TOP 18 bài Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận | Văn mẫu 11 Kết nối tri thức

Phân tích Tràng Giang của Huy Cận là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các bạn. Hy vọng các bạn sẽ có thêm cảm nhận cũng như ý tưởng mới về tác phẩm sau khi tham khảo tài liệu: Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận.

Phân tích bài thơ Tràng giang ca Huy Cn - Văn mẫu 11
1. Dàn ý Phân tích bài thơ Tràng giang ca Huy Cn
1. M bài
- Gii thiu nhng nét chính v tác gi Huy Cận (đặc điểm tiu sử, con người, các
sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,...)
- Gii thiu khái quát v bài thơ “Tràng giang” (hoàn cảnh ra đời, xut x, khái quát
những nét cơ bản v giá tr ni dung và giá tr ngh thut,...)
2. Thân bài
a. Nhan đ và câu thơ đ t
- Nhan đ:
+ Mt t Hán Vit mang sc thái c kính, với nghĩa là sông dài.
+ S dng hai vn vn mở, độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, gi lên hình nh
mt con sông va dài va rng.
- Câu thơ đề t: Khái quát mt cách ngn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ
b. Kh 1
- Câu thơ mở đầu kh thơ thứ nhất đã mở ra mt hình ảnh sông nước mênh mang.
Từ “điệp điệp” gợi lên hình nh những đt sóng c nối đuôi nhau v vào b
không ngng ngh, không dt, tô đm thêm không gian rng ln, bao la.
- Hình nh: con thuyền xuôi mái nưc gi lên s nh nhoi
Hình ảnh đi lp giữa không gian sông c mênh mông vi hình nh con
thuyn nh bé càng gi lên trong chúng ta s cô đơn, le loi.
- Hai câu cui:
+ Thuyền nước như một ni buồn chia lìa đang đón đợi, cho lòng “sầu trăm
ng”. Đc bit, gia cnh sông nước mênh mông y,
+ Hình ảnh “ci mt cành khô lc my dònggợi lên trong lòng người đọc ám nh
khôn nguôi v cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết ri s trôi dt v đâu
Trong khổ thơ thứ nht, nếu dòng tràng giang dòng đời tn thì hình nh
con thuyn, cành ci khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nh nhoi, vô
định, đồng thi gi lên ni bun không nguôi, không dt ca tác gi.
c. Kh 2
- Hai câu thơ đầu đã vẽ nên mt không gian hoang vng, hiu qunh:
+ Ngh thuật đảo ng cùng t láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc bit gi cảm đã gợi lên s
thưa thớt, hoang vng, lnh lo
+ Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn ch chiềucâu thơ nhiu cách hiểu nhưng
du hiểu theo cách nào thì câu thơ vn gợi lên trong lòng người đc ni bun, s
hoang vng, tàn t, thiếu vắng đi sự sng của con ngưi
- Hai câu sau, không gian như đưc m rng c v bn phía làm cho cnh vt vn
đã vắng v lại càng thêm liêu tĩnh mịch hơn, từ đó gợi lên c ni bun, s
đơn đến tt cùng ca lòng người
d. Kh 3
- Hình ảnh “bèo dạt v đâu hàng nối hàng”: gợi lên hình nh v kiếp người, cõi nhân
sinh trôi ni, không biết ri s đi đâu, về đâu.
- Ngh thut ph định được lp lại: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”.
→ Ở nơi đây không có bt c th gì gn kết đôi bờ vi nhau, nó thiếu đi dấu vết ca
s sng, của bóng hình con người hơn hết tình người, mi giao hòa, thân mt
gia con ngưi vi nhau
e. Kh 4
- Hai câu thơ đầu kh thơ: V nên mt bc tranh thiên nhiên chiu vi v đẹp
hùng vĩ, nên thơ.
+ Hình nh những đám mây trắng c hết lp y đến lp khác ni tiếp nhau “đùn”
lên dưi ánh nng chiu như tạo nên nhng qu núi dát bc.
+ Hình nh cánh chim xut hiện như ánh n một tia m áp cho cnh vt song
vẫn không làm vơi đi ni bun trong sâu thm tâm hn ca nhà thơ.
- Hai câu thơ cuối đã th hin ni nh quê hương da diết, cháy bng ca tác gi
+ Hình ảnh “dn dn vời con nước” không ch t nhng đợt sóng lan xa hơn thế
còn gi lên cm giác bun nh đến tn của nhà thơ - ni bun của người xa
x đang nhớ quê hương da diết.
+ Câu thơ cuối đậm cht c điển khép lại bài thơ đã diễn t mt cách chân thc
rõ nét niềm thương nh quê hương đất nưc ca nhà thơ
3. Kết bài
Khái quát nhng nét đặc sc v ni dung, ngh thut ca bài thơ và những cm nhn
ca bn thân.
2. Dàn ý Phân tích bài thơ Tràng giang ca Huy Cn
1. Nhan đề, li ta
- Gi cm giác con sông kéo dài mênh mông, gi mch cm xúc của bài thơ.
- Li tựa: thâu tóm được tt c tình và cảnh trong bài thơ.
2. Kh 1
- Hình nh quan sát trên dòng sông rt chân thc nhưng giàu sức gi.
+ sóng gn nh nhàng lan ta đến vô cùng, gi ni bun miên man.
+ con thuyn buông mái chèo mt cách th động, mặc cho nước đưa đẩy, gi s
lênh đênh. So vi dòng sông con thuyn hết sc nh bé.
+ hình ảnh c song song, thuyn v nước li không ha hn s gp g ch
chia lìa, xa cách.
+ câu thơ: Củi mt cành khô lc mấy dòng đặc bit gi cm. gợi nghĩ tới thân
phn cá th nh nhoi, bơ vơ giữa dòng đi.
- S dng hiu qu phép đối (buồn điệp điệp- nước song song, sầu trăm ngả - lc
my dòng), t y âm (điệp điệp, song song), tương phản gia cá th và vũ trụ.
Kh thơ gợi ni bun v s chia li, tách bit thiếu giao cm gia th vi nhau,
đặc bit là ni bun v kiếp người nh bé vô đnh.
3. Kh 2
- Hai câu đu ni bt s đìu hiu, vắng lng ca cnh chiu:
+ đứng trước không gian y con người càng đơn, khao khát đưc nghe thy âm
thanh ca cuc sống con người.
+ nhưng chợ chiều đã vãn, không gian càng vắng lng u tch.
- Hai câu cuối không gian được m ra chiu chiu: cao, sâu, rộng, i. Trong cái
tr cùng, thăm thẳm không ch cnh vắng liêu lòng người cũng như rợn
ngp bi s nh bé, lc loài.
- Ngh thut s dng t ng chn lọc đắt giá, giàu giá tr gi hình biu cảm: liu điu,
lơ thơ, sâu chót vót,.... Ngắt nhịp thơ hiệu qu.
4. Kh 3
- Cái hin hữu trước mt nhng hình nh gi s lênh đênh định (bèo dt v
đâu) và tĩnh lặng, cô liêu (b xanh tiếp bãi vàng).
- Hình ảnh thi khao khát m kiếm chuyến đò ngang y cầu như sự ph
định đã nằm ngay trong t điệp t không.
- Cm thức đơn v s lạc loài trước cnh sông dài tri rộng đã khiến nhà thơ
mong được đón nhận tiếng nói con người, mong được nhìn thy s giao lưu gần gũi
giữa con người vi con người nhưng tất c vn b ngăn cách (hình ảnh con đò, chiếc
cầu tượng trưng cho sự giao lưu đôi bờ nhưng không có) nỗi bun v cuộc đời, v
nhân thế.
5. Kh 4
- Mang màu sắc Đường thi khá t nhng hình ảnh ước l đến ch dùng các thi
liệu thơ Đường.
+ hình nh Lp lớp mây cao đùn núi bạc ly ý t câu thơ của Đỗ Ph ch s hùng
của thiên nhiên nhưng câu thơ ca Huy Cn miêu t thiên nhiên lp lánh, tráng l
mang nét độc đáo riêng.
+ hai câu thơ cuối phng pht ý v thơ Thôi Hiệu.
- Hình thc ngôn ng mang màu sc c điển nhưng cm xúc li mang tính hiện đi:
cái tôi cô đơn, bơ vơ, rn ngợp trước cuộc đời.
+ hình nh Chim nghiêng cánh nh gi cm giác chp chi, rn ngp.
+ ni nh nhà dn dợn trong lòng, đó nỗi khao khát tìm đến ch da cho tâm hn
cô đơn, trống vng ca tác gi.
6. Ngh thut
- V đẹp c điển th hin trên nhiu phương din:
+ mi dòng 7 ch ngt nhịp đều đặn, mi kh 4 dòng, tách ra như bài thơ t tuyt.
+ cách thc miêu t thiên nhiên theo bút pháp hi ha c đin: một vài nét đơn
nhưng ghi được hn to vt.
+ t cnh ng tình.
+ s trang nhã, thanh thoát t hình nh, ngôn t.
- Cht hin đại th hin trong cách cm nhn s vic, tâm trạng vơ, buồn ph
biến ca cái tôi lãng mạn đương thi.
3. Audio Phân tích bài thơ Tràng giang ca Huy Cn
4. Video Phân tích bài thơ Tràng giang ca Huy Cn
5. Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cn
Phân tích Tràng Giang mu 1
Nhc ti Huy Cận, người ta nh ngay đến một “hồn t o não” (Hoài Thanh).
Trưc cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời mt ni
su nhân thế, một cái tôi đơn, buồn trước dòng đời. Vi s pha trn gia cht
c điển hiện đại, ông đã gửi gm ni nim y trong nhiều bài thơ, trong đó phải
k đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” (1940) rất tiêu biu cho
phong cách thơ Huy Cận.
Vào mt bui chiều thu năm 1939, một chàng sinh viên trường Cao đẳng Canh
nông, đp xe dc theo b đê sông Hồng, đến ti bãi Chèm phía Nam dòng sông,
trưc cảnh sóng ớc mênh mông, đã không m nén ni cm xúc buồn bã, đơn
nh nhà da diết nên sáng tác bài thơ Tràng giang. Nhà thơ Huy Cận đã từng tâm
s v hoàn cảnh ra đời bài thơ như thế. Ban đầu, tác phẩm tên “Chiều trên
sông” nhưng v sau đổi thành Tràng giang. Nhan đ này đã chuyển ti nhiều ý nghĩa
hơn. “Tràng giang” một t Hán Việt đầy trang trng, c kính, ch mt con sông
dài. Nhưng nhà thơ không ng “trường giang” (có cùng nghĩa) để thay thế, bi
cách điệp vần “ang” giúp nhan đề va gợi âm hưởng ngân vang, va gi nên cm
giác mt dòng sông không nhng dài mà còn rng. Thêm lời đề t Bâng khuâng tri
rng nh sông dài càng làm hơn sc thái cm xúc ch đạo của bài thơ. Đó ni
bun của con người trưc mt không gian mênh mông, rng ln th bao trùm c
vũ trụ.
qu thc trưc một dòng tràng giang như thế, thi nhân đã không giu ni ni
bun mà c để nó lan ta khp mi không gian, bao trùm c vũ tr.
Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyn v c li sầu trăm ngả
Ci mt cành khô lc my dòng.
Kh thơ đầu đã mở ra mt khung cnh tràng giang mênh mông, rng lớn đối lp
hoàn toàn vi nhng th nh như sóng, con thuyền, cành ci khô. Nhng s vt
ấy đồng thời cũng gợi nên ni buồn mênh mang theo sóng c. Qua các t gn,
buồn điệp điệp, nước song song, sầu trăm ngả, lc my dòng ni bun càng tri dài,
lan ta khp c mt sông dài rng. đây tuy sự vật nhưng mọi th li chng h
gn kết, nht thuyền c, hai th vốn không tách rời vy thuyn v,
nước li khiến ni su, ni buồn như chia ra thành trăm ngả. Tuy nhiên điểm nhn
nét nht ca kh thơ chính nh nh ci mt cành khô. S vt vốn đã chẳng
còn sc sng, li ni trôi định trên dòng ng đã v mt nét hiện đại để khc ha
ni buồn. hơn nữa còn lc my dòng tkhông ch ni bun, hin hu
c nỗi đơn. Đó phải chăng s hin thân cho kiếp ngưi nh bé, lênh đênh, bất
định giữa dòng đời ca chính tác gi?
Đến kh thơ thứ hai, điểm nhìn ca nhân vt tr tình đã xa hơn, khung cảnh trên
sông đưc hưng vào chiếc cn nh, vào bu tri và khp c dòng sông.
Lơ thơ cồn nh gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xe vãn ch chiu
Nng xung tri lên sâu chót vót
Sông dài tri rng bến cô liêu
Nhưng dường như không gian cũng không mấy thay đổi, thm chí hai t y
thơ, đìu hiu lại càng khc ha s vng lng, yên ng, quạnh hiu. Đâu đó (hay đâu
có) âm thanh ca s sng? Dẫu đi chăng nữa thì tiếng làng xa n ch
chiều cũng chẳng làm cho nơi đây nhn nhịp hơn, thậm chí càng đậm thêm s
tĩnh lặng. Bi vy xung quanh ch còn nng trên trời, sông trước mt, th xung
th lên, th dài, th rộng dường như vốn đã xa nay lại càng xa hơn. Cách sáng
to t sâu chót vót đã giúp tác gi miêu t đưc khong cách gia tri vi sông va
có độ cao va độu, khiến không gian như mở ra ba chiu, khuếch tán rng hết
mc toàn trụ. Ch còn lại trơ trọi bến liêu thì chúng ta mi biết ni buồn đã
rng khp mi không gian nỗi đơn càng ngày càng ln. Lúc y thi nhân
không còn đối din vi dòng sông như ở kh trên na mà hoàn toàn b choáng ngp,
quá nh bé trước không gian vũ tr như thế.
Ri ánh mt thi nhân li tiếp tc kiếm tìm. Hình như nhân vt tr nh “lục lọi” đâu
đây một chút s sng ca con ngưi.
Bèo dt v đâu hàng ni hàng
Mênh mông không mt chuyến đò ngang
Không cu gi chút nim thân mt
Lng l b xanh tiếp bãi vàng
Ln y hin lên hình nh hàng bèo quen thuộc. Trong thơ xưa chính hiện
thân cho kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời. Nhưng chỉ là cánh bèo, ch
không phi hàng ni hàng bèo như đây. Vâng, không biết bao nhiêu hàng bèo như
thế, ni tiếp nhau trôi dt v đâu? nỗi bun, s vơ, lạc lõng không phi ca
mt cành ci khô na mà là ca c mt thế h con người chng biết s đi đâu về đâu?
Hình ảnh thơ đơn giản nhưng gói ghém đưc tâm s ca c bao nhiêu thân phn con
người lúc y gi. Bi vy nhìn xung quanh đâu cũng thấy mênh mông, đâu cũng
không thy du hiu ca s sng nào hết. Điệp t ph định càng làm cho con
người chng có chút bóng dáng nào hin hu nơi đây. Không một chuyến đò, không
mt cây cu thì ni nim thân mt một chút thôi cũng thực khó. Thế ch còn
li thiên nhiên tiếp xúc vi thiên nhiên. Hai t lng l chút ngm ngùi nhìn hết
cnh trí dòng sông t trên cao xung thp, xa đến gn mà rồi cũng ch còn li nhng
b xanh, bãi vàng ni tiếp nhau. Không gian thế li tiếp tc thêm phn mênh
mông bát ngát. Nỗi đơn, sự bun của con người chưa có du hiệu vơi cn, thu
hp li theo bt c mt chiu nào.
C ba kh thơ một bc tranh thiên nhiên thm đẫm nhng phong v c điển xen
ln chút hiện đại đầy độc đáo để khc ha mt không gian cùng, tn. Tt c
cũng chỉ để chứa đng mt ni bun, nỗi đơn không gii hn của lòng người.
Bao nhiêu hi vng dn vào kh cuối, để cái tôi vơi bớt đi phn nào nhng cht cha
ưu tư. Vậy mà:
Lp lớp mây cao, đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nh: bóng chiu sa
Lòng quê dn dn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cnh thiên nhiên li s thay đổi, nhưng lần này không phi dòng sông
mênh mông, vng lặng như những kh trên thay vào đó s tráng lệ, hùng
ni bt trên nn tri chiu. Vn s dng nhng thi liu c quen thuc mây, chim,
nhà thơ vẽ lên nn tri y những đường nét, màu sc thật sinh động. Đó lp lp
nhng áng y ánh bạc đang đùn trên bu trời như những ngọn núi. Đặc bit
cánh chim chao nghiêng được coi mt khonh khắc thâu m được s chuyn
động ca hai s vt. Chng biết cánh chim nh y nghiêng nh đôi cánh một cái
bóng chiu sa xung hay bóng chiều đổ mà đè nặng lên cánh chim khiến ng
nghiêng? Nhưng khonh khc đng hiện này đã tạo nên mt s dch chuyn rt mau
l c v không gian ln thi gian. thêm mt ln na lòng người không th nào
xua tan được s ba vây ca ngoi cnh. Không gian thay đổi, tráng l đến
đâu trong lòng thi nhân vn cm thy trng trải. Nhưng lần này nỗi đơn đã hóa
ni nh nhà. Biết bao nhiêu cnh trí trên trời, dưới sông đều dn v cm xúc dn
dn. T y nguyên sáng to y của nhà thơ đã khắc hoc rt chân thc mt ni
nim bâng khuâng, da diết của “lòng quê” khi nó ng vi cm t “vời con nước”.
Bao nhiêu ni bun rồi cũng trào dâng lên thành ni nh quê hương. Nhưng lạ thay,
ngay trên mảnh đất quê hương lại thy nh quê hương đến nvậy. Thế
quê hương lại chẳng còn, đó ni nim chung ca c mt thế h các nhà thơ mới
trưc tình cảnh đất nưc lúc by gi. Cảm giác xa quê hương, “thiếu quê hương” trở
thành s rung cm sn chng cần đến khói ng hoàng hôn như thi sĩ Thôi
Hiệu đời Đường mi gi nên ni nh quê nhà ca thi nhân. Không cn vịn vào đâu,
t khc ni nh ấy đong đầy, da diết, t thân đã bc l mt tình yêu thm thiết,
trĩu nng với quê hương.
hai th ấn tượng còn đọng lại sau khi đọc xong bài thơ không gian cùng,
tn ca ngoi cnh ni bun, nỗi đơn không gii hn của lòng người. C
hai như ng kích ứng để càng rng, càng ln thì càng buồn, ng đơn khiến bài
thơ như chất cha, tích t ni su ca c ngàn năm li vy. Nhưng vượt lên trên hết,
bút pháp đặc trưng nhuần nhuyn gia cht c điển hiện đại đã vẽ nên mt
bc tranh thiên nhiên thật đp du buồn. Song người đc vn nhìn thy mt tình
yêu quê hương đất nưc thm kín hin lên trong Tràng giang.
Phân tích bài thơ Tràng Giang mu 2
Huy Cận được mệnh danh nhà thơ cả vn sầu. Trước cách mng hồn thơ ông
mang ni su bi ca thời đại. Tác phm Tràng giang một bài thơ tiêu biu cho ni
bun miên man của nhà thơ trưc cuộc đời, trước thời đại. n sau ni bun y còn
là li tâm sự, lòng yêu nước kín đáo.
Nhan đề ca bài thơ gm hai vần “ang” đây âm mở, gi nên s mênh mông, rng
ln. Không gian dòng sông hin ra không ch một con ng bình thưng
còn con sông ln mang tm vóc trụ. Không ch vy, s dng t n Vit còn
khiến cho bài thơ mang âm hưởng c kính, mang tính khái quát.
Không phi bt c tác phẩm nào cũng lời đề từ, khi đề t xut hiện thường
mt gi dẫn ý nghĩa bao quát toàn b ni dung tác phm. Trước khi bắt đầu bài
thơ Tràng giang là lời đề t do chính Huy Cn sáng tác:
Bâng khuâng tri rng nh sông dài
Câu thơ đề t gợi ra không gian trụ rng ln, bát ngát m ra c chiu rng
chiều cao. Trước không gian y con người cm thy vơ, lạc ng, đây cũng
cm xúc ca biết bao thế h thi nhân xưa nay. Câu thơ đ t đã khơi mạch cm xúc
chung của bài thơ.
Bài thơ mở đầu bng kh thơ thấm đưm ni bun:
Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyn v c li sầu trăm ngả
Ci mt cành khô lc my dòng
Những con sóng lăn tăn gn theo chiu gió thi, không gian y hoàn toàn yên tĩnh.
Nhưng đây không ch thiên nhiên n khut còn m trng của con ngưi
“buồn điệp điệp”, nỗi bun không còn hình hu hình qua t y “điệp điệp”.
Ni bun y tng tng lp lp chng lên nhau, tuy nh nhàng thấm đẫm,
lan tỏa trong lòng con người. Ni bật trong không gian đó hình nh con thuyn
xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Gia dòng tràng giang con thuyn tr nên nh,
đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. T “xuôi mái” cho thấy trng thái buông
xuôi, phó mặc cho ng ớc đẩy. Đó phải chăng cũng chính tâm trng ca
những con người Vit Nam trong hoàn cnh lch s lúc by gi. Thuyn c trôi, c
v để li ni bun mênh mang, hn cho người li nước. hin hin trong
hin thực đó chính những cành củi khô đơn độc, l loi. Đảo ng “củi” được đảo
lên đầu câu nhn mnh s nghĩa, tầm thường, không ch vậy đó còn cnh ci
khô không còn sc sng lc trôi giữa dòng đời định. Hình ảnh củi khô” n d
cho nhng kiếp người nh bé, gia s mênh mông của dòng đời. Đng thi
còn n d cho cái tôi lc loài, bơ vơ trong Thơ mi.
Huy Cn di chuyển điểm nhìn v gần hơn vi nhng bãi, nhng cn ngay trưc
mắt mình. “Lơ thơ cồn nh gió đìu hiumột hình nh rt thc bãi gia sông
Hng, kết hp vi hai t láy thơ” “đìu hiu” gợi nên s thưa thớt, vng v, hiu
qunh. Trong không gian y tác gi c gắng đi m hơi m cuc sng, tiếng ch
xa, nhưng “đâu” thể tìm thấy được, không gian s tĩnh lặng đến tuyệt đối. Ni
buồn càng được đậm hơn nữa khi không gian được m rộng đến cùng, nng
xung chiu lên, sông dài tri rng, kết hp vi t “sâu chót vót” đã mở rng
không gian ra c ba phía: rng, cao, sâu. Khc ha ni đơn, sự nh đến cc
điểm của con người trưc không gian vũ tr.
Đôi mắt Huy Cn li tìm kiếm, lại hưng ra vô cùng và thu li ch:
Bèo dt v đâu hàng ni hàng
Mênh mông không mt chuyến đò ngang
Không cn gi chút nim thân mt
Lng l b xanh tiếp bãi vàng.
Những cánh bèo lênh đênh, đnh ni tiếp nhau chy trôi, s chy trôi không mc
đích, không phương hướng, cũng nnhững kiếp người nh bé, đơn độc lúc by
giờ. Không gian sông nước mênh mông không ly mt chuyến đò qua sông. Đò
y không đơn thuần phương tiện trung chuyển con người còn phương
tin kết ni tình cm. Nhưng tất c đã bị ph định mt cách tuyệt đối: không mt,
không cu, không còn mt chút tình đời, tình người nào còn tn ti đây nữa.
Kh thơ cuối cùng v ra bc tranh không gian nhiu tng bậc, ông hướng mt lên
cao: “Lớp lớp y cao đùn núi bc/ Chim nghiêng cánh nh, bóng chiều sa”. Bầu
tri vi nhng đám mây lớn được phn chiếu dưới ánh mt tri tr nên hùng vĩ,
tráng l hơn. Đng t “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo v, dng lên nhng
dãy núi tráng l. giữa lưng chng tri cánh chim nh bé, đơn độc, cảm tưởng
như đã bị không gian nut chửng. Trước cnh thiên nhiên tch, lng l, ni
nh quê hương trong ông bỗng da diết, cn cào:
Lòng quê dn dn vợi con nước
Không khói hoàng hôn cùng nh nhà.
Câu thơ làm ta bất giác nh đến câu thơ ca Thôi Hiệu: “Nhật m hương quan
x thị/ Yên ba giang thượng s nhân sầu”. Cũng đều ni bi ai, ni nh quê
khc khoải nhưng Huy Cận đã cách thể hin tht mi, tht lạ. Lòng quê “dờn
dợn” tức c tăng, cứ mạnh mãi lên, ờng như sóng lòng đang tri ra cùng sóng
nước. Ni nh quê hương luôn thưng trc, dai dẳng. Đây cũng là biu hiện kín đáo
của lòng yêu nước.
Tác phm s kết hp hài hòa gia c điển hiện đại, đã v nên bc tranh thiên
nhiên mênh mông qunh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thy một cái tôi
lạc lõng, mt ni bun tn giữa đất trời. Nhưng đồng thi bài thơ cùng thể
hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng.
Phân tích bài Tràng Giang mu 3
Nhà thơ Huy Cn tên tht Huy Cn, vi giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên
tui của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn,
Tĩnh, sinh m 1919 mất m 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông
mang ni su v kiếp ngưi ca ngi cảnh đẹp ca thiên nhiên, to vt vi các tác
phm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ tr ca", "Kinh cu tự". Nhưng sau Cách
mng tháng Tám, hồn thơ của ông đã tr nên lạc quan, được khơi ngun t cuc
sng chiến đấu y dng đất nước của nhân dân lao động: "Tri mi ngày li
sáng", "Đất n hoa", "Bài thơ cuộc đời"... V đẹp thiên nhiên, nỗi ưu sầu nhân thế,
một nét thơ tiêu biểu ca Huy Cận, được th hiện khá nét qua bài thơ "Tràng
Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biu ni tiếng nht ca Huy Cận trưc Cách
mạng tháng Tám. Bài thơ đưc trích t tp "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy
Cận đứng b Nam bến Chèm sông Hng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng
vi vi bun, ám cnh cho kiếp người nh bé, ni trôi giữa dòng đời định. Mang
ni u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa nét đẹp c điển li vừa đượm nét hin
đại, đem đến s thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng tri rng nh sng dài
Sóng gi tràng giang buồn điệp điệp
....
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà.
Ngay t thi đề, nhà thơ đã khéo gi lên v đẹp c điển li hiện đại cho bài thơ.
"Tràng giang" mt cách nói chệch đầy sáng to ca Huy Cận. Hai âm "ang" đi
liền nhau đã gợi lên trong người đọc cm giác v con sông, không ch dài cùng
còn rng mênh mông, bát ngát. Hai ch "tràng giang" mang sc thái c điển
trang nhã, gợi liên tưởng v dòng Trường giang trong thơ Đường thi, mt dòng sông
ca muôn thu vĩnh hng, dòng sông của tâm tưởng.
T thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau
cái mênh mông sóng ớc, không như các nhà thơ mới thường th hin cái tôi ca
mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhp, giao cm,
Huy Cn li tìm v thiên nhiên để th hin nỗi ưu tư, buồn v kiếp người đơn,
nh trước trụ bao la. Đó cũng vẻ đẹp đầy sc quyến của tác phm, n
cha mt tinh thn hin đại.
Câu đề t gin d, ngn gn vi ch by ch nhưng đã thâu tóm đưc cm xúc ch
đạo ca c i: "Bâng khuâng tri rng nh sng i". Trước cnh "tri rng",
"sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con ni dy lên tình
cm "bâng khuâng" nh. T láy "bâng khuâng" đưc s dng rất đắc địa, nói
lên được m trng ca ch th tr tình, bun bã, u sầu, đơn, lc lõng. con
"sông dài", nghe miên man tít tp y c v sóng đều đặn khp các kh thơ, cứ cun
sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đc.
ngay t kh thơ đầu, người đọc đã bắt gp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu
não như thế:
Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyn v c li sầu trăm ngả
Ci mt cành khô lc my dòng.
V đẹp c đin của bài thơ được th hin khá ngay t bốn câu đầu tiên y. Hai
t láy nguyên "điệp điệp", "song song" cuối hai câu thơ mang đậm sc thái c
kính của Đường thi. không ch mang nét đẹp y, còn đầy sc gi hình, gi
liên tưởng v nhng con sóng c loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng c thì c
cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp",
nước "song song" y là mt "con thuyn xuôi mái", lng l trôi đi. Trong cảnh có s
chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thy v lng t, mênh mông ca thiên nhiên, mt
dòng "tràng giang" dài và rng bao la không biết đến nhưng nào.
Dòng sông thì bát ngát cùng, tn, ni bun của con người cũng đầy ăm p
trong lòng:
Thuyn v c li sầu trăm ngả
Ci mt cành khô lc my dòng.
Thuyền c vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ ớc xô, c v vào thuyn.
Thế mà Huy Cn li thy thuyền và ớc đang chia lìa, xa cách "thuyền v c
lại", nghe sao đầy xót xa. Chính l vì thế gợi nên trong lòng ngưi ni "sầu trăm
ng". T ch s nhiều "trăm" ng cùng t ch s "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi
bun vô hn.
Tâm hn ca ch th tr tình được bc l đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sc: "Ci mt
càng khô lc my dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ng kết hp vi các t
ng chn lc, th hin nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Mt" gi lên s ít i,
nh bé, "cành khô" gi s khô héo, cn kit nha sng, "lc" mang ni sầu định,
trôi ni, bp bnh trên "mấy dòng" c thiên nhiên rng ln mênh mông. Cành ci
khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình nh gin d, không tô v sao đầy rn ngp, khiến
lòng ngưi đc cm thy trng vng, đơn côi.
Nét đẹp c điển "t cnh ng tình" tht khéo léo, tài hoa ca tác giả, đã gợi m v
mt ni bun, u sầu như con ng s còn v mãi các kh thơ còn lại để người đọc
th cm thông, thu hiu v mt nét tâm trạng thường gp các nhà thơ mới.
Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một v đẹp hiện đại rt thi v ca kh thơ. Đó
cách nói "Ci mt cành khô" thật đặc bit, không ch thâu tóm cm c ca toàn
kh, mà còn hé m tâm trng ca nhân vt tr tình, mt ni nim đơn côi, lạc lõng.
Ni lòng y được gi m nhiều hơn qua hình nh qunh vng ca không gian lnh
lo:
Lơ thơ cồn nh gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu.
Hai t láy "lơ thơ" "đìu hiu" đưc c gi khéo sp xếp trên cùng một dòng thơ
đã vẽ nên mt quang cnh vng lng. "Lơ thơ" gợi s ít i, nh "đìu hiu" lại gi
s qunh qu. Gia khung cnh "cn nhỏ", gthì "đìu hiu", một khung cnh lnh
lẽo, tiêu điều ấy, con người tr nên đơn côi, rợn ngợp đến độ tht lên "Đâu tiếng
làng xa vãn ch chiu". Ch một câu thơ mang nhiu sc thái, va gợi "đâu đó",
âm thanh xa xôi, không rt, th câu hỏi "đâu" như một ni nim khao khát,
mong mi của nhà thơ về mt chút s hoạt động, âm thanh s sng của con ngưi.
Đó cũng thể "đâu có", một s ph định hoàn toàn, chung quanh đây chng h
có chút gì sống động đ xua bt cái tch liêu ca thiên nhiên.
Đôi mắt nhân vt trnh nhìn theo nng, theo dòng trôi ca sông:
"Nng xung, tri lên sâu chót vót,
Sông dài, tri rng, bến cô liêu."
"Nng xung, tri lên" gi s chuyển động, m rng v không gian, gi c s
chia lìa: bi nng và tri mà li tách bch khi nhau. "sâu chót vót" là cnh diễn đạt
mi mẻ, đy sáng to ca Huy Cn, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ
không ch dng bên ngoài ca tri, ca nng, mà như xuyên thấu c trụ, c
không gian bao la, tn. Cõi thiên nhiên y qu mênh mông vi "sông dài, tri
rng", còn nhng thuc v con người thì li nhỏ, đơn biết bao: "bến
liêu".
V đẹp c điển ca kh thơ hiện ra qua các thi liu quen thuộc trong Đường thi như:
sông, tri, nng, cuc sống con ngưi thì bun tẻ, chán chường vi "vãn ch chiu",
mi th đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn v dòng sông, nhìn cnh xung quanh mong mi chút quen
thuc mang lại hơi ấm cho tâm hn đang chìm vào giá lạnh, v cô đơn. Nhưng thiên
nhiên đã đáp trả s khao khát y bng nhng hình nh càng qunh quẽ, đìu hiu:
Bèo dt v đâu, hàng ni hàng,
Mênh mông không mt chuyến đò ngang.
Không cn gi chút nim thân mt,
Lng l b xanh tiếp bãi vàng.
Hình nh cánh bèo trôi bng bnh trên ng hình ảnh thường dùng trong thơ c
điển, gi lên mt cái bp bênh, ni trôi ca kiếp người định giữa dòng đi.
Nhưng trong thơ Huy Cn không ch mt hay hai cánh bèo, "hàng ni
hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng ngưi rn ngợp trước thiên nhiên, đ t
đó cõi lòng càng đau đớn, đơn. Bên cnh hàng ni hàng cánh bèo "b xanh
tiếp bãi vàng" như mở ra mt không gian bao la vô cùng, vô tn, thiên nhiên ni tiếp
thiên nhiên, dường không con người, không chút sinh hot của con người,
không có s giao hoà, ni kết:
Mênh mông không mt chuyến đò ngang
Không cu gi chút nim thân mt.
Tác gi đưa ra cấu trúc ph định. "...không... không" đ ph định hoàn toàn nhng
kết ni của con người. Trưc mắt nhà thơ gi đây không chút gợi nim thân
mật để kéo mình ra khi nỗi đơn đang bao trùm, y kín, ch mt thiên nhiên
mênh mông, mênh mông. Cu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết ca con
người, dường như đã b cõi thiên nhiên nhn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cn li khéo v nét đẹp c điển và hin đại cho bu tri trên cao:
Lp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nh bóng chiu sa.
Bút pháp chm phá vi "mây cao đùn núi bc" thành "lp lớp" đã khiến người đọc
ởng tượng ra nhng núi mây trắng đưc ánh nng chiếu vào như dát bạc. Hình
ảnh mang nét đẹp c điển tht tr tình và li càng thi v hơn khi nó được khơi nguồn
cm hng t mt t thơ Đường c ca Đ Ph:
Mt đất mây đùn cửa i xa.
Huy Cận đã vận dng rt tài tình đng t "đùn", khiến mây như chuyển động, có ni
lc t bên trong, tng lp tng lp y c đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy
cht hiện đại, bởi nó đã vận dng sáng to t thơ cổ điển quen thuc.
nét hiện đại càng bc l hơn qua dấu hai chm thần tình trong câu thơ sau.
Du hai chm y gi mi quan h gia chim bóng chiu: Chim nghiêng nh
nh kéo bóng chiu, cùng sa xung mt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè
nng lên cánh chim nh làm nghiêng lch c đi. Câu thơ tả không gian nhưng gi
được thi gian bi s dng "cánh chim" "bóng chiu", vn nhng hình
ng thm m để t hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cnh c điển đó, ngưi đc li bt gp nét tâm trng hiện đại:
Lòng quê dn dn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
"Dn dn"mt ty nguyên sáng to ca Huy Cn, chưa từng thấy trước đó. Từ
láy này hô ng cùng cm t "vời con nước" cho thy mt ni nim bâng khuâng,
đơn của "lòng quê". Ni nim đó nỗi nim nh quê hương khi đang đứng gia
quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trng chung của nhà thơ
mi lúc bây gi, mt ni lòng đau xót trưc cnh mt nưc.
Bên cnh tâm trng hiện đại y t thơ cổ điển được gi t câu thơ: "Trên sông
khói sóng cho bun ng ai" ca Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cn vịn vào sóng để
bun, nh, còn Huy Cn thì bun không cn ngoi cnh, bi t ni bun
đã sâu sắc lm ri. Thế mi biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào
ca nhà thơ hôm nay.
C bài thơ vừa mang nét đp c đin, va mang nét hiện đại. V đẹp c điển được
th hin qua lối thơ by ch mang đậm phong v Đưng thi, qua ch dùng t láy
nguyên, qua vic s dng các thi liu c đin quen thuộc như: mây, sông, cánh
chim... Và trên hết là cách vn dng các t thơ cổ điển, gi cho bài thơ không khí cổ
kính, trm mc của thơ Đường.
V đẹp hin đại lan to qua các câu ch sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót
vót", du hai chm thần tình. Nhưng vẻ đẹp y đọng li cui cùng tâm trng nh
quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại ca các nhà tri
thc muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người vi phong cách tiêu biu rt "Huy Cn", vi
v đẹp c điển trang nsâu lng v đẹp hiện đại mang nng mt tm lòng yêu
nước, yêu quê hương.
Phân tích bài Tràng Giang mu 4
Huy Cn nhà thơ ni tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945) vi nhng tác
phm s kết hp gi yếu t hiện đại c điển. Phong cách sáng tác ca ông có
s khác bit ln gn lin vi hai thời điểm: trưc cách mng tháng Tám và sau cách
mng tháng m. th nói đó sự chuyn biến t ni u su, bun thi thế
trưc cách mạng cho đến không khí hào hứng vui tươi sau cách mạng gn vi công
cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” đưc viết trong thời trưc cách mng vi
mt ni nim cht cha u bun, gi lên s bế tc trong cuc sng ca kiếp người
trôi nổi lênh đênh. Bài thơ để lại trong lòng người đc nhiu ni nim khó t.
Ngay t nhan đề bài thơ, c gi đã thể khái quát được ng cm xúc ch
đạo của bài thơ. Hai ch “Tràng giang” th nói mt con ng dài, mênh mông
bát ngát. T Hán vit y khiến người ta liên tưởng đến những bài thơ Đường
ca Trung Quốc. Nhưng chính tràng giang này cũng gợi lên được tâm của ngưi
trong cuc khi mun nhc ti nhng thân phn ni trôi, nh sng lênh đênh trên
con sông dài tâm tưng và sông ca ni u uất như thế.
Lời đề t “Bâng khuâng trời rng nh sông dài” một ln na khái quát nên ch đề
của bài thơ chính nỗi nim không biết y t cùng ai khi đứng gia trời đất mênh
mông bao la. C bài thơ toát lên đưc v đẹp va hiện đại va c điển, cũng
đặc trưng trong thơ của Huy Cn.
ớc vào bài thơ, kh thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên ởng đến mt con sông
cht cha bao ni bun sâu thm:
Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyn v c li su tram ng
Ci mt cành khô lc my dòng
Vi mt lot t ng gi buồn tlương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu tram ngả”, lạc
mấy dòng” kết hp vi t láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lt t hết thn
thái ni bun biên, tn ca tác gi trong thi thế nhiu bt công như thế
này. Ngay kh thơ đầu, nét chm phá ca c điển đã hòa lẫn vi t hiện đại. Tác
gi đã mượn hình nh con thuyền xuôi mái hơn hết hình nh “củi khô” trôi
một mình, đơn lẻ trên dòng c mênh mông, tận, đinh. Sc gi t ca câu
thơ thực s đầy ám nh, mt con sông dài, mt con sông mang nét đp u bun, trm
tĩnh càng khiến người đọc thy buồnthê lương. Vốnthuyền và nưc là hai th
không th tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác gi viết “thuyền v c li su
trăm ngả”, liệu rng uẩn khúc chăng, hay s chia lìa không báo trước, nghe
xót xa nghe qunh long hiu ht quá. Mt ni buồn đến tn cùng, mênh mang
cùng sông c dp dềnh. Đim nhn ca kh thơ chính câu thơ cui vi hình
ảnh “củi” gợi lên s đơn chiếc, nh, mng manh, trôi dt khắp nơi. Có th nói
câu thơ đã nói lên đưc tâm trng ca các nhà thơ mới nói chung thi k đó, một
kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuc sng bn b cht chi
như thếy.
Đến kh thơ thứ hai dường như nỗi hiu qunh li đưc tăng lên gp bi:
Lơ thơ cồn nh gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu
Nng xung tri lên sâu chót vót
Sông dài, tri rng, bến cô liêu
Hai câu thơ đầu phng pht mt khung cành buồn thiu, đìu hiu và vng lng ca
mt làng quê thiếu sc sống. Đó phải quê hương ca tác gi hay không. Hình
ảnh “cồn nhỏ” nghe rt rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ven dòng sông dường như
khoác lên mình mt ni bun mặc định. Ngay c mt tiếng n ào ca phiên ch
chiu nơi xa cũng không thể nghe thy, hay có chăng phiên chợ y cũng buồn đến
hiu quạnh như thế y. Mt câu hi tu t gi lên bao ni nim cht cha, hỏi người
hay tác gi đang t hi bn thân mình. T “đâu” cất lên thật thê lương không
điểm tựa để bu víu. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không mt
bóng người, không mt tiếng động tht chua xót. Hai câu thơ cui tác gi n
hình nh trời sông đ đặc t s mênh mông định. Không phi trời “cao”
trời “sâu”, lấy chiu cao để đo chiều sâu thc s nét tài nh, tinh tế độc đáo
ca Huy Cn. Hình ảnh sông nước mênh mông mt ch “cô liêu” cuối đoạn
dường như đã lột t hết ni bun sâu thm không biết ng cùng ai y.
kh thơ thứ ba, tác gi mun tìm thy s ấm áp nơi thiên nhiên hiu qunh y
nhưng dường như thiên nhiêu không như lòng ngưi mong ngóng:
Bèo dt v đâu hàng ni hàng
Mênh mông không mt chuyến đò ngang
Không cu gi chút niềm thương nhớ
Lng l b xanh tiếp bãi vàng
Sang kh thơ thứ 3 dường như người đọc nhn ra mt s chuyn biến, s vận động
ca thiên nhiên, không còn u buồn tĩnh lặng đến thê lương như kh thơ th hai
na. T “dạt” đã diễn t tht tinh tế s chuyn biến ca vn vt y. Tuy nhiên t
ng này gn lin vi nh ảnh “bèo” lại khiến cho tác gi tht vọng “bèo” vn
định, trôi ni khắp nơi, không nơi bấu víu c lng l dạt “về đâu”, chẳng biết dt
v đâu, cũng chng biết dạt được bao nhiêu lâu na. Mặt nước mênh mông không
mt chuyến đò. Tác gi ch đợi ch mt chuyến đò để thấy được rng s sng
đang tồn tại nhưng dường như điều này là không th.
Mong ngóng gi niềm thương nỗi nh v quê hương nhưng tác giả nhn li là s im
lng ca vn vật quanh đây qua từ y “lặng l” đến thê lương và đìu hiu.
kh thơ cuối ờng như bút pháp ca tác gi được đẩy n cao nht, nét v chm
phá dùng rt đc điu:
Lp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nh bóng chiu sa
Lòng quê dn dn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
th nói ởng cũng như m nh của nhà thơ đưc gi gm qua kh thơ y.
Nét chấm phá “mây cao” “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng thêm su,
thêm buồn n. Hình ảnh “chim nghiêng nh” “bóng chiều sa” sự hu hình
hóa cái hình ca c gi. Bóng chiu làm sao th nhìn thấy được nhưng qua
ngòi bút con mt ca tác gi người ta đã hình dung ra đưc tri chiều đang dần
buông xung.
Hai câu thơ cuối cùng chính ni nh nhà, nh quê hương ca tác gi chng biết
gửi vào đâu, chỉ biết cht cha đong đầy trong trái tim. Câu thơ ca Huy Cn khiến
chúng ta liên tưởng đến t thơ của Thôi Hiu:
Trên sông khói sóng cho bun lòng ai
Là sóng ca sông hay là sóng trong lòng người
Bài thơ “Tràng giang” ca Huy Cn vi s kết hp bút pháp hin thc và c điển đã
v lên mt bc tranh thiên nhiên u bun, hiu quạnh. Qua đó khắc họa đưc tâm
trạng liêu, đơn độc của con ngưi một tình yêu quê ơng, mong ngóng v
quê hương chân thành, sâu sắc ca Huy Cn.
Phân tích bài Tràng Giang mu 5
Tràng Giang một bài thơ hay của Huy Cn mt trong những bài thơ tiêu
biu của phong trào Thơ mới. Bài thơ thể hin nỗi đơn, của con người
ngay giữa quê hương mình. Tràng Giang in trong tp La thiêng, xut bản năm
1940. Bài thơ nói về ni bun thế h, ni buồn không tìm được lối ra, nên như kéo
dài trin miên.
Phân tích 4 câu thơ trong đoạn đầu
Hiện lên đầu tiên tác phm là bức tranh sông nước vng v và tĩnh lặng.
Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyn v c li, sầu trăm ngả,
Ci mt cành khô lc my dòng.
Câu thơ đầu m ra bức tranh sông nước Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
hai hình ảnh được tái hiện đó thiên nhiên tâm trng ca con người. T
“ tràng giang” không ch gợi ra độ dài mà còn là đ rng. Dòng sông y có t “gợn”
ch gợn hơi, lăn tăn theo chiều gió nh. Gợi không khí tĩnh lặng ôm trùm khp
không gian. T tâm trng ca thiên nhiên tác gi i đến m trng của con ngưi,
có th nói có bao nhiêu song gn yby nhiêu ni buồn “Ngưi bun cnh có vui
đâu bao giờ”.
Đip t “điệp điệp” din t ni nim trong lòng tuy nh thôi nhưng dai dng trin
miên. “Con thuyền xuôi mái nước song song” Hình nh con thuyn xuôi mái ni bt
gia dòng sông, tr nên nh bé, đơn độc. “Xuôi mái” trng thái b động mc cho
dòng nước trôi. T láy “song song” “Thuyền v nước li sầu trăm ngã” tác gi đã sử
dng cp t ngược ng phải chăng đây s chia lìa, để khi ngun cho ni su
trăm ngã.
câu cui ca kh mt, hình ảnh đơn bình d, hin thực đó “cành củi khô”.
Ngh thuật đảo ng như nhấn mnh vào s tầm thường nh vô giá tr, không
ch và vật rơi khô gãy. Li mt cành còn khô quá tm thường nh và đơn đc cn
kit sc sng. Trôi dạt vô hưng gia không gian ln rng, n chứa sau đó là nhng
kiếp người và cái tôi lc loài trong phong trào thơ mi ca Huy Cn.
Phân tích 4 câu thơ đon 2
Lơ thơ cồn nh gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu.
Nng xung, tri lên sâu chót vót;
Sông dài, tri rng, bến cô liêu.
Bc pháp chung trong miêu t thiên nhiên trong thơ Huy Cận đó gợi hơn tả.”
thơ cồn nh gió đìu hiu”. Từ y “lơ thơ” gợi lên s ít i nhn mnh cái s vng v
nh nhoi, s qunh gia không gian mênh mông ch mt cn nh điều hiu
vng v. Tác gi c gng lng nghe tìm tiếng con người. “Đâu tiếng làng xa vãn ch
chiều”, đây là câu hỏi tu t, ph nhn s hin din ca cuc sống con ngưi.
Hai câu thơ cuối ca kh thơ thứ hai, tác gi đã sử dng biện pháp đối ”nắng xung
đối vi trời lên”, “sông dài đối vi tri rộng”, “sâu chót vót với bến liêu”. Động
t ngược hướng lên xung gi nên cm giác chuyển động rt. Gi nên chiu cao
sâu không gian đưc m biên. Ni bun thm vào to vật con ngưi hin n
vi mt trạng thái cô đơn.
Phân tích 4 câu thơ trong khổ thơ thứ 3
Bèo dt v đâu, hàng ni hàng,
Mênh mông không mt chuyến đò ngang.
Không cu gi chút nim thân mt,
Lng l b xanh tiếp bãi vàng.
Kh thơ tiếp theo gi nên s định “cánh bèo” không phải đơn thun cánh bèo
không tìm thy hướng đi của thiên nhiên. đó cả mt thế h thanh niên Vit
Nam không tìm thy hướng đi.
“Mênh mông không một chuyến đò ngang” trong toàn cảnh tr y tuyt nhiên
không bóng dáng của con ngưi. Bi chuyến đò, y cu thì phải con người
nhưng tác giả đã i là “không”. Dùng cách nói phủ định để khẳng định đây chỉ
một cái đó “lng l b xanh tiếp bãi vàng” ch thiên nhiên. Đó sự
đơn, cảm giác bt an ca một cái tôi thơ mới. Chính ni niềm y đã đưc tác gi
nói rt nhiều như li đề t “bâng khuâng trời rng nh sông dàitạo nên mt
điểm riêng cho nhà thơ Huy Cận con người đây cô đơn bt an, gợn ngưi.
Phân tích 4 câu thơ trong kh thơ cuối
Lp lp mây cao đùn núi bạc…
Chim nghiêng cánh nh: bóng chiu sa
Lòng quê dn dn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Kh thơ cuối dường như mờ o dn, hình ảnh “đùn núi bạc” không gian hùng vĩ,
tráng l, ty lp lớp. Đối lp vi không gian hùng tráng lệ đó“chim nghiêng
cánh nh bóng chiều sa”. Nếu như dòng thơ trên ta thy được du n c điển thì
đây yếu t hiện đại, cánh chim nh đang cố vươn cao lên trong buổi chiu
ấy. Cái tôi thơ mới y mang mt ni bun t thân, s thc tnh. nh chim không
ch ch nặng hoàng hôn mà còn trĩu nặng ni bun của các nhà thơ mi.
Đến vi hai câu cui của bài thơ “lòng quê dn dn vời con nước, không khói
hoàng hôn cũng nh nhà”. Đây nỗi lòng hoài hương, cái hiện đại đây sự ph
định s tác động ca ngoi cảnh đến tâm trng. Ni nh nhà da diết hơn, cháy bng
hơn, đi trên quê hương thy thiếu nh quê hương. T y “dợn dợn” như
những cơn sóng lòng đang dồn nén trong Huy Cn.
Kết bài
Nhìn chung toàn b i thơ nỗi buồn, đây là tâm trng của các nhà thơ lãn mạng
lúc by gi, ni bun ca c thế h thanh niên lúc by gi chưa giác ng được
ng cách mạng, bài thơ y tiêu biu cho hồn thơ Huy Cận “sầu o não”. Bài thơ
“Tràng Giang” được đánh giá bài tdọn đường cho thơ về quê hương đất nước.
Cách s dng ngôn t thơ cũng nbiện pháp tu t to nên mt tác phm hay
đặc sc.
Phân tích bài Tràng Giang mu 6
Khác vi hồn thơ sôi nổi, nhit huyết gn vi công cuộc đổi mi sau cách mng
tháng 8. Thơ Huy Cận những năm trước cách mng li mang nét u su, bun
trưc thi cuc. Chng thế "Tràng giang" ra đời li khc họa nét đơn ca
th trưc không gian bao la ca thiên nhiên. Cùng vi nét u bun khc khoải trước
không gian mênh mông, bài thơ còn nỗi nh quê hương, thương đất nước đang
chìm trong tang thương của thi sĩ.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo "Ngày nay" sau đó in
trong tp "La thiêng" - tập thơ đầu tay ca Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã
đưa ông trở thành gương mặt tiêu biu của phong trào "Thơ mới" thời kì đầu.
Ngay khi đọc tên bài thơ "Tràng giang" ngưi ta th hình dung được tưng
tâm tác gi gi trong đó. Tiêu đề gi ra mt con sông dài, mênh mông, bát
ngát. Tuy nhiên, n sau hình nh sông dài còn là nhng mảnh đi bp bênh, trôi ni,
u sầu. Câu đề t "Bâng khuâng tri rng nh sông dài" tiếp tc khẳng định ni nim
u ut, không biết t cùng ai ca nhân vt tr tình trưc không gian bao la ca dòng
sông.
Kh đầu tiên đến với người đọc bng hình nh con sông bun, cht cha nhng ni
nim khó t
"Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyn v nước li su trăm ngả
Ci mt cành khô lc my dòng."
Va mới đọc kh đầu tiên, người đọc thy đưc không khí u su, bun bã thông qua
c t "bun", "su", "lc cành khô". Câu th nht miêu t sóng, câu th hai t
nhng dòng trôi, nhng luồng c trên mt sông. Nếu như câu thứ nht gợi được
những vòng ng đang loang ra, lan xa, xô đuổi nhau đến tn chân tri, thì câu th
hai li v ra nhng lung nước c song song, rong đui mãi v cui tri. Trong câu
th nht "sóng gn" nhng vòng sóng nhỏ, lăn tăn. Nhưng chỉ cn mt gn sóng
ấy thì Tràng giang đã "buồn điệp điệp". T y hoàn toàn "điệp điệp" như diễn t
ni bun chng cht lên nhau, hết lớp y đến lp khác. Hình nh con thuyn "xuôi
mái nước song song" li gi v cm giác đơn độc trên dòng nước mênh mông vô
tn.
Hai câu thơ kết hp làm cho không gian va m ra theo b rng, vừa vươn theo
chiu dài. Tác gi tiếp tc khc ha ni chia li qua câu thơ th ba. "Thuyn"
"nưc" vốn hai hình nh gn bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt ca
nhân vt tr tình thì lúc y hai hình nh y không còn song hành vi nhau na.
"Sầu trăm ng", ni bun, s u hoài, bun càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ
th tác giả s dng biện pháp đảo ng "ci một cành khô" để nói v s đơn,
trơ trọi ca "ci". S t "mt" ch một mình, đơn cùng vi tính t "khô" - hết
nha sng, ng làm cho hình nh khô héo hơn. Tác gi tht tài tình khi đã sử dng
ngh thut đối "mt" - "my" như nhấn mạnh hơn sự độc ca ci trên dòng sông.
"Lc my dòng" không ch din t ni nim đơn của củi n nói đến s bp
bênh, trôi ni khi "lc" hết dòng sông này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu
thơ không chỉ phép đối còn cách ngt nhp 1/3/3. Vi cách ngt nhp y
"ci" xut hiện "độc lập" và điều đó càng làm rõ hơn tình cnh l loi ca s vt này.
th nói, hình nh " ci một cành khô" đã phần nào i lên tâm trạng thi - mt
con người tài hoa nhưng vẫn đang loay hoay gia cuc sng bn bề. Như vy, ch
vi kh thơ đầu tiên bc tranh thiên nhiên bun, su thm đã hiện rõ. Nét bút kết
hp gia c điển và hiện đại cũng phần nào giúp người đọc rõ hơn v tâm trng ca
thi sĩ.
Kh thơ thứ hai tiếp tc khung cnh bun nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sc
sng.
"Lơ thơ cn nh gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu
Nng xung, tri lên sâu chót vót
Sông dài, tri rng, bến cô liêu."
Huy Cn tht khéo léo khi s dng hai t y trong cùng một u thơ để miêu t
cnh hoang vu, vng v hai bên b sông: "Lơ thơ" - thưa thớt, ít ỏi, " đìu hiu" - vng
lặng, ít ngưi. Trên "cn nh" làn gió phng pht không khí bun, m đạm ca chn
ít ngưi, thiếu sc sng. u sầu đến ni không nghe thy tiếng n ào ca phiên
ch chiều. "Đâu" diễn t cảm giác mơ hồ, không xác định đưc đim ta đ bám víu.
Như vậy, ch qua vài nét chm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê thê lương,
thiếu sc sống. Đến vi hai câu thơ tiếp, dường như tác giả m rng tm nhìn ra qua
biện pháp đối "nng xung" - "trời lên" đã làm không gian mở rng v chiu cao, có
mt khoảng không gian đang giãn n ra giữa. Hai động t ngược hướng "lên"
"xung" mang li cm giác chuyển động. Nng càng xung thì bu trời càng được
kéo cao hơn. điểm nhn chính "sâu chót vót" - không gian m rng c v
chiu sâu. "Chót vót" vn là t y độc quyn khi nhắc đến chiu cao. Còn đã nói ti
sâu thì ngưi ta hay dùng "sâu hun hút" hoc " sâu thăm thẳm",...Chính cách dùng
t ng đặc sc ca Huy Cận đã gợi ra khoảng không trụ sâu thăm thẳm, đó cũng
lúc ni buồn, đơn của nthơ dâng lên cao, tr nên cùng tn. Mt c
nhìn đầy thú v, mi mẻ. Câu thơ cuối cùng thi dùng không gian rộng để nói v
nỗi đơn, vắng v. "Bến liêu" - buồn, thưa thớt trơ trọi gia không gian rng
ln ca sông, tri. Toàn cnh kh hai một màu đơn, vắng v, đối lp vi hình
nh cnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhn mạnh hơn nỗi u su vn c.
"Bèo dt v đâu hàng ni hàng
Mênh mông không mt chuyến đò ngang
Không cu gi chút nim thân mt
Lng l b xanh tiếp bãi vàng."
Hình nh trong kh thơ th ba đã bước đầu chuyển đng vi động t "dt",
nhưng sự vật đi m với động t y "bèo". "Bèo" vn hình nh tượng trưng
cho s bp bênh, chìm nổi, không nơi ổn định. Đã thế cm t "hàng ni hàng"
càng din t s định, chông chênh khi ng này đến hàng khác "nối đuôi" nhau.
Không gian đi lp vi thc ti ca cnh vt. Tác gi mong ngóng th nhìn thy
chuyến đò để cm nhn được s sống. Nhưng đáp lại s mong ch y là "không mt
chuyến đò ngang". kh thơ y, thi sử dng nhiu t ph định: "không đò"
gi tiếp đến là "không cu". Hình nh chiếc cu gi lên dáng v min quê, mang ni
nim "thân mật". Nhưng hình nh y không nên thành ra cm giác xa l,
đơn được cm nhn rõ. Với câu thơ cuối ca kh tác gi s dng nhiu màu sắc để
chm phá cho bc tranh. "B xanh tiếp bãi vàng" - sắc tranh tươi sáng, ni bt
nhưng đi m với t láy "lng l" làm chìm màu sc này xung. Gi đây hai hình
ảnh này không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu ca nó. T láy này cũng làm
cho không khí đìu hiu "lây lan" từ vt y sang vt khác. Tt c s vật đều nhn
chìm trong cô độc.
Nếu như ba kh thơ đu tiên bc tranh thiên nhiên bun, vng lng thì kh thơ
cui cùng chính là tâm tư, tm lòng ca thi sĩ
"Lp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nh bóng chiu sa
Lòng quê dn dn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà."
Xuyên suốt bài thơ tác giả liên tc s dng th pháp ngh thut t láy. "Lp lp"
- chng chất lên nhau, "đùn" đè lên m cho một vật đó hạ thp xuống. Như
vy, với câu thơ đầu kh bn tác gi li v tiếp bức tranh quê ơng với hình nh
rng ln nhiu lớp mây đè lên núi bc. Hình nh "chim nghiêng cánh nh" gi cm
giác nh bé, vơ. "Nghiêng" - không vng vàng. Hình ảnh y đối lp vi vế
sau "bóng chiu sa". Trên nn bóng chiu rng ln hình nh cánh chim nh lo âu,
còn đang hồ cho con đường m nơi trú ca mình. Hình nh cánh chim y đã
tng bt gp trong "Quyện điểu quy lân tm túc th" (M - H Chí Minh), tm dch
"Chim mi v rng tìm chn ngủ". Đến với câu thơ thứ ba tác gi đã nói lên ni
lòng nh quê ca mình. "Dn dn" gi lên, dy lên, ni nim khó nói. C mi
khi nhìn thấy "con nước" lòng yêu quê hương ca tác gi li dâng lên. Tuy nhiên,
nét đặc sc li nm câu thơ cuối cùng: "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".
Hơn nghìn năm trước Thôi Hiệu cũng từng chnh lòng nh quê mà tht lên rng:
"Nht m hương quan x th
Yên ba giang thưng s nhân su."
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho bun lòng ai?)
Ni bun của hai thi một s điểm khác nhau. Thôi Hiu do nhìn thy khói
sóng trên dòng sông nên bun nh v quê nhà, còn Huy Cn không nhìn thy
khói nhưng nỗi nh nhà vn dâng lên da diết. Nếu như Thôi Hiệu nh nhà do
đang xa xứ, đang ở x người còn ni nh ca Huy Cn xut phát t một người đang
đứng trên mảnh đất của mình nhưng bơ vơ, lạc lõng. Ni nh thương cũng xuất phát
t s bt lc, ngán ngm ca bản thân thi sĩ trước thi cuc.
Đặc sc ngh thuật trong "Tràng giang" trưc hết phi nói ti s kết hp nhun
nhuyn gia yếu t C điển (thơ Đường thi)yếu t thơ mới. Trong bài thơ tác gi
s dng nhiu t Hán Việt như tràng giang, bến liêu,...cùng với đó là đ tài thiên
nhiên c nh, hoang sơ, cái tôi bé nh trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu
t Đưng thi. Yếu t tmới được th hin thông qua cái tôi giàu cm xúc, hình
ảnh sinh động giàu sc gi. Bên cạnh đó việc s dng các t y, phép đối cũng góp
phần làm rõ hơn sự bé nh của con người trưc vũ tr rng ln.
Vi "Tràng giang", Huy Cn không ch mang đến bc tranh thiên nhiên rng ln,
mênh mông mà qua đó tác gi còn nhn mnh s đơn của "cái tôi" trưc ngân
rng ln. S đối lp này phn nào nói lên tình cnh l loi, s trôi ni ca nhng kiếp
người. Đồng thi tác gi bc l ni nim nh quê hương, tình cm thiết tha với đất
nước ca mình.
Phân tích bài Tràng Giang mu 7
Đến với phong trào Thơ Mới, ta được hòa mình trong vườn thơ đầy hương sắc tuyt
diu ca các thi nhân. Ta không khi ro rc, hng khởi trước nhng vần thơ táo
bạo, tràn đầy năng lượng hoc ca Xuân Diu, không khi bun man mác trước
hồn thơ sáng trong của Thế L, thn thc trước hình ảnh thơ đầy kì d ca Chế Lan
Viên, hay say sưa trước hồn thơ quê bình dị thân thương của Nguyn Bính.
đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bt gp nét bun riêng biệt, độc đáo đó một ni
su rn ngợp, u hoài, trước trụ mênh mang, dường như chân trời ca nhng ni
bun của nhà thơ c thế dài tận. Bài thơ “Tràng giang” tác phm tiêu biu cho
nét phong cách đó ca Huy Cn.
Bài thơ được in trong tập thơ Lửa thiêng viết vào năm 1940, tác phm bc l tâm
trng u bun của con người trưc cnh vt rng ln bao la, khc ho s cô đơn buồn
thương đến tuyt đi.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.”
Từng cơn sóng mệt mi gợn lăn tăn giữa dòng sông sâu rng. Con thuyn nh
độc gia dòng sông ng làm ni bt s nh bé, đơn, thuyền mặc trôi định
xuôi theo dòng giang bao la. Sóng gợn "điệp điệp", nước “song song", cảnh vt tuy
s vận động nhưng sao vn thy tĩnh lặng l lùng. Dòng sông thì bao la tn,
thiên nhiên vn tuyt đẹp đấy thôi mà sao vn mang ni su bun khó t:
" Thuyn về, nước li, sầu trăm ngả
Ci mt cành khô lc my dòng"
Thuyền c gn cht ch và song hành cùng nhau "thuyn về", " c li" -
dường như hai vật th lại đang trong thế đối nghch nhau gi s chia lìa, xa cách,
cũng như ni su của người thi nhân vy. Càng c m đến thiên nhiên để thoát li
ni su muộn trước nhân thế, trước thc tại đảo điên, thi nhân lại ng thy mình
độc, buồn thương, càng nh trước trụ tn. Nhng dòng c c thế lng l
trôi, cành ci khô mt mình lc giữa mênh mang sóng nước. Dường như chẳng th
điều khiển được dòng nước mình đi, trôi dạt định giữa sông nước. Cnh nh
nhàng, yên bình, đẹp nhưng đượm ni bun ln. Phải chăng cảnh cũng chất cha
tâm trạng hay chính lòng ngưi bun khiến cảnh cũng mang nỗi sầu tư, bi vn
"Người bun cảnh có vui đâu bao gi".
Ni lòng y lại càng sâu hơn, thê lương cô đơn hơn, ngm chìm vào tng cnh
vt:
"Lơ thơ cn nh gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu"
Bãi cn nh nhoi, ít i lại càng tô đậm thêm v đìu hiu qunh vng ca không gian.
Nét cnh vt phần hoang sơ, tiêu điều, đơn độc. Tiếng ch chiu xa vng li
chng ràng. âm thanh, hoạt động của con người đấy thôi, mà sao vn
không vơi đi nỗi lng l ca thi gian, ca thiên nhiên của lòng người. Chút âm
thanh tiếng nói nơi chợ xa y chẳng đ để xua tan đi cái buồn, cái tch liêu rn ngp
nơi đây. Càng ng v thiên nhiên chn quê nhà, càng mong mỏi chút đó sưởi
m cõi hn lạnh giá nhưng lại càng thy cô đơn trên chính quê hương mình.
Thiên nhiên đáp trả lại người thì nhân y mt khung cảnh đy bun vng, qunh
hiu:
"Bèo dt v đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không mt chuyến đò ngang.
Không cu gi chút nim thân mt,
Lng l b xanh tiếp bãi vàng.”
Cánh bèo trôi dt gia dòng sông, không mục đích, không chốn đến nơi về, c thế
xuôi theo dòng ớc. Đưa mắt nhìn v bến đò, lại ch thy hiu ht, quanh vng,
chuyến đò ngang cũng chẳng thy đâu, chẳng ai khiến ta thôi u su, chng ai cùng
người thì san bt ni sầu c này. Mong mỏi chút đấy sinh hot ca con
người cũng không thấy, bao quanh ch là nhng b xanh, bãi vàng tiếp ni nhau, ni
bun c thế cũng chất chng lên nhau, tht xót xa, đau đn biết nhường nào.
“Lp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nh: bóng chiều sa.”
Nhà thơ cái nhìn rất tinh tế khi miêu t thiên nhiên đầy tráng lệ, hùng vĩ, vận
động rất đẹp thơ. Từng lp y vn nh nhàng trôi gi tiếp nhau to thành
những hình núi đẹp đẽ, ln lao, tng áng mây mang ni lc, mang sc sng bt dit,
trưng tn. Cánh chim nh nghiêng mình cũng lúc bóng chiu dn buông xung.
Khi y, ni nh nhà, nh quê hương, tình cảm sâu nng với qhương li càng tri
dy, dạt dào đến khó t:
“Lòng quê dn dn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà.”
Trong trái tim nhân vt tr tình lúc này đong đy biết bao tình cm tốt đẹp chn quê
nhà. buồn đấy, sầu đấy, nhưng nghĩ v quê hương lại càng xúc động, không nói
nên lời. “Lòng quê dợn dn" phi chăng những đợt sóng lòng đang dâng trào
mãnh liệt nơi tâm hồn thi nhân đã dồn nén by lâu, càng thương nh li càng da diết
khôn nguôi. Đứng trên quê hương mà li nh quê hương khôn cùng.
Bng các hình nh giàu sc gợi, mang đậm phong v Đưng thi, vi nhng hình nh
c điển tiêu biu, s dng thành công các bin pháp ngh thuật đặc sc, Huy Cận đã
th hiện được cái i độc đáo của mình trong thơ. Bài thơ bồi đắp, nuôi dưỡng cho
tâm hn mỗi người v tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nng với quê hương
dân tc.
Phân tích bài Tràng Giang mu 8
Thời đại Thơ mới ca Vit Nam ghi du s thành danh ca nhiu bậc thi nhân đi
tài. Đó một Xuân Diệu khao khát tình đến cháy bng, mãnh lit. Mt Chế Lan
Viên trăn tr đi m cái tôi nhân. Mt Hàn Mc T chìm trong thc mng.
c một nhà thơ một con người mang tâm hn ca mt k o não, chênh vênh
giữa cõi đời rng lớn. Thơ ông hàm súc nhưng li n cha biết bao triết cùng
những dòng suy tưởng miên man. Không ai khác ngoài Huy Cn chàng thi đã
để lại cho đời biết bao tác phm xut sc tuyt thế đặc sc nht phi k đến thi
phẩm “Tràng giang”.
Hoàn cnh sáng tác chính xác của Tràng giang là vào tháng 9 năm 1939, khi y Huy
Cn mi ch va bước vào đ tuổi 20, đang theo hc tại Trường cao đẳng Canh
Nông. Bài thơ một phút ngu hng của thi trong bui chiều đp xe ra bến
Chèm ngm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chy. Bao ni nh, bao cnh su, s
đơn của một cái “tôi” trưc thiên nhiên c thế tuôn trào đ tr thành vần thơ còn
lưu truyền hu thế đến tn ngày nay.
Ban đầu, bài thơ tên“Chiều bên sông” sau đó tác gi đổi thành “Tràng giang”.
So với nhan đề cũ, Tràng giang mang âm hưởng Hán Vit trang trng, c kính
hơn. Sự lan ta ca vần “ang” không chỉ v ra cái mênh mông bát ngát rn ngp ca
không gian thiên nhiên sông nước còn ngm gi ra ni bun tri dài không dt.
Sau nhan đề lời đ t “Bâng khuâng trời rng nh sông i”. Chính lời đề t y
đã thâu tóm cả cnh và tình của bài thơ. Ta thy đâu thiên nhiên sao bao la chng
thấy điểm cui, còn ni bun, ni bâng khuâng li c rng dài mãi không nguôi .
Trong bài thơ Tràng giang, có th thy 2 bc tranh t cnh và t tâm trng của người
thi sĩ rất nét. V cnh vt, tt c đều nhum mt màu hiu qunh, vng v, liêu.
Nhà thơ mở đầu bng 4 câu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp đip,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyn v nước li, su trăm ngả;
Ci mt cành khô lc mấy dòng”
T y “điệp điệp” kết hp cùng trng thái buồn đã mở to ra nt trm trong cung
bc cm xúc khi vừa đọc nhng vần thơ đầu tiên. Ta không ch thy sóng tràng
giang đang cuồn cun còn thy nhng đt sóng lòng của người thi nhân ng
như cũng đang mênh mang lan tỏa hòa cùng trời đất. Con thuyn trên trên sóng
nước cũng chẳng mảy may chèo lái để mặc “xuôi mái nước song song”. Rồi đến
cuối cùng “Thuyền v c li, sầu trăm ngả” nhuốm màu chia ly bun bã. Nhng
vần thơ cứ thế đm cht c điển, ng như một bc thi nhân x Trung Hoa sáng
tác, cho đến khi tác gi nhắc đến hình nh ci. Không phải bèo cũng chẳng phi hoa
trôi trên sông, đây cành củi lạc dòng định. Thân phn ci khô héo, lênh
đênh trên sông nước càng thêm phần lay động.
Hai câu đầu ca kh tthứ hai của bài thơ tiếp ni bun len li vào tng không
gian:
Lơ thơ cồn nh gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu
Nng xung, tri lên sâu chót vót;
Sông dài, tri rng, bến cô liêu.
Ni buồn giăng mắc, hồ hòa quyn vi cái v hiu ht, qunh qu đôi bờ sông.
Nhà thơ muốn nghe lm, muốn đưc thy lm tiếng người nói cười nhưng “Đâu
tiếng làng xa vãn ch chiều”. “Đâu” ở đây là diễn t “đâu đó” hay “đâu có” - tác gi
cũng không nói với người đọc. T “vãn” càng tạo ra cm giác xa xôi, t nht,
qunh vng. Vy là mun nghe âm thanh ca cuc sống nhưng cuối cùng đáp trả li
ni lòng ngưi thi nhân ch là cnh vt hoang vu, ni bun man mác.
Ri bỗng nhiên, điểm nhìn t dưới thấp đột ngt đưc đy lên cao.
“Nng xung, tri lên sâu chót vót;
Sông dài, tri rng, bến cô liêu”
Ngòi bút ca Huy Cn v lên “nắng”, “trời”, “sông”, “bến”. Những cnh vt vn
quen thuộc trong thơ ca nay lại nm trong mt tâm thế khác bi mt li dùng t ng
cht lc đến tinh tế. Tác gi miêu t “trời lên sâu chót vót” thay vì “tri lên cao chót
vót”. Bởi cái “sâu” đây không chỉ chiu kích không gian cnh vt còn
gi lên mt ni bun không đáy, nỗi bun tri dài đến cùng tn của lòng ngưi.
Ngưi bun cnh vui bao giờ, để cui cùng những đng li ch còn Sông
dài, tri rng, bến cô liêu”.
Đến kh thơ thứ ba, ờng như tác giả đã hoàn toàn bt lc để kéo bn thân ra khi
ni bun rn ngp.
“Bèo dt v đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không mt chuyến đò ngang.
Không cu gi chút nim thân mt,
Lng l b xanh tiếp bãi vàng.”
Huy Cn s dng hình ảnh “bèo” s vt nh bé, tầm thường thay cho li din t
đến nhng kiếp người mang s phn bp bênh, trôi nổi, định gia dòng đời. C
kh thơ 4 câu đều không thy s xut hin của bóng dáng con ngưi. Tt c ch
thiên nhiên ni tiếp thiên nhiên, ni bun tiếp ni ni bun. Cu trúc ph định
“không một chuyến đò ngang” “không cầu gi chút nim thân mật” đã xóa sạch
s kết ni của con ngưi. Thật khó để nhìn thấy trong “Tràng giangmt chút du
vết ca s vi vã, ồn ào, bon chen đời thường. Th khiến độc gi đm chìm ch
mt ni bun hiu ht khó t.
Kh cui cùng, s đơn đến đây được đẩy lên như một nt thanh cao vút trong
bản giao hưởng ni bun
“Lp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nh: bóng chiu sa.
Lòng quê dn dn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà.”
Những câu thơ mang đy màu sc c điển. Huy Cận đã s dng bút pháp chm phá
để v lên bc tranh thy mc núi, mây, cánh chim nghiêng, bóng chiu,
khói hoàng hôn. Trời đổ bóng hoàng hôn, nỗi đơn càng thêm phần thm thía.
Cánh chim cô đơn xut hiện chơ lẻ loi khiến người đọc đặt ra hai gi thiết. Chim
nghiêng cánh nh kéo bay ling bóng chiu sa xung tràng giang hay chính ng
chiu buông dn rồi đè nặng lên cánh chim đang nghiêng lệch. Nhưng dù thế nào t
cnh vật lúc y cũng nặng trĩu nỗi tâm nh ca k thi nhân đa sầu đa cảm. T y
“dn dn” th hin nỗi bâng khuâng đơn trào dâng trong lòng. Tất c cm xúc
dn lại đem đến nỗi “nhớ nhà”. Câu cui của “Tràng giang” khiến ta liên tưởng đến
đôi ba câu thơ cũ của Thôi Hiu:
"Nht m hương quan hà xứ th
Yên ba giang thưng s nhân su."
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho bun lòng ai?)
Nghìn năm trưc, thi nhân Trung Quc thy khói sóng trên sông bun, còn Huy
Cn, ni bun c thế đến mt cách t nhiên. Chng cn mt ngoi cnh nào tác
động. Tt c trào dâng trong ng nỗi vơ, khc khoải, đơn, da diết vi cuc
đời.
Bng nhng t ng giàu sc gi t, bút pháp c điển mang đậm nét Đường thi, Huy
Cận đã tạo ra mt Tràng Giang nhum màu ni bun, nỗi đơn. Một cái “tôi” lẻ
loi giữa trụ thường bao la đã được bc l rt nét. Đồng thi, cho ta thy
ni nh nhà, nh quê hương đến da diết su bi trong tâm hồn người thi sĩ đa cảm.
Phân tích bài Tràng Giang mu 9
Huy Cn mt trong s nhng nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới vi mt
“hồn thơ ảo não”. Thơ của Huy Cận luôn để li ấn tượng sâu sc trong lòng bạn đọc
bi nhng khung cnh thiên nhiên hoang vng, mênh mang luôn thm đẫm mt
ni buồn. Bài thơ “Tràng giang” in trong tập “Lửa thiêng” một trong s nhng
sáng tác tiêu biu cho hồn thơ Huy Cận.
“Tràng giang” để li n tượng sâu sắc trong lòng người đọc ngay t nhan đề câu
thơ đề t ca tác phẩm. Nhan đ bài thơ mt t Hán Vit mang sc thái c kính,
với nghĩa sông dài. Nhưng đặc bit ch, tác gi không s dng “trường giang”
là dùng “tràng giang” với hai vần “ang’ - hai vn vn mở, có độ vang, độ ngân xa
liên tiếp nhau, điều đó đã gợi lên trong cm nhn của người đọc nh nh mt con
sông va dài va rộng. Thêm vào đó, câu thơ đề t ca tác phẩm “Bâng khuâng trời
rng nh sông dài” cũng đã khái quát mt cách ngn gn, đầy đủ tình và cnh trong
bài thơ đó chính bức tranh thiên nhiên vi tri rng, sông dài cm xúc bao
trùm toàn b bài thơ đó chính ni nh, nim ng khuâng cùng ni buồn như lan
ta vào trong mi cnh vt.
T nhan đề câu thơ đề t của i thơ, kh tthứ nhất đã mở ra mt không gian
sông nước sông nước rng lớn. Câu thơ mở đầu kh thơ thứ nhất đã mở ra mt hình
ảnh sông nước mênh mang.
Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp
ờng như, dòng sông “tràng giang” đã i nay lại ntrải dài ra hơn với từng đt
sóng “điệp điệp” cứ nối đuôi nhau vỗ vào b không ngng ngh, không dt. Nhng
đợt sóng y như trải dài đến tận càng đậm thêm không gian rng ln, bao la
của sông nước. đ ri, trên cái nền sông nước mênh mông y, hình nh con
thuyn hin lên tht nh nhoi, c thế “xuôi mái nước song song”. nh ảnh đối lp
giữa không gian sông nước mênh mông vi hình nh con thuyn nh càng gi
lên trong chúng ta s cô đơn, le loi. Đặc bit, kh thơ thứ nhất còn để li ám nh sâu
sc trong lòng người đc bởi hai câu thơ cui ca kh thơ.
Thuyn v nước li su trăm ngả
Ci mt cành khô lc my dòng
T xưa cho đến nay, thuyền c hai hình ảnh luôn đi liền vi nhau, y vy
đây dường như thuyền và nước nhưmột ni buồn chia lìa đang đón đợi.
l bi thế cnh vt y càng khiến cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc bit, gia cnh
sông nước mênh mông y, hình nh “củi mt cành khô lc my dònggợi lên trong
lòng người đọc ám nh khôn nguôi v cõi nhân sinh, lạc lõng, vơ, không biết ri
s trôi dt v đâu bởi trăm dòng mênh mông định. Nvậy, trong kh thơ th
nht, nếu dòng tràng giang dòng đi tn thì hình nh con thuyn, cành ci
khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nh nhoi, vô định. Đồng thi, kh
thơ cũng gợi lên ni bun không nguôi, không dt ca tác gi.
Nếu trong kh thơ mở đầu của bài thơ, tác gi v nên không gian sông c mênh
mông thì trong kh thơ thứ hai, tác gi li m ra không gian nơi cn nh. Hai câu
thơ mở đầu kh thơ thứ hai đã v nên mt không gian hoang vng, hiu qunh.
Lơ thơ cồn nh gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu
Vi vic s dng ngh thuật đảo ng cùng t y “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc bit gi
cm tác gi đã vẽ nên mt bức tranh nơi cn nh vừa thưa thớt, hoang vng, lnh
lo va gi nên mt ni buồn mênh mang. Thêm vào đó, sự hoang vắng, tĩnh mịch
của không gian ncàng được đậm thêm qua câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn ch
chiều”. thể nói, đây một câu thơ nhiều cách hiểu, “đâu” đâu có, phủ
nhn âm thanh ca tiếng ch chiều hay là đâu đó, gợi lên âm thanh yếu t ca tiếng
chợ. Nhưng lẽ du hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ vn gi lên trong
lòng người đọc ni bun, s hoang vng, tàn t, thiếu vắng đi sự sng của con người.
Nếu hai câu thơ đu kh hai gi lên không gian cn nh vng v, hiu qunh thì
dường như trong câu ba u bn, không gian ấy như được m rng c v bn
phía làm cho cnh vt vốn đã vắng v li càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn.
Nng xung, tri lên sâu chót vót
Sông dài, tri rng, bến cô liêu
Trong hai câu thơ, tác giả dùng “sâu chót vót” thay cao chót vót” bởi l ch
“sâu” không chỉ t cnh còn t tình, không ch gi lên mt khong không
gian rng ln, thm thm còn gi lên c ni bun, s đơn đến tt cùng ca
lòng ngưi trưc cái mênh mông, hoang vng ca cnh vt.
Như vậy, trong hai kh thơ đu của bài thơ, nỗi bun của nhà thơ như bao phủ lên
mi cnh vt, lên không gian rng lớn mênh mông. đ ri, trong kh thơ thứ
ba của i thơ, tác gi lên tr v với không gian sông nước vi khung cnh mênh
mang, đìu hiu, thiếu vắng đi sự sng của con ngưi.
Bèo dt v đâu hàng nối hàng
Mênh mông không mt chuyến đò ngang
Không cu gi chút nim thân mt
Lng l b xanh tiếp bài vàng
Hình ảnh “bèo dt v đâu hàng nối hàng” một ln na gợi lên trong người đọc hình
nh v kiếp ngưi, cõi nhân sinh trôi ni, không biết ri s đi đâu, về đâu. Thêm vào
đó, khổ thơ vi vic s dng ngh thut ph đnh lp li nhiu lần đã nhấn mnh s
hiu qunh, thiếu s sng ca cnh vt. L thường, chúng ta vẫn thưng thy rng,
thuyn cu những phương tiện, nhng hình nh th hin s giao lưu, kết ni
giữa con người với con người, gia miền đất y vi miền đất khác nhưng đây
“không một chuyến đò”, “không một y cầu”. Dường như, nơi đây chng bt
c th gn kết đôi b vi nhau, nó thiếu đi dấu vết ca s sng, ca bóng hình
con ngườihơn hết là tình người, mi giao hòa, thân mt giữa con ngưi vi nhau.
l bi thế hai b ca dòng sông c th chy dài, chy dài mãi chng bao
gi gp nhau, ch còn li nơi đây những b xanh, nhng bãi vàng ni tiếp nhau -
mt bc tranh đẹp nhưng tĩnh lặng và tht bun.
Nếu trong ba kh thơ trên, tác giả v nên mt bc tranh thiên nhiên rng ln, hoang
vng vi ni buồn, đơn thì trong kh thơ cuối cùng, tác gi đã thêm vào cho bức
ha thiên nhiên y mt gam màu mi ẩn sau đó ni nh quê hương da diết,
cháy bng ca tác gi.
Lp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nh: bóng chiu sa
Lòng quê dn dn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà
Hai câu thơ đầu kh thơ cuối đã vẽ nên mt bc tranh thiên nhiên chiu vi v
đẹp hùng vĩ, nên thơ. Hình nh những đám y trắng c hết lớp này đến lp khác
ni tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nng chiều như to nên nhng qu núi dát bc.
ờng như chỉ vi một câu thơ thôi nhưng tác giả đã tạo nên mt bc tranh thật đẹp.
để ri, trên cái nền thiên nhiên hùng y, hình nh cánh chim xut hiện như
ánh lên mt tia m áp cho cnh vt song nó vẫn không làm vơi đi ni bun trong sâu
thm tâm hn của nhà thơ. Dường như, sự đối lp gia cái nh ca cánh chim
chiu vi s rng lớn, hùng vĩ của “lớp lớp mây cao” càng làm không gian như rng
hơn ni bun, s đơn của nhà thơ ng thế tăng lên. để rồi, trước không
gian ấy, trong lòng nhà thơ hiện lên ni nh quê hương da diết, cháy bng. Hình nh
“dn dn vời con nướckhông chỉ t những đợt sóng lan xa hơn thế còn gi
lên cm giác bun nh đến tn của nhà thơ - ni bun của người xa x đang nhớ
quê hương da diết. Đặc biệt, câu thơ đậm cht c điển khép lại bài thơ đã diễn t
mt cách chân thc t nim thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ
tâm trng y cũng chính là tâm trạng thưng gp tng lp tiểu tư sản thi by gi.
Tóm lại, “Tràng giang” của Huy Cn vi s kết hp gia màu sc c điển màu
sc hiện đại cùng nhng hình ảnh thơ độc đáo đã gợi lên trong chúng ta ni bun, s
đơn của một cái tôi trước khung cnh thiên nhiên bao la, rng lớn đặc biệt đó
chính tm lòng tha thiết với quê hương, với đất nước. Đọc bài thơ, giúp chúng ta
hiu sao Xuân Diu tng đánh giá “Tràng giang một bài thơ ca hát non sông,
đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quc”.
Phân tích bài Tràng Giang mu 10
Mỗi ai khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dòng
sông quê hương. Đc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng ng quê luôn
ngun cm hng không bao gi vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ không th kìm lòng
phi viết. Một dòng sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ
Tế Hanh, một con sông Đà trong y bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm
đềm trong văn Hoàng Phủ…. chỉ khi đến với “Tràng Giang” của Huy Cn, ta
mi thy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng chứa chan tình quê trong
cm thc ca tác gi.
Mang trong mình c cái tài, cái tâm ln cái tm, Huy Cận được mnh danh nhà
thơ lớn, nhà n hóa lớn. Tuy am hiu nhiu nền văn minh, n a ca nhân loi,
hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sc dân tc. Sui nguồn thơ ca truyn thống đã rót vào
tâm hn Huy Cn nhng giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ những khi đạt
đến độ thun thc rt d đi vào lòng người. Th thơ lục bát truyn thng, th thơ
năm chữ ca dân ca Ngh Tĩnh trong tay Huy Cn va mc mc chân tình va
lắng đọng, hàm súc; sc thái biu hiện được phát huy rõ rt. Chất suy nghĩ bàng bc
khp các t thơ. Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sc so, y ấn tượng mnh
thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào m hn trí tu ngưi
đọc. Nhng bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thưng rất ít đưng nét, gin
ước theo bút pháp c đin, gi nhiều hơn tả. Do đó, thể nói: ấn tượng không gian
có được trưc hết nh phong v Ðường thi. Nhà thơ Xuân Diệu có ln tng nhn
xét: “Thơ viết v đất nước, thiên nhiên qhương một điểm mnh ca Huy
Cận. Dường như đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nht
ca tâm hồn mình”. Và “Tràng Giang” đã thể hin sâu sắc điều đó.
“Tràng giang” bài thơ tuyệt bút in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940.
Theo tác gi cho biết, vào mt bui chiu thu 1939, khi còn sinh viên trường Đi
hc Canh nông, Huy Cận đứng b nam bến Chèm, ngm dòng sông Hng mênh
mông, lòng dào dt xúc động viết bài thơ này. Đó nhng cm nhn v tràng
giang mt ni buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trưc
cảnh: “Sông dài, trời rng, bến cô liêu.”
Có th nói nhan đ ca một bài thơ chính là cửa ngõ, là đim xuất phát để ngưi đc
th lần theo đó khám phá nội dung ngh thut ca tác phẩm. bài thơ
“Tràng giang” cũng vậy, ý nghĩ, ni nim thm kín được gi trọn trong nhan đ vn
vn hai t “Tràng giang”. “Tràng giang” hay còn gọi “trường giang” một t
hán vit ý ch con sông dài. Nhưng tác giả li ly tên “Tràng giang” chứ không phi
“Trường giang”. Bởi vốn “Trường giang” chỉ ý nghĩa chỉ con sông dài đơn
thuần như thế; nhưng ngưc lại “Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông,
va nói lên m trng, ni nim ca chính tác gi. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi
nim ca Huy Cận chưa bao gi vơi khi đứng trước con sông rng ln mênh mông
này.
c vào thế gii của Tràng Giang, ta như lc vào mt min sông dài tri rộng đầy
cun hút:
Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyn v, nước li su trăm ngả
Ci mt cành khô lc my dòng.
Câu thơ đầu m ra vi sóng. Không n ào, mnh m “sóng gợn”. Động t
“gợn” vừa miêu t thế, va miêu t tâm thế. Bi lẽ, gợn” trước hết gợi đến
nhng chuyển động cùng nh, chm rãi ca sóng. Tuy một động t nhưng
thc chất “gợn” gợi ra cái không khi tĩnh lng, im ng của thiên nhiên sông nước.
Ngh thut lấy động t tĩnh của nhà thơ sao tht tài tình. Chi tiết m hoàn cnh
thiên nhiên, nhưng cũng mở ra không gian m trng của nhà thơ. Ta thy đó tâm
thế ca một con người mang trong mình s sâu lắng, cũng đượm bun. ng
không ch là sóng sông mà còn là sóng lòng, sóng tâm đang nh nhàng tng gn nh,
thấm cái “buồn điệp điệp” toát ra từ cnh di vào lòng thi nhân. T láy ‘đip
điệp” không chỉ v lên những đt sóng gn liên hi của sông nước còn dòng
sông tâm trng của nhà thơ, sóng lòng từng đợt từng đợt cuộn vào nhau. Đặc bit
hơn, ngay câu đầu, tác gi đã nhắc lại nhan đ bài thơ không phải không dng
ý. “Tràng Giangcon sông vừa dài va rng, gi ra không gian rng ln, choáng
ngợp. Đt gia cái nn y một con ngưi l bóng, nh nhoi đang đưa cặp mt
bun theo my con sóng lăn tăn tít tắp đến tn chân tri.
Điều này càng tô đậm thêm ni lòng ca Huy Cn, mt thi sẵn sàng bun mi lúc
mọi nơi. Nỗi bun của người l th dng chân trên quán chật đèo cao, buồn đêm
mưa, buồn nh bn, bun khi nng xung, khi chiu lên, thm chí là bun khi không
còn thy nhng dấu chân trên đường.
Nếu như câu thơ đu chp chùng sóng v thì đến nhng câu tiếp theo đã thấp
thoáng bóng dáng ca con thuyền. “Con thuyền xuôi mái nước song song” hay cũng
chính con thuyền trôi định, trôi song song dòng ớc, cho con sóng đưa đi.
Hình ảnh đó gợi cho tôi mt tâm thế buông xuôi, phó mặc cho dòng đời, s đời đưa
đẩy ca thi nhân. Cùng vi nỗi “buồn điệp điệp” trên, câu thơ càng m sáng tng ý
nghĩa sâu sắc này.
Có th nói, câu thơ thứ ba mt sáng to tài tình ca tác gi. Theo l thường,c
đẩy, thuyn trôi. Thuyn trôi theo dòng nước. Nói cách khác, thuyền và nưc không
bao gi tách rời nhau, ngược chiều nhau. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, c
lại”. Hai thế đi lp gợi ra cái vô lí trong logic nhưng thc cht, xét b sâu, b sau,
b xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng ca người l khách miền sông nước. Phi
chăng đó mặc cm chia lìa trong cm nhn ca Huy Cận khi đứng trước sông dài
tri rộng? Cũng như Hàn Mc T khi còn nằm trên giường bnh, nhìn ra xa mà thy
“Gió theo lối gió, mây đường mây”. Đó là nỗi buồn đầy ám nh trong mc cm chia
li. Thế nên Huy Cận “sầu trăm ngả”. Nỗi su to ln không th đắp
được.
Toàn b ni lòng của nhà thơ cuối cùng được kết đọng c trong nh ảnh “củi mt
cành khô lc mấy dòng”. Thơ ca từ c chí kim, ni buồn được cắt nghĩa dưới vô vàn
hình hài góc cnh khác nhau. cái ni bun khi thấy “cây ngô đồng, vàng rơi
vàng rơi thu mênh mông” (Bích Khê), cái nỗi buồn trước “rặng liễu đìu hiu”
(Xuân Diu), li cái bun khi nghe thy tiếng y não nùng trong thơ Lưu
Trọng Lư. Nhưng l, buồn trước mt cành củi khô thì chưa bao giờ xut hin
trong kho tàng văn hc Vit Nam. Ci ch nhng kiếp người nh bé, bt hạnh, cũng
trôi lênh đênh định trong dòng chy ca cuộc đời. Vy nên, “củi mt cành khô
lc mấy dòng” là điều không th tránh khi.
Kh th hai tiếp tc cái mạch thơ của kh đầu:
Lơ thơ cồn nh gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu
Nng xung, tri lên sâu chót vót
Sông dài, tri rng, bến cô liêu.
Điều đầu tiên gây ấn ợng trong lòng độc gi phép đảo ng. T láy “lơ thơ”
được đặt lên đầu câu, ni tiếp sau đó là “cồn nh gió đìu hiu”. Một câu mà xut hin
liên tiếp ba tính t ch s xác, nhỏ bé, l loi ca to vật. Đìu hiu, hay cũng chính
cái bun không ai chia s đang dậy sóng trong tác gi. Thay bc tranh thiên
nhiên như kh mt, kh thơ thứ hai li tái hin cuc sng sinh hot hàng ngày
tiêu biu nht hình nh ch chiu thời điểm vãn. Ch vốn miêu t cm giác
đông đúc, ấm no, tràn đy sc sống, đúng như Nguyễn Trãi tng miêu tả: “Lao xao
ch làng Ngư Phủ”. Đủ đ thy cái vui tươi nhộn nhp ca mt phiên ch. Huy
Cận không như thế, ông chn cho mình thời điểm vãn ch như một tín hiu ngh
thuật đặc sc. Ch vãn khi “người v hết tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất ch
còn v i, v th, lá nhãn và lá mía…” (Thạch Lam). Chi tiết gi ra cái hoang tàn,
xác, hiu quạnh, heo hút ca làng quê miền sông ớc, cũng gợi m cái bun
vô hn trong lòng thi nhân.
Hai câu cui mt sáng to ngh thut tiêu biu cho cái hồn thơ đậm phong v
Đưng thi ca Huy Cận. Câu trước, câu sau đối nhau, niêm lut s dng cht ch
cùng các động t, tính t đối nhau tng cp: lên xung, dài rộng như mở thêm
cho không gian. Sông nước đã rợn ngp nay càng rng lớn hơn nhiều ln. Sông
nước m ra theo chiu cao, chiu sâu, chiu dài, chiu rộng. Không gian như đang
giãn n t t theo mi chiều kích. Đọc câu thơ ta thấy như mọi vật đang chuyển
động r xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn. chính gia bc tranh y, ta thy
tâm đim vn là bóng dáng nh bé tưng chừng đơn độc, hiu qunh gia vũ tr.
Ni bun, ni su ca thi nhân vì thế mà nhân lên gp bi ln.
Kh thơ thứ ba vn tiếp tc mch cm xúc v s h hng, mt hết liên lc gia các
s vt. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh th nh nhoi, yếu đuối gia mt
nước mênh mông.
Bèo dt v đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không mt chuyến đò ngang
Không cu gi chút nim thân mt
Lng l b xanh tiếp bãi vàng.
Cnh mênh mang, bun bã, trng vng của Tràng Giang được nhân lên my ln ph
định. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ, biu hin ca s giao ni của con người
cuc sống, thường gi lên không khí tp np, thân tình, gi nh quê hương:
“Chiếc cầu nơi hẹn của đôi ta Đêm trăng sáng trên cu anh thi sáo Đêm
trăng sáng chân cầu em git áo Nhp cu ni nhng b vui.” (Nhịp cu ni nhng
b vui). Nhưng đây, không một chiếc cu bc nối đôi bờ, nghĩa tuyệt nhiên
không mt du vết ca s sng hay mt cái gợi đến tình người, lòng ngưi mun
gp g lại qua đôi bờ hoang vng. Hai b sông c thế chy dài v phía chân trời như
hai thế giới đơn, xa l, không bao gi gp nhau, không chút nim thân mt ca
nhng tâm hồn đồng điệu. Cnh Tràng Giang nay ch còn “lặng l b xanh tiếp bãi
vàng”. Bức tranh tht đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn đến nao lòng.
Trên mặt nước y xut hin hình nh cánh bèo l loi, đơn độc, gợi đến thân phn
“cánh bèo mt nước” (Nguyễn Du), s tan tác, chia lìa, phiêu bt:
Phn bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu cũng na là lênh đênh
Nguyn Du
Câu thơ cho ta thấy: Bèo dt hoa trôi trên dòng Tràng Giang hay cũng chính kiếp
trôi ni của con người trong dòng thi gian. C bn câu, mi câu mt ni bun riêng,
kéo nhau như sóng gn trong lòng Huy Cn.
Không nhìn dòng nưc bun hiu ht na, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:
Lp lp y cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nh bóng chiu sa.
Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong mt s bài thơ cổ
nói v bui chiu, tuy nhiên, hai hình nh này không tác dng ng cho nhau
như trong thơ c, mà chúng còn ý nghĩa trái ngưc nhau. Trong bui chiu mun,
nhưng từng lp, tng lp mây trên cao kia vn cht chng nên nhau, to thành
nhng núi bc, ni bt trên nn trời xanh trong. Đây mt cnh vật hùng biết
bao! Đó không phải đám mây đơn lững l trơi giữa tng không khi chiu v như
trong thơ của H Chí Minh. y đây chất chng, ánh lên trong nng chiu, làm
cho c bu tri tr nên đẹp đẽ rc r. Gia khung cnh y, mt cánh chim nh
nhoi xut hin. Cánh chim bay gia nhng lp y cao đẹp đẽ, hùng như ng
làm ni bt lên cái nh của nó. đơn côi gia trời đất bao la, ta như tâm hồn
nhà thơ bơ vơ giữa đt tri này.
Đặt cánh chim nhng núi mây bc thế đối lập, đã đậm thêm ni bun trong
lòng nhà thơ. Ni buồn như thấm đượm, lan ta trong khp c không gian:
Lòng quê dn dn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà.
“Lòng quê” hay cũng chính hn quê, nh quê trong lòng thi nhân, s hướng m
ch không ch đơn thuần tm lòng cht phác, quê mùa. Hai t “dn dợn” cho ta
cm nhn sóng bin đang bên ta, sóng biển cũng biết nh thương hay tác giả đang
nh thương vy? Hai t “dn dợn “còn gợi cho ta thy được s lên xung uốn lươn
ca sóng bin hay ni nh trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cnh hoang vng
ca mt bui chiêu tà.và ni nh y không ch mt ln liên tc, nhiu ln
nhưng nỗi y mi ch là “dn dợn” chưa phải cung nhiệt. Câu thơ muốn nói
lên lòng nh quê hương khi tác gi đứng trước sông nưc rn ngp.
Câu thơ cuối cùng kết lại toàn bài. Đó chính điểm nhn sâu sc nhất, đóng lại
ng, tình cm của bài thơ. “Không khói hoàng hôn” nghĩa không một yếu t
ngoi cảnh nào tác đng trc tiếp đến thi nhân nhưng tại sao nhà tvẫn nh nhà?
Đặt trong thơ ca từ c chí kim, Thôi Hiệu đã từng bày t ni hoài hương ca mình
thế y: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho bun lòng
ai” (Hoàng Hạc Lâu). Trưc cnh mà dâng trào nên tình nh. n Huy Cn, ta li
thy không mt chút gi nh nhưng tấm lòng nhà thơ vẫn hướng v quê cha đt t.
Đủ để thy cái tình quê y đậm đà biết nhường nào. Đặt trong hoàn cảnh ra đời
bài thơ, Huy Cận đứng trước dòng sông quê hương mà vẫn nh quê ơng, thâm
trầm nhưng sâu sắc. Tình cm y, tm lòng y, my ai sánh kp?
i hình thc một bài thơ đậm phong v Đưng thi, kết cu mch lc cái tài
sáng to ngôn ng, hình nh ca tác giả, bài thơ hiện lên như một bn hòa ca
đó, các nốt nhạc đều hp sc tấu lên khúc ca yêu thiên nhiên, đất c. Nhà phê
bình Phan C Đệ ln tng nhận xét: “Các nhà lãng mạn gi gắm vào trong thơ
mt tm lòng tha thiết yêu thiên nhiên đất nước mt s nâng niu đối vi tiếng
Vit, lúc by gi b xem như tiếng m gh, tiếng con đòi… Tiếng nói trong Thơ mới
tiếng m đẻ yêu thương, phong cảnh trong Thơ mới chính đất nước Vit Nam
mĩ lệ vi nhng v đẹp riêng ca từng vùng quê hương (“Quê hươngcủa Tế Hanh,
“Đây thôn Dạ” của Hàn Mc Tử, “Đà Lạt đêm sương” ca Quách Tấn, “Chùa
Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Chiều xuân” của Anh Thơ…). Cho nên ta có th
d dàng thng nht vi Xuân Diu khi anh viết: “Tràng giang” một bài thơ ca hát
non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.
Thi gian th ph bi mt s thứ. Nhưng những th càng ri xa thi gian,
càng sáng, càng đẹp. “Tràng Giang” ca Huy Cn một bài như thế. Cùng vi tm
lòng chan chứa tình yêu quê ơng đất nước của nhà thơ, thi phẩm s còn sng mãi
với chúng ta cho đến tận muôn đời.
Phân tích bài Tràng Giang mu 11
Lời đề t "Bâng khuâng tri rng nh sông dài", là cm hng ch đo ca Huy Cn
trong bài thơ "Tràng giang" đã khc chm vào thi gian và hồn người trong hơn nửa
thế k qua. "Tràng giang" là bài thơ tuyệt bút in trong tp "La thiêng" xut bản năm
1940.
Theo tác gi cho biết, vào mt bui chiu thu 1939, khi còn sinh viên tờng Đi
hc Canh nông, Huy Cận đứng b Nam bến Chèm, ngm dòng ng Hng mênh
mông, lòng dào dt xúc động viết bài thơ này. Đó nhng cm nhn v tràng
giang mt ni buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trưc
cnh "Sông dài, tri rng, bến cô liêu".
Kh thơ đầu nói v "sóng gn", con thuyn và cành ci khô trôi trên dòng sông:
"Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song".
Tràng giang - sông dài lớn, như Hoàng Hà, Trường Giang,... đây sông Hng
thân yêu, dòng sông nng phù sa". Sóng gợn lăn tăn, lớp lp "buồn điệp đip",
như vỗ vào, thm sâu vào lòng ngưi bao ám nh. Con thuyn nh bé, trôi xuôi
dòng, buông mái chèo "nước song song".
Cp t y: "điệp điệp" "song song" gi t mt ni bun thm thía, xa vng
hồ. Hình nh cành ci khô va hin thc vừa mang ý nghĩa ợng trưng. "Củi
mt cành khô" nh bé, tầm thường t rng xa trôi v đã được đem vào thơ, to nên
"cái v ý mi m" của Thơ mới. còn biểu ng cho mt kiếp người phù du,
nh trôi ni trên dòng đi vô đnh. Buồn thương thế, biết đi đâu về đâu?
"Thuyn v nước li sầu trăm ngả;
Ci mt cành khô lc my dòng".
Phép đối được s dng sáng to, ch đối ý, đối hình vần thơ vẫn cân xng hài
hoà. Con thuyn cành ci khô đang cùng trôi ni trên tràng giang. Huy Cận đã
nói nhiều đến "vn c su", "bun thiên thu", đây ông lại viết "su trâm ng". C
cõi dương và cõi âm? "Sầu trăm ngả" như toả rng và ph lên nhng kiếp người đau
thương. Các số t trong ba vần thơ "sầu trăm ngả", "ci mt cành khô", "lc my
dòng" đã làm thấu cái ám nh v kiếp người thì nh bé, hu hn, s đau khổ, su
thương thì to lớn, vô hn.
Ni bun vô hn y lại đưc miêu t qua mt không gian bao la. i nh tương
phn vi cái mênh mông, ng. Cn thì nh thưa tht, buồn bã: "Lơ tcn
nh gió đìu hiu". Vần ng: "nh - gió", kết hp với y âm: "lơ thơ" "đìu hiu",
âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người v mt ni bun hiu ht, qunh. Ngh
thut s dng t láy tài ba, gi lên màu sc c kính, dn hồn người đc tr v vi c
thi: "Non qunh qu trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò" (Chinh ph
ngâm), "Lơ thơ tơ liễu buông mành..." (Truyn Kiu).
Ch chiu vốn đã bun xao xác, vãn ch chiu thì cái bun xao xác xa vng li
nhiu ln nhân lên. Thế mà gi đây cái âm thanh xao xác "vãn ch chiu" t mt
làng xa cũng không còn na. T "đâu" biu l cái ngơ ngác của thi nhân vi mt ni
bun cô qunh cha cht trong lòng: "Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu".
Bu tri lòng sông không gian hai chiu. Trời cao thăm thẳm in xung lòng
sông. Người ta thường nói: "cao chót vót", "sâu thăm thẳm", nhưng Huy Cận li viết:
"sâu chót vót" để làm ni bt hai tiểu đối: "nng xung" "tri lên" kia, cái bao la,
mênh mông đều rn ngp ca dòng sông, bu tri và bến đò xa vắng:
"Nng xung tri lên sâu chót vót;
Sông dài, tri rng, bến cô liêu".
"Tràng giang" thi phẩm đại din sáng chói, lung linh nht ca "La thiêng". Nói
đến "Tràng giang" nói đến "Lửa thiêng". Nói đến "La thiêng" nói đến ni
bun mênh mang, bao trùm không gian thời gian, ờng như ngầm cht cha
"cái lp sầu dưới đáy hồn nhân thế!" (Xuân Diu).
Câu hát "bèo dt mây trôi" trong dân ca quan h tng gi lên trong hn ta nhiu
cảm xúc hồ. Kh th ba, Huy Cn ly cánh bèo trôi dt trên tràng giang m
biểu ng cho s hợp tan, chia lìa trên dòng đời ca nhng kiếp ngưi truân
chuyên lưu lạc:
"Bèo dt v đâu hàng ni hàng;
Mênh mông không mt chuyến đò ngang.
Không cu gi chút nim thân mt,
Lng l b xanh tiếp bãi vàng".
Lng l b xanh tiếp bãi vàng".
Gia cái bao la trời đất, sông nưc hu như không có bóng dáng con người. Câu thơ
ph định bằng điệp t "không" liên tiếp: "không mt chuyến đò ngang", "không cầu
gi chút nim thân mt" ch mt màu vàng ca bãi tiếp ni vi màu xanh ca
b tn. Cái buồn đom của mt m trạng được din t trong mt không
gian "mênh mông" và "lng l'. Kh thơ cui nói v khonh khc hoàng hôn. Hoàng
hôn trong thơ cổ thưng gn lin vi tình quê, c hương
"Dừng chân đứng li: tri non nưc
Mt mnh tình riêng ta vi ta".
(Qua Đèo Ngang)
Thôi Hiệu, nhà thơ lỗi lạc đời Đường, đứng trên lu Hoàng Hc nhìn khói sóng ph
m trên sông bui hoàng hôn mà lòng thn thc:
"Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho bun lòng ai?".
(Tản Đà dịch)
Huy Cn la chn mt s thi liệu đầy chất thơ đ din t một tình quê vơi đầy: mt
cánh chim chiu, lp lp núi y bc. Không khói sóng vẫn thương nh quê
nhà da diết:
"Lp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nh: bóng chiu sa.
Lòng quê dn dn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà".
Câu thơ nên họa, đầy hình tượng và dt dào cm xúc. Hồn thơ Đường như thm vào
câu chữ. Ai đã từng xa quê, trong khonh khc hoàng hôn mi thy hết cái hayp
bun) trong những bài thơ nói về tình quê, lòng quê. "Nay hoàng hôn đã lại mai
hôn hoàng" (Truyn Kiu),..: "K chốn Chương Đài, người l th - Ly ai k
ni hàn ôn" (Chiu hôm nh nhà). - T cm nhn y, ta như bâng khuâng nhp hn
mình vào "Tràng giang", lng l trm ngâm nhìn theo "vời con nước" mà "nh nhà",
nh quê hương.
Huy Cn không cn khói sóng lòng qvn "dn dn", vn "nh nhà".
ràng tình quê trong Huy Cn cháy bng da diết cùng. Đúng thơ đích thc
nâng đỡ lòng người, khơi dậy những đẹp đẽ nht tim ẩn nơi đáy sâu tâm hồn
người đ vươn tới cái cao cả. Đọc "Tràng giang" ta cm nhn sâu thêm chân lí y.
"Tràng giang" mt trong những bài thơ hay nhất ca Huy Cn trong tp "La
thiêng", ngn lửa vĩnh cửu to sáng mt hồn thơ đẹp. Thi đã chn th thơ thất
ngôn vi bn kh thơ, như một bc ho t bình tuyt tác. Mt ni bun thm thía
được din t lp lp tng tng qua nhng vần thơ mĩ lệ, hàm súc.
"Tràng giang" là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng ngưi
mới "Đất n hoa" và nhng "Bài thơ cuộc đời" đằm thm, nng hu... sau y.
Đọc "Tràng giang" đ ta thêm yêu thêm nh đất trời sông núi quê hương.
Phân tích bài Tràng Giang mu 12
Trưc Cách mạng tháng m, thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm
ni bun - ni bun tiêu biu cho c mt thế h Thơ mới. Bài thơ Tràng giang (1939
- trích t tp La thiêng) th hin cái tôi bun miên man của nhà thơ trưc cnh tri
rng, sông dài; nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Bài thơ
còn th hiện tình yêu đất nưc thm kín của nhà thơ
Tràng giang nghĩa sông dài, từ tràng cũng đọc trường. Nhưng từ tràng giang
với âm ng mênh mang ca nó, gi cảnh bao la, bát ngát hơn (tràng giang đại
hi). Tác gi dùng t Hán - Việt đã tạo ra v c kính, vĩnh viễn ca dòng ng. M
đầu bài thơ là cảnh sông nước:
Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyn v nước li su trăm ngả
Ci mt cành khô lc my dòng.
Câu thơ đầu gi t cnh dòng sông mênh mang, nhng con ng gn nhô gi
nhau ti chân tri to cm giác êm trong không gian qunh vắng như chứa đựng
sn ni bun: buồn điệp điệp. Ni bun lp lp ni nhau tỏa theo con ớc đi về
trăm ngả: sầu trăm ngả. Cảnh tràng giang trong bài thơ mang một màu c kính;
Xanh om c th tròn xoe tán.
Trng xóa tràng giang phng lng l.
(Thuyền đi)
Hình nh b sung cho con thuyn cành ci khô chìm nổi lênh đênh giữa cnh bát
ngát ca dòng sông: Ci mt cành klc my dòng. T rng thm, cành ci qua
bao sông sui trôi v đây, dập dn gia chốn sông nước bao la, gợi liên tưởng
đến cảnh đi lạc loài, bơ vơ. Đó là hình nh n d cho kiếp ngưi nh nhoi, lc lõng
b dòng đời cun trôi không biết v đâu.
Kh thơ gi t cnh với không gian sông c mênh mông vi nhng đưng nét:
song song, điệp điệp, nhưng lại: sầu trăm ng, lc my dòng nên không ha hn
hi t, gp g chia tan, xa ri. Th pháp tương phản gia hình nh dòng sông
rng ln vi cnh ci khô chiếc thuyn nh bé, càng m ni bt cnh bát ngát,
vô tn ca dòng sông và thân phn l loi, bé nh của con người.
Âm điệu chung cho c bài thơ, bun thân phận con người đơn, lc loài trong
cuộc đời cũ. Khổ thơ thứ hai tiếp tc mạch thơ khổ đầu nhưng không gian được m
rộng ra và đẩy lên cao hơn.
Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu,
Nng xung, tri lên sâu chót vót
Sông dài, tri rng, bến cô liêu.
Cn nh đơn côi giữa dòng sông, li thêm ngọn gió đìu hiu làm cho cnh càng
hoang vu, hiu ht, chìm khuất. Dòng nước trên thưng ngun đ v nhn chìm
cn nh gia sông ch còn nhô lên vài ngn c lưa thưa gợi liên tưởng đến nhng
thân phn b dòng đi nhn chìm xô dt.
Không gian m rng sang bên b: cnh ch chiều đã vãn càng đm cái vng v,
xa lìa.. Cnh ch chiu gợi đến cuc sống, quê nhà nhưng chỉ là âm thanh xao
xác ri mt hút dn trong cnh mênh mang vng lng ca dòng sông. Dòng sông và.
nhà thơ như bị tách ra khi cuộc đời nên đứng trong cnh y lòng ngưi càng thêm
thương nhớ cuc sng quê hương.
Bu tri hin ra cũng làm tăng thêm vẻ lc lõng: Nng xung tri lên sâu chót vót.
Câu thơ giàu hình ng, gi t không gian hình khối đường nét màu sc:
tng vt nắng trên cao rơi xung to nên khong không sâu thm trên bu trời, độ
sâu ca bu tri như ngn cót vót. Cách ng t sâu gi không gian bu trời như
m rộng đẩy lên cao hơn, sâu hơn, tạo ra không gian thăm thm, khôn cùng
biên của vũ trụ và ni bun của nhà thơ dường như vô tn, mênh mông:
Sông dài, tri rng, bến cô liêu.
Dòng sông, bến bãi, đến bu trời đều ri rạc được kha lp ni bun của nhà thơ,
bun vì thiếu vng cuc sng nên mong m v vi cuc sống. Nhưng cnh càng
xut hin càng lc lõng, h hng:
Bèo dt v đâu hàng nối hàng
Mênh mông không mt chuyến đò ngang
Không cu mt chút nim thân mt
Lng l b xanh tiếp bãi vàng.
Các s vật được bên nhau: bèo dt ni hàng, b xanh tiếp bãi vàng nhưng tạo ra mt
thế gii không liên h, chia lìa. Trong khung cnh y hồn thơ muốn tìm đến du vết
ca cuc sống nhưng tất c đều mênh mông xa vắng được nhn mnh bi hai ln
ph định:
Mênh mông không mt chuyn dò ngang
Không cu gi chút nim thân mt.
Không một con đò, không một chiếc cầu tri âm, không có bóng ngưi hay cái gi
đến tình người đ mà gp g giao tiếp. Ch có mặt nưc mênh mông vng lng.
Ti ngã ba sóng nưc bn b,
Na chiu gà l y bên đê
(Em v nhà)
Trong cnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì s thiếu vng cuc sống. Nhà thơ
đứng ngay giữa quê hương mình mà cm thy vơ, trơ trọi nên càng khao khát
gn bó vi con ngưi, cuc sng, với quê hương:
Thuyn không giao nối đây qua đó
Vn thu ch mong mt cánh bum
o)
Bài thơ khép lại vi cảnh hoàng hôn kì vĩ nơi chân trời xa:
Lp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nh; bóng chiu sa.
Lòng quê dn dn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cnh m ra vi hình nh núi bạc đưc kết to bng y trng lp lánh ánh
nng tri. Tác gi bình: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông
trng n ra trên tri cao. Ánh chiều trước khi vt tt rng lên v đẹp”. Một v đẹp kì
thú, ngời sáng, hùng vĩ.
Hình nh y gi nh đến một ý thơ dịch t thơ Đường: “Mặt đất mây đùn cửa i
xa” (Đỗ Phủ) nhưng lại v đẹp rng r hơn. Một cánh chim chiu xut hin m
cho bức tranh thêm sinh động, thơ mộng, đẹp đẽ nhưng nh bé, mông lung. Cánh
chim nh như bị nng chiều đè xung, ch nghiêng cánh lá bóng chiều đổ xung làm
cho không gian như hình khi, trọng ng thiên nhiên v như trĩu nặng
ni bun ca thi nhân. Cnh mông lung xa vng y càng gi thêm lòng thương nh
quê hương:
Lòng quê dn dn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà.
Con sóng lòng nh qcủa nhà thơ đã ta ra nhập vào con sóng ớc. Con nước
cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi sóng ớc. Con nước cảm thông đã
mang tình quê mênh mang đi về mi nẻo. Ý thơ cuối mượn t t thơ của Thôi Hiu
đời Đưng:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho bun lòng ai.
(Hoàng Hc Lâu)
Người xưa nhìn khói sóng nh nhà, còn Huy Cn không cn khói sóng vn nh
quê hương. Vì mối tình y luôn khc khoải trong lòng. Đó là nguyên nhân chính ca
ni bun tri dài suốt bài thơ. Một con người bun nh quê ơng khi đúng ngay
giữa quê hương mình càng thấy vơ tội nghiệp làm sao! Bài tkết thúc cnh
hoàng hôn trên sông nưc và m ra mt tình quê bát ngát.
Tóm li, ni bun sông c, tri mây trong Tràng giang ca Huy Cận cũng nỗi
đau cuộc đời, ni su nhân thế. Nhà thơ gi gắm vào đó một tm lòng tha thiết yêu
quê ơng đất nước, s nâng niu đi vi tiếng Vit. vy, Xuân Diệu đánh giá:
“Tràng giang một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đưng cho lòng
yêu giang san, T quốc”.
Bài thơ thể hin cái bun chung ca mt thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi bun
toát ra t cái đẹp ca thiên nhiên thiếu liên lc thiếu tình người ch không phi i
bun cnh túng ngt ngt trong Nh rng ca Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị
c điển hình nh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đc sc của thơ hiện đại
không gian sc màu, t ng đến t thơ.
Phân tích bài Tràng Giang mu 13
Huy Cn là mt trong nhng nhà thơ xuất sc nht của phong trào Thơ Mới, thơ ông
mt bn sc giọng điệu riêng, chiu sâu hội cũng như triết lí. Thơ Huy
Cn mang mt ni bun sâu lng, miên man, o não thm đạm; ni bun ca
"đêm mưa", của "ngưi l th", ni bun ca "quán chật đèo cao", của "tri rng
sông dài". Tràng Giang mt bài thơ nổi tiếng ca Huy Cận, sáng tác vào m
1939, đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó in vào tập tLửa thiêng. Bài thơ
mang phong v Đường thi khá rõ. Đây bài tđược cảnh sông c mênh mông
ca sông Hng gi t. Huy Cận đã lần tâm sự: i thú vui thưng chiu ch
nht hàng tuần đi lên vùng Chèm để ngon cnh sông Hng và H Tây. Phong cnh
sông nước đẹp, gi cho tôi nhiu cm xúc. Tuy nhiên bài thơ không ch so sông
Hng gi cm n mang cm xúc chung v nhng dòng sông khác ca quê
hương".
Lời đề t "Bâng khuâng tri rng nh sông dài" khái quát ch đề ca c bài thơ
mt ni nim không biết bày t cùng ai khi đng giữa đất tri mênh mông, rng ln
bao la. Bài thơ toát lên vẻ đẹp va hin đại, va c điển, cũng một nét đặc
trưng trong thơ của Huy Cn.
M đầu bài thơ cảnh sông nước, kh thơ đầu m người đọc liên tưởng đến con
sông thăm thm chứa đựng biết bao ni bun miên man
Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyn v nước li, su trăm ngả;
Ci mt cành khô lc my dòng.
V đẹp c điển của bài thơ đưc th hin khá ngay t bốn câu đầu tiên y. Vi
mt lot nhng t ng gi ni buồn thê lương "bun", "sầu trăm ng", "lc my
dòng" kết hp vi t láy iệp điệp", "song song" cuối hai câu thơ mang đm sc
thái của thơ Đường thi ờng như đã lột t đưc hết thn thái ni bun biên,
tn của nhà thơ. Trên dòng sông gi sóng y hình nh mt "con thuyn xuôi
mái", lng l trôi th hiện trong tĩnh động nhưng sao người đọc vn cm thy v
lng t, mênh mông ca thiên nhiên, mt dòng "tràng giang" dài rng mênh
mang, tn biết bao. Dòng sông thì bát ngát cùng, tận ng người cũng
đầy p nhng ni bun khó t. Hình nh "thuyền", "nước" vốn đi liền vi nhau, thế
mà Huy Cn li đ chúng xa cách nhau "thuyn v nước li" sao nghe xót xa thế.
Chính thế gợi lên trong lòng ngưi mt ni "su trăm ngả". ng t "trăm"
kết hp cùng ch s "mấy" đã thổi vào câu thơ một ni bun dài tn, không
điểm dng.
Ni bun y được trút hết vào câu thơ cui "ci mt cành khô lc my dòng", Huy
Cận đã khéo dùng phép đo ng kết hp vi các t ng chn lc, th hin s cô đơn,
lạc lõng trước cnh sc bao la, rng ln. "Mt" gi lên s đơn, đơn chiếc, "cành
khô: gi lên s khô héo, cn kit nha sng, còn li thân xác trơ trụi, khô héo,
"lc"mang ni su đinh, trôi nổi, không định hướng trên "my ng" th
hin s chy trôi mt cách vô. Hình nh cành ci khô c trôi mãi trong định
khiến người đọc cm thy trng vắng, đơn đến l, th hin mt kiếp người long
đong, đang trôi dạt gia cuc sng bn b cht chi.
Đến kh thơ thứ hai dường như muốn đẩy ni hiu quạnh tăng lên gấp bi.
Lơ thơ cồn nh gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu.
Nng xung, tri lên sâu chót vót;
Sông dài, tri rng, bến cô liêu.
Hai câu thơ đầu phng pht mt khung cảnh đìu hiu, buồn man mác ca mt làng
quê nghèo, thiếu sc sng. Hình nh "cn nh" vi tiếng gió thổi "đìu hiu" như phủ
lên mình mt ni bun mặc định đến da diết. Đến nỗi nhà thơ phải đt mt câu hi
sao ngay c tiếng n ào ca phiên ch chiều cũng không nghe thấy hay phải chăng
phiên ch đó cũng buồn hiu quạnh như nơi đây. T âu" ct lên thật thê lương,
không điểm tựa đ bu víu. "Sông dài, tri rng, bến liêu", khung cnh hin lên
qua câu thơ ca Huy Cận sao hoang sơ, tiêu điều thế, nơi bến c không
một ng ngưi qua li, không mt tiếng động ca c y hay tiếng th ca con
người xung quanh ch đất tri dài rộng, đơn lẻ loi một mình. Hai câu thơ cui
tác gi đã mượn "trời", "sông" để t cái mênh mang đnh của đất tri, ca lòng
người. Nhà thơ không dùng trời "cao" li dùng trời "sâu" để đo chiều sâu thc
s nét tinh tế, độc đáo trong thơ Huy cận. Câu cuối đoạn như nói hết, lt t hết
ni bun sâu thm không biết ng cùng ai, nhà thơ đã phải nói thng s "cô liêu".
Sang kh thơ thứ ba, tác gii mun tìm s m áp của đất trời mênh mông nhưng
dường như cảnh sc thiên nhiên lại không như lòng người mong đợi
Bèo dt v đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không mt chuyến đò ngang.
Không cu gi chút nim thân mt,
Lng l b xanh tiếp bãi vàng.
Đọc kh thơ thứ 3, người đọc cm nhn mt s chuyn biến, vận đng ca thiên
nhiên, không còn bun rầu, u mê như những kh thơ đầu và kh thơ th 2. T “dạt”
đã diễn t tinh tế s chuyn biến ca vn vt thiên nhiên Tuy nhiên lại đưc gn
lin vi hình ảnh “bèo” “bèo” thì vốn định, trôi ni khắp i, không i
bu víu c lng l dạt “về đâu”, chẳng biết dt v đâu, cũng chẳng biết dạt được bao
nhiêu lâu na. Mặt c mênh mông không mt chuyến đò. Tác gi ch đợi ch
mt chuyến đò để thy đưc rng s sống đang tồn tại nhưng dường như điều y
không th.
Đến kh thơ cui cùng, nhng cm xúc, t pháp ca tác gi được đẩy lên đỉnh
điểm, nét v chm phá dùng rt đắc điệu
Lp lớp mây cao đùn núi bạc...
Chim nghiêng cánh nh: bóng chiu sa.
Lòng quê dn dn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà
Nét chm phá trong hình ảnh “mây cao” “núi bạc” giống như trong thơ Đưng
càng khc sâu s đơn, buồn phin. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” “bóng
chiều sa” là sự hu hình hóa cái vô hình ca tác gi. Bóng chiu làm sao có th nhìn
thấy được nhưng qua ni bút và con mt ca tác gi người ta đã hình dung ra được
tri chiều đang dần buông xung. Mây đây chất chng lên nhau, ánh lên trong
nng chiu, m cho c bu tri tr nên đẹp đ rc r. Gia khung cnh y, mt
cánh chim nh nhoi xut hin. Cánh chim bay gia nhng lớp mây cao đẹp đẽ, hùng
như càng làm nổi bt lên cái nh của nó. đơn côi giữa dt trời bao la, như
tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa cuc đi chông chênh vy.
Sang hai câu thơ cui cùng chính ni nh nhà nh, nh quê được tác gi bc l
mt cách ràng, tt c nhng tình m ấy nhà thơ chẳng biết gửi vào đâu mà chỉ
biết cht chứa đong đầy trong trái tim mình. Hai t "dn dn" gi ni nh trào dâng
của nhà thơ khi đứng trưc cnh hoang vng ca mt chiu khi hoàng hôn buông
xung. Câu thơ muốn nói lên ni nh quê hương da diết của nhà thơ khi đứng trước
sông c rn ngp. “Không khói hoàng hôn” nghĩa không một yếu t ngoi
cảnh nào tác động trc tiếp nhưng cảnh vt vn gợi trong lòng nhà tmột ni nh
quê cha đất tổ. Câu thơ cuối như bộc l tưởng, tình cm nhà thơ muốn gi
gm xuyên suốt bài thơ. Lúc nào trong lòng Huy Cận cũng mang một cái tình quê
sâu đm, mt ni nh quê da diết khôn nguôi.
Tràng giang ca Huy Cận bài thơ mang v đẹp va c điển va hiện đại. Bài thơ
“Tràng giang” ca Huy Cn vi s kết hp bút pháp hin thc c điển đã vẽ lên
mt bc tranh thiên nhiên u bun, hiu quạnh. Qua đó khắc họa được tâm trng
liêu, đơn độc của con người một tình yêu qhương, mong ngóng về quê hương
chân thành, sâu sc ca Huy Cận. i hình thc một bài thơ mang đậm phong
cách thơ Đường thi, kết cu mch lc cái tài sáng to ngôn ng, hình nh ca tác
giả, bài thơ hiện lên như một bn hòa ca đó, các nt nhạc đều hp sc tu lên
khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết :Tràng giang mt
bài thơ ca non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quc".
Bài thơ "tràng giang" bài thơ đặc sc trong cuộc đời thơ ca của Huy Cn. Bài thơ
s kết hp bút pháp hin thực đan xen bút pháp c điển đã khắc ha mt bc
tranh thiên nhiên u bun, hiu qunh, qua đó bộc l tâm trạng liêu, đơn độc ca
con người một tình yêu quê hương, mong ngóng v quê hương chân thành, sâu
sc của nhà thơ. Bài thơ "tràng giang" ca Huy Cận đã để li rt nhiu tình cm, n
ng sâu sc trong lòng bạn đọc.
Phân tích bài Tràng Giang mu 14
Hoài Thanh đã mt nhận định v các nthơ mới m 1930: “Ta thoát lên tiên
cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng u Trọng Lư, ta điên cuồng vi
Hàn Mc T, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép,
tình yêu không bền, điên cung ri tỉnh, say đắm vẫn vơ. Ta ngơ ngn bun tr
v hn ta cùng Huy Cận”. Mỗi nhà tđều mt phong cách riêng m nên nét
độc đáo riêng của mình. Huy Cn là một nhà thơ xut sc vi lời thơ đưm bun
mt ni su nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” một bài thơ đắc sc th hin rõ
ni su nhân thế ca Huy Cn lúc by gi.
Huy Cn mt trong s nhng nhà thơ mới trong giai đoạn 1930- 1945. Nếu n
Xuân Diệu say đắm trong trường tình thì Huy Cn lại chìm đắm trong ni su ca
nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” một bài ttiêu biểu đc sc nhất được trích
trong tập “Lửa thiêng” (1940). Huy Cận ng tác bài thơ khi đang đng b Nam
bến Chèm ca sông Hng, nhìn ngm cảnh thiên thiên sông c suy ngm v cuc
đời mình “tức cảnh sinh tình”. Bài thơ th hin sâu sc v đẹp thiên nhiên ng
như nỗi bun nhân thế ca tác gi.
Ngay t đầu bài thơ Huy Cận đã đưa chúng ta đến vi một nét đẹp c điển ít ai
có, ch khi đến vi Hay Cn chúng ta mi cm nhận được. Đó ch đặt tên nhan
đề bài thơ, “Tràng Giang” sông lớn, sông dài. Nhưng tại sao đây tác gi không
dùng “Trường Giang” lại “Tràng Giang”? “Tràng Giang” điệp vần “ang” tạo
nên mt âm thanh vang xa, đồng thời cũng thể hin mt ni bun tri dài xuyên sut
c bài thơ. “Bâng khuâng tri rng nh sông dài” lời đ t cũng đã mở rộng ra trước
mt chúng ta mt không gian rng lớn “trời rộng, sông dài”, một ni bun da diết
“bâng khuâng”.
“Sóng gn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyn v nước li su trăm ngả
Ci mt cành khô lc mấy dòng”.
Đến vi kh thơ thứ nht, chúng ta bt gặp đưc nhng hình nh mang tính c điển,
ch trong thơ cổ mới có: “trường giang”, “con thuyền”, “củi mt cành
khô”…Mở ra cho chúng ta mt không gian rng lớn, “điệp điệp” gi ra không gian
theo chiu rộng, “song song” gợi m không gian theo chiu dài. Mt không gian
bao la rng lớn, nhưng cũng tĩnh lặng l thưng. Bao chum lên cnh vt mt ni
buồn “điệp điệp” một ni bun tri dài khiến hình nh con thuyền cũng tĩnh lặng
giữa dòng nước “song song”. “Thuyền” “nước” hai hình nh quen thuc trong
thơ, ngoài đời thực chúng cũng hai sự vật luôn đi liền vi nhau không th ri
nhau, Vy đây tác giả li cho ta thy mt s chia ly gia thuyền c:
“thuyền vcòn “nước lại” gọi s chia ly, s xa cách hng h. Tâm trng ca thi
nhân được bc l nét nhất qua câu thơ cuối cùng: “Củi mt cành khô lc my
dòng” . “Củi” một hình nh nh bé, mong manh vy lại lênh đênh đnh
gia mt không gian rng ln của sông nước không biết s trôi dt v đâu. “Củi” đã
nay li càng nh bé hơn khi kết hp vi s t “một” tác giả n muốn nhn
mnh thân phn bé nh ca chính bn thân mình trôi ni mênh mông giữa dòng đi.
Mt ni buồn cô đơn v thi thế.
Ni bun của thi nhân càng được tăng thêm, càng được đẩy đến đỉnh điểm khi đến
vi kh thơ thứ hai:
“Lơ thơ cồn nh gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn ch chiu
Nng xung, tri lên sâu chót vót
Sông dài, tri rng bến cô liêu”.
Bức tranh thiên nhiên sông nước y phần tăng thêm sc sng khi thêm nhng
“cn nhỏ”. Những gò đt ni lên gia lòng ng y li ch “lơ thơ” thưa tht gi lên
mt s đơn sơ, hoang vắng, “đìu hiu” quạnh khi nhng làn gió thi qua. Nhng
cơn gió không ồn ào mà ch “đìu hiu” làm cho ni bun của thi nhân như đưc nhân
lên khi đứng trước một không gian tiêu điu.
Chợt có đâu đây có tiếng “chợ chiều”. “Chợ” là nơi mà khi đến đó ta biết được cuc
sống nơi đây có m no sm uất hay không. Đâu” gợi cho chúng ta cảm giác hồ
không biết phải âm thanh đó hay không, tác giả cũng chỉ nghe thy cm
nhn thy ch không đưc nhìn thy. Âm thanh y cũng mờ m o o, va thc
vừa hư. ng chừng như âm thanh xut hiện làm con người thêm vui nhưng chính
nó li khiến tác gi thêm cô đơn, lẻ lõi trên chính mảnh đất quê hương mình.
“Nng xung tri lên sâu chót vót
Sông dài tri rng bến cô liêu”
Ni su không ch nhum màu vào không gian mà còn tri dài theo thi gian bt tn.
Không gian được m ra theo nhiu chiu va cao, va sâu, va rộng…”Nắng
xuống” “trời lên” to nên mt s ngăn cách, chia li theo hai chiều đối nghch
“lên” “xuống”. Đây cm nhn ch khi đến với con người hiện đại chúng ta
mi thy mi cm nhận đưc. Không gian không ch được m rng theo chiu rng,
chiu cao còn theo chiu sâu. Nng càng xung thp, tri càng tr nên cao hơn
ng bóng xuống lòng sông sâu “chót vót”. c gi đã sử dng t rất đặc bit, không
phải cao “chót vót” “sâu chót vót” va t được độ cao cũng vừa cm nhn
được độ cao y. Con ngưi tr nên nh đơn trước trụ bao la tận…
“Sông dài, trời rộng” cnh vt càng rng lớn, bao nhiêu tcon ngưi càng
nh by nhiêu vi hình ảnh “bến liêu”- bến đã nhỏ li còn hiu quạnh. Con ngưi
cm thy bé nh hơn bao giờ hết.
“Bèo dạt v đâu hàng nối hàng
Mênh mông không mt chuyến đò ngang
Không cu gi chút nim thân mt
Lng l b xanh tiếp bãi vàng”
Đến đây, ta bắt gp nhng hình nh quen thuc, gần gũi. Hình nh nhng cánh bèo
gi s tan c chia ly, những cánh o trôi “hàng nối ng” đnh không biết trôi
dt v nơi đâu. Đây cũng chính s phn ca nhng kiếp người nh bé, cô đơn với
mt cuc sng bp bênh. Giữa không gianmênh mông” rng ln, thi nhân c kiếm
tìm mt niềm vui nhưng “không một chuyến đò ngang” không hình bóng cuc
sng của con người. “Không cầu gi chút nim thân mật” không được s chia s
của tình người, tình đời. Điệp t “không” ncàng làm tăng thêm s bun
đơn, ch “bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ mt mình thi nhân vi thiên nhiên qunh
hiu.Mt ln na không gian lại được đẩy đến s tn cùng ca s hoang vng,
liêu.
Thi nhân m rng thêm tm nhìn ca mình, không còn không gian tm thp na
mà được nhìn vi tm cao, tm xa:
“Lp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nh: bóng chiu xa
Lòng quê dn dn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà”
Ch vi bốn câu thơ cuối, tác gi đã v ra trước mắt người đc mt bc tranh đm
cht c điển vi hình nh phía xa hòn núi, nhng đám y bay là đà “lớp lớp”.
Không phi một đàn chim chỉ duy nht mt cánh chim lạc đàn nhỏ đơn
côi “nghiêng cánh nhỏ” dưới “bóng chiều sa”. Cánh chim y đơn, lạc lõng, ni
buồn như càng đè nặng lên đôi cánh giữa bu tri rng thênh thanh. Nhiên nhiên
kh thơ được v ra một thiên nhiên hung vĩ, tráng lệ không ging vi thiên nhiên
các kh trước hiu qunh, vng lng.
“Lòng quê dn dn vn con nước
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà”
“Lòng quê” hay chính tình yêu thiên nhiên đất nước nhà thơ muốn gi gm,
nó cuộn trào lên “dn dợn” như sóng nước mênh mông. Tình yêu quê hương bt tn,
choáng ngợp như chính con sông “Trường Giang” vậy. “Không khói hoàng hôn
cũng nhớ nh”, những người con xa quê hương chỉ cn mt hình nh nh thôi cũng
làm h gi nh đến qhương mình. Bóng chiều đã ngả đây lúc con ngưi ta
nhiu tâm trng nhiu cm xúc nht, nếu như Thôi Hiệu nhìn thy khói hoàng hôn
thì nh nhà “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói song cho bun lòng
ai” thì đến vi Huy Cn ông không cn nhìn thy “khói hoàng hônnhưng vn nh
ti nhà da diết. Đây là sự sáng tạo độc đáo ca Huy Cận trong thơ mới.
Bài thơ “Tràng Giang” đã vẽ trưc mt ta nhng mt bức tranh ng vĩ, vi cách
nhìn độc đáo vừa gn va xa, va cao va sâu, nhưng bao chùm không gian y
mt ni buồn. Đó không chỉ ni buồn đơn l loi ca chính tác gi còn là
ni bun ca mt thế h khi phi sng trong cảnh nước mt nhà tan. Bc tranh
Huy Cn to nên vi nhng hình nh gần gũi như sông nước bến thuyn va mang
mt v đẹp va c kính va hiện đại. Điều đó đã đậm thêm s độc đáo trong thơ
ca Huy Cn.
Phân tích bài Tràng Giang mu 15
Nếu như Xuân Diệu là nhà thơ ca ni ám nh thi gian, thì Huy Cận là nhà thơ của
ni ám nh không gian, Huy Cn đã lượm lt nhng chút buồn i rải rác để góp
nht nên nhng vần thơ âu sầu ảo não, Tràng Giang dường như tiếng thơ tha
thiết nht ca cái tôi Huy Cn mang ni su thiên c.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyn xuôi mái nước song song
Thuyn v nước li su trăm ngả
Ci mt cành khô lc mấy dòng”.
Ngay t nhng nt nhạc đầu tiên, ni buồn điệp điệp đã cất lên đầy khc khoi, da
diết ám ảnh trước cái rng ln mênh mông của sông c bao la. câu thơ mở
đầu, ngay cách dùng t Hán Việt “Tràng giang”, đã tạo cho người đc cm giác v
cái su thiên c miên man trong thơ Huy Cn, khi ta nhận ra câu tphng pht
nhc điu và t thơ của Đỗ Ph:
“Vô biên lc mc tiêu tiêu h
Bt tận trường giang cn cổn lai”
Đó nỗi bun ca thân phận cái tôi thơ Mới đơn, bế tắc, vỡ. “Củi
mt cành khô lc my dòng”. Một câu thơ ngắn, nhưng dồn nén bao nhiêu sc nng
và sc gi, nhng khong vô ngôn mà rất đỗi tình. Vừa gi s đơn thăm thẳm,
va gi s tàn t, héo úa, va mang cm giác v s đnh, bế tc gia nhiu
nhương thời cuộc. Đó l không ch tâm trng ca riêng Huy Cn, mà còn
tâm trng ca nhiều cái tôi thơ Mới khác, khi Xuân Diệu cũng từng viết:
“Tôi là con nai b chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng su bóng ti”.
Đồng thi, cái mi ca Huy Cận trong câu thơ cuối y, ông đã s dng
cht liu thô ca s sng, không phi nhng điển c đin tích sang trng trong
văn học c điển, ông đưa cuc sng, s bn b thô mc ca cuc sng vào trong
thơ một cách tht t nhiên.
Tiếp ni mch cm xúc trong kh thơ đầu, kh thơ thứ hai tiếp tc m ra
một không gian đìu hiu hơn, nhưng không phi của sông nước mà là ca s sng:
“Đâu tiếng làng xa vãn ch chiều”
Đặc bit hai câu thơ: “Nắng xung, tri lên sâu chót vót/ Sông dài tri rng
bến liêu”. Sâu chót vót một s sáng to tài hoa ca Huy Cn, va gợi độ
sâu, li vừa như mở ra không gian mênh mông cao thăm thm vi vi, cp tiểu đi
“lên/ xuống” m cho câu thơ tạo cm giác dn nén, đọng, bế tc ngt ngạt trước
không gian vi vi, vì thế càng làm hiu qu diễn đạt được gia tăng.
S sng heo ht, cnh vật liêu, tiêu điu, không gian su mng mênh
mông, nên mt chút nim thân mt, mt chút gn kết cũng không có:
“Không cu gi chút nim thân mt
Lng l b xanh tiếp bãi vàng”
Hình nh cây cu bao gi cũng gi s kết nối, và phương tiện để kết ni,
nhưng đây, không cầu để gi chút nim thân mật cũng chẳng còn, đó phải chăng
chính là s mt kết ni tính ph quát, điều to nên cm giác bun mênh mông vô
hn trong Tràng Giang ca Huy Cn mà chính Trần Đình Sử đã từng nhận định.
Đến kh thơ cuối, toàn b hồn thơ sầu mng không gian ca Huy Cận như
càng tr nên thm thía, da diết hơn bao gi hết:
“Lp lớp mây cao đùn núi bạc’
Chim nghiêng cánh nh bóng chiu sa
Lòng quê dn dn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nh nhà”.
Hình nh núi bc, cánh chim sa vào bui hoàng hôn, t đã nhuốm màu
buồn. Câu thơ phảng phất hương vị thơ cổ ca Thôi Hiu:
“Nht m hương quan hà xứ nh
Yên ba giang thưng s nhân sầu”.
Để cũng từ đó, thể thy cái hn thơ Đường đã tấm khá sâu vào thơ Huy
Cận. Nhưng Huy Cận tp c không n cổ, xưa Thôi Hiệu bun cõi tiên m
mt quê nhà xa cách, khói sóng trên sông gi nh đến cnh m mt su. Nay
Huy Cn buồn trước không gian hoang vng, sóng gn Tràng Giang khiến ông nh
đến quê hương như mt ngun an i m áp. Nên th thy đây, tấm lòng
Huy Cn với quê hương xứ sở, cái tôi đơn bơ vơ, bế tắc khi đứng trên quê hương
mà vn cm thy thiếu quê hương.
Tràng Giang mt bn nhc bun, cái bun thm thía vào tng th v thơ, len lỏi
đằm sâu mãi vào trong tâm hồn người đọc. Đó lẽ cũng là nỗi bun ca cái tôi thế
h thơ Mới, đồng thời ng cái tôi của đứa con dân tc trong thi bui lon lc,
bế tắc mượn dòng thơ để gi tiếng lòng khát khao được đng vng.
| 1/56

Preview text:

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Văn mẫu 11
1. Dàn ý Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 1. Mở bài
- Giới thiệu những nét chính về tác giả Huy Cận (đặc điểm tiểu sử, con người, các
sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,...)
- Giới thiệu khái quát về bài thơ “Tràng giang” (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát
những nét cơ bản về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,...) 2. Thân bài
a. Nhan đề và câu thơ đề từ - Nhan đề:
+ Một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài.
+ Sử dụng hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, gợi lên hình ảnh
một con sông vừa dài vừa rộng.
- Câu thơ đề từ: Khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ b. Khổ 1
- Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang.
→ Từ “điệp điệp” gợi lên hình ảnh những đợt sóng cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ
không ngừng nghỉ, không dứt, tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la.
- Hình ảnh: con thuyền xuôi mái nước gợi lên sự nhỏ nhoi
→ Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con
thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi. - Hai câu cuối:
+ Thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi, cho lòng “sầu trăm
ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy,
+ Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh
khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu
→ Trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh
con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô
định, đồng thời gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả. c. Khổ 2
- Hai câu thơ đầu đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh:
+ Nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm đã gợi lên sự
thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo
+ Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là câu thơ có nhiều cách hiểu nhưng
dẫu hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự
hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người
- Hai câu sau, không gian như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn
đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn, từ đó gợi lên cả nỗi buồn, sự cô
đơn đến tột cùng của lòng người d. Khổ 3
- Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: gợi lên hình ảnh về kiếp người, cõi nhân
sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu.
- Nghệ thuật phủ định được lặp lại: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”.
→ Ở nơi đây không có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của
sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật
giữa con người với nhau e. Khổ 4
- Hai câu thơ đầu khổ thơ: Vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ.
+ Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn”
lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc.
+ Hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó
vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ.
- Hai câu thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả
+ Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế
nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ - nỗi buồn của người xa
xứ đang nhớ quê hương da diết.
+ Câu thơ cuối đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và
rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ 3. Kết bài
Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ và những cảm nhận của bản thân.
2. Dàn ý Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
1. Nhan đề, lời tựa
- Gợi cảm giác con sông kéo dài mênh mông, gợi mạch cảm xúc của bài thơ.
- Lời tựa: thâu tóm được tất cả tình và cảnh trong bài thơ. 2. Khổ 1
- Hình ảnh quan sát trên dòng sông rất chân thực nhưng giàu sức gợi.
+ sóng gợn nhẹ nhàng lan tỏa đến vô cùng, gợi nỗi buồn miên man.
+ con thuyền buông mái chèo một cách thụ động, mặc cho nước đưa đẩy, gợi sự
lênh đênh. So với dòng sông con thuyền hết sức nhỏ bé.
+ hình ảnh nước song song, thuyền về nước lại không hứa hẹn sự gặp gỡ mà chỉ là chia lìa, xa cách.
+ câu thơ: Củi một cành khô lạc mấy dòng đặc biệt gợi cảm. Nó gợi nghĩ tới thân
phận cá thể nhỏ nhoi, bơ vơ giữa dòng đời.
- Sử dụng hiệu quả phép đối (buồn điệp điệp- nước song song, sầu trăm ngả - lạc
mấy dòng), từ láy âm (điệp điệp, song song), tương phản giữa cá thể và vũ trụ.
⇒ Khổ thơ gợi nỗi buồn về sự chia li, tách biệt thiếu giao cảm giữa cá thể với nhau,
đặc biệt là nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé vô định. 3. Khổ 2
- Hai câu đầu nổi bật sự đìu hiu, vắng lặng của cảnh chiều:
+ đứng trước không gian ấy con người càng cô đơn, khao khát được nghe thấy âm
thanh của cuộc sống con người.
+ nhưng chợ chiều đã vãn, không gian càng vắng lặng u tịch.
- Hai câu cuối không gian được mở ra chiều chiều: cao, sâu, rộng, dài. Trong cái vũ
trụ vô cùng, thăm thẳm không chỉ cảnh vắng cô liêu mà lòng người cũng như rợn
ngợp bởi sự nhỏ bé, lạc loài.
- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ chọn lọc đắt giá, giàu giá trị gợi hình biểu cảm: liu điu,
lơ thơ, sâu chót vót,.... Ngắt nhịp thơ hiệu quả. 4. Khổ 3
- Cái hiện hữu trước mắt là những hình ảnh gợi sự lênh đênh vô định (bèo dạt về
đâu) và tĩnh lặng, cô liêu (bờ xanh tiếp bãi vàng).
- Hình ảnh mà thi sĩ khao khát tìm kiếm là chuyến đò ngang là cây cầu như sự phủ
định đã nằm ngay trong từ điệp từ không.
- Cảm thức cô đơn về sự lạc loài trước cảnh sông dài trời rộng đã khiến nhà thơ
mong được đón nhận tiếng nói con người, mong được nhìn thấy sự giao lưu gần gũi
giữa con người với con người nhưng tất cả vẫn bị ngăn cách (hình ảnh con đò, chiếc
cầu tượng trưng cho sự giao lưu đôi bờ nhưng không có) nỗi buồn về cuộc đời, về nhân thế. 5. Khổ 4
- Mang màu sắc Đường thi khá rõ từ những hình ảnh ước lệ đến cách dùng các thi liệu thơ Đường.
+ hình ảnh Lớp lớp mây cao đùn núi bạc lấy ý từ câu thơ của Đỗ Phủ chỉ sự hùng vĩ
của thiên nhiên nhưng câu thơ của Huy Cận miêu tả thiên nhiên lấp lánh, tráng lệ
mang nét độc đáo riêng.
+ hai câu thơ cuối phảng phất ý vị thơ Thôi Hiệu.
- Hình thức ngôn ngữ mang màu sắc cổ điển nhưng cảm xúc lại mang tính hiện đại:
cái tôi cô đơn, bơ vơ, rợn ngợp trước cuộc đời.
+ hình ảnh Chim nghiêng cánh nhỏ gợi cảm giác chấp chới, rợn ngợp.
+ nỗi nhớ nhà dợn dợn trong lòng, đó là nỗi khao khát tìm đến chỗ dựa cho tâm hồn
cô đơn, trống vắng của tác giả. 6. Nghệ thuật
- Vẻ đẹp cổ điển thể hiện trên nhiều phương diện:
+ mỗi dòng 7 chữ ngắt nhịp đều đặn, mỗi khổ 4 dòng, tách ra như bài thơ tứ tuyệt.
+ cách thức miêu tả thiên nhiên theo bút pháp hội họa cổ điển: một vài nét đơn sơ
nhưng ghi được hồn tạo vật. + tả cảnh ngụ tình.
+ sự trang nhã, thanh thoát từ hình ảnh, ngôn từ.
- Chất hiện đại thể hiện trong cách cảm nhận sự việc, tâm trạng bơ vơ, buồn bã phổ
biến của cái tôi lãng mạn đương thời.
3. Audio Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
4. Video Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
5. Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Phân tích Tràng Giang mẫu 1
Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh).
Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi
sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất
cổ điển và hiện đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải
kể đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” (1940) rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận.
Vào một buổi chiều thu năm 1939, có một chàng sinh viên trường Cao đẳng Canh
nông, đạp xe dọc theo bờ đê sông Hồng, đến tới bãi Chèm – phía Nam dòng sông,
trước cảnh sóng nước mênh mông, đã không kìm nén nổi cảm xúc buồn bã, cô đơn
và nhớ nhà da diết nên sáng tác bài thơ Tràng giang. Nhà thơ Huy Cận đã từng tâm
sự về hoàn cảnh ra đời bài thơ như thế. Ban đầu, tác phẩm có tên là “Chiều trên
sông” nhưng về sau đổi thành Tràng giang. Nhan đề này đã chuyển tải nhiều ý nghĩa
hơn. “Tràng giang” là một từ Hán Việt đầy trang trọng, cổ kính, chỉ một con sông
dài. Nhưng nhà thơ không dùng “trường giang” (có cùng nghĩa) để thay thế, bởi
cách điệp vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm hưởng ngân vang, vừa gợi nên cảm
giác một dòng sông không những dài mà còn rộng. Thêm lời đề từ Bâng khuâng trời
rộng nhớ sông dài càng làm rõ hơn sắc thái cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi
buồn của con người trước một không gian mênh mông, rộng lớn có thể bao trùm cả vũ trụ.
Và quả thực trước một dòng tràng giang như thế, thi nhân đã không giấu nổi nỗi
buồn mà cứ để nó lan tỏa khắp mọi không gian, bao trùm cả vũ trụ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Khổ thơ đầu đã mở ra một khung cảnh tràng giang mênh mông, rộng lớn đối lập
hoàn toàn với những thứ nhỏ bé như sóng, con thuyền, cành củi khô. Những sự vật
ấy đồng thời cũng gợi nên nỗi buồn mênh mang theo sóng nước. Qua các từ gợn,
buồn điệp điệp, nước song song, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nỗi buồn càng trải dài,
lan tỏa khắp cả mặt sông dài rộng. Ở đây tuy có sự vật nhưng mọi thứ lại chẳng hề
gắn kết, nhất là thuyền và nước, hai thứ vốn dĩ không tách rời vậy mà thuyền về,
nước lại khiến nỗi sầu, nỗi buồn như chia ra thành trăm ngả. Tuy nhiên điểm nhấn
rõ nét nhất của khổ thơ chính là hình ảnh củi một cành khô. Sự vật vốn đã chẳng
còn sức sống, lại nổi trôi vô định trên dòng sông đã vẽ một nét hiện đại để khắc họa
nỗi buồn. Mà hơn nữa nó còn lạc mấy dòng thì không chỉ là nỗi buồn, nó hiện hữu
cả nỗi cô đơn. Đó phải chăng là sự hiện thân cho kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, bất
định giữa dòng đời của chính tác giả?
Đến khổ thơ thứ hai, điểm nhìn của nhân vật trữ tình đã xa hơn, khung cảnh trên
sông được hướng vào chiếc cồn nhỏ, vào bầu trời và khắp cả dòng sông.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xe vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Nhưng dường như không gian cũng không có mấy thay đổi, thậm chí hai từ láy lơ
thơ, đìu hiu lại càng khắc họa sự vắng lặng, yên ắng, quạnh hiu. Đâu đó (hay là đâu
có) có âm thanh của sự sống? Dẫu có có đi chăng nữa thì tiếng làng xa vãn chợ
chiều cũng chẳng làm cho nơi đây nhộn nhịp hơn, thậm chí càng tô đậm thêm sự
tĩnh lặng. Bởi vậy xung quanh chỉ còn là nắng trên trời, sông trước mặt, thứ xuống
thứ lên, thứ dài, thứ rộng mà dường như vốn đã xa nay lại càng xa hơn. Cách sáng
tạo từ sâu chót vót đã giúp tác giả miêu tả được khoảng cách giữa trời với sông vừa
có độ cao vừa có độ sâu, khiến không gian như mở ra ba chiều, khuếch tán rộng hết
mức ở toàn vũ trụ. Chỉ còn lại trơ trọi bến cô liêu thì chúng ta mới biết nỗi buồn đã
rộng khắp mọi không gian và nỗi cô đơn càng ngày càng lớn. Lúc này thi nhân
không còn đối diện với dòng sông như ở khổ trên nữa mà hoàn toàn bị choáng ngợp,
quá nhỏ bé trước không gian vũ trụ như thế.
Rồi ánh mắt thi nhân lại tiếp tục kiếm tìm. Hình như nhân vật trữ tình “lục lọi” đâu
đây một chút sự sống của con người.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Lần này hiện lên là hình ảnh hàng bèo quen thuộc. Trong thơ xưa nó chính là hiện
thân cho kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời. Nhưng chỉ là cánh bèo, chứ
không phải hàng nối hàng bèo như ở đây. Vâng, không biết bao nhiêu hàng bèo như
thế, nối tiếp nhau trôi dạt về đâu? Có nỗi buồn, sự bơ vơ, lạc lõng không phải của
một cành củi khô nữa mà là của cả một thế hệ con người chẳng biết sẽ đi đâu về đâu?
Hình ảnh thơ đơn giản nhưng gói ghém được tâm sự của cả bao nhiêu thân phận con
người lúc bây giờ. Bởi vậy nhìn xung quanh đâu cũng thấy mênh mông, đâu cũng
không thấy có dấu hiệu của sự sống nào hết. Điệp từ phủ định càng làm cho con
người chẳng có chút bóng dáng nào hiện hữu nơi đây. Không một chuyến đò, không
một cây cầu thì nỗi niềm thân mật dù một chút thôi cũng thực khó. Thế là chỉ còn
lại thiên nhiên tiếp xúc với thiên nhiên. Hai từ lặng lẽ có chút ngậm ngùi vì nhìn hết
cảnh trí dòng sông từ trên cao xuống thấp, xa đến gần mà rồi cũng chỉ còn lại những
bờ xanh, bãi vàng nối tiếp nhau. Không gian vì thế lại tiếp tục thêm phần mênh
mông bát ngát. Nỗi cô đơn, sự buồn bã của con người chưa có dấu hiệu vơi cạn, thu
hẹp lại theo bất cứ một chiều nào.
Cả ba khổ thơ là một bức tranh thiên nhiên thấm đẫm những phong vị cổ điển xen
lẫn chút hiện đại đầy độc đáo để khắc họa một không gian vô cùng, vô tận. Tất cả
cũng chỉ để chứa đựng một nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người.
Bao nhiêu hi vọng dồn vào khổ cuối, để cái tôi vơi bớt đi phần nào những chất chứa ưu tư. Vậy mà:
Lớp lớp mây cao, đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cảnh thiên nhiên lại có sự thay đổi, nhưng lần này không phải là dòng sông
mênh mông, vắng lặng như những khổ trên mà thay vào đó là sự tráng lệ, hùng vĩ
nổi bật trên nền trời chiều. Vẫn sử dụng những thi liệu cổ quen thuộc là mây, chim,
nhà thơ vẽ lên nền trời ấy những đường nét, màu sắc thật sinh động. Đó là lớp lớp
những áng mây ánh bạc đang đùn trên bầu trời như những ngọn núi. Đặc biệt là
cánh chim chao nghiêng được coi là một khoảnh khắc mà thâu tóm được sự chuyển
động của hai sự vật. Chẳng biết cánh chim nhỏ ấy nghiêng nhẹ đôi cánh một cái là
bóng chiều sa xuống hay bóng chiều đổ mà đè nặng lên cánh chim khiến nó ngả
nghiêng? Nhưng khoảnh khắc đồng hiện này đã tạo nên một sự dịch chuyển rất mau
lẹ cả về không gian lẫn thời gian. Và thêm một lần nữa lòng người không thể nào
xua tan được sự bủa vây của ngoại cảnh. Không gian có thay đổi, có tráng lệ đến
đâu trong lòng thi nhân vẫn cảm thấy trống trải. Nhưng lần này nỗi cô đơn đã hóa
nỗi nhờ nhà. Biết bao nhiêu cảnh trí trên trời, dưới sông đều dồn về cảm xúc dợn
dợn. Từ láy nguyên sáng tạo này của nhà thơ đã khắc hoặc rất chân thực một nỗi
niềm bâng khuâng, da diết của “lòng quê” khi nó hô ứng với cụm từ “vời con nước”.
Bao nhiêu nỗi buồn rồi cũng trào dâng lên thành nỗi nhớ quê hương. Nhưng lạ thay,
ở ngay trên mảnh đất quê hương mà lại thấy nhớ quê hương đến như vậy. Thế mà
quê hương lại chẳng còn, đó là nỗi niềm chung của cả một thế hệ các nhà thơ mới
trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ. Cảm giác xa quê hương, “thiếu quê hương” trở
thành sự rung cảm sẵn có mà chẳng cần đến khói sóng hoàng hôn như thi sĩ Thôi
Hiệu đời Đường mới gợi nên nỗi nhớ quê nhà của thi nhân. Không cần vịn vào đâu,
tự khắc nỗi nhớ ấy đong đầy, da diết, tự thân nó đã bộc lộ một tình yêu thắm thiết,
trĩu nặng với quê hương.
Có hai thứ ấn tượng còn đọng lại sau khi đọc xong bài thơ là không gian vô cùng,
vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Cả
hai như cùng kích ứng để càng rộng, càng lớn thì càng buồn, càng cô đơn khiến bài
thơ như chất chứa, tích tụ nỗi sầu của cả ngàn năm lại vậy. Nhưng vượt lên trên hết,
bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một
bức tranh thiên nhiên thật đẹp dẫu có buồn. Song người đọc vẫn nhìn thấy một tình
yêu quê hương đất nước thầm kín hiện lên trong Tràng giang.
Phân tích bài thơ Tràng Giang mẫu 2
Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông
mang nỗi sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho nỗi
buồn miên man của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy còn
là lời tâm sự, lòng yêu nước kín đáo.
Nhan đề của bài thơ gồm hai vần “ang” đây là âm mở, gợi nên sự mênh mông, rộng
lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà nó
còn là con sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, sử dụng từ Hán Việt còn
khiến cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, mang tính khái quát.
Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là
một gợi dẫn có ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài
thơ Tràng giang là lời đề từ do chính Huy Cận sáng tác:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Câu thơ đề tự gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và
chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, đây cũng là
cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc chung của bài thơ.
Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, không gian ấy hoàn toàn yên tĩnh.
Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất còn có tâm trạng của con người
“buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”.
Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà
lan tỏa trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền
xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dòng tràng giang con thuyền trở nên bé nhỏ,
đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xuôi mái” cho thấy trạng thái buông
xuôi, phó mặc cho dòng nước xô đẩy. Đó phải chăng cũng chính là tâm trạng của
những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền cứ trôi, cứ
về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển hiện trong
hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi” được đảo
lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là cảnh củi
khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi khô” ẩn dụ
cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời. Đồng thời
còn ẩn dụ cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ mới.
Huy Cận di chuyển điểm nhìn về gần hơn với những bãi, những cồn ở ngay trước
mắt mình. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” là một hình ảnh rất thực ở bãi giữa sông
Hồng, kết hợp với hai từ láy “lơ thơ” “đìu hiu” gợi nên sự thưa thớt, vắng vẻ, hiu
quạnh. Trong không gian ấy tác giả cố gắng đi tìm hơi ấm cuộc sống, là tiếng chợ
xa, nhưng “đâu” có thể tìm thấy được, không gian là sự tĩnh lặng đến tuyệt đối. Nỗi
buồn càng được tô đậm hơn nữa khi không gian được mở rộng đến vô cùng, nắng
xuống chiều lên, sông dài – trời rộng, kết hợp với từ “sâu chót vót” đã mở rộng
không gian ra cả ba phía: rộng, cao, sâu. Khắc họa nỗi cô đơn, sự nhỏ bé đến cực
điểm của con người trước không gian vũ trụ.
Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, lại hướng ra vô cùng và thu lại chỉ có:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Những cánh bèo lênh đênh, vô định nối tiếp nhau chảy trôi, sự chảy trôi không mục
đích, không phương hướng, cũng như những kiếp người nhỏ bé, đơn độc lúc bấy
giờ. Không gian sông nước mênh mông không có lấy một chuyến đò qua sông. Đò
ấy không đơn thuần là phương tiện trung chuyển con người mà nó còn là phương
tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả đã bị phủ định một cách tuyệt đối: không một,
không cầu, không còn một chút tình đời, tình người nào còn tồn tại ở đây nữa.
Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên
cao: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu
trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ,
tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những
dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng
như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi
nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào:
Lòng quê dờn dợn vợi con nước
Không khói hoàng hôn cùng nhớ nhà.
Câu thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà
xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê
khắc khoải nhưng Huy Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dờn
dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên, dường như sóng lòng đang trải ra cùng sóng
nước. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước.
Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên
nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ
vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể
hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 3
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên
tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn,
Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông
mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác
phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", "Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách
mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc
sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại
sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên, nỗi ưu sầu nhân thế,
một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng
Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách
mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy
Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng
vời vợi buồn, ám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang
nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện
đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp ....
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ.
"Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "ang" đi
liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng
mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển
trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông
của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau
cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của
mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm,
Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn,
nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn
chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ
đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng",
"sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình
cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói
lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con
"sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn
sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai
từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ
kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi
liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ
cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp",
nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự
chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một
dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền.
Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước
lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm
ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một
càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ
ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi,
nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định,
trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi
khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến
lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về
một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc
có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới.
Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là
ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn
khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ
đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi
sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh
lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngợp đến độ thốt lên "Đâu tiếng
làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó",
âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát,
mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người.
Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề
có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự
chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt
mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ
không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả
không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời
rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như:
sông, trời, nắng, cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều",
mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen
thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên
nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ
điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời.
Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối
hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ
đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh
tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp
thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người,
không có sự giao hoà, nối kết:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không... không" để phủ định hoàn toàn những
kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân
mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên
mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con
người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc
tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình
ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn
cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội
lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy
chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau.
Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh
nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè
nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi
được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình
tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ
láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô
đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa
quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ
mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là tứ thơ cổ điển được gợi từ câu thơ: "Trên sông
khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà
buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó
đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được
thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy
nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh
chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ
kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót
vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ
quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri
thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với
vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 4
Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945) với những tác
phẩm có sự kết hợp giữ yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có
sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm: trước cách mạng tháng Tám và sau cách
mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế
trước cách mạng cho đến không khí hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công
cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với
một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người
trôi nổi lênh đênh. Bài thơ để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.
Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và cảm xúc chủ
đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con sông dài, mênh mông
và bát ngát. Từ Hán việt này khiến người ta liên tưởng đến những bài thơ Đường
của Trung Quốc. Nhưng chính tràng giang này cũng gợi lên được tâm tư của người
trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên
con sông dài tâm tưởng và sông của nỗi u uất như thế.
Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát nên chủ đề
của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh
mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là
đặc trưng trong thơ của Huy Cận.
Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông
chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu tram ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Với một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu tram ngả”, lạc
mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lột tả hết thần
thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả trong thời thế nhiều bất công như thế
này. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. Tác
giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi
một mình, đơn lẻ trên dòng nước mênh mông, vô tận, vô đinh. Sức gợi tả của câu
thơ thực sự đầy ám ảnh, một con sông dài, một con sông mang nét đẹp u buồn, trầm
tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ
không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu
trăm ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự chia lìa không báo trước, nghe
xót xa và nghe quạnh long hiu hắt quá. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang
cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình
ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói
câu thơ đã nói lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một
kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này.
Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bội:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cành buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của
một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay không. Hình
ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở ven dòng sông dường như
khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Ngay cả một tiếng ồn ào của phiên chợ
chiều ở nơi xa cũng không thể nghe thấy, hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến
hiu quạnh như thế này. Một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người
hay là tác giả đang tự hỏi bản thân mình. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không
điểm tựa để bấu víu. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không có một
bóng người, không có một tiếng động thật chua xót. Hai câu thơ cuối tác giả mượn
hình ảnh trời và sông để đặc tả sự mênh mông vô định. Không phải trời “cao” mà là
trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo
của Huy Cận. Hình ảnh sông nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn
dường như đã lột tả hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai ấy.
Ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm thấy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này
nhưng dường như thiên nhiêu không như lòng người mong ngóng:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thương nhớ
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Sang khổ thơ thứ 3 dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận động
của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai
nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. Tuy nhiên từ
ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến cho tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô
định, trôi nổi khắp nơi, không có nơi bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt
về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không
có một chuyến đò. Tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự sống
đang tồn tại nhưng dường như điều này là không thể.
Mong ngóng gửi niềm thương nỗi nhớ về quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im
lặng của vạn vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu hiu.
Ở khổ thơ cuối dường như bút pháp của tác giả được đẩy lên cao nhất, nét vẽ chấm
phá dùng rất đắc điệu:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Có thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này.
Nét chấm phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng thêm sầu,
thêm buồn hơn. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” là sự hữu hình
hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua
ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiều đang dần buông xuống.
Hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả chẳng biết
gửi vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim. Câu thơ của Huy Cận khiến
chúng ta liên tưởng đến tứ thơ của Thôi Hiệu:
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Là sóng của sông hay là sóng trong lòng người
Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã
vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Qua đó khắc họa được tâm
trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về
quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 5
Tràng Giang là một bài thơ hay của Huy Cận và là một trong những bài thơ tiêu
biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người
ngay giữa quê hương mình. Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng, xuất bản năm
1940. Bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên.
Phân tích 4 câu thơ trong đoạn đầu
Hiện lên đầu tiên tác phẩm là bức tranh sông nước vắng vẻ và tĩnh lặng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ đầu mở ra là bức tranh sông nước “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
có hai hình ảnh được tái hiện đó là thiên nhiên và tâm trạng của con người. Từ
“ tràng giang” không chỉ gợi ra độ dài mà còn là độ rộng. Dòng sông ấy có từ “gợn”
chỉ là gợn hơi, lăn tăn theo chiều gió nhẹ. Gợi không khí tĩnh lặng ôm trùm khắp
không gian. Từ tâm trạng của thiên nhiên tác giả nói đến tâm trạng của con người,
có thể nói có bao nhiêu song gợn ấy là bấy nhiêu nỗi buồn “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Điệp từ “điệp điệp” diễn tả nỗi niềm trong lòng tuy nhẹ thôi nhưng dai dẳng triền
miên. “Con thuyền xuôi mái nước song song” Hình ảnh con thuyền xuôi mái nổi bật
giữa dòng sông, trở nên nhỏ bé, đơn độc. “Xuôi mái” ở trạng thái bị động mặc cho
dòng nước trôi. Từ láy “song song” “Thuyền về nước lại sầu trăm ngã” tác giả đã sử
dụng cặp từ ngược hướng phải chăng đây là sự chia lìa, để khởi nguồn cho nỗi sầu trăm ngã.
Ở câu cuối của khổ một, hình ảnh đơn sơ bình dị, hiện thực đó là “cành củi khô”.
Nghệ thuật đảo ngữ như nhấn mạnh vào sự tầm thường nhỏ bé và vô giá trị, không
chỉ và vật rơi khô gãy. Lại một cành còn khô quá tầm thường nhỏ bé và đơn độc cạn
kiệt sức sống. Trôi dạt vô hướng giữa không gian lớn rộng, ẩn chứa sau đó là những
kiếp người và cái tôi lạc loài trong phong trào thơ mới của Huy Cận.
Phân tích 4 câu thơ đoạn 2
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bức pháp chung trong miêu tả thiên nhiên trong thơ Huy Cận đó là gợi hơn tả.” Lơ
thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Từ láy “lơ thơ” gợi lên sự ít ỏi nhấn mạnh cái sự vắng vẻ
nhỏ nhoi, sự cô quạnh giữa không gian mênh mông chỉ có một cồn nhỏ điều hiu
vắng vẻ. Tác giả cố gắng lắng nghe tìm tiếng con người. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều”, đây là câu hỏi tu từ, phủ nhận sự hiện diện của cuộc sống con người.
Hai câu thơ cuối của khổ thơ thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp đối ”nắng xuống
đối với trời lên”, “sông dài đối với trời rộng”, “sâu chót vót với bến cô liêu”. Động
từ ngược hướng lên xuống gợi nên cảm giác chuyển động rõ rệt. Gợi nên chiều cao
và sâu không gian được mở vô biên. Nỗi buồn thấm vào tạo vật con người hiện lên
với một trạng thái cô đơn.
Phân tích 4 câu thơ trong khổ thơ thứ 3
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Khổ thơ tiếp theo gợi nên sự vô định “cánh bèo” không phải đơn thuần là cánh bèo
không tìm thấy hướng đi của thiên nhiên. Mà đó là cả một thế hệ thanh niên Việt
Nam không tìm thấy hướng đi.
“Mênh mông không một chuyến đò ngang” trong toàn cảnh vũ trụ này tuyệt nhiên
không có bóng dáng của con người. Bởi chuyến đò, cây cầu thì phải có con người
nhưng tác giả đã nói là “không”. Dùng cách nói phủ định để khẳng định ở đây chỉ
có một cái có đó là “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ là thiên nhiên. Đó là sự cô
đơn, cảm giác bất an của một cái tôi thơ mới. Chính nỗi niềm này đã được tác giả
nói rất nhiều như ở lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” tạo nên một
điểm riêng cho nhà thơ Huy Cận con người ở đây cô đơn bất an, gợn người.
Phân tích 4 câu thơ trong khổ thơ cuối
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khổ thơ cuối dường như mờ ảo dần, hình ảnh “đùn núi bạc” là không gian hùng vĩ,
tráng lệ, từ láy lớp lớp. Đối lập với không gian hùng vĩ tráng lệ đó là “chim nghiêng
cánh nhỏ bóng chiều sa”. Nếu như dòng thơ trên ta thấy được dấu ấn cổ điển thì ở
đây là yếu tố hiện đại, cánh chim bé nhỏ đang cố vươn cao lên trong buổi chiều tà
ấy. Cái tôi thơ mới ấy mang một nỗi buồn tự thân, sự thức tỉnh. Cánh chim không
chỉ chở nặng hoàng hôn mà còn trĩu nặng nỗi buồn của các nhà thơ mới.
Đến với hai câu cuối của bài thơ “lòng quê dợn dợn vời con nước, không khói
hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Đây là nỗi lòng hoài hương, cái hiện đại ở đây là sự phủ
định sự tác động của ngoại cảnh đến tâm trạng. Nỗi nhớ nhà da diết hơn, cháy bổng
hơn, đi trên quê hương mà thấy thiếu và nhớ quê hương. Từ láy “dợn dợn” như
những cơn sóng lòng đang dồn nén trong Huy Cận. Kết bài
Nhìn chung toàn bộ bài thơ là nỗi buồn, đây là tâm trạng của các nhà thơ lãn mạng
lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa giác ngộ được lý
tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận “sầu ảo não”. Bài thơ
“Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn đường cho thơ về quê hương đất nước.
Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 6
Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng
tháng 8. Thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã
trước thời cuộc. Chẳng thế mà "Tràng giang" ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá
thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước
không gian mênh mông, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, thương đất nước đang
chìm trong tang thương của thi sĩ.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo "Ngày nay" sau đó in
trong tập "Lửa thiêng" - tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã
đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào "Thơ mới" thời kì đầu.
Ngay khi đọc tên bài thơ "Tràng giang" người ta có thể hình dung được tư tưởng và
tâm tư mà tác giả gửi trong đó. Tiêu đề gợi ra một con sông dài, mênh mông, bát
ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi,
u sầu. Câu đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" tiếp tục khẳng định nỗi niềm
u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng sông.
Khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
Vừa mới đọc khổ đầu tiên, người đọc thấy được không khí u sầu, buồn bã thông qua
các từ "buồn", "sầu", "lạc cành khô". Câu thứ nhất miêu tả sóng, câu thứ hai tả
những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Nếu như câu thứ nhất gợi được
những vòng sóng đang loang ra, lan xa, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ
hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong đuổi mãi về cuối trời. Trong câu
thứ nhất "sóng gợn" là những vòng sóng nhỏ, lăn tăn. Nhưng chỉ cần một gợn sóng
ấy thì Tràng giang đã "buồn điệp điệp". Từ láy hoàn toàn "điệp điệp" như diễn tả
nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. Hình ảnh con thuyền "xuôi
mái nước song song" lại gợi về cảm giác đơn độc trên dòng nước mênh mông vô tận.
Hai câu thơ kết hợp làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo
chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia li qua câu thơ thứ ba. "Thuyền" và
"nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt của
nhân vật trữ tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa.
"Sầu trăm ngả", nỗi buồn, sự u hoài, buồn bã càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ
thứ tư tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ "củi một cành khô" để nói về sự cô đơn,
trơ trọi của "củi". Số từ "một" chỉ một mình, cô đơn cùng với tính từ "khô" - hết
nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khô héo hơn. Tác giả thật tài tình khi đã sử dụng
nghệ thuật đối "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông.
"Lạc mấy dòng" không chỉ diễn tả nỗi niềm cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp
bênh, trôi nổi khi "lạc" hết dòng sông này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu
thơ không chỉ là phép đối mà còn ở cách ngắt nhịp 1/3/3. Với cách ngắt nhịp ấy
"củi" xuất hiện "độc lập" và điều đó càng làm rõ hơn tình cảnh lẻ loi của sự vật này.
Có thể nói, hình ảnh " củi một cành khô" đã phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ - một
con người tài hoa nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề. Như vậy, chỉ
với khổ thơ đầu tiên bức tranh thiên nhiên buồn, sầu thảm đã hiện rõ. Nét bút kết
hợp giữa cổ điển và hiện đại cũng phần nào giúp người đọc rõ hơn về tâm trạng của thi sĩ.
Khổ thơ thứ hai tiếp tục là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sức sống.
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
Huy Cận thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả
cảnh hoang vu, vắng vẻ hai bên bờ sông: "Lơ thơ" - thưa thớt, ít ỏi, " đìu hiu" - vắng
lặng, ít người. Trên "cồn nhỏ" làn gió phảng phất không khí buồn, ảm đạm của chốn
ít người, thiếu sức sống. Nó u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên
chợ chiều. "Đâu" diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bám víu.
Như vậy, chỉ qua vài nét chấm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê thê lương,
thiếu sức sống. Đến với hai câu thơ tiếp, dường như tác giả mở rộng tầm nhìn ra qua
biện pháp đối "nắng xuống" - "trời lên" đã làm không gian mở rộng về chiều cao, có
một khoảng không gian đang giãn nở ra ở giữa. Hai động từ ngược hướng "lên" và
"xuống" mang lại cảm giác chuyển động. Nắng càng xuống thì bầu trời càng được
kéo cao hơn. Và điểm nhấn chính là "sâu chót vót" - không gian mở rộng cả về
chiều sâu. "Chót vót" vốn là từ láy độc quyền khi nhắc đến chiều cao. Còn đã nói tới
sâu thì người ta hay dùng "sâu hun hút" hoặc " sâu thăm thẳm",...Chính cách dùng
từ ngữ đặc sắc của Huy Cận đã gợi ra khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, đó cũng
là lúc nỗi buồn, cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc
nhìn đầy thú vị, mới mẻ. Câu thơ cuối cùng thi sĩ dùng không gian rộng để nói về
nỗi cô đơn, vắng vẻ. "Bến cô liêu" - buồn, thưa thớt trơ trọi giữa không gian rộng
lớn của sông, trời. Toàn cảnh khổ hai là một màu cô đơn, vắng vẻ, đối lập với hình
ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ.
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."
Hình ảnh trong khổ thơ thứ ba đã bước đầu có chuyển động với động từ "dạt",
nhưng sự vật đi kèm với động từ này là "bèo". "Bèo" vốn là hình ảnh tượng trưng
cho sự bấp bênh, chìm nổi, không có nơi ở ổn định. Đã thế cụm từ "hàng nối hàng"
càng diễn tả sự vô định, chông chênh khi hàng này đến hàng khác "nối đuôi" nhau.
Không gian đối lập với thực tại của cảnh vật. Tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy
chuyến đò để cảm nhận được sự sống. Nhưng đáp lại sự mong chờ ấy là "không một
chuyến đò ngang". Ở khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định: "không đò" và
giờ tiếp đến là "không cầu". Hình ảnh chiếc cầu gợi lên dáng vẻ miền quê, mang nỗi
niềm "thân mật". Nhưng vì hình ảnh này không có nên thành ra cảm giác xa lạ, cô
đơn được cảm nhận rõ. Với câu thơ cuối của khổ tác giả sử dụng nhiều màu sắc để
chấm phá cho bức tranh. "Bờ xanh tiếp bãi vàng" - sắc tranh tươi sáng, nổi bật
nhưng đi kèm với từ láy "lặng lẽ" làm chìm màu sắc này xuống. Giờ đây hai hình
ảnh này không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này cũng làm
cho không khí đìu hiu "lây lan" từ vật này sang vật khác. Tất cả sự vật đều nhấn chìm trong cô độc.
Nếu như ba khổ thơ đầu tiên là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng lặng thì khổ thơ
cuối cùng chính là tâm tư, tấm lòng của thi sĩ
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Xuyên suốt bài thơ tác giả liên tục sử dụng thủ pháp nghệ thuật là từ láy. "Lớp lớp"
- chồng chất lên nhau, "đùn" là đè lên làm cho một vật gì đó hạ thấp xuống. Như
vậy, với câu thơ đầu khổ bốn tác giả lại vẽ tiếp bức tranh quê hương với hình ảnh
rộng lớn nhiều lớp mây đè lên núi bạc. Hình ảnh "chim nghiêng cánh nhỏ" gợi cảm
giác nhỏ bé, bơ vơ. "Nghiêng" - không vững vàng. Hình ảnh này đối lập với vế ở
sau "bóng chiều sa". Trên nền bóng chiều rộng lớn là hình ảnh cánh chim nhỏ lo âu,
còn đang mơ hồ cho con đường tìm nơi trú của mình. Hình ảnh cánh chim này đã
từng bắt gặp trong "Quyện điểu quy lân tầm túc thụ" (Mộ - Hồ Chí Minh), tạm dịch
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ". Đến với câu thơ thứ ba tác giả đã nói lên nỗi
lòng nhớ quê của mình. "Dợn dợn" là gợi lên, dấy lên, có nỗi niềm khó nói. Cứ mỗi
khi nhìn thấy "con nước" là lòng yêu quê hương của tác giả lại dâng lên. Tuy nhiên,
nét đặc sắc lại nằm ở câu thơ cuối cùng: "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".
Hơn nghìn năm trước Thôi Hiệu cũng từng chạnh lòng nhớ quê mà thốt lên rằng:
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu."
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)
Nỗi buồn của hai thi sĩ có một số điểm khác nhau. Ở Thôi Hiệu do nhìn thấy khói
sóng trên dòng sông nên buồn và nhớ về quê nhà, còn ở Huy Cận không nhìn thấy
khói nhưng nỗi nhớ nhà vẫn dâng lên da diết. Nếu như Thôi Hiệu nhớ nhà là do
đang xa xứ, đang ở xứ người còn nỗi nhớ của Huy Cận xuất phát từ một người đang
đứng trên mảnh đất của mình nhưng bơ vơ, lạc lõng. Nỗi nhớ thương cũng xuất phát
từ sự bất lực, ngán ngẩm của bản thân thi sĩ trước thời cuộc.
Đặc sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa yếu tố Cổ điển (thơ Đường thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả
sử dụng nhiều từ Hán Việt như tràng giang, bến cô liêu,...cùng với đó là đề tài thiên
nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu
tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu cảm xúc, hình
ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối cũng góp
phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng lớn.
Với "Tràng giang", Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn,
mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của "cái tôi" trước ngân hà
rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp
người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 7
Đến với phong trào Thơ Mới, ta được hòa mình trong vườn thơ đầy hương sắc tuyệt
diệu của các thi nhân. Ta không khỏi rạo rực, hứng khởi trước những vần thơ táo
bạo, tràn đầy năng lượng mê hoặc của Xuân Diệu, không khỏi buồn man mác trước
hồn thơ sáng trong của Thế Lữ, thổn thức trước hình ảnh thơ đầy kì dị của Chế Lan
Viên, hay say sưa trước hồn thơ quê bình dị mà thân thương của Nguyễn Bính. Và
đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bắt gặp nét buồn riêng biệt, độc đáo đó là một nỗi
sầu rợn ngợp, u hoài, trước vũ trụ mênh mang, dường như chân trời của những nỗi
buồn của nhà thơ cứ thế dài vô tận. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho
nét phong cách đó của Huy Cận.
Bài thơ được in trong tập thơ Lửa thiêng viết vào năm 1940, tác phẩm bộc lộ tâm
trạng u buồn của con người trước cảnh vật rộng lớn bao la, khắc hoạ sự cô đơn buồn
thương đến tuyệt đối.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.”
Từng cơn sóng mệt mỏi gợn lăn tăn giữa dòng sông sâu rộng. Con thuyền nhỏ cô
độc giữa dòng sông càng làm nổi bật sự nhỏ bé, cô đơn, thuyền mặc trôi vô định
xuôi theo dòng giang bao la. Sóng gợn "điệp điệp", nước “song song", cảnh vật tuy
có sự vận động nhưng sao vẫn thấy tĩnh lặng lạ lùng. Dòng sông thì bao la vô tận,
thiên nhiên vẫn tuyệt đẹp đấy thôi mà sao vẫn mang nỗi sầu buồn khó tả:
" Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng"
Thuyền và nước gắn bó chặt chẽ và song hành cùng nhau "thuyền về", " nước lại" -
dường như hai vật thể lại đang trong thế đối nghịch nhau gợi sự chia lìa, xa cách,
cũng như nỗi sầu của người thi nhân vậy. Càng cố tìm đến thiên nhiên để thoát li
nỗi sầu muộn trước nhân thế, trước thực tại đảo điên, thi nhân lại càng thấy mình cô
độc, buồn thương, càng nhỏ bé trước vũ trụ vô tận. Những dòng nước cứ thế lặng lờ
trôi, cành củi khô một mình lạc giữa mênh mang sóng nước. Dường như chẳng thể
điều khiển được dòng nước mình đi, trôi dạt vô định giữa sông nước. Cảnh nhẹ
nhàng, yên bình, đẹp nhưng đượm nỗi buồn lớn. Phải chăng cảnh cũng chất chứa
tâm trạng hay chính lòng người buồn khiến cảnh cũng mang nỗi sầu tư, bởi vốn
"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
Nỗi lòng ấy lại càng sâu hơn, thê lương và cô đơn hơn, ngấm chìm vào từng cảnh vật:
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều"
Bãi cồn nhỏ nhoi, ít ỏi lại càng tô đậm thêm vẻ đìu hiu quạnh vắng của không gian.
Nét cảnh vật có phần hoang sơ, tiêu điều, đơn độc. Tiếng chợ chiều xa vẳng lại
chẳng rõ ràng. Có âm thanh, có hoạt động của con người đấy thôi, mà sao vẫn
không vơi đi nỗi lặng lẽ của thời gian, của thiên nhiên và của lòng người. Chút âm
thanh tiếng nói nơi chợ xa ấy chẳng đủ để xua tan đi cái buồn, cái tịch liêu rợn ngợp
nơi đây. Càng hướng về thiên nhiên chốn quê nhà, càng mong mỏi chút gì đó sưởi
ấm cõi hồn lạnh giá nhưng lại càng thấy cô đơn trên chính quê hương mình.
Thiên nhiên đáp trả lại người thì nhân ấy một khung cảnh đầy buồn vắng, quạnh hiu:
"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Cánh bèo trôi dạt giữa dòng sông, không mục đích, không chốn đến nơi về, cứ thế
xuôi theo dòng nước. Đưa mắt nhìn về bến đò, lại chỉ thấy hiu hắt, quanh vắng,
chuyến đò ngang cũng chẳng thấy đâu, chẳng ai khiến ta thôi u sầu, chẳng ai cùng
người thì sĩ san bớt nỗi sầu tư lúc này. Mong mỏi chút gì đấy sinh hoạt của con
người cũng không thấy, bao quanh chỉ là những bờ xanh, bãi vàng tiếp nối nhau, nỗi
buồn cứ thế cũng chất chồng lên nhau, thật xót xa, đau đớn biết nhường nào.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”
Nhà thơ có cái nhìn rất tinh tế khi miêu tả thiên nhiên đầy tráng lệ, hùng vĩ, vận
động rất đẹp và thơ. Từng lớp mây vốn nhẹ nhàng trôi giờ tiếp nhau tạo thành
những hình núi đẹp đẽ, lớn lao, từng áng mây mang nội lực, mang sức sống bất diệt,
trường tồn. Cánh chim nhỏ nghiêng mình cũng là lúc bóng chiều dần buông xuống.
Khi ấy, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, tình cảm sâu nặng với quê hương lại càng trỗi
dậy, dạt dào đến khó tả:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Trong trái tim nhân vật trữ tình lúc này đong đầy biết bao tình cảm tốt đẹp chốn quê
nhà. Dù buồn đấy, sầu đấy, nhưng nghĩ về quê hương lại càng xúc động, không nói
nên lời. “Lòng quê dợn dợn" phải chăng là những đợt sóng lòng đang dâng trào
mãnh liệt nơi tâm hồn thi nhân đã dồn nén bấy lâu, càng thương nhớ lại càng da diết
khôn nguôi. Đứng trên quê hương mà lại nhớ quê hương khôn cùng.
Bằng các hình ảnh giàu sức gợi, mang đậm phong vị Đường thi, với những hình ảnh
cổ điển tiêu biểu, sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Huy Cận đã
thể hiện được cái tôi độc đáo của mình trong thơ. Bài thơ bồi đắp, nuôi dưỡng cho
tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nặng với quê hương dân tộc.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 8
Thời đại Thơ mới của Việt Nam ghi dấu sự thành danh của nhiều bậc thi nhân đại
tài. Đó là một Xuân Diệu khao khát tình đến cháy bỏng, mãnh liệt. Một Chế Lan
Viên trăn trở đi tìm cái tôi cá nhân. Một Hàn Mặc Tử chìm trong thực và mộng. Và
có cả một nhà thơ – một con người mang tâm hồn của một kẻ ảo não, chênh vênh
giữa cõi đời rộng lớn. Thơ ông hàm súc nhưng lại ẩn chứa biết bao triết lý cùng
những dòng suy tưởng miên man. Không ai khác ngoài Huy Cận – chàng thi sĩ đã
để lại cho đời biết bao tác phẩm xuất sắc tuyệt thế mà đặc sắc nhất phải kể đến thi phẩm “Tràng giang”.
Hoàn cảnh sáng tác chính xác của Tràng giang là vào tháng 9 năm 1939, khi ấy Huy
Cận mới chỉ vừa bước vào độ tuổi 20, đang theo học tại Trường cao đẳng Canh
Nông. Bài thơ là một phút ngẫu hứng của thi sĩ trong buổi chiều đạp xe ra bến
Chèm ngắm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chảy. Bao nỗi nhớ, bao cảnh sầu, sự
cô đơn của một cái “tôi” trước thiên nhiên cứ thế tuôn trào để trở thành vần thơ còn
lưu truyền hậu thế đến tận ngày nay.
Ban đầu, bài thơ có tên là “Chiều bên sông” sau đó tác giả đổi thành “Tràng giang”.
So với nhan đề cũ, Tràng giang mang âm hưởng Hán – Việt trang trọng, cổ kính
hơn. Sự lan tỏa của vần “ang” không chỉ vẽ ra cái mênh mông bát ngát rợn ngợp của
không gian thiên nhiên sông nước mà còn ngầm gợi ra nỗi buồn trải dài không dứt.
Sau nhan đề là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Chính lời đề từ này
đã thâu tóm cả cảnh và tình của bài thơ. Ta thấy đâu thiên nhiên sao bao la chẳng
thấy điểm cuối, còn nỗi buồn, nỗi bâng khuâng lại cứ rộng dài mãi không nguôi .
Trong bài thơ Tràng giang, có thể thấy 2 bức tranh tả cảnh và tả tâm trạng của người
thi sĩ rất rõ nét. Về cảnh vật, tất cả đều nhuốm một màu hiu quạnh, vắng vẻ, cô liêu.
Nhà thơ mở đầu bằng 4 câu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Từ láy “điệp điệp” kết hợp cùng trạng thái buồn đã mở tạo ra nốt trầm trong cung
bậc cảm xúc khi vừa đọc những vần thơ đầu tiên. Ta không chỉ thấy sóng tràng
giang đang cuồn cuộn mà còn thấy những đợt sóng lòng của người thi nhân dường
như cũng đang mênh mang lan tỏa hòa cùng trời đất. Con thuyền trên trên sóng
nước cũng chẳng mảy may chèo lái để mặc “xuôi mái nước song song”. Rồi đến
cuối cùng “Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả” nhuốm màu chia ly buồn bã. Những
vần thơ cứ thế mà đậm chất cổ điển, ngỡ như một bậc thi nhân xứ Trung Hoa sáng
tác, cho đến khi tác giả nhắc đến hình ảnh củi. Không phải bèo cũng chẳng phải hoa
trôi trên sông, mà đây là cành củi lạc dòng vô định. Thân phận củi khô héo, lênh
đênh trên sông nước càng thêm phần lay động.
Hai câu đầu của khổ thơ thứ hai của bài thơ tiếp nỗi buồn len lỏi vào từng không gian:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Nỗi buồn giăng mắc, mơ hồ hòa quyện với cái vẻ hiu hắt, quạnh quẽ đôi bờ sông.
Nhà thơ muốn nghe lắm, muốn được thấy lắm tiếng người nói cười nhưng “Đâu
tiếng làng xa vãn chợ chiều”. “Đâu” ở đây là diễn tả “đâu đó” hay “đâu có” - tác giả
cũng không nói rõ với người đọc. Từ “vãn” càng tạo ra cảm giác xa xôi, tẻ nhạt,
quạnh vắng. Vậy là muốn nghe âm thanh của cuộc sống nhưng cuối cùng đáp trả lại
nỗi lòng người thi nhân chỉ là cảnh vật hoang vu, nỗi buồn man mác.
Rồi bỗng nhiên, điểm nhìn từ dưới thấp đột ngột được đẩy lên cao.
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Ngòi bút của Huy Cận vẽ lên “nắng”, “trời”, “sông”, “bến”. Những cảnh vật vốn
quen thuộc trong thơ ca nay lại nằm trong một tâm thế khác bởi một lối dùng từ ngữ
chắt lọc đến tinh tế. Tác giả miêu tả “trời lên sâu chót vót” thay vì “trời lên cao chót
vót”. Bởi cái “sâu” ở đây không chỉ là chiều kích không gian cảnh vật mà nó còn
gợi lên một nỗi buồn không đáy, nỗi buồn trải dài đến vô cùng tận của lòng người.
Người buồn cảnh có vui bao giờ, để cuối cùng những gì đọng lại chỉ còn là “Sông
dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Đến khổ thơ thứ ba, dường như tác giả đã hoàn toàn bất lực để kéo bản thân ra khỏi nỗi buồn rợn ngợp.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Huy Cận sử dụng hình ảnh “bèo” – sự vật nhỏ bé, tầm thường thay cho lời diễn tả
đến những kiếp người mang số phận bấp bênh, trôi nổi, vô định giữa dòng đời. Cả
khổ thơ 4 câu đều không thấy sự xuất hiện của bóng dáng con người. Tất cả chỉ có
thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, nỗi buồn tiếp nối nỗi buồn. Cấu trúc phủ định
“không một chuyến đò ngang” – “không cầu gợi chút niềm thân mật” đã xóa sạch
sự kết nối của con người. Thật khó để nhìn thấy trong “Tràng giang” một chút dấu
vết của sự vội vã, ồn ào, bon chen đời thường. Thứ khiến độc giả đắm chìm chỉ là
một nỗi buồn hiu hắt khó tả.
Khổ cuối cùng, sự cô đơn đến đây được đẩy lên như một nốt thanh cao vút trong
bản giao hưởng nỗi buồn
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Những câu thơ mang đầy màu sắc cổ điển. Huy Cận đã sử dụng bút pháp chấm phá
để vẽ lên bức tranh thủy mặc có núi, có mây, có cánh chim nghiêng, bóng chiều,
khói hoàng hôn. Trời đổ bóng hoàng hôn, nỗi cô đơn càng thêm phần thấm thía.
Cánh chim cô đơn xuất hiện chơ vơ lẻ loi khiến người đọc đặt ra hai giả thiết. Chim
nghiêng cánh nhỏ kéo bay liệng bóng chiều sa xuống tràng giang hay chính bóng
chiều buông dần rồi đè nặng lên cánh chim đang nghiêng lệch. Nhưng dù thế nào thì
cảnh vật lúc này cũng nặng trĩu nỗi tâm tình của kẻ thi nhân đa sầu đa cảm. Từ láy
“dợn dợn” thể hiện nỗi bâng khuâng cô đơn trào dâng trong lòng. Tất cả cảm xúc
dồn lại đem đến nỗi “nhớ nhà”. Câu cuối của “Tràng giang” khiến ta liên tưởng đến
đôi ba câu thơ cũ của Thôi Hiệu:
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu."
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)
Nghìn năm trước, thi nhân Trung Quốc thấy khói sóng trên sông mà buồn, còn Huy
Cận, nỗi buồn cứ thế đến một cách tự nhiên. Chẳng cần một ngoại cảnh nào tác
động. Tất cả trào dâng trong lòng nỗi bơ vơ, khắc khoải, cô đơn, da diết với cuộc đời.
Bằng những từ ngữ giàu sức gợi tả, bút pháp cổ điển mang đậm nét Đường thi, Huy
Cận đã tạo ra một Tràng Giang nhuốm màu nỗi buồn, nỗi cô đơn. Một cái “tôi” lẻ
loi giữa vũ trụ vô thường bao la đã được bộc lộ rất rõ nét. Đồng thời, cho ta thấy rõ
nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết sầu bi trong tâm hồn người thi sĩ đa cảm.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 9
Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với một
“hồn thơ ảo não”. Thơ của Huy Cận luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc
bởi những khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, mênh mang và luôn thấm đẫm một
nỗi buồn. Bài thơ “Tràng giang” in trong tập “Lửa thiêng” là một trong số những
sáng tác tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.
“Tràng giang” để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc ngay từ nhan đề và câu
thơ đề từ của tác phẩm. Nhan đề bài thơ là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính,
với nghĩa là sông dài. Nhưng đặc biệt ở chỗ, tác giả không sử dụng “trường giang”
là dùng là “tràng giang” với hai vần “ang’ - hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa
liên tiếp nhau, điều đó đã gợi lên trong cảm nhận của người đọc hình ảnh một con
sông vừa dài vừa rộng. Thêm vào đó, câu thơ đề từ của tác phẩm “Bâng khuâng trời
rộng nhớ sông dài” cũng đã khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong
bài thơ đó chính là bức tranh thiên nhiên với trời rộng, sông dài và cảm xúc bao
trùm toàn bộ bài thơ đó chính là nỗi nhớ, niềm bâng khuâng cùng nỗi buồn như lan
tỏa vào trong mọi cảnh vật.
Từ nhan đề và câu thơ đề từ của bài thơ, khổ thơ thứ nhất đã mở ra một không gian
sông nước sông nước rộng lớn. Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình
ảnh sông nước mênh mang.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Dường như, dòng sông “tràng giang” đã dài nay lại như trải dài ra hơn với từng đợt
sóng “điệp điệp” cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt. Những
đợt sóng ấy như trải dài đến vô tận càng tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la
của sông nước. Và để rồi, trên cái nền sông nước mênh mông ấy, hình ảnh con
thuyền hiện lên thật nhỏ nhoi, cứ thế “xuôi mái nước song song”. Hình ảnh đối lập
giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi
lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi. Đặc biệt, khổ thơ thứ nhất còn để lại ám ảnh sâu
sắc trong lòng người đọc bởi hai câu thơ cuối của khổ thơ.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Từ xưa cho đến nay, thuyền và nước là hai hình ảnh luôn đi liền với nhau, ấy vậy
mà ở đây dường như thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi. Có
lẽ bởi thế mà cảnh vật ấy càng khiến cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh
sông nước mênh mông ấy, hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong
lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi
sẽ trôi dạt về đâu bởi trăm dòng mênh mông vô định. Như vậy, trong khổ thơ thứ
nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi
khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định. Đồng thời, khổ
thơ cũng gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.
Nếu trong khổ thơ mở đầu của bài thơ, tác giả vẽ nên không gian sông nước mênh
mông thì trong khổ thơ thứ hai, tác giả lại mở ra không gian nơi cồn nhỏ. Hai câu
thơ mở đầu khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi
cảm tác giả đã vẽ nên một bức tranh nơi cồn nhỏ vừa thưa thớt, hoang vắng, lạnh
lẽo vừa gợi nên một nỗi buồn mênh mang. Thêm vào đó, sự hoang vắng, tĩnh mịch
của không gian như càng được tô đậm thêm qua câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều”. Có thể nói, đây là một câu thơ có nhiều cách hiểu, “đâu” là đâu có, là phủ
nhận âm thanh của tiếng chợ chiều hay là đâu đó, gợi lên âm thanh yếu ớt của tiếng
chợ. Nhưng có lẽ dẫu hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ vẫn gợi lên trong
lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người.
Nếu hai câu thơ đầu khổ hai gợi lên không gian cồn nhỏ vắng vẻ, hiu quạnh thì
dường như trong câu ba và câu bốn, không gian ấy như được mở rộng cả về bốn
phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Trong hai câu thơ, tác giả dùng “sâu chót vót” thay vì “cao chót vót” bởi lẽ chữ
“sâu” không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, nó không chỉ gợi lên một khoảng không
gian rộng lớn, thẳm thẳm mà còn gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của
lòng người trước cái mênh mông, hoang vắng của cảnh vật.
Như vậy, trong hai khổ thơ đầu của bài thơ, nỗi buồn của nhà thơ như bao phủ lên
mọi cảnh vật, lên không gian rộng lớn và mênh mông. Và để rồi, trong khổ thơ thứ
ba của bài thơ, tác giả lên trở về với không gian sông nước với khung cảnh mênh
mang, đìu hiu, thiếu vắng đi sự sống của con người.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bài vàng
Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” một lần nữa gợi lên trong người đọc hình
ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu. Thêm vào
đó, khổ thơ với việc sử dụng nghệ thuật phủ định lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh sự
hiu quạnh, thiếu sự sống của cảnh vật. Lẽ thường, chúng ta vẫn thường thấy rằng,
thuyền và cầu là những phương tiện, những hình ảnh thể hiện sự giao lưu, kết nối
giữa con người với con người, giữa miền đất này với miền đất khác nhưng ở đây
“không một chuyến đò”, “không một cây cầu”. Dường như, ở nơi đây chẳng có bất
cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình
con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau.
Có lẽ bởi thế mà hai bờ của dòng sông cứ thể chạy dài, chạy dài mãi mà chẳng bao
giờ gặp nhau, chỉ còn lại ở nơi đây những bờ xanh, những bãi vàng nối tiếp nhau -
một bức tranh đẹp nhưng tĩnh lặng và thật buồn.
Nếu trong ba khổ thơ trên, tác giả vẽ nên một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, hoang
vắng với nỗi buồn, cô đơn thì trong khổ thơ cuối cùng, tác giả đã thêm vào cho bức
họa thiên nhiên ấy một gam màu mới và ẩn sau đó là nỗi nhớ quê hương da diết,
cháy bỏng của tác giả.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiểu sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hai câu thơ đầu khổ thơ cuối đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ
đẹp hùng vĩ, nên thơ. Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác
nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc.
Dường như chỉ với một câu thơ thôi nhưng tác giả đã tạo nên một bức tranh thật đẹp.
Và để rồi, trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, hình ảnh cánh chim xuất hiện như
ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu
thẳm tâm hồn của nhà thơ. Dường như, sự đối lập giữa cái nhỏ bé của cánh chim
chiều với sự rộng lớn, hùng vĩ của “lớp lớp mây cao” càng làm không gian như rộng
hơn và nỗi buồn, sự cô đơn của nhà thơ cũng thế tăng lên. Và để rồi, trước không
gian ấy, trong lòng nhà thơ hiện lên nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng. Hình ảnh
“dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi
lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ - nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ
quê hương da diết. Đặc biệt, câu thơ đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả
một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ và
tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng thường gặp ở tầng lớp tiểu tư sản thời bấy giờ.
Tóm lại, “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và màu
sắc hiện đại cùng những hình ảnh thơ độc đáo đã gợi lên trong chúng ta nỗi buồn, sự
cô đơn của một cái tôi trước khung cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn và đặc biệt đó
chính là tấm lòng tha thiết với quê hương, với đất nước. Đọc bài thơ, giúp chúng ta
hiểu vì sao Xuân Diệu từng đánh giá “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông,
đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 10
Mỗi ai khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dòng
sông quê hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là
nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ không thể kìm lòng
mà phải viết. Một dòng sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ
Tế Hanh, một con sông Đà trong tùy bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm
đềm trong văn Hoàng Phủ…. Và chỉ khi đến với “Tràng Giang” của Huy Cận, ta
mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng chứa chan tình quê trong
cảm thức của tác giả.
Mang trong mình cả cái tài, cái tâm lẫn cái tầm, Huy Cận được mệnh danh là nhà
thơ lớn, nhà văn hóa lớn. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại,
hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào
tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – những khi đạt
đến độ thuần thục – rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ
năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy Cận – vừa mộc mạc chân tình vừa
lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc
khắp các tứ thơ. Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh
mà thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người
đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản
ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói: ấn tượng không gian
có được – trước hết – nhờ phong vị Ðường thi. Nhà thơ Xuân Diệu có lần từng nhận
xét: “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy
Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất
của tâm hồn mình”. Và “Tràng Giang” đã thể hiện sâu sắc điều đó.
“Tràng giang” là bài thơ tuyệt bút in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940.
Theo tác giả cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại
học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng mênh
mông, lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng
giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước
cảnh: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Có thể nói nhan đề của một bài thơ chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc
có thể lần mò theo đó khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ
“Tràng giang” cũng vậy, ý nghĩ, nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn
vẹn hai từ “Tràng giang”. “Tràng giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ
hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải
“Trường giang”. Bởi vốn dĩ “Trường giang” chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn
thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông,
vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi
niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông rộng lớn mênh mông này.
Bước vào thế giới của Tràng Giang, ta như lạc vào một miền sông dài trời rộng đầy cuốn hút:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ đầu mở ra với sóng. Không ồn ào, mạnh mẽ mà là “sóng gợn”. Động từ
“gợn” vừa miêu tả tư thế, vừa miêu tả tâm thế. Bởi lẽ, “gợn” trước hết gợi đến
những chuyển động vô cùng nhỏ, chậm rãi của sóng. Tuy là một động từ nhưng
thực chất “gợn” gợi ra cái không khi tĩnh lặng, im ắng của thiên nhiên sông nước.
Nghệ thuật lấy động tả tĩnh của nhà thơ sao thật tài tình. Chi tiết hé mở hoàn cảnh
thiên nhiên, nhưng cũng mở ra không gian tâm trạng của nhà thơ. Ta thấy ở đó tâm
thế của một con người mang trong mình sự sâu lắng, mà cũng đượm buồn. Sóng
không chỉ là sóng sông mà còn là sóng lòng, sóng tâm đang nhẹ nhàng từng gợn nhỏ,
thấm cái “buồn điệp điệp” toát ra từ cảnh và dội vào lòng thi nhân. Từ láy ‘điệp
điệp” không chỉ vẽ lên những đợt sóng gợn liên hồi của sông nước mà còn là dòng
sông tâm trạng của nhà thơ, sóng lòng từng đợt từng đợt cuộn vào nhau. Đặc biệt
hơn, ngay ở câu đầu, tác giả đã nhắc lại nhan đề bài thơ không phải không có dụng
ý. “Tràng Giang” là con sông vừa dài vừa rộng, gợi ra không gian rộng lớn, choáng
ngợp. Đặt giữa cái nền ấy là một con người lẻ bóng, nhỏ nhoi đang đưa cặp mắt
buồn theo mấy con sóng lăn tăn tít tắp đến tận chân trời.
Điều này càng tô đậm thêm nỗi lòng của Huy Cận, một thi sĩ sẵn sàng buồn mọi lúc
mọi nơi. Nỗi buồn của người lữ thứ dừng chân trên quán chật đèo cao, buồn đêm
mưa, buồn nhớ bạn, buồn khi nắng xuống, khi chiều lên, thậm chí là buồn khi không
còn thấy những dấu chân trên đường.
Nếu như câu thơ đầu chập chùng sóng vỗ thì đến những câu tiếp theo đã thấp
thoáng bóng dáng của con thuyền. “Con thuyền xuôi mái nước song song” hay cũng
chính là con thuyền trôi vô định, trôi song song dòng nước, cho con sóng đưa đi.
Hình ảnh đó gợi cho tôi một tâm thế buông xuôi, phó mặc cho dòng đời, sự đời đưa
đẩy của thi nhân. Cùng với nỗi “buồn điệp điệp” trên, câu thơ càng làm sáng tầng ý nghĩa sâu sắc này.
Có thể nói, câu thơ thứ ba là một sáng tạo tài tình của tác giả. Theo lẽ thường, nước
đẩy, thuyền trôi. Thuyền trôi theo dòng nước. Nói cách khác, thuyền và nước không
bao giờ tách rời nhau, ngược chiều nhau. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, nước
lại”. Hai thế đối lập gợi ra cái vô lí trong logic nhưng thực chất, xét ở bề sâu, bề sau,
bề xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng của người lữ khách miền sông nước. Phải
chăng đó là mặc cảm chia lìa trong cảm nhận của Huy Cận khi đứng trước sông dài
trời rộng? Cũng như Hàn Mặc Tử khi còn nằm trên giường bệnh, nhìn ra xa mà thấy
“Gió theo lối gió, mây đường mây”. Đó là nỗi buồn đầy ám ảnh trong mặc cảm chia
li. Thế nên Huy Cận “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu to lớn mà không gì có thể bù đắp được.
Toàn bộ nỗi lòng của nhà thơ cuối cùng được kết đọng cả trong hình ảnh “củi một
cành khô lạc mấy dòng”. Thơ ca từ cổ chí kim, nỗi buồn được cắt nghĩa dưới vô vàn
hình hài góc cạnh khác nhau. Có cái nỗi buồn khi thấy “cây ngô đồng, vàng rơi
vàng rơi thu mênh mông” (Bích Khê), có cái nỗi buồn trước “rặng liễu đìu hiu”
(Xuân Diệu), lại có cái buồn khi nghe thấy tiếng gà gáy não nùng trong thơ Lưu
Trọng Lư. Nhưng có lẽ, buồn trước một cành củi khô thì chưa bao giờ xuất hiện
trong kho tàng văn học Việt Nam. Củi chỉ những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh, cũng
trôi lênh đênh vô định trong dòng chảy của cuộc đời. Vậy nên, “củi một cành khô
lạc mấy dòng” là điều không thể tránh khỏi.
Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầu:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Điều đầu tiên gây ấn tượng trong lòng độc giả là phép đảo ngữ. Từ láy “lơ thơ”
được đặt lên đầu câu, nối tiếp sau đó là “cồn nhỏ gió đìu hiu”. Một câu mà xuất hiện
liên tiếp ba tính từ chỉ sự xơ xác, nhỏ bé, lẻ loi của tạo vật. Đìu hiu, hay cũng chính
là cái buồn không ai chia sẻ đang dậy sóng trong tác giả. Thay vì là bức tranh thiên
nhiên như khổ một, khỏ thơ thứ hai lại tái hiện cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà
tiêu biểu nhất là hình ảnh chợ chiều thời điểm vãn. Chợ vốn dĩ miêu tả cảm giác
đông đúc, ấm no, tràn đầy sức sống, đúng như Nguyễn Trãi từng miêu tả: “Lao xao
chợ cá làng Ngư Phủ”. Đủ để thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một phiên chợ. Huy
Cận không như thế, ông chọn cho mình thời điểm vãn chợ như một tín hiệu nghệ
thuật đặc sắc. Chợ vãn là khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ
còn vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…” (Thạch Lam). Chi tiết gợi ra cái hoang tàn,
xơ xác, hiu quạnh, heo hút của làng quê miền sông nước, cũng là gợi mở cái buồn
vô hạn trong lòng thi nhân.
Hai câu cuối là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho cái hồn thơ đậm phong vị
Đường thi của Huy Cận. Câu trước, câu sau đối nhau, niêm luật sử dụng chặt chẽ
cùng các động từ, tính từ đối nhau từng cặp: lên – xuống, dài – rộng như mở thêm
cho không gian. Sông nước đã rợn ngợp nay càng rộng lớn hơn nhiều lần. Sông
nước mở ra theo chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng. Không gian như đang
giãn nở từ từ theo mọi chiều kích. Đọc câu thơ ta thấy như mọi vật đang chuyển
động r xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn. Và ở chính giữa bức tranh ấy, ta thấy
tâm điểm vẫn là bóng dáng nhỏ bé tưởng chừng đơn độc, hiu quạnh giữa vũ trụ.
Nỗi buồn, nỗi sầu của thi nhân vì thế mà nhân lên gấp bội lần.
Khổ thơ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các
sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt nước mênh mông.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cảnh mênh mang, buồn bã, trống vắng của Tràng Giang được nhân lên mấy lần phủ
định. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ, là biểu hiện của sự giao nối của con người
và cuộc sống, thường gợi lên không khí tấp nập, thân tình, gợi nhớ quê hương:
“Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta – Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo – Đêm
trăng sáng chân cầu em giặt áo – Nhịp cầu nối những bờ vui.” (Nhịp cầu nối những
bờ vui). Nhưng ở đây, không một chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên
không một dấu vết của sự sống hay một cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn
gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chạy dài về phía chân trời như
hai thế giới cô đơn, xa lạ, không bao giờ gặp nhau, không chút niềm thân mật của
những tâm hồn đồng điệu. Cảnh Tràng Giang nay chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi
vàng”. Bức tranh thật đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn đến nao lòng.
Trên mặt nước ấy xuất hiện hình ảnh cánh bèo lẻ loi, đơn độc, gợi đến thân phận
“cánh bèo mặt nước” (Nguyễn Du), sự tan tác, chia lìa, phiêu bạt:
Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu cũng nữa là lênh đênh Nguyễn Du
Câu thơ cho ta thấy: Bèo dạt hoa trôi trên dòng Tràng Giang hay cũng chính là kiếp
trôi nổi của con người trong dòng thời gian. Cả bốn câu, mỗi câu một nỗi buồn riêng,
kéo nhau như sóng gợn trong lòng Huy Cận.
Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ
nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau
như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn,
nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng nên nhau, tạo thành
những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết
bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trơi giữa tầng không khi chiều về như
trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm
cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ
nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng
làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn
nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.
Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong
lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian:
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
“Lòng quê” hay cũng chính là hồn quê, tình quê trong lòng thi nhân, sự hướng tâm
chứ không chỉ đơn thuần là tấm lòng chất phác, quê mùa. Hai từ “dờn dợn” cho ta
cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang
nhớ thương vậy? Hai từ “dờn dợn “còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lươn
của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng
của một buổi chiêu tà.và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục, nhiểu lần
nhưng nỗi ấy mới chỉ là “dờn dợn” mà chưa phải là cuồng nhiệt. Câu thơ muốn nói
lên lòng nhớ quê hương khi tác giả đứng trước sông nước rợn ngợp.
Câu thơ cuối cùng kết lại toàn bài. Đó chính là điểm nhấn sâu sắc nhất, đóng lại tư
tưởng, tình cảm của bài thơ. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố
ngoại cảnh nào tác động trực tiếp đến thi nhân nhưng tại sao nhà thơ vẫn nhớ nhà?
Đặt trong thơ ca từ cổ chí kim, Thôi Hiệu đã từng bày tỏ nỗi hoài hương của mình
thế này: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng
ai” (Hoàng Hạc Lâu). Trước cảnh mà dâng trào nên tình nhớ. Còn ở Huy Cận, ta lại
thấy không một chút gợi nhớ nhưng tấm lòng nhà thơ vẫn hướng về quê cha đất tổ.
Đủ để thấy cái tình quê ấy nó đậm đà biết nhường nào. Đặt trong hoàn cảnh ra đời
bài thơ, Huy Cận đứng trước dòng sông quê hương mà vẫn nhớ quê hương, thâm
trầm nhưng sâu sắc. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy, mấy ai sánh kịp?
Dưới hình thức một bài thơ đậm phong vị Đường thi, kết cấu mạch lạc và cái tài
sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả, bài thơ hiện lên như một bản hòa ca mà ở
đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà phê
bình Phan Cự Đệ có lần từng nhận xét: “Các nhà lãng mạn gửi gắm vào trong thơ
một tấm lòng tha thiết yêu thiên nhiên đất nước và một sự nâng niu đối với tiếng
Việt, lúc bấy giờ bị xem như tiếng mẹ ghẻ, tiếng con đòi… Tiếng nói trong Thơ mới
là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh trong Thơ mới chính là đất nước Việt Nam
mĩ lệ với những vẻ đẹp riêng của từng vùng quê hương (“Quê hương” của Tế Hanh,
“Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, “Đà Lạt đêm sương” của Quách Tấn, “Chùa
Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Chiều xuân” của Anh Thơ…). Cho nên ta có thể
dễ dàng thống nhất với Xuân Diệu khi anh viết: “Tràng giang” là một bài thơ ca hát
non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.
Thời gian có thể phủ bụi một số thứ. Nhưng có những thứ càng rời xa thời gian,
càng sáng, càng đẹp. “Tràng Giang” của Huy Cận là một bài như thế. Cùng với tấm
lòng chan chứa tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ, thi phẩm sẽ còn sống mãi
với chúng ta cho đến tận muôn đời.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 11
Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài", là cảm hứng chủ đạo của Huy Cận
trong bài thơ "Tràng giang" đã khắc chạm vào thời gian và hồn người trong hơn nửa
thế kỉ qua. "Tràng giang" là bài thơ tuyệt bút in trong tập "Lửa thiêng" xuất bản năm 1940.
Theo tác giả cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại
học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng mênh
mông, lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận vể tràng
giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước
cảnh "Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".
Khổ thơ đầu nói về "sóng gợn", con thuyền và cành củi khô trôi trên dòng sông:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song".
Tràng giang - sông dài và lớn, như Hoàng Hà, Trường Giang,... ở đây là sông Hồng
thân yêu, dòng sông "đỏ nặng phù sa". Sóng gợn lăn tăn, lớp lớp "buồn điệp điệp",
như vỗ vào, thấm sâu vào lòng người bao ám ảnh. Con thuyền nhỏ bé, trôi xuôi
dòng, buông mái chèo "nước song song".
Cặp từ láy: "điệp điệp" và "song song" gợi tả một nỗi buồn thấm thía, xa vắng và
mơ hồ. Hình ảnh cành củi khô vừa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. "Củi
một cành khô" nhỏ bé, tầm thường từ rừng xa trôi về đã được đem vào thơ, tạo nên
"cái vị ý mới mẻ" của Thơ mới. Nó còn biểu tượng cho một kiếp người phù du, bé
nhỏ trôi nổi trên dòng đời vô định. Buồn thương thế, biết đi đâu về đâu?
"Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng".
Phép đối được sử dụng sáng tạo, chỉ đối ý, đối hình mà vần thơ vẫn cân xứng hài
hoà. Con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên tràng giang. Huy Cận đã
nói nhiều đến "vạn cổ sầu", "buồn thiên thu", ở đây ông lại viết "sầu trâm ngả". Cả
cõi dương và cõi âm? "Sầu trăm ngả" như toả rộng và phủ lên những kiếp người đau
thương. Các số từ trong ba vần thơ "sầu trăm ngả", "củi một cành khô", "lạc mấy
dòng" đã làm thấu rõ cái ám ảnh về kiếp người thì nhỏ bé, hữu hạn, sự đau khổ, sầu
thương thì to lớn, vô hạn.
Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu tả qua một không gian bao la. Cái bé nhỏ tương
phản với cái mênh mông, vô cùng. Cồn thì nhỏ bé thưa thớt, buồn bã: "Lơ thơ cồn
nhỏ gió đìu hiu". Vần lưng: "nhỏ - gió", kết hợp với láy âm: "lơ thơ" và "đìu hiu",
âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người về một nỗi buồn hiu hắt, cô quạnh. Nghệ
thuật sử dụng từ láy tài ba, gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc trở về với cổ
thi: "Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò" (Chinh phụ
ngâm), "Lơ thơ tơ liễu buông mành..." (Truyện Kiều).
Chợ chiều vốn đã buồn xao xác, vãn chợ chiều thì cái buồn xao xác xa vắng lại
nhiều lần nhân lên. Thế mà giờ đây cái âm thanh xao xác "vãn chợ chiều" từ một
làng xa cũng không còn nữa. Từ "đâu" biểu lộ cái ngơ ngác của thi nhân với một nỗi
buồn cô quạnh chứa chất trong lòng: "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều".
Bầu trời và lòng sông là không gian hai chiều. Trời cao thăm thẳm in xuống lòng
sông. Người ta thường nói: "cao chót vót", "sâu thăm thẳm", nhưng Huy Cận lại viết:
"sâu chót vót" để làm nổi bật hai tiểu đối: "nắng xuống" và "trời lên" kia, cái bao la,
mênh mông đều rợn ngợp của dòng sông, bầu trời và bến đò xa vắng:
"Nắng xuống trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".
"Tràng giang" là thi phẩm đại diện sáng chói, lung linh nhất của "Lửa thiêng". Nói
đến "Tràng giang" là nói đến "Lửa thiêng". Nói đến "Lửa thiêng" là nói đến nỗi
buồn mênh mang, bao trùm không gian và thời gian, dường như ngầm chất chứa
"cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế!" (Xuân Diệu).
Câu hát "bèo dạt mây trôi" trong dân ca quan họ từng gợi lên trong hồn ta nhiều
cảm xúc mơ hồ. Khổ thứ ba, Huy Cận lấy cánh bèo trôi dạt trên tràng giang làm
biểu tượng cho sự hợp tan, chia lìa trên dòng đời của những kiếp người truân chuyên lưu lạc:
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".
Giữa cái bao la trời đất, sông nước hầu như không có bóng dáng con người. Câu thơ
phủ định bằng điệp từ "không" liên tiếp: "không một chuyến đò ngang", "không cầu
gợi chút niềm thân mật" và chỉ có một màu vàng của bãi tiếp nối với màu xanh của
bờ vô tận. Cái buồn và cô đom của một tâm trạng được diễn tả trong một không
gian "mênh mông" và "lặng lẽ'. Khổ thơ cuối nói về khoảnh khắc hoàng hôn. Hoàng
hôn trong thơ cổ thường gắn liền với tình quê, cố hương
"Dừng chân đứng lại: trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta". (Qua Đèo Ngang)
Thôi Hiệu, nhà thơ lỗi lạc đời Đường, đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng phủ
mờ trên sông buổi hoàng hôn mà lòng thổn thức:
"Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?". (Tản Đà dịch)
Huy Cận lựa chọn một số thi liệu đầy chất thơ để diễn tả một tình quê vơi đầy: một
cánh chim chiều, lớp lớp núi mây bạc. Không có khói sóng mà vẫn thương nhớ quê nhà da diết:
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".
Câu thơ nên họa, đầy hình tượng và dạt dào cảm xúc. Hồn thơ Đường như thấm vào
câu chữ. Ai đã từng xa quê, trong khoảnh khắc hoàng hôn mới thấy hết cái hay (đẹp
mà buồn) trong những bài thơ nói về tình quê, lòng quê. "Nay hoàng hôn đã lại mai
hôn hoàng" (Truyện Kiều),..: "Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ - Lấy ai mà kể
nỗi hàn ôn" (Chiều hôm nhớ nhà). - Từ cảm nhận ấy, ta như bâng khuâng nhập hồn
mình vào "Tràng giang", lặng lẽ trầm ngâm nhìn theo "vời con nước" mà "nhớ nhà", nhớ quê hương.
Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn "dợn dợn", vẫn "nhớ nhà". Rõ
ràng tình quê trong Huy Cận cháy bỏng và da diết vô cùng. Đúng là thơ đích thực
nâng đỡ lòng người, khơi dậy những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn
người để vươn tới cái cao cả. Đọc "Tràng giang" ta cảm nhận sâu thêm chân lí ấy.
"Tràng giang" là một trong những bài thơ hay nhất của Huy Cận trong tập "Lửa
thiêng", ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất
ngôn với bốn khổ thơ, như một bức hoạ tứ bình tuyệt tác. Một nỗi buồn thấm thía
được diễn tả lớp lớp tầng tầng qua những vần thơ mĩ lệ, hàm súc.
"Tràng giang" là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng người
mới có "Đất nở hoa" và những "Bài thơ cuộc đời" đằm thắm, nồng hậu... sau này.
Đọc "Tràng giang" để ta thêm yêu thêm nhớ đất trời sông núi quê hương.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 12
Trước Cách mạng tháng Tám, thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm
nỗi buồn - nỗi buồn tiêu biểu cho cả một thế hệ Thơ mới. Bài thơ Tràng giang (1939
- trích từ tập Lửa thiêng) thể hiện cái tôi buồn miên man của nhà thơ trước cảnh trời
rộng, sông dài; nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Bài thơ
còn thể hiện tình yêu đất nước thầm kín của nhà thơ
Tràng giang nghĩa là sông dài, từ tràng cũng đọc là trường. Nhưng từ tràng giang
với âm hưởng mênh mang của nó, gợi cảnh bao la, bát ngát hơn (tràng giang đại
hải). Tác giả dùng từ Hán - Việt đã tạo ra vẻ cổ kính, vĩnh viễn của dòng sông. Mở
đầu bài thơ là cảnh sông nước:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng gợn lô nhô gối
nhau tới chân trời tạo cảm giác êm ả trong không gian quạnh vắng như chứa đựng
sẵn nỗi buồn: buồn điệp điệp. Nỗi buồn lớp lớp nối nhau tỏa theo con nước đi về
trăm ngả: sầu trăm ngả. Cảnh tràng giang trong bài thơ mang một màu cổ kính;
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán.
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ. (Thuyền đi)
Hình ảnh bổ sung cho con thuyền là cành củi khô chìm nổi lênh đênh giữa cảnh bát
ngát của dòng sông: Củi một cành khô lạc mấy dòng. Từ rừng thẳm, cành củi qua
bao sông suối mà trôi về đây, dập dờn giữa chốn sông nước bao la, gợi liên tưởng
đến cảnh đời lạc loài, bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng
bị dòng đời cuốn trôi không biết về đâu.
Khổ thơ gợi tả cảnh với không gian sông nước mênh mông với những đường nét:
song song, điệp điệp, nhưng lại: sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nên không hứa hẹn gì
hội tụ, gặp gỡ mà chia tan, xa rời. Thủ pháp tương phản giữa hình ảnh dòng sông
rộng lớn với cảnh củi khô và chiếc thuyền nhỏ bé, càng làm nổi bật cảnh bát ngát,
vô tận của dòng sông và thân phận lẻ loi, bé nhỏ của con người.
Âm điệu chung cho cả bài thơ, buồn vì thân phận con người cô đơn, lạc loài trong
cuộc đời cũ. Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch thơ khổ đầu nhưng không gian được mở
rộng ra và đẩy lên cao hơn.
Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Cồn nhỏ đơn côi giữa dòng sông, lại thêm ngọn gió đìu hiu làm cho cảnh càng
hoang vu, hiu hắt, chìm khuất. Dòng nước lũ trên thượng nguồn đổ về nhấn chìm
cồn nhỏ giữa sông chỉ còn nhô lên vài ngọn cỏ lưa thưa gợi liên tưởng đến những
thân phận bị dòng đời nhấn chìm xô dạt.
Không gian mở rộng sang bên bờ: cảnh chợ chiều đã vãn càng tô đậm cái vắng vẻ,
xa lìa.. Cảnh chợ chiều có gợi đến cuộc sống, quê nhà nhưng chỉ là âm thanh xao
xác rồi mất hút dần trong cảnh mênh mang vắng lặng của dòng sông. Dòng sông và.
nhà thơ như bị tách ra khỏi cuộc đời nên đứng trong cảnh ấy lòng người càng thêm
thương nhớ cuộc sống quê hương.
Bầu trời hiện ra cũng làm tăng thêm vẻ lạc lõng: Nắng xuống trời lên sâu chót vót.
Câu thơ giàu hình tượng, gợi tả không gian có hình khối đường nét và màu sắc:
từng vạt nắng trên cao rơi xuống tạo nên khoảng không sâu thẳm trên bầu trời, độ
sâu của bầu trời như ở ngọn cót vót. Cách dùng từ sâu gợi không gian bầu trời như
mở rộng và đẩy lên cao hơn, sâu hơn, tạo ra không gian thăm thẳm, khôn cùng vô
biên của vũ trụ và nỗi buồn của nhà thơ dường như vô tận, mênh mông:
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Dòng sông, bến bãi, đến bầu trời đều rời rạc và được khỏa lấp nỗi buồn của nhà thơ,
buồn vì thiếu vắng cuộc sống nên mong tìm về với cuộc sống. Nhưng cảnh càng
xuất hiện càng lạc lõng, hờ hững:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu một chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Các sự vật được bên nhau: bèo dạt nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng tạo ra một
thế giới không liên hệ, chia lìa. Trong khung cảnh ấy hồn thơ muốn tìm đến dấu vết
của cuộc sống nhưng tất cả đều mênh mông xa vắng được nhấn mạnh bởi hai lần phủ định:
Mênh mông không một chuyển dò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Không một con đò, không một chiếc cầu tri âm, không có bóng người hay cái gì gợi
đến tình người để mà gặp gỡ giao tiếp. Chỉ có mặt nước mênh mông vắng lặng.
Tới ngã ba sóng nước bốn bề,
Nửa chiều gà lạ gáy bên đê (Em về nhà)
Trong cảnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì sự thiếu vắng cuộc sống. Nhà thơ
đứng ngay giữa quê hương mình mà cảm thấy bơ vơ, trơ trọi nên càng khao khát
gắn bó với con người, cuộc sống, với quê hương:
Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm (Đảo)
Bài thơ khép lại với cảnh hoàng hôn kì vĩ nơi chân trời xa:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cảnh mở ra với hình ảnh núi bạc được kết tạo bằng mây trắng lấp lánh ánh
nắng trời. Tác giả bình: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông
trắng nở ra trên trời cao. Ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp”. Một vẻ đẹp kì
thú, ngời sáng, hùng vĩ.
Hình ảnh này gợi nhớ đến một ý thơ dịch từ thơ Đường: “Mặt đất mây đùn cửa ải
xa” (Đỗ Phủ) nhưng lại có vẻ đẹp rạng rỡ hơn. Một cánh chim chiều xuất hiện làm
cho bức tranh thêm sinh động, thơ mộng, đẹp đẽ nhưng nhỏ bé, mông lung. Cánh
chim nhỏ như bị nắng chiều đè xuống, chỉ nghiêng cánh lá bóng chiều đổ xuống làm
cho không gian như có hình khối, trọng lượng và thiên nhiên có vẻ như trĩu nặng
nỗi buồn của thi nhân. Cảnh mông lung xa vắng ấy càng gợi thêm lòng thương nhớ quê hương:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Con sóng lòng nhớ quê của nhà thơ đã tỏa ra nhập vào con sóng nước. Con nước
cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi sóng nước. Con nước cảm thông đã
mang tình quê mênh mang đi về mọi nẻo. Ý thơ cuối mượn từ tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. (Hoàng Hạc Lâu)
Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, còn Huy Cận không cần khói sóng vẫn nhớ
quê hương. Vì mối tình ấy luôn khắc khoải trong lòng. Đó là nguyên nhân chính của
nỗi buồn trải dài suốt bài thơ. Một con người buồn nhớ quê hương khi đúng ngay
giữa quê hương mình càng thấy bơ vơ tội nghiệp làm sao! Bài thơ kết thúc là cảnh
hoàng hôn trên sông nước và mở ra một tình quê bát ngát.
Tóm lại, nỗi buồn sông nước, trời mây trong Tràng giang của Huy Cận cũng là nỗi
đau cuộc đời, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ gởi gắm vào đó một tấm lòng tha thiết yêu
quê hương đất nước, sự nâng niu đối với tiếng Việt. Vì vậy, Xuân Diệu đánh giá:
“Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng
yêu giang san, Tổ quốc”.
Bài thơ thể hiện cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn
toát ra từ cái đẹp của thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ không phải cái
buồn vì cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị
cổ điển ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở
không gian sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 13
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ông
có một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lí. Thơ Huy
Cận mang một nỗi buồn sâu lắng, miên man, ảo não và thảm đạm; nỗi buồn của
"đêm mưa", của "người lữ thứ", nỗi buồn của "quán chật đèo cao", của "trời rộng
sông dài". Tràng Giang là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác vào năm
1939, đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó in vào tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ
mang phong vị Đường thi khá rõ. Đây là bài thơ được cảnh sông nước mênh mông
của sông Hồng gợi tứ. Huy Cận đã có lần tâm sự: Tôi có thú vui thường chiều chủ
nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh
sông nước đẹp, gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ so sông
Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương".
Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" khái quát chủ đề của cả bài thơ là
một nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa đất trời mênh mông, rộng lớn
và bao la. Bài thơ toát lên vẻ đẹp vừa hiện đại, vừa cổ điển, cũng là một nét đặc
trưng trong thơ của Huy Cận.
Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước, khổ thơ đầu làm người đọc liên tưởng đến con
sông thăm thẳm chứa đựng biết bao nỗi buồn miên man
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Với
một loạt những từ ngữ gợi nỗi buồn thê lương "buồn", "sầu trăm ngả", "lạc mấy
dòng" kết hợp với từ láy "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc
thái của thơ Đường thi dường như đã lột tả được hết thần thái và nỗi buồn vô biên,
vô tận của nhà thơ. Trên dòng sông gợi sóng ấy là hình ảnh một "con thuyền xuôi
mái", lững lờ trôi thể hiện trong tĩnh có động nhưng sao người đọc vẫn cảm thấy vẻ
lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng mênh
mang, vô tận biết bao. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận và lòng người cũng
đầy ắp những nỗi buồn khó tả. Hình ảnh "thuyền", "nước" vốn đi liền với nhau, thế
mà Huy Cận lại để chúng xa cách nhau "thuyền về nước lại" sao nghe mà xót xa thế.
Chính vì thế mà gợi lên trong lòng người một nỗi "sầu trăm ngả". Lượng từ "trăm"
kết hợp cùng chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ một nỗi buồn dài vô tận, không có điểm dừng.
Nỗi buồn ấy được trút hết vào câu thơ cuối "củi một cành khô lạc mấy dòng", Huy
Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện sự cô đơn,
lạc lõng trước cảnh sắc bao la, rộng lớn. "Một" gợi lên sự cô đơn, đơn chiếc, "cành
khô: gợi lên sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, còn lại thân xác trơ trụi, khô héo,
"lạc"mang nỗi sầu vô đinh, trôi nổi, không có định hướng trên "mấy dòng" là thể
hiện sự chảy trôi một cách hư vô. Hình ảnh cành củi khô cứ trôi mãi trong vô định
khiến người đọc cảm thấy trống vắng, cô đơn đến lạ, thể hiện một kiếp người long
đong, đang trôi dạt giữa cuộc sống bộn bề chật chội.
Đến khổ thơ thứ hai dường như muốn đẩy nỗi hiu quạnh tăng lên gấp bội.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cảnh đìu hiu, buồn man mác của một làng
quê nghèo, thiếu sức sống. Hình ảnh "cồn nhỏ" với tiếng gió thổi "đìu hiu" như phủ
lên mình một nỗi buồn mặc định đến da diết. Đến nỗi nhà thơ phải đặt một câu hỏi
sao ngay cả tiếng ồn ào của phiên chợ chiều cũng không nghe thấy hay phải chăng
phiên chợ đó cũng buồn hiu quạnh như ở nơi đây. Từ "đâu" cất lên thật thê lương,
không điểm tựa để bấu víu. "Sông dài, trời rộng, bến cô liêu", khung cảnh hiện lên
qua câu thơ của Huy Cận sao mà hoang sơ, tiêu điều thế, nơi bến nước không có
một bóng người qua lại, không có một tiếng động của cỏ cây hay tiếng thở của con
người xung quanh chỉ có đất trời dài rộng, cô đơn lẻ loi một mình. Hai câu thơ cuối
tác giả đã mượn "trời", "sông" để tả cái mênh mang vô định của đất trời, của lòng
người. Nhà thơ không dùng trời "cao" mà lại dùng trời "sâu" để đo chiều sâu thực
sự là nét tinh tế, độc đáo trong thơ Huy cận. Câu cuối đoạn như nói hết, lột tả hết
nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai, nhà thơ đã phải nói thẳng sự "cô liêu".
Sang khổ thơ thứ ba, tác giải muốn tìm sự ấm áp của đất trời mênh mông nhưng
dường như cảnh sắc thiên nhiên lại không như lòng người mong đợi
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Đọc khổ thơ thứ 3, người đọc cảm nhận một sự chuyển biến, vận động của thiên
nhiên, không còn buồn rầu, u mê như những khổ thơ đầu và khổ thơ thứ 2. Từ “dạt”
đã diễn tả tinh tế sự chuyển biến của vạn vật thiên nhiên Tuy nhiên nó lại được gắn
liền với hình ảnh “bèo” mà “bèo” thì vốn vô định, trôi nổi khắp nơi, không có nơi
bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao
nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không có một chuyến đò. Tác giả chỉ đợi chờ
một chuyến đò để thấy được rằng sự sống đang tồn tại nhưng dường như điều này là không thể.
Đến khổ thơ cuối cùng, những cảm xúc, bút pháp của tác giả được đẩy lên đỉnh
điểm, nét vẽ chấm phá dùng rất đắc điệu
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Nét chấm phá trong hình ảnh “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường
càng khắc sâu sự cô đơn, buồn phiền. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng
chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn
thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được
trời chiều đang dần buông xuống. Mây ở đây chất chồng lên nhau, ánh lên trong
nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một
cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng
vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa dất trời bao la, như
tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa cuộc đời chông chênh vậy.
Sang hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà nhớ, nhớ quê được tác giả bộc lộ
một cách rõ ràng, tất cả những tình ảm ấy nhà thơ chẳng biết gửi vào đâu mà chỉ
biết chất chứa đong đầy trong trái tim mình. Hai từ "dờn dợn" gợi nỗi nhớ trào dâng
của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một chiều khi hoàng hôn buông
xuống. Câu thơ muốn nói lên nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ khi đứng trước
sông nước rợn ngợp. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố ngoại
cảnh nào tác động trực tiếp nhưng cảnh vật vẫn gợi trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ
quê cha đất tổ. Câu thơ cuối như bộc lộ tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi
gắm xuyên suốt bài thơ. Lúc nào trong lòng Huy Cận cũng mang một cái tình quê
sâu đậm, một nỗi nhớ quê da diết khôn nguôi.
Tràng giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Bài thơ
“Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên
một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Qua đó khắc họa được tâm trạng cô
liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương
chân thành, sâu sắc của Huy Cận. Dưới hình thức một bài thơ mang đậm phong
cách thơ Đường thi, kết cấu mạch lạc và cái tài sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của tác
giả, bài thơ hiện lên như một bản hòa ca mà ở đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên
khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết :Tràng giang là một
bài thơ ca non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc".
Bài thơ "tràng giang" là bài thơ đặc sắc trong cuộc đời thơ ca của Huy Cận. Bài thơ
là sự kết hợp bút pháp hiện thực đan xen bút pháp cổ điển đã khắc họa một bức
tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh, qua đó bộc lộ tâm trạng cô liêu, đơn độc của
con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu
sắc của nhà thơ. Bài thơ "tràng giang" của Huy Cận đã để lại rất nhiều tình cảm, ấn
tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 14
Hoài Thanh đã có một nhận định về các nhà thơ mới năm 1930: “Ta thoát lên tiên
cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép,
tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở
về hồn ta cùng Huy Cận”. Mỗi nhà thơ đều có một phong cách riêng làm nên nét
độc đáo riêng của mình. Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc với lời thơ đượm buồn
một nỗi sầu nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ đắc sắc và thể hiện rõ
nỗi sầu nhân thế của Huy Cận lúc bấy giờ.
Huy Cận là một trong số những nhà thơ mới trong giai đoạn 1930- 1945. Nếu như
Xuân Diệu say đắm trong trường tình thì Huy Cận lại chìm đắm trong nỗi sầu của
nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ tiêu biểu và đặc sắc nhất được trích
trong tập “Lửa thiêng” (1940). Huy Cận sáng tác bài thơ khi đang đứng ở bờ Nam
bến Chèm của sông Hồng, nhìn ngắm cảnh thiên thiên sông nước suy ngẫm về cuộc
đời mình mà “tức cảnh sinh tình”. Bài thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp thiên nhiên cũng
như nỗi buồn nhân thế của tác giả.
Ngay từ đầu bài thơ Huy Cận đã đưa chúng ta đến với một nét đẹp cổ điển mà ít ai
có, chỉ khi đến với Hay Cận chúng ta mới cảm nhận được. Đó là cách đặt tên nhan
đề bài thơ, “Tràng Giang” là sông lớn, sông dài. Nhưng tại sao ở đây tác giả không
dùng “Trường Giang” mà lại là “Tràng Giang”? “Tràng Giang” điệp vần “ang” tạo
nên một âm thanh vang xa, đồng thời cũng thể hiện một nỗi buồn trải dài xuyên suốt
cả bài thơ. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” lời đề từ cũng đã mở rộng ra trước
mắt chúng ta một không gian rộng lớn “trời rộng, sông dài”, một nỗi buồn da diết “bâng khuâng”.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Đến với khổ thơ thứ nhất, chúng ta bắt gặp được những hình ảnh mang tính cổ điển,
chỉ có ở trong thơ cổ mới có: “trường giang”, “con thuyền”, “củi một cành
khô”…Mở ra cho chúng ta một không gian rộng lớn, “điệp điệp” gợi ra không gian
theo chiều rộng, “song song” gợi mở không gian theo chiều dài. Một không gian
bao la rộng lớn, nhưng cũng tĩnh lặng lạ thường. Bao chum lên cảnh vật là một nỗi
buồn “điệp điệp” một nỗi buồn trải dài khiến hình ảnh con thuyền cũng tĩnh lặng
giữa dòng nước “song song”. “Thuyền” và “nước” là hai hình ảnh quen thuộc trong
thơ, ngoài đời thực chúng cũng là hai sự vật luôn đi liền với nhau không thể rời
nhau, Vậy mà ở đây tác giả lại cho ta thấy một sự chia ly giữa thuyền và nước:
“thuyền về” còn “nước lại” gọi sự chia ly, sự xa cách hững hờ. Tâm trạng của thi
nhân được bộc lộ rõ nét nhất qua câu thơ cuối cùng: “Củi một cành khô lạc mấy
dòng” . “Củi” là một hình ảnh nhỏ bé, mong manh vậy mà lại lênh đênh vô định
giữa một không gian rộng lớn của sông nước không biết sẽ trôi dạt về đâu. “Củi” đã
bé nay lại càng nhỏ bé hơn khi kết hợp với số từ “một” tác giả như muốn nhấn
mạnh thân phận bé nhỏ của chính bản thân mình trôi nổi mênh mông giữa dòng đời.
Một nỗi buồn cô đơn về thời thế.
Nỗi buồn của thi nhân càng được tăng thêm, càng được đẩy đến đỉnh điểm khi đến với khổ thơ thứ hai:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu”.
Bức tranh thiên nhiên sông nước ấy có phần tăng thêm sức sồng khi có thêm những
“cồn nhỏ”. Những gò đất nổi lên giữa lòng sông ấy lại chỉ “lơ thơ” thưa thớt gợi lên
một sự đơn sơ, hoang vắng, “đìu hiu” cô quạnh khi những làn gió thổi qua. Những
cơn gió không ồn ào mà chỉ “đìu hiu” làm cho nỗi buồn của thi nhân như được nhân
lên khi đứng trước một không gian tiêu điều.
Chợt có đâu đây có tiếng “chợ chiều”. “Chợ” là nơi mà khi đến đó ta biết được cuộc
sống nơi đây có ấm no sầm uất hay không. “Đâu” gợi cho chúng ta cảm giác mơ hồ
không biết có phải là có âm thanh đó hay không, tác giả cũng chỉ nghe thấy cảm
nhận thấy chứ không được nhìn thấy. Âm thanh ấy cũng mờ mờ ảo ảo, vừa thực mà
vừa hư. Tưởng chừng như âm thanh xuất hiện làm con người thêm vui nhưng chính
nó lại khiến tác giả thêm cô đơn, lẻ lõi trên chính mảnh đất quê hương mình.
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Nỗi sầu không chỉ nhuốm màu vào không gian mà còn trải dài theo thời gian bất tận.
Không gian được mở ra theo nhiều chiều vừa cao, vừa sâu, vừa rộng…”Nắng
xuống” và “trời lên” tạo nên một sự ngăn cách, chia li theo hai chiều đối nghịch
“lên” và “xuống”. Đây là cảm nhận mà chỉ khi đến với con người hiện đại chúng ta
mới thấy mới cảm nhận được. Không gian không chỉ được mở rộng theo chiều rộng,
chiều cao mà còn theo chiều sâu. Nắng càng xuống thấp, trời càng trở nên cao hơn
ngả bóng xuống lòng sông sâu “chót vót”. Tác giả đã sử dụng từ rất đặc biệt, không
phải cao “chót vót” mà là “sâu chót vót” vừa tả được độ cao cũng vừa cảm nhận
được độ cao ấy. Con người trở nên bó nhỏ cô đơn trước vũ trụ bao la vô tận…
“Sông dài, trời rộng” cảnh vật càng rộng lớn, kì vĩ bao nhiêu thì con người càng bé
nhỏ bấy nhiêu với hình ảnh “bến cô liêu”- bến đã nhỏ lại còn hiu quạnh. Con người
cảm thấy bé nhỏ hơn bao giờ hết.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Đến đây, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh những cánh bèo
gợi sự tan tác chia ly, những cánh bèo trôi “hàng nối hàng” vô định không biết trôi
dạt về nơi đâu. Đây cũng chính là số phận của những kiếp người nhỏ bé, cô đơn với
một cuộc sống bấp bênh. Giữa không gian “mênh mông” rộng lớn, thi nhân cố kiếm
tìm một niềm vui nhưng “không một chuyến đò ngang” không có hình bóng cuộc
sống của con người. “Không cầu gợi chút niềm thân mật” không có được sự chia sẻ
của tình người, tình đời. Điệp từ “không” như càng làm tăng thêm sự buồn bã cô
đơn, chỉ có “bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ có một mình thi nhân với thiên nhiên quạnh
hiu.Một lần nữa không gian lại được đẩy đến sự tận cùng của sự hoang vắng, cô liêu.
Thi nhân mở rộng thêm tầm nhìn của mình, không còn không gian ở tầm thấp nữa
mà được nhìn với tầm cao, tầm xa:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều xa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Chỉ với bốn câu thơ cuối, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh đậm
chất cổ điển với hình ảnh phía xa có hòn núi, những đám mây bay là đà “lớp lớp”.
Không phải là một đàn chim mà chỉ duy nhất có một cánh chim lạc đàn nhỏ bé đơn
côi “nghiêng cánh nhỏ” dưới “bóng chiều sa”. Cánh chim ấy cô đơn, lạc lõng, nỗi
buồn như càng đè nặng lên đôi cánh giữa bầu trời rộng thênh thanh. Nhiên nhiên ở
khổ thơ được vẽ ra là một thiên nhiên hung vĩ, tráng lệ không giống với thiên nhiên
ở các khổ trước hiu quạnh, vắng lặng.
“Lòng quê dợn dợn vờn con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
“Lòng quê” hay chính là tình yêu thiên nhiên đất nước mà nhà thơ muốn gửi gắm,
nó cuộn trào lên “dợn dợn” như sóng nước mênh mông. Tình yêu quê hương bất tận,
choáng ngợp như chính con sông “Trường Giang” vậy. “Không khói hoàng hôn
cũng nhớ nhớ”, những người con xa quê hương chỉ cần một hình ảnh nhỏ thôi cũng
làm họ gợi nhớ đến quê hương mình. Bóng chiều đã ngả đây là lúc con người ta
nhiều tâm trạng nhiều cảm xúc nhất, nếu như Thôi Hiệu nhìn thấy khói hoàng hôn
thì nhớ nhà “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói song cho buồn lòng
ai” thì đến với Huy Cận ông không cần nhìn thấy “khói hoàng hôn” nhưng vẫn nhớ
tới nhà da diết. Đây là sự sáng tạo độc đáo của Huy Cận trong thơ mới.
Bài thơ “Tràng Giang” đã vẽ trước mắt ta những một bức tranh hùng vĩ, với cách
nhìn độc đáo vừa gần vừa xa, vừa cao vừa sâu, nhưng bao chùm không gian ấy là
một nỗi buồn. Đó không chỉ là nỗi buồn cô đơn lẻ loi của chính tác giả mà còn là
nỗi buồn của một thế hệ khi phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Bức tranh mà
Huy Cận tạo nên với những hình ảnh gần gũi như sông nước bến thuyền vừa mang
một vẻ đẹp vừa cổ kính vừa hiện đại. Điều đó đã tô đậm thêm sự độc đáo trong thơ của Huy Cận.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 15
Nếu như Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian, thì Huy Cận là nhà thơ của
nỗi ám ảnh không gian, Huy Cận đã lượm lặt những chút buồn rơi rải rác để góp
nhặt nên những vần thơ âu sầu ảo não, mà Tràng Giang dường như là tiếng thơ tha
thiết nhất của cái tôi Huy Cận mang nỗi sầu thiên cổ.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Ngay từ những nốt nhạc đầu tiên, nỗi buồn điệp điệp đã cất lên đầy khắc khoải, da
diết và ám ảnh trước cái rộng lớn mênh mông của sông nước bao la. Ở câu thơ mở
đầu, ngay cách dùng từ Hán Việt “Tràng giang”, đã tạo cho người đọc cảm giác về
cái sầu thiên cổ miên man trong thơ Huy Cận, khi ta nhận ra câu thơ phảng phất
nhạc điệu và tứ thơ của Đỗ Phủ:
“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai”
Đó là nỗi buồn của thân phận cái tôi thơ Mới cô đơn, bế tắc, bơ vỡ. “Củi
một cành khô lạc mấy dòng”. Một câu thơ ngắn, nhưng dồn nén bao nhiêu sức nặng
và sức gợi, những khoảng vô ngôn mà rất đỗi dư tình. Vừa gợi sự cô đơn thăm thẳm,
vừa gợi sự tàn tạ, héo úa, vừa mang cảm giác về sự vô định, bế tắc giữa nhiễu
nhương thời cuộc. Đó có lẽ không chỉ là tâm trạng của riêng Huy Cận, mà còn là
tâm trạng của nhiều cái tôi thơ Mới khác, khi Xuân Diệu cũng từng viết:
“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”.
Đồng thời, cái mới của Huy Cận trong câu thơ cuối này, là ông đã sử dụng
chất liệu thô của sự sống, không phải là những điển cố điển tích sang trọng trong
văn học cổ điển, ông đưa cuộc sống, sự bộn bề và thô mộc của cuộc sống vào trong
thơ một cách thật tự nhiên.
Tiếp nối mạch cảm xúc trong khổ thơ đầu, khổ thơ thứ hai tiếp tục mở ra
một không gian đìu hiu hơn, nhưng không phải của sông nước mà là của sự sống:
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Đặc biệt hai câu thơ: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài trời rộng
bến cô liêu”. Sâu chót vót là một sự sáng tạo tài hoa của Huy Cận, nó vừa gợi độ
sâu, lại vừa như mở ra không gian mênh mông cao thăm thẳm vời vợi, cặp tiểu đối
“lên/ xuống” làm cho câu thơ tạo cảm giác dồn nén, ứ đọng, bế tắc ngột ngạt trước
không gian vời vợi, vì thế càng làm hiệu quả diễn đạt được gia tăng.
Sự sống heo hắt, cảnh vật cô liêu, tiêu điều, không gian sầu mộng mênh
mông, nên một chút niềm thân mật, một chút gắn kết cũng không có:
“Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Hình ảnh cây cầu bao giờ cũng gợi sự kết nối, và là phương tiện để kết nối,
nhưng ở đây, không cầu để gợi chút niềm thân mật cũng chẳng còn, đó phải chăng
chính là sự mất kết nối có tính phổ quát, điều tạo nên cảm giác buồn mênh mông vô
hạn trong Tràng Giang của Huy Cận mà chính Trần Đình Sử đã từng nhận định.
Đến khổ thơ cuối, toàn bộ hồn thơ sầu mộng không gian của Huy Cận như
càng trở nên thấm thía, da diết hơn bao giờ hết:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc’
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Hình ảnh núi bạc, cánh chim sa vào buổi hoàng hôn, tự nó đã nhuốm màu
buồn. Câu thơ phảng phất hương vị thơ cổ của Thôi Hiệu:
“Nhật mộ hương quan hà xứ nhị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.
Để cũng từ đó, có thể thấy cái hồn thơ Đường đã tấm khá sâu vào thơ Huy
Cận. Nhưng Huy Cận tập cổ mà không nệ cổ, xưa Thôi Hiệu buồn vì cõi tiên mờ
mịt quê nhà xa cách, khói sóng trên sông gợi nhớ đến cảnh mờ mịt mà sầu. Nay
Huy Cận buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn Tràng Giang khiến ông nhớ
đến quê hương như một nguồn an ủi ấm áp. Nên có thể thấy rõ ở đây, là tấm lòng
Huy Cận với quê hương xứ sở, cái tôi cô đơn bơ vơ, bế tắc khi đứng trên quê hương
mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương.
Tràng Giang là một bản nhạc buồn, cái buồn thấm thía vào từng thớ vỏ thơ, len lỏi
đằm sâu mãi vào trong tâm hồn người đọc. Đó có lẽ cũng là nỗi buồn của cái tôi thế
hệ thơ Mới, đồng thời cũng là cái tôi của đứa con dân tộc trong thời buổi loạn lạc,
bế tắc mượn dòng thơ để gửi tiếng lòng khát khao được đồng vọng.