lãng mạn, hư hư thực thực, một không gian đầy mộng tưởng
mà vẫn mang vẻ đẹp tinh thần chiến đấu... Tình đồng chí, đồng đội đang dần toả
sáng, rực rỡ trong gian lao chiến đấu.
Toàn bộ bài thơ hàm súc, cô đọng với hình ảnh chân thực, giản dị mà sâu sắc thấm
thía. Chính Hữu đã thể hiện thành công tình đồng chí cao đẹp giữa những người lính.
Đọc xong bài thơ, trong lòng độc giả không khỏi xúc động bởi những tình cảm chân
thành, sâu lắng. Có thể chính vì lẽ đó, mà bài thơ luôn còn sống mãi với thời gian.
6. Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu
Trong bài thơ “Tuổi 25” Tố Hữu đã từng viết:
“Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo”
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng
những gam màu hiện thực. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim của mình để “hút nhụy
đời” tưới tắm cho những cánh đồng văn học. Ở cánh đồng ấy, có một khoảng trời
dành riêng cho văn học cách mạng, văn học của hiện thực tàn khốc mà cũng đẹp đẽ
vô cùng. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi là
hình ảnh cao quý và đẹp đẽ nhất. Hình ảnh ấy đã đi vào lòng người và văn chương
với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác phẩm ra đời sớm
nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những người lính Cụ Hồ là
bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Bằng những rung động mới mẻ và sâu lắng cũng
như sự trải nghiệm của người trong cuộc, qua bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã diễn
tả một cách sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của những anh bộ đội thời kháng chiến.
Bài thơ ra đời năm 1948, khi Chính Hữu là chính trị viên đại đội thuộc Trung đoàn
Thủ đô. Với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; ngôn ngữ bình dị đời
thường dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hi vọng, lòng
cảm thong sâu sắc của một người chiến sĩ cách mạng làm thơ. Trong những năm
tháng kháng chiến chống Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người
lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm
tin yêu và hy vọng của cả dân tộc.
Ngòi bút tài hoa của Chính Hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm
tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính Hữu đã từ từ dẫn người đọc đến
với cơ sở hình thành tình đồng chí:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của hai người đồng đội nhớ lại
kỉ niệm về những ngày đầu tiên gặp gỡ. Họ đều là những người con của những
vùng quê nghèo, là những người nông dân nơi “nước mặn đồng chua” hoặc ở chốn
“đất cày lên sỏi đá”. Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi” hiện lên với biết bao nỗi
gian lao vất vả, dù cho nhà thơ không chú ý miêu tả. Nhưng chính điều đó lại làm
cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ chung chung kia trở nên cụ thể đến mức có thể nhìn
thấy được, nhất là dưới con mắt của người dân làng quê Việt Nam.
Phải chăng chính nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau, thương
nhau, chia sẻ với nhau bằng tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa những
người nông dân chân nấm tay bùn. Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải
do cái nghèo đói xô đẩy, mà do họ có một lí tưởng chung, cùng một mục đích cao
cả. Những người từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách mạng
và chính nhờ cơ sở của sự đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã
dễ dàng thân quen với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “Nhớ” của mình
cũng thể hiện tình cảm này:
“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ
Gặp nhau hòi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến”
Những người xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí. trước hết phải
nói tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu.
Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của dân
tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu;
“anh với tôi” cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do
và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu
của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ hay
và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri
kỉ”. “Đôi tri ki” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ,
về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ “đồng chí” làm
diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một
tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng
chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc.
Điều gì khiến cho những chàng trai quanh năm chỉ quen tay cày tay cuốc ấy đã hăng
say lên đường cầm súng chiến đấu? Điều gì khiến những chiếc xe không kính ngày
đêm lao đi trong mưa bom bão đạn? Điều gì khiến những cô gái vốn yếu mềm có
thể hiên ngang chạm vào cái chết vô hình từ những quả bom? Đó chính là lòng
chung thủy với quê hương, với mảnh ruộng nhà mình, với vợ con của mình:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
Nhà phê bình Nguyễn Đức Quyền đã nhận xét: Ở ngoài mặt trận mà biết gió lay
từng gốc cột ngôi nhà mình ở thì thật không còn từ ngữ nào để diễn tả hết tình cảm
thiết tha của họ đối với gia đình mình. Thế đó, ai mà không mong muốn được sống
yên vui, hạnh phúc trong mái ấm gia đình? Nhưng vì nghĩa lớn, họ ra đi không tiếc
đời mình, bỏ lại sau lưng tất cả những gì thân yêu nhất. Cũng như vậy, ở ngoài mặt
trận mà biết “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” chứng tỏ họ đang nhớ quê
hương, nhớ người mình thương biết nhường nào! Mối giao cảm đậm đà sâu sắc ấy
đã tiếp thêm sức mạnh cho người lính trên những chặng đường chiến đấu.
Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và
niềm vui bên chiến hào chiến đấu:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng “anh – tôi”, “áo anh –
quần tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng
cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật,
cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ những thiếu thốn về
vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng tình yêu thương gắn bó
“thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Khó khăn là vậy, khắc nghiệt là thế, hiện thực
của chiến tranh với những cơn sốt rét rừng đã được rất nhiều nhà thơ miêu tả lại
trong những trang viết của mình:
“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân” (Nguyễn Đức Mậu)
Ấy vậy mà các chiến sĩ của ta vẫn lạc quan, vẫn tin tưởng, không chùn bước trước
bất cứ điều gì. Hình ảnh “miệng cười buốt giá” gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong
giá lạnh xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để
chuyền cho nhau hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm
khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!
Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay
giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng
biên giới trong đêm khuya:
“Đêm nay rừng hoang sương muốI
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.”
Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu – đặc
điểm không gian và thời gian: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng
chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau
chờ giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp
của cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”. Đêm nay cũng như bao
đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh giành thắng lợi cuối
cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến
người lính không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong hoàn
cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối” “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc
tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của sự
sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện được tư thế chủ động của người
lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.
Đọc thơ Chính Hữu ta như cảm thấy hơi ấm đang toả ra khắp cơ thể, khắp không
gian. Hơi ấm ấy phải chăng được bắt nguồn từ cảm xúc chân thành, mộc mạc, giản
dị trong lời thơ Chính Hữu. Câu thơ cuối tuy đã khép lại tác phẩm nhưng với em nó
mãi là dư âm không bao giờ cạn: “Đầu súng trăng treo”
Câu thơ vừa thực vừa ảo cho ta nhiều cảm xúc mới mẻ. Khoảng cách giữa bầu trời
và mặt đất, giữa con người và thiên nhiên đã được xích lại gần gũi hơn bởi một từ
treo. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và lãng mạn vừa xa vừa gần. Phải
chăng câu thơ là ước muốn, là hi vọng của Chính Hữu – người lính Cụ Hồ về một
cuộc sống hoà bình, tươi đẹp? Sau đêm nay, sau giờ phút căng thẳng, lạnh buốt này
sẽ là một sớm mai ấm áp với ánh bình minh sáng ngời Người chiến sĩ, với nhiệm vụ
đã thành người thi sĩ với bao cảm hứng dạt dào. Hình ảnh cây súng trong bài thơ
Đồng chí khiến ta chợt nhớ đến sông Mã, Tây Tiến trong câu thơ của Quang Dũng:
“Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”
Đáng trọng và đáng quí làm sao khi trong thời máu lửa oai hùng đó vẫn có những
vần thơ thật hay, thật đẹp và thú vị đến thế!
Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhịp
điệu câu thơ, bài thơ đã khắc họa, tôn vinh vẻ đẹp phẩm giá đáng quý của anh bộ
đội cụ Hồ, của tình đồng chí đồng đội bền chặt keo sơn, hòa nhập với cảm hứng
lãng mạn cách mạng của văn học thời chống Pháp. Nhà văn Nga Ê ren-bua đã viết:
Tình yêu nước bắt đầu từ lòng yêu những gì bình thường nhất. Yêu cái cây trồng
trước ngõ, yêu lối nhỏ đổ ra bờ sông, yêu con sống đổ về biển cả… Vâng, tình yêu
của người lính cụ Hồ cũng bắt nguồn từ những gì mộc mạc, chân chất, gần gũi nhất.
Yêu ngôi nhà, yêu mảnh vườn, gốc đa, giếng nước, yêu con người… Đó chính là tình yêu Tổ quốc!
Lịch sử đã sang trang mới nhưng có lẽ hình ảnh những người nông dân mặc áo lính
vẫn sống mãi trong lòng thế hệ mai sau. Vẻ đẹp của các anh, tinh thần của các anh
sẽ chẳng thế bị bụi thời gian cuốn đi mất:
“Nếu được làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối, tim ta làm ngọn lửa”
7. Phân tích bài thơ Đồng chí - mẫu 1
Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình
Đồng chí. Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có
cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút
hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một
chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên.
Bài thơ Đồng chí với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp tươi vui; với ngôn ngữ bình
dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hi vọng, lòng cảm
thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng. Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào
chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ
nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?
Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương
nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc
kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ Đồng
chí, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người
nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm
xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp
bức. Anh và tôi, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo
khó. hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính.
Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm
biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để
tìm lại, giành lại linh hồn cho Tố quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể
làm cho những người lính chùn bước:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Họ đến với cách mạng cũng vì lí tưởng muốn dâng hiến cho đời. Sống là cho đâu
chỉ nhận riêng mình. Chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin
và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào... Dường như tình đồng