TOP 18 bài Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận | Văn mẫu 11 Kết nối tri thức
Phân tích Tràng Giang của Huy Cận là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các bạn. Hy vọng các bạn sẽ có thêm cảm nhận cũng như ý tưởng mới về tác phẩm sau khi tham khảo tài liệu: Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận.
Chủ đề: Văn mẫu 11
Môn: Ngữ Văn 11
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận - Văn mẫu 11
1. Dàn ý Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận 1. Mở bài
- Giới thiệu những nét chính về tác giả Huy Cận (đặc điểm tiểu sử, con người, các
sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,...)
- Giới thiệu khái quát về bài thơ “Tràng giang” (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát
những nét cơ bản về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,...) 2. Thân bài
a. Nhan đề và câu thơ đề từ - Nhan đề:
+ Một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài.
+ Sử dụng hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, gợi lên hình ảnh
một con sông vừa dài vừa rộng.
- Câu thơ đề từ: Khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ b. Khổ 1
- Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang.
→ Từ “điệp điệp” gợi lên hình ảnh những đợt sóng cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ
không ngừng nghỉ, không dứt, tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la.
- Hình ảnh: con thuyền xuôi mái nước gợi lên sự nhỏ nhoi
→ Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con
thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi. - Hai câu cuối:
+ Thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi, cho lòng “sầu trăm
ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy,
+ Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh
khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu
→ Trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh
con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô
định, đồng thời gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả. c. Khổ 2
- Hai câu thơ đầu đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh:
+ Nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm đã gợi lên sự
thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo
+ Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là câu thơ có nhiều cách hiểu nhưng
dẫu hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự
hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người
- Hai câu sau, không gian như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn
đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn, từ đó gợi lên cả nỗi buồn, sự cô
đơn đến tột cùng của lòng người d. Khổ 3
- Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: gợi lên hình ảnh về kiếp người, cõi nhân
sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu.
- Nghệ thuật phủ định được lặp lại: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”.
→ Ở nơi đây không có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của
sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật
giữa con người với nhau e. Khổ 4
- Hai câu thơ đầu khổ thơ: Vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ.
+ Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn”
lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc.
+ Hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó
vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ.
- Hai câu thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả
+ Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế
nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ - nỗi buồn của người xa
xứ đang nhớ quê hương da diết.
+ Câu thơ cuối đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và
rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ 3. Kết bài
Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ và những cảm nhận của bản thân.
2. Dàn ý Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
1. Nhan đề, lời tựa
- Gợi cảm giác con sông kéo dài mênh mông, gợi mạch cảm xúc của bài thơ.
- Lời tựa: thâu tóm được tất cả tình và cảnh trong bài thơ. 2. Khổ 1
- Hình ảnh quan sát trên dòng sông rất chân thực nhưng giàu sức gợi.
+ sóng gợn nhẹ nhàng lan tỏa đến vô cùng, gợi nỗi buồn miên man.
+ con thuyền buông mái chèo một cách thụ động, mặc cho nước đưa đẩy, gợi sự
lênh đênh. So với dòng sông con thuyền hết sức nhỏ bé.
+ hình ảnh nước song song, thuyền về nước lại không hứa hẹn sự gặp gỡ mà chỉ là chia lìa, xa cách.
+ câu thơ: Củi một cành khô lạc mấy dòng đặc biệt gợi cảm. Nó gợi nghĩ tới thân
phận cá thể nhỏ nhoi, bơ vơ giữa dòng đời.
- Sử dụng hiệu quả phép đối (buồn điệp điệp- nước song song, sầu trăm ngả - lạc
mấy dòng), từ láy âm (điệp điệp, song song), tương phản giữa cá thể và vũ trụ.
⇒ Khổ thơ gợi nỗi buồn về sự chia li, tách biệt thiếu giao cảm giữa cá thể với nhau,
đặc biệt là nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé vô định. 3. Khổ 2
- Hai câu đầu nổi bật sự đìu hiu, vắng lặng của cảnh chiều:
+ đứng trước không gian ấy con người càng cô đơn, khao khát được nghe thấy âm
thanh của cuộc sống con người.
+ nhưng chợ chiều đã vãn, không gian càng vắng lặng u tịch.
- Hai câu cuối không gian được mở ra chiều chiều: cao, sâu, rộng, dài. Trong cái vũ
trụ vô cùng, thăm thẳm không chỉ cảnh vắng cô liêu mà lòng người cũng như rợn
ngợp bởi sự nhỏ bé, lạc loài.
- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ chọn lọc đắt giá, giàu giá trị gợi hình biểu cảm: liu điu,
lơ thơ, sâu chót vót,.... Ngắt nhịp thơ hiệu quả. 4. Khổ 3
- Cái hiện hữu trước mắt là những hình ảnh gợi sự lênh đênh vô định (bèo dạt về
đâu) và tĩnh lặng, cô liêu (bờ xanh tiếp bãi vàng).
- Hình ảnh mà thi sĩ khao khát tìm kiếm là chuyến đò ngang là cây cầu như sự phủ
định đã nằm ngay trong từ điệp từ không.
- Cảm thức cô đơn về sự lạc loài trước cảnh sông dài trời rộng đã khiến nhà thơ
mong được đón nhận tiếng nói con người, mong được nhìn thấy sự giao lưu gần gũi
giữa con người với con người nhưng tất cả vẫn bị ngăn cách (hình ảnh con đò, chiếc
cầu tượng trưng cho sự giao lưu đôi bờ nhưng không có) nỗi buồn về cuộc đời, về nhân thế. 5. Khổ 4
- Mang màu sắc Đường thi khá rõ từ những hình ảnh ước lệ đến cách dùng các thi liệu thơ Đường.
+ hình ảnh Lớp lớp mây cao đùn núi bạc lấy ý từ câu thơ của Đỗ Phủ chỉ sự hùng vĩ
của thiên nhiên nhưng câu thơ của Huy Cận miêu tả thiên nhiên lấp lánh, tráng lệ
mang nét độc đáo riêng.
+ hai câu thơ cuối phảng phất ý vị thơ Thôi Hiệu.
- Hình thức ngôn ngữ mang màu sắc cổ điển nhưng cảm xúc lại mang tính hiện đại:
cái tôi cô đơn, bơ vơ, rợn ngợp trước cuộc đời.
+ hình ảnh Chim nghiêng cánh nhỏ gợi cảm giác chấp chới, rợn ngợp.
+ nỗi nhớ nhà dợn dợn trong lòng, đó là nỗi khao khát tìm đến chỗ dựa cho tâm hồn
cô đơn, trống vắng của tác giả. 6. Nghệ thuật
- Vẻ đẹp cổ điển thể hiện trên nhiều phương diện:
+ mỗi dòng 7 chữ ngắt nhịp đều đặn, mỗi khổ 4 dòng, tách ra như bài thơ tứ tuyệt.
+ cách thức miêu tả thiên nhiên theo bút pháp hội họa cổ điển: một vài nét đơn sơ
nhưng ghi được hồn tạo vật. + tả cảnh ngụ tình.
+ sự trang nhã, thanh thoát từ hình ảnh, ngôn từ.
- Chất hiện đại thể hiện trong cách cảm nhận sự việc, tâm trạng bơ vơ, buồn bã phổ
biến của cái tôi lãng mạn đương thời.
3. Audio Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
4. Video Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
5. Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Phân tích Tràng Giang mẫu 1
Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh).
Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi
sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất
cổ điển và hiện đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải
kể đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” (1940) rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận.
Vào một buổi chiều thu năm 1939, có một chàng sinh viên trường Cao đẳng Canh
nông, đạp xe dọc theo bờ đê sông Hồng, đến tới bãi Chèm – phía Nam dòng sông,
trước cảnh sóng nước mênh mông, đã không kìm nén nổi cảm xúc buồn bã, cô đơn
và nhớ nhà da diết nên sáng tác bài thơ Tràng giang. Nhà thơ Huy Cận đã từng tâm
sự về hoàn cảnh ra đời bài thơ như thế. Ban đầu, tác phẩm có tên là “Chiều trên
sông” nhưng về sau đổi thành Tràng giang. Nhan đề này đã chuyển tải nhiều ý nghĩa
hơn. “Tràng giang” là một từ Hán Việt đầy trang trọng, cổ kính, chỉ một con sông
dài. Nhưng nhà thơ không dùng “trường giang” (có cùng nghĩa) để thay thế, bởi
cách điệp vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm hưởng ngân vang, vừa gợi nên cảm
giác một dòng sông không những dài mà còn rộng. Thêm lời đề từ Bâng khuâng trời
rộng nhớ sông dài càng làm rõ hơn sắc thái cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi
buồn của con người trước một không gian mênh mông, rộng lớn có thể bao trùm cả vũ trụ.
Và quả thực trước một dòng tràng giang như thế, thi nhân đã không giấu nổi nỗi
buồn mà cứ để nó lan tỏa khắp mọi không gian, bao trùm cả vũ trụ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Khổ thơ đầu đã mở ra một khung cảnh tràng giang mênh mông, rộng lớn đối lập
hoàn toàn với những thứ nhỏ bé như sóng, con thuyền, cành củi khô. Những sự vật
ấy đồng thời cũng gợi nên nỗi buồn mênh mang theo sóng nước. Qua các từ gợn,
buồn điệp điệp, nước song song, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nỗi buồn càng trải dài,
lan tỏa khắp cả mặt sông dài rộng. Ở đây tuy có sự vật nhưng mọi thứ lại chẳng hề
gắn kết, nhất là thuyền và nước, hai thứ vốn dĩ không tách rời vậy mà thuyền về,
nước lại khiến nỗi sầu, nỗi buồn như chia ra thành trăm ngả. Tuy nhiên điểm nhấn
rõ nét nhất của khổ thơ chính là hình ảnh củi một cành khô. Sự vật vốn đã chẳng
còn sức sống, lại nổi trôi vô định trên dòng sông đã vẽ một nét hiện đại để khắc họa
nỗi buồn. Mà hơn nữa nó còn lạc mấy dòng thì không chỉ là nỗi buồn, nó hiện hữu
cả nỗi cô đơn. Đó phải chăng là sự hiện thân cho kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, bất
định giữa dòng đời của chính tác giả?
Đến khổ thơ thứ hai, điểm nhìn của nhân vật trữ tình đã xa hơn, khung cảnh trên
sông được hướng vào chiếc cồn nhỏ, vào bầu trời và khắp cả dòng sông.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xe vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Nhưng dường như không gian cũng không có mấy thay đổi, thậm chí hai từ láy lơ
thơ, đìu hiu lại càng khắc họa sự vắng lặng, yên ắng, quạnh hiu. Đâu đó (hay là đâu
có) có âm thanh của sự sống? Dẫu có có đi chăng nữa thì tiếng làng xa vãn chợ
chiều cũng chẳng làm cho nơi đây nhộn nhịp hơn, thậm chí càng tô đậm thêm sự
tĩnh lặng. Bởi vậy xung quanh chỉ còn là nắng trên trời, sông trước mặt, thứ xuống
thứ lên, thứ dài, thứ rộng mà dường như vốn đã xa nay lại càng xa hơn. Cách sáng
tạo từ sâu chót vót đã giúp tác giả miêu tả được khoảng cách giữa trời với sông vừa
có độ cao vừa có độ sâu, khiến không gian như mở ra ba chiều, khuếch tán rộng hết
mức ở toàn vũ trụ. Chỉ còn lại trơ trọi bến cô liêu thì chúng ta mới biết nỗi buồn đã
rộng khắp mọi không gian và nỗi cô đơn càng ngày càng lớn. Lúc này thi nhân
không còn đối diện với dòng sông như ở khổ trên nữa mà hoàn toàn bị choáng ngợp,
quá nhỏ bé trước không gian vũ trụ như thế.
Rồi ánh mắt thi nhân lại tiếp tục kiếm tìm. Hình như nhân vật trữ tình “lục lọi” đâu
đây một chút sự sống của con người.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Lần này hiện lên là hình ảnh hàng bèo quen thuộc. Trong thơ xưa nó chính là hiện
thân cho kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời. Nhưng chỉ là cánh bèo, chứ
không phải hàng nối hàng bèo như ở đây. Vâng, không biết bao nhiêu hàng bèo như
thế, nối tiếp nhau trôi dạt về đâu? Có nỗi buồn, sự bơ vơ, lạc lõng không phải của
một cành củi khô nữa mà là của cả một thế hệ con người chẳng biết sẽ đi đâu về đâu?
Hình ảnh thơ đơn giản nhưng gói ghém được tâm sự của cả bao nhiêu thân phận con
người lúc bây giờ. Bởi vậy nhìn xung quanh đâu cũng thấy mênh mông, đâu cũng
không thấy có dấu hiệu của sự sống nào hết. Điệp từ phủ định càng làm cho con
người chẳng có chút bóng dáng nào hiện hữu nơi đây. Không một chuyến đò, không
một cây cầu thì nỗi niềm thân mật dù một chút thôi cũng thực khó. Thế là chỉ còn
lại thiên nhiên tiếp xúc với thiên nhiên. Hai từ lặng lẽ có chút ngậm ngùi vì nhìn hết
cảnh trí dòng sông từ trên cao xuống thấp, xa đến gần mà rồi cũng chỉ còn lại những
bờ xanh, bãi vàng nối tiếp nhau. Không gian vì thế lại tiếp tục thêm phần mênh
mông bát ngát. Nỗi cô đơn, sự buồn bã của con người chưa có dấu hiệu vơi cạn, thu
hẹp lại theo bất cứ một chiều nào.
Cả ba khổ thơ là một bức tranh thiên nhiên thấm đẫm những phong vị cổ điển xen
lẫn chút hiện đại đầy độc đáo để khắc họa một không gian vô cùng, vô tận. Tất cả
cũng chỉ để chứa đựng một nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người.
Bao nhiêu hi vọng dồn vào khổ cuối, để cái tôi vơi bớt đi phần nào những chất chứa ưu tư. Vậy mà:
Lớp lớp mây cao, đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cảnh thiên nhiên lại có sự thay đổi, nhưng lần này không phải là dòng sông
mênh mông, vắng lặng như những khổ trên mà thay vào đó là sự tráng lệ, hùng vĩ
nổi bật trên nền trời chiều. Vẫn sử dụng những thi liệu cổ quen thuộc là mây, chim,
nhà thơ vẽ lên nền trời ấy những đường nét, màu sắc thật sinh động. Đó là lớp lớp
những áng mây ánh bạc đang đùn trên bầu trời như những ngọn núi. Đặc biệt là
cánh chim chao nghiêng được coi là một khoảnh khắc mà thâu tóm được sự chuyển
động của hai sự vật. Chẳng biết cánh chim nhỏ ấy nghiêng nhẹ đôi cánh một cái là
bóng chiều sa xuống hay bóng chiều đổ mà đè nặng lên cánh chim khiến nó ngả
nghiêng? Nhưng khoảnh khắc đồng hiện này đã tạo nên một sự dịch chuyển rất mau
lẹ cả về không gian lẫn thời gian. Và thêm một lần nữa lòng người không thể nào
xua tan được sự bủa vây của ngoại cảnh. Không gian có thay đổi, có tráng lệ đến
đâu trong lòng thi nhân vẫn cảm thấy trống trải. Nhưng lần này nỗi cô đơn đã hóa
nỗi nhờ nhà. Biết bao nhiêu cảnh trí trên trời, dưới sông đều dồn về cảm xúc dợn
dợn. Từ láy nguyên sáng tạo này của nhà thơ đã khắc hoặc rất chân thực một nỗi
niềm bâng khuâng, da diết của “lòng quê” khi nó hô ứng với cụm từ “vời con nước”.
Bao nhiêu nỗi buồn rồi cũng trào dâng lên thành nỗi nhớ quê hương. Nhưng lạ thay,
ở ngay trên mảnh đất quê hương mà lại thấy nhớ quê hương đến như vậy. Thế mà
quê hương lại chẳng còn, đó là nỗi niềm chung của cả một thế hệ các nhà thơ mới
trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ. Cảm giác xa quê hương, “thiếu quê hương” trở
thành sự rung cảm sẵn có mà chẳng cần đến khói sóng hoàng hôn như thi sĩ Thôi
Hiệu đời Đường mới gợi nên nỗi nhớ quê nhà của thi nhân. Không cần vịn vào đâu,
tự khắc nỗi nhớ ấy đong đầy, da diết, tự thân nó đã bộc lộ một tình yêu thắm thiết,
trĩu nặng với quê hương.
Có hai thứ ấn tượng còn đọng lại sau khi đọc xong bài thơ là không gian vô cùng,
vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Cả
hai như cùng kích ứng để càng rộng, càng lớn thì càng buồn, càng cô đơn khiến bài
thơ như chất chứa, tích tụ nỗi sầu của cả ngàn năm lại vậy. Nhưng vượt lên trên hết,
bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một
bức tranh thiên nhiên thật đẹp dẫu có buồn. Song người đọc vẫn nhìn thấy một tình
yêu quê hương đất nước thầm kín hiện lên trong Tràng giang.
Phân tích bài thơ Tràng Giang mẫu 2
Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông
mang nỗi sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho nỗi
buồn miên man của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy còn
là lời tâm sự, lòng yêu nước kín đáo.
Nhan đề của bài thơ gồm hai vần “ang” đây là âm mở, gợi nên sự mênh mông, rộng
lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà nó
còn là con sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, sử dụng từ Hán Việt còn
khiến cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, mang tính khái quát.
Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là
một gợi dẫn có ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài
thơ Tràng giang là lời đề từ do chính Huy Cận sáng tác:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Câu thơ đề tự gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và
chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, đây cũng là
cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc chung của bài thơ.
Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, không gian ấy hoàn toàn yên tĩnh.
Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất còn có tâm trạng của con người
“buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”.
Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà
lan tỏa trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền
xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dòng tràng giang con thuyền trở nên bé nhỏ,
đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xuôi mái” cho thấy trạng thái buông
xuôi, phó mặc cho dòng nước xô đẩy. Đó phải chăng cũng chính là tâm trạng của
những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền cứ trôi, cứ
về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển hiện trong
hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi” được đảo
lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là cảnh củi
khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi khô” ẩn dụ
cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời. Đồng thời
còn ẩn dụ cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ mới.
Huy Cận di chuyển điểm nhìn về gần hơn với những bãi, những cồn ở ngay trước
mắt mình. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” là một hình ảnh rất thực ở bãi giữa sông
Hồng, kết hợp với hai từ láy “lơ thơ” “đìu hiu” gợi nên sự thưa thớt, vắng vẻ, hiu
quạnh. Trong không gian ấy tác giả cố gắng đi tìm hơi ấm cuộc sống, là tiếng chợ
xa, nhưng “đâu” có thể tìm thấy được, không gian là sự tĩnh lặng đến tuyệt đối. Nỗi
buồn càng được tô đậm hơn nữa khi không gian được mở rộng đến vô cùng, nắng
xuống chiều lên, sông dài – trời rộng, kết hợp với từ “sâu chót vót” đã mở rộng
không gian ra cả ba phía: rộng, cao, sâu. Khắc họa nỗi cô đơn, sự nhỏ bé đến cực
điểm của con người trước không gian vũ trụ.
Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, lại hướng ra vô cùng và thu lại chỉ có:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Những cánh bèo lênh đênh, vô định nối tiếp nhau chảy trôi, sự chảy trôi không mục
đích, không phương hướng, cũng như những kiếp người nhỏ bé, đơn độc lúc bấy
giờ. Không gian sông nước mênh mông không có lấy một chuyến đò qua sông. Đò
ấy không đơn thuần là phương tiện trung chuyển con người mà nó còn là phương
tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả đã bị phủ định một cách tuyệt đối: không một,
không cầu, không còn một chút tình đời, tình người nào còn tồn tại ở đây nữa.
Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên
cao: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu
trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ,
tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những
dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng
như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi
nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào:
Lòng quê dờn dợn vợi con nước
Không khói hoàng hôn cùng nhớ nhà.
Câu thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà
xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê
khắc khoải nhưng Huy Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dờn
dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên, dường như sóng lòng đang trải ra cùng sóng
nước. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước.
Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên
nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ
vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể
hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 3
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên
tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn,
Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông
mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác
phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", "Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách
mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc
sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại
sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên, nỗi ưu sầu nhân thế,
một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng
Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách
mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy
Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng
vời vợi buồn, ám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang
nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện
đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp ....
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ.
"Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "ang" đi
liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng
mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển
trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông
của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau
cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của
mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm,
Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn,
nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn
chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ
đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng",
"sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình
cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói
lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con
"sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn
sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai
từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ
kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi
liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ
cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp",
nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự
chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một
dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền.
Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước
lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm
ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một
càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ
ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi,
nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định,
trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi
khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến
lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về
một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc
có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới.
Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là
ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn
khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ
đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi
sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh
lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngợp đến độ thốt lên "Đâu tiếng
làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó",
âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát,
mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người.
Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề
có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự
chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt
mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ
không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả
không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời
rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như:
sông, trời, nắng, cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều",
mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen
thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên
nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ
điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời.
Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối
hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ
đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh
tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp
thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người,
không có sự giao hoà, nối kết:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không... không" để phủ định hoàn toàn những
kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân
mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên
mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con
người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc
tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình
ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn
cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội
lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy
chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau.
Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh
nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè
nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi
được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình
tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ
láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô
đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa
quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ
mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là tứ thơ cổ điển được gợi từ câu thơ: "Trên sông
khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà
buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó
đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được
thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy
nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh
chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ
kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót
vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ
quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri
thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với
vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 4
Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945) với những tác
phẩm có sự kết hợp giữ yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có
sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm: trước cách mạng tháng Tám và sau cách
mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế
trước cách mạng cho đến không khí hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công
cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với
một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người
trôi nổi lênh đênh. Bài thơ để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.
Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và cảm xúc chủ
đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con sông dài, mênh mông
và bát ngát. Từ Hán việt này khiến người ta liên tưởng đến những bài thơ Đường
của Trung Quốc. Nhưng chính tràng giang này cũng gợi lên được tâm tư của người
trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên
con sông dài tâm tưởng và sông của nỗi u uất như thế.
Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát nên chủ đề
của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh
mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là
đặc trưng trong thơ của Huy Cận.
Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông
chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu tram ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Với một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu tram ngả”, lạc
mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lột tả hết thần
thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả trong thời thế nhiều bất công như thế
này. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. Tác
giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi
một mình, đơn lẻ trên dòng nước mênh mông, vô tận, vô đinh. Sức gợi tả của câu
thơ thực sự đầy ám ảnh, một con sông dài, một con sông mang nét đẹp u buồn, trầm
tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ
không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu
trăm ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự chia lìa không báo trước, nghe
xót xa và nghe quạnh long hiu hắt quá. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang
cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình
ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói
câu thơ đã nói lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một
kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này.
Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bội:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cành buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của
một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay không. Hình
ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở ven dòng sông dường như
khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Ngay cả một tiếng ồn ào của phiên chợ
chiều ở nơi xa cũng không thể nghe thấy, hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến
hiu quạnh như thế này. Một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người
hay là tác giả đang tự hỏi bản thân mình. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không
điểm tựa để bấu víu. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không có một
bóng người, không có một tiếng động thật chua xót. Hai câu thơ cuối tác giả mượn
hình ảnh trời và sông để đặc tả sự mênh mông vô định. Không phải trời “cao” mà là
trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo
của Huy Cận. Hình ảnh sông nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn
dường như đã lột tả hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai ấy.
Ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm thấy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này
nhưng dường như thiên nhiêu không như lòng người mong ngóng:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thương nhớ
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Sang khổ thơ thứ 3 dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận động
của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai
nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. Tuy nhiên từ
ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến cho tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô
định, trôi nổi khắp nơi, không có nơi bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt
về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không
có một chuyến đò. Tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự sống
đang tồn tại nhưng dường như điều này là không thể.
Mong ngóng gửi niềm thương nỗi nhớ về quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im
lặng của vạn vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu hiu.
Ở khổ thơ cuối dường như bút pháp của tác giả được đẩy lên cao nhất, nét vẽ chấm
phá dùng rất đắc điệu:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Có thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này.
Nét chấm phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng thêm sầu,
thêm buồn hơn. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” là sự hữu hình
hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua
ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiều đang dần buông xuống.
Hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả chẳng biết
gửi vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim. Câu thơ của Huy Cận khiến
chúng ta liên tưởng đến tứ thơ của Thôi Hiệu:
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Là sóng của sông hay là sóng trong lòng người
Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã
vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Qua đó khắc họa được tâm
trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về
quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 5
Tràng Giang là một bài thơ hay của Huy Cận và là một trong những bài thơ tiêu
biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người
ngay giữa quê hương mình. Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng, xuất bản năm
1940. Bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên.
Phân tích 4 câu thơ trong đoạn đầu
Hiện lên đầu tiên tác phẩm là bức tranh sông nước vắng vẻ và tĩnh lặng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ đầu mở ra là bức tranh sông nước “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
có hai hình ảnh được tái hiện đó là thiên nhiên và tâm trạng của con người. Từ
“ tràng giang” không chỉ gợi ra độ dài mà còn là độ rộng. Dòng sông ấy có từ “gợn”
chỉ là gợn hơi, lăn tăn theo chiều gió nhẹ. Gợi không khí tĩnh lặng ôm trùm khắp
không gian. Từ tâm trạng của thiên nhiên tác giả nói đến tâm trạng của con người,
có thể nói có bao nhiêu song gợn ấy là bấy nhiêu nỗi buồn “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Điệp từ “điệp điệp” diễn tả nỗi niềm trong lòng tuy nhẹ thôi nhưng dai dẳng triền
miên. “Con thuyền xuôi mái nước song song” Hình ảnh con thuyền xuôi mái nổi bật
giữa dòng sông, trở nên nhỏ bé, đơn độc. “Xuôi mái” ở trạng thái bị động mặc cho
dòng nước trôi. Từ láy “song song” “Thuyền về nước lại sầu trăm ngã” tác giả đã sử
dụng cặp từ ngược hướng phải chăng đây là sự chia lìa, để khởi nguồn cho nỗi sầu trăm ngã.
Ở câu cuối của khổ một, hình ảnh đơn sơ bình dị, hiện thực đó là “cành củi khô”.
Nghệ thuật đảo ngữ như nhấn mạnh vào sự tầm thường nhỏ bé và vô giá trị, không
chỉ và vật rơi khô gãy. Lại một cành còn khô quá tầm thường nhỏ bé và đơn độc cạn
kiệt sức sống. Trôi dạt vô hướng giữa không gian lớn rộng, ẩn chứa sau đó là những
kiếp người và cái tôi lạc loài trong phong trào thơ mới của Huy Cận.
Phân tích 4 câu thơ đoạn 2
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bức pháp chung trong miêu tả thiên nhiên trong thơ Huy Cận đó là gợi hơn tả.” Lơ
thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Từ láy “lơ thơ” gợi lên sự ít ỏi nhấn mạnh cái sự vắng vẻ
nhỏ nhoi, sự cô quạnh giữa không gian mênh mông chỉ có một cồn nhỏ điều hiu
vắng vẻ. Tác giả cố gắng lắng nghe tìm tiếng con người. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều”, đây là câu hỏi tu từ, phủ nhận sự hiện diện của cuộc sống con người.
Hai câu thơ cuối của khổ thơ thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp đối ”nắng xuống
đối với trời lên”, “sông dài đối với trời rộng”, “sâu chót vót với bến cô liêu”. Động
từ ngược hướng lên xuống gợi nên cảm giác chuyển động rõ rệt. Gợi nên chiều cao
và sâu không gian được mở vô biên. Nỗi buồn thấm vào tạo vật con người hiện lên
với một trạng thái cô đơn.
Phân tích 4 câu thơ trong khổ thơ thứ 3
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Khổ thơ tiếp theo gợi nên sự vô định “cánh bèo” không phải đơn thuần là cánh bèo
không tìm thấy hướng đi của thiên nhiên. Mà đó là cả một thế hệ thanh niên Việt
Nam không tìm thấy hướng đi.
“Mênh mông không một chuyến đò ngang” trong toàn cảnh vũ trụ này tuyệt nhiên
không có bóng dáng của con người. Bởi chuyến đò, cây cầu thì phải có con người
nhưng tác giả đã nói là “không”. Dùng cách nói phủ định để khẳng định ở đây chỉ
có một cái có đó là “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ là thiên nhiên. Đó là sự cô
đơn, cảm giác bất an của một cái tôi thơ mới. Chính nỗi niềm này đã được tác giả
nói rất nhiều như ở lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” tạo nên một
điểm riêng cho nhà thơ Huy Cận con người ở đây cô đơn bất an, gợn người.
Phân tích 4 câu thơ trong khổ thơ cuối
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khổ thơ cuối dường như mờ ảo dần, hình ảnh “đùn núi bạc” là không gian hùng vĩ,
tráng lệ, từ láy lớp lớp. Đối lập với không gian hùng vĩ tráng lệ đó là “chim nghiêng
cánh nhỏ bóng chiều sa”. Nếu như dòng thơ trên ta thấy được dấu ấn cổ điển thì ở
đây là yếu tố hiện đại, cánh chim bé nhỏ đang cố vươn cao lên trong buổi chiều tà
ấy. Cái tôi thơ mới ấy mang một nỗi buồn tự thân, sự thức tỉnh. Cánh chim không
chỉ chở nặng hoàng hôn mà còn trĩu nặng nỗi buồn của các nhà thơ mới.
Đến với hai câu cuối của bài thơ “lòng quê dợn dợn vời con nước, không khói
hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Đây là nỗi lòng hoài hương, cái hiện đại ở đây là sự phủ
định sự tác động của ngoại cảnh đến tâm trạng. Nỗi nhớ nhà da diết hơn, cháy bổng
hơn, đi trên quê hương mà thấy thiếu và nhớ quê hương. Từ láy “dợn dợn” như
những cơn sóng lòng đang dồn nén trong Huy Cận. Kết bài
Nhìn chung toàn bộ bài thơ là nỗi buồn, đây là tâm trạng của các nhà thơ lãn mạng
lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa giác ngộ được lý
tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận “sầu ảo não”. Bài thơ
“Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn đường cho thơ về quê hương đất nước.
Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 6
Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng
tháng 8. Thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã
trước thời cuộc. Chẳng thế mà "Tràng giang" ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá
thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước
không gian mênh mông, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, thương đất nước đang
chìm trong tang thương của thi sĩ.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo "Ngày nay" sau đó in
trong tập "Lửa thiêng" - tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã
đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào "Thơ mới" thời kì đầu.
Ngay khi đọc tên bài thơ "Tràng giang" người ta có thể hình dung được tư tưởng và
tâm tư mà tác giả gửi trong đó. Tiêu đề gợi ra một con sông dài, mênh mông, bát
ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi,
u sầu. Câu đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" tiếp tục khẳng định nỗi niềm
u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng sông.
Khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
Vừa mới đọc khổ đầu tiên, người đọc thấy được không khí u sầu, buồn bã thông qua
các từ "buồn", "sầu", "lạc cành khô". Câu thứ nhất miêu tả sóng, câu thứ hai tả
những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Nếu như câu thứ nhất gợi được
những vòng sóng đang loang ra, lan xa, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ
hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong đuổi mãi về cuối trời. Trong câu
thứ nhất "sóng gợn" là những vòng sóng nhỏ, lăn tăn. Nhưng chỉ cần một gợn sóng
ấy thì Tràng giang đã "buồn điệp điệp". Từ láy hoàn toàn "điệp điệp" như diễn tả
nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. Hình ảnh con thuyền "xuôi
mái nước song song" lại gợi về cảm giác đơn độc trên dòng nước mênh mông vô tận.
Hai câu thơ kết hợp làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo
chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia li qua câu thơ thứ ba. "Thuyền" và
"nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt của
nhân vật trữ tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa.
"Sầu trăm ngả", nỗi buồn, sự u hoài, buồn bã càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ
thứ tư tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ "củi một cành khô" để nói về sự cô đơn,
trơ trọi của "củi". Số từ "một" chỉ một mình, cô đơn cùng với tính từ "khô" - hết
nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khô héo hơn. Tác giả thật tài tình khi đã sử dụng
nghệ thuật đối "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông.
"Lạc mấy dòng" không chỉ diễn tả nỗi niềm cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp
bênh, trôi nổi khi "lạc" hết dòng sông này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu
thơ không chỉ là phép đối mà còn ở cách ngắt nhịp 1/3/3. Với cách ngắt nhịp ấy
"củi" xuất hiện "độc lập" và điều đó càng làm rõ hơn tình cảnh lẻ loi của sự vật này.
Có thể nói, hình ảnh " củi một cành khô" đã phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ - một
con người tài hoa nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề. Như vậy, chỉ
với khổ thơ đầu tiên bức tranh thiên nhiên buồn, sầu thảm đã hiện rõ. Nét bút kết
hợp giữa cổ điển và hiện đại cũng phần nào giúp người đọc rõ hơn về tâm trạng của thi sĩ.
Khổ thơ thứ hai tiếp tục là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sức sống.
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
Huy Cận thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả
cảnh hoang vu, vắng vẻ hai bên bờ sông: "Lơ thơ" - thưa thớt, ít ỏi, " đìu hiu" - vắng
lặng, ít người. Trên "cồn nhỏ" làn gió phảng phất không khí buồn, ảm đạm của chốn
ít người, thiếu sức sống. Nó u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên
chợ chiều. "Đâu" diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bám víu.
Như vậy, chỉ qua vài nét chấm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê thê lương,
thiếu sức sống. Đến với hai câu thơ tiếp, dường như tác giả mở rộng tầm nhìn ra qua
biện pháp đối "nắng xuống" - "trời lên" đã làm không gian mở rộng về chiều cao, có
một khoảng không gian đang giãn nở ra ở giữa. Hai động từ ngược hướng "lên" và
"xuống" mang lại cảm giác chuyển động. Nắng càng xuống thì bầu trời càng được
kéo cao hơn. Và điểm nhấn chính là "sâu chót vót" - không gian mở rộng cả về
chiều sâu. "Chót vót" vốn là từ láy độc quyền khi nhắc đến chiều cao. Còn đã nói tới
sâu thì người ta hay dùng "sâu hun hút" hoặc " sâu thăm thẳm",...Chính cách dùng
từ ngữ đặc sắc của Huy Cận đã gợi ra khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, đó cũng
là lúc nỗi buồn, cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc
nhìn đầy thú vị, mới mẻ. Câu thơ cuối cùng thi sĩ dùng không gian rộng để nói về
nỗi cô đơn, vắng vẻ. "Bến cô liêu" - buồn, thưa thớt trơ trọi giữa không gian rộng
lớn của sông, trời. Toàn cảnh khổ hai là một màu cô đơn, vắng vẻ, đối lập với hình
ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ.
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."
Hình ảnh trong khổ thơ thứ ba đã bước đầu có chuyển động với động từ "dạt",
nhưng sự vật đi kèm với động từ này là "bèo". "Bèo" vốn là hình ảnh tượng trưng
cho sự bấp bênh, chìm nổi, không có nơi ở ổn định. Đã thế cụm từ "hàng nối hàng"
càng diễn tả sự vô định, chông chênh khi hàng này đến hàng khác "nối đuôi" nhau.
Không gian đối lập với thực tại của cảnh vật. Tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy
chuyến đò để cảm nhận được sự sống. Nhưng đáp lại sự mong chờ ấy là "không một
chuyến đò ngang". Ở khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định: "không đò" và
giờ tiếp đến là "không cầu". Hình ảnh chiếc cầu gợi lên dáng vẻ miền quê, mang nỗi
niềm "thân mật". Nhưng vì hình ảnh này không có nên thành ra cảm giác xa lạ, cô
đơn được cảm nhận rõ. Với câu thơ cuối của khổ tác giả sử dụng nhiều màu sắc để
chấm phá cho bức tranh. "Bờ xanh tiếp bãi vàng" - sắc tranh tươi sáng, nổi bật
nhưng đi kèm với từ láy "lặng lẽ" làm chìm màu sắc này xuống. Giờ đây hai hình
ảnh này không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này cũng làm
cho không khí đìu hiu "lây lan" từ vật này sang vật khác. Tất cả sự vật đều nhấn chìm trong cô độc.
Nếu như ba khổ thơ đầu tiên là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng lặng thì khổ thơ
cuối cùng chính là tâm tư, tấm lòng của thi sĩ
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Xuyên suốt bài thơ tác giả liên tục sử dụng thủ pháp nghệ thuật là từ láy. "Lớp lớp"
- chồng chất lên nhau, "đùn" là đè lên làm cho một vật gì đó hạ thấp xuống. Như
vậy, với câu thơ đầu khổ bốn tác giả lại vẽ tiếp bức tranh quê hương với hình ảnh
rộng lớn nhiều lớp mây đè lên núi bạc. Hình ảnh "chim nghiêng cánh nhỏ" gợi cảm
giác nhỏ bé, bơ vơ. "Nghiêng" - không vững vàng. Hình ảnh này đối lập với vế ở
sau "bóng chiều sa". Trên nền bóng chiều rộng lớn là hình ảnh cánh chim nhỏ lo âu,
còn đang mơ hồ cho con đường tìm nơi trú của mình. Hình ảnh cánh chim này đã
từng bắt gặp trong "Quyện điểu quy lân tầm túc thụ" (Mộ - Hồ Chí Minh), tạm dịch
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ". Đến với câu thơ thứ ba tác giả đã nói lên nỗi
lòng nhớ quê của mình. "Dợn dợn" là gợi lên, dấy lên, có nỗi niềm khó nói. Cứ mỗi
khi nhìn thấy "con nước" là lòng yêu quê hương của tác giả lại dâng lên. Tuy nhiên,
nét đặc sắc lại nằm ở câu thơ cuối cùng: "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".
Hơn nghìn năm trước Thôi Hiệu cũng từng chạnh lòng nhớ quê mà thốt lên rằng:
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu."
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)
Nỗi buồn của hai thi sĩ có một số điểm khác nhau. Ở Thôi Hiệu do nhìn thấy khói
sóng trên dòng sông nên buồn và nhớ về quê nhà, còn ở Huy Cận không nhìn thấy
khói nhưng nỗi nhớ nhà vẫn dâng lên da diết. Nếu như Thôi Hiệu nhớ nhà là do
đang xa xứ, đang ở xứ người còn nỗi nhớ của Huy Cận xuất phát từ một người đang
đứng trên mảnh đất của mình nhưng bơ vơ, lạc lõng. Nỗi nhớ thương cũng xuất phát
từ sự bất lực, ngán ngẩm của bản thân thi sĩ trước thời cuộc.
Đặc sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa yếu tố Cổ điển (thơ Đường thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả
sử dụng nhiều từ Hán Việt như tràng giang, bến cô liêu,...cùng với đó là đề tài thiên
nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu
tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu cảm xúc, hình
ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối cũng góp
phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng lớn.
Với "Tràng giang", Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn,
mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của "cái tôi" trước ngân hà
rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp
người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 7
Đến với phong trào Thơ Mới, ta được hòa mình trong vườn thơ đầy hương sắc tuyệt
diệu của các thi nhân. Ta không khỏi rạo rực, hứng khởi trước những vần thơ táo
bạo, tràn đầy năng lượng mê hoặc của Xuân Diệu, không khỏi buồn man mác trước
hồn thơ sáng trong của Thế Lữ, thổn thức trước hình ảnh thơ đầy kì dị của Chế Lan
Viên, hay say sưa trước hồn thơ quê bình dị mà thân thương của Nguyễn Bính. Và
đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bắt gặp nét buồn riêng biệt, độc đáo đó là một nỗi
sầu rợn ngợp, u hoài, trước vũ trụ mênh mang, dường như chân trời của những nỗi
buồn của nhà thơ cứ thế dài vô tận. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho
nét phong cách đó của Huy Cận.
Bài thơ được in trong tập thơ Lửa thiêng viết vào năm 1940, tác phẩm bộc lộ tâm
trạng u buồn của con người trước cảnh vật rộng lớn bao la, khắc hoạ sự cô đơn buồn
thương đến tuyệt đối.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.”
Từng cơn sóng mệt mỏi gợn lăn tăn giữa dòng sông sâu rộng. Con thuyền nhỏ cô
độc giữa dòng sông càng làm nổi bật sự nhỏ bé, cô đơn, thuyền mặc trôi vô định
xuôi theo dòng giang bao la. Sóng gợn "điệp điệp", nước “song song", cảnh vật tuy
có sự vận động nhưng sao vẫn thấy tĩnh lặng lạ lùng. Dòng sông thì bao la vô tận,
thiên nhiên vẫn tuyệt đẹp đấy thôi mà sao vẫn mang nỗi sầu buồn khó tả:
" Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng"
Thuyền và nước gắn bó chặt chẽ và song hành cùng nhau "thuyền về", " nước lại" -
dường như hai vật thể lại đang trong thế đối nghịch nhau gợi sự chia lìa, xa cách,
cũng như nỗi sầu của người thi nhân vậy. Càng cố tìm đến thiên nhiên để thoát li
nỗi sầu muộn trước nhân thế, trước thực tại đảo điên, thi nhân lại càng thấy mình cô
độc, buồn thương, càng nhỏ bé trước vũ trụ vô tận. Những dòng nước cứ thế lặng lờ
trôi, cành củi khô một mình lạc giữa mênh mang sóng nước. Dường như chẳng thể
điều khiển được dòng nước mình đi, trôi dạt vô định giữa sông nước. Cảnh nhẹ
nhàng, yên bình, đẹp nhưng đượm nỗi buồn lớn. Phải chăng cảnh cũng chất chứa
tâm trạng hay chính lòng người buồn khiến cảnh cũng mang nỗi sầu tư, bởi vốn
"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
Nỗi lòng ấy lại càng sâu hơn, thê lương và cô đơn hơn, ngấm chìm vào từng cảnh vật:
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều"
Bãi cồn nhỏ nhoi, ít ỏi lại càng tô đậm thêm vẻ đìu hiu quạnh vắng của không gian.
Nét cảnh vật có phần hoang sơ, tiêu điều, đơn độc. Tiếng chợ chiều xa vẳng lại
chẳng rõ ràng. Có âm thanh, có hoạt động của con người đấy thôi, mà sao vẫn
không vơi đi nỗi lặng lẽ của thời gian, của thiên nhiên và của lòng người. Chút âm
thanh tiếng nói nơi chợ xa ấy chẳng đủ để xua tan đi cái buồn, cái tịch liêu rợn ngợp
nơi đây. Càng hướng về thiên nhiên chốn quê nhà, càng mong mỏi chút gì đó sưởi
ấm cõi hồn lạnh giá nhưng lại càng thấy cô đơn trên chính quê hương mình.
Thiên nhiên đáp trả lại người thì nhân ấy một khung cảnh đầy buồn vắng, quạnh hiu:
"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Cánh bèo trôi dạt giữa dòng sông, không mục đích, không chốn đến nơi về, cứ thế
xuôi theo dòng nước. Đưa mắt nhìn về bến đò, lại chỉ thấy hiu hắt, quanh vắng,
chuyến đò ngang cũng chẳng thấy đâu, chẳng ai khiến ta thôi u sầu, chẳng ai cùng
người thì sĩ san bớt nỗi sầu tư lúc này. Mong mỏi chút gì đấy sinh hoạt của con
người cũng không thấy, bao quanh chỉ là những bờ xanh, bãi vàng tiếp nối nhau, nỗi
buồn cứ thế cũng chất chồng lên nhau, thật xót xa, đau đớn biết nhường nào.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”
Nhà thơ có cái nhìn rất tinh tế khi miêu tả thiên nhiên đầy tráng lệ, hùng vĩ, vận
động rất đẹp và thơ. Từng lớp mây vốn nhẹ nhàng trôi giờ tiếp nhau tạo thành
những hình núi đẹp đẽ, lớn lao, từng áng mây mang nội lực, mang sức sống bất diệt,
trường tồn. Cánh chim nhỏ nghiêng mình cũng là lúc bóng chiều dần buông xuống.
Khi ấy, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, tình cảm sâu nặng với quê hương lại càng trỗi
dậy, dạt dào đến khó tả:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Trong trái tim nhân vật trữ tình lúc này đong đầy biết bao tình cảm tốt đẹp chốn quê
nhà. Dù buồn đấy, sầu đấy, nhưng nghĩ về quê hương lại càng xúc động, không nói
nên lời. “Lòng quê dợn dợn" phải chăng là những đợt sóng lòng đang dâng trào
mãnh liệt nơi tâm hồn thi nhân đã dồn nén bấy lâu, càng thương nhớ lại càng da diết
khôn nguôi. Đứng trên quê hương mà lại nhớ quê hương khôn cùng.
Bằng các hình ảnh giàu sức gợi, mang đậm phong vị Đường thi, với những hình ảnh
cổ điển tiêu biểu, sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Huy Cận đã
thể hiện được cái tôi độc đáo của mình trong thơ. Bài thơ bồi đắp, nuôi dưỡng cho
tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nặng với quê hương dân tộc.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 8
Thời đại Thơ mới của Việt Nam ghi dấu sự thành danh của nhiều bậc thi nhân đại
tài. Đó là một Xuân Diệu khao khát tình đến cháy bỏng, mãnh liệt. Một Chế Lan
Viên trăn trở đi tìm cái tôi cá nhân. Một Hàn Mặc Tử chìm trong thực và mộng. Và
có cả một nhà thơ – một con người mang tâm hồn của một kẻ ảo não, chênh vênh
giữa cõi đời rộng lớn. Thơ ông hàm súc nhưng lại ẩn chứa biết bao triết lý cùng
những dòng suy tưởng miên man. Không ai khác ngoài Huy Cận – chàng thi sĩ đã
để lại cho đời biết bao tác phẩm xuất sắc tuyệt thế mà đặc sắc nhất phải kể đến thi phẩm “Tràng giang”.
Hoàn cảnh sáng tác chính xác của Tràng giang là vào tháng 9 năm 1939, khi ấy Huy
Cận mới chỉ vừa bước vào độ tuổi 20, đang theo học tại Trường cao đẳng Canh
Nông. Bài thơ là một phút ngẫu hứng của thi sĩ trong buổi chiều đạp xe ra bến
Chèm ngắm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chảy. Bao nỗi nhớ, bao cảnh sầu, sự
cô đơn của một cái “tôi” trước thiên nhiên cứ thế tuôn trào để trở thành vần thơ còn
lưu truyền hậu thế đến tận ngày nay.
Ban đầu, bài thơ có tên là “Chiều bên sông” sau đó tác giả đổi thành “Tràng giang”.
So với nhan đề cũ, Tràng giang mang âm hưởng Hán – Việt trang trọng, cổ kính
hơn. Sự lan tỏa của vần “ang” không chỉ vẽ ra cái mênh mông bát ngát rợn ngợp của
không gian thiên nhiên sông nước mà còn ngầm gợi ra nỗi buồn trải dài không dứt.
Sau nhan đề là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Chính lời đề từ này
đã thâu tóm cả cảnh và tình của bài thơ. Ta thấy đâu thiên nhiên sao bao la chẳng
thấy điểm cuối, còn nỗi buồn, nỗi bâng khuâng lại cứ rộng dài mãi không nguôi .
Trong bài thơ Tràng giang, có thể thấy 2 bức tranh tả cảnh và tả tâm trạng của người
thi sĩ rất rõ nét. Về cảnh vật, tất cả đều nhuốm một màu hiu quạnh, vắng vẻ, cô liêu.
Nhà thơ mở đầu bằng 4 câu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Từ láy “điệp điệp” kết hợp cùng trạng thái buồn đã mở tạo ra nốt trầm trong cung
bậc cảm xúc khi vừa đọc những vần thơ đầu tiên. Ta không chỉ thấy sóng tràng
giang đang cuồn cuộn mà còn thấy những đợt sóng lòng của người thi nhân dường
như cũng đang mênh mang lan tỏa hòa cùng trời đất. Con thuyền trên trên sóng
nước cũng chẳng mảy may chèo lái để mặc “xuôi mái nước song song”. Rồi đến
cuối cùng “Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả” nhuốm màu chia ly buồn bã. Những
vần thơ cứ thế mà đậm chất cổ điển, ngỡ như một bậc thi nhân xứ Trung Hoa sáng
tác, cho đến khi tác giả nhắc đến hình ảnh củi. Không phải bèo cũng chẳng phải hoa
trôi trên sông, mà đây là cành củi lạc dòng vô định. Thân phận củi khô héo, lênh
đênh trên sông nước càng thêm phần lay động.
Hai câu đầu của khổ thơ thứ hai của bài thơ tiếp nỗi buồn len lỏi vào từng không gian:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Nỗi buồn giăng mắc, mơ hồ hòa quyện với cái vẻ hiu hắt, quạnh quẽ đôi bờ sông.
Nhà thơ muốn nghe lắm, muốn được thấy lắm tiếng người nói cười nhưng “Đâu
tiếng làng xa vãn chợ chiều”. “Đâu” ở đây là diễn tả “đâu đó” hay “đâu có” - tác giả
cũng không nói rõ với người đọc. Từ “vãn” càng tạo ra cảm giác xa xôi, tẻ nhạt,
quạnh vắng. Vậy là muốn nghe âm thanh của cuộc sống nhưng cuối cùng đáp trả lại
nỗi lòng người thi nhân chỉ là cảnh vật hoang vu, nỗi buồn man mác.
Rồi bỗng nhiên, điểm nhìn từ dưới thấp đột ngột được đẩy lên cao.
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Ngòi bút của Huy Cận vẽ lên “nắng”, “trời”, “sông”, “bến”. Những cảnh vật vốn
quen thuộc trong thơ ca nay lại nằm trong một tâm thế khác bởi một lối dùng từ ngữ
chắt lọc đến tinh tế. Tác giả miêu tả “trời lên sâu chót vót” thay vì “trời lên cao chót
vót”. Bởi cái “sâu” ở đây không chỉ là chiều kích không gian cảnh vật mà nó còn
gợi lên một nỗi buồn không đáy, nỗi buồn trải dài đến vô cùng tận của lòng người.
Người buồn cảnh có vui bao giờ, để cuối cùng những gì đọng lại chỉ còn là “Sông
dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Đến khổ thơ thứ ba, dường như tác giả đã hoàn toàn bất lực để kéo bản thân ra khỏi nỗi buồn rợn ngợp.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Huy Cận sử dụng hình ảnh “bèo” – sự vật nhỏ bé, tầm thường thay cho lời diễn tả
đến những kiếp người mang số phận bấp bênh, trôi nổi, vô định giữa dòng đời. Cả
khổ thơ 4 câu đều không thấy sự xuất hiện của bóng dáng con người. Tất cả chỉ có
thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, nỗi buồn tiếp nối nỗi buồn. Cấu trúc phủ định
“không một chuyến đò ngang” – “không cầu gợi chút niềm thân mật” đã xóa sạch
sự kết nối của con người. Thật khó để nhìn thấy trong “Tràng giang” một chút dấu
vết của sự vội vã, ồn ào, bon chen đời thường. Thứ khiến độc giả đắm chìm chỉ là
một nỗi buồn hiu hắt khó tả.
Khổ cuối cùng, sự cô đơn đến đây được đẩy lên như một nốt thanh cao vút trong
bản giao hưởng nỗi buồn
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Những câu thơ mang đầy màu sắc cổ điển. Huy Cận đã sử dụng bút pháp chấm phá
để vẽ lên bức tranh thủy mặc có núi, có mây, có cánh chim nghiêng, bóng chiều,
khói hoàng hôn. Trời đổ bóng hoàng hôn, nỗi cô đơn càng thêm phần thấm thía.
Cánh chim cô đơn xuất hiện chơ vơ lẻ loi khiến người đọc đặt ra hai giả thiết. Chim
nghiêng cánh nhỏ kéo bay liệng bóng chiều sa xuống tràng giang hay chính bóng
chiều buông dần rồi đè nặng lên cánh chim đang nghiêng lệch. Nhưng dù thế nào thì
cảnh vật lúc này cũng nặng trĩu nỗi tâm tình của kẻ thi nhân đa sầu đa cảm. Từ láy
“dợn dợn” thể hiện nỗi bâng khuâng cô đơn trào dâng trong lòng. Tất cả cảm xúc
dồn lại đem đến nỗi “nhớ nhà”. Câu cuối của “Tràng giang” khiến ta liên tưởng đến
đôi ba câu thơ cũ của Thôi Hiệu:
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu."
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)
Nghìn năm trước, thi nhân Trung Quốc thấy khói sóng trên sông mà buồn, còn Huy
Cận, nỗi buồn cứ thế đến một cách tự nhiên. Chẳng cần một ngoại cảnh nào tác
động. Tất cả trào dâng trong lòng nỗi bơ vơ, khắc khoải, cô đơn, da diết với cuộc đời.
Bằng những từ ngữ giàu sức gợi tả, bút pháp cổ điển mang đậm nét Đường thi, Huy
Cận đã tạo ra một Tràng Giang nhuốm màu nỗi buồn, nỗi cô đơn. Một cái “tôi” lẻ
loi giữa vũ trụ vô thường bao la đã được bộc lộ rất rõ nét. Đồng thời, cho ta thấy rõ
nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết sầu bi trong tâm hồn người thi sĩ đa cảm.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 9
Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với một
“hồn thơ ảo não”. Thơ của Huy Cận luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc
bởi những khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, mênh mang và luôn thấm đẫm một
nỗi buồn. Bài thơ “Tràng giang” in trong tập “Lửa thiêng” là một trong số những
sáng tác tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.
“Tràng giang” để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc ngay từ nhan đề và câu
thơ đề từ của tác phẩm. Nhan đề bài thơ là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính,
với nghĩa là sông dài. Nhưng đặc biệt ở chỗ, tác giả không sử dụng “trường giang”
là dùng là “tràng giang” với hai vần “ang’ - hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa
liên tiếp nhau, điều đó đã gợi lên trong cảm nhận của người đọc hình ảnh một con
sông vừa dài vừa rộng. Thêm vào đó, câu thơ đề từ của tác phẩm “Bâng khuâng trời
rộng nhớ sông dài” cũng đã khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong
bài thơ đó chính là bức tranh thiên nhiên với trời rộng, sông dài và cảm xúc bao
trùm toàn bộ bài thơ đó chính là nỗi nhớ, niềm bâng khuâng cùng nỗi buồn như lan
tỏa vào trong mọi cảnh vật.
Từ nhan đề và câu thơ đề từ của bài thơ, khổ thơ thứ nhất đã mở ra một không gian
sông nước sông nước rộng lớn. Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình
ảnh sông nước mênh mang.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Dường như, dòng sông “tràng giang” đã dài nay lại như trải dài ra hơn với từng đợt
sóng “điệp điệp” cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt. Những
đợt sóng ấy như trải dài đến vô tận càng tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la
của sông nước. Và để rồi, trên cái nền sông nước mênh mông ấy, hình ảnh con
thuyền hiện lên thật nhỏ nhoi, cứ thế “xuôi mái nước song song”. Hình ảnh đối lập
giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi
lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi. Đặc biệt, khổ thơ thứ nhất còn để lại ám ảnh sâu
sắc trong lòng người đọc bởi hai câu thơ cuối của khổ thơ.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Từ xưa cho đến nay, thuyền và nước là hai hình ảnh luôn đi liền với nhau, ấy vậy
mà ở đây dường như thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi. Có
lẽ bởi thế mà cảnh vật ấy càng khiến cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh
sông nước mênh mông ấy, hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong
lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi
sẽ trôi dạt về đâu bởi trăm dòng mênh mông vô định. Như vậy, trong khổ thơ thứ
nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi
khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định. Đồng thời, khổ
thơ cũng gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.
Nếu trong khổ thơ mở đầu của bài thơ, tác giả vẽ nên không gian sông nước mênh
mông thì trong khổ thơ thứ hai, tác giả lại mở ra không gian nơi cồn nhỏ. Hai câu
thơ mở đầu khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi
cảm tác giả đã vẽ nên một bức tranh nơi cồn nhỏ vừa thưa thớt, hoang vắng, lạnh
lẽo vừa gợi nên một nỗi buồn mênh mang. Thêm vào đó, sự hoang vắng, tĩnh mịch
của không gian như càng được tô đậm thêm qua câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều”. Có thể nói, đây là một câu thơ có nhiều cách hiểu, “đâu” là đâu có, là phủ
nhận âm thanh của tiếng chợ chiều hay là đâu đó, gợi lên âm thanh yếu ớt của tiếng
chợ. Nhưng có lẽ dẫu hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ vẫn gợi lên trong
lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người.
Nếu hai câu thơ đầu khổ hai gợi lên không gian cồn nhỏ vắng vẻ, hiu quạnh thì
dường như trong câu ba và câu bốn, không gian ấy như được mở rộng cả về bốn
phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Trong hai câu thơ, tác giả dùng “sâu chót vót” thay vì “cao chót vót” bởi lẽ chữ
“sâu” không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, nó không chỉ gợi lên một khoảng không
gian rộng lớn, thẳm thẳm mà còn gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của
lòng người trước cái mênh mông, hoang vắng của cảnh vật.
Như vậy, trong hai khổ thơ đầu của bài thơ, nỗi buồn của nhà thơ như bao phủ lên
mọi cảnh vật, lên không gian rộng lớn và mênh mông. Và để rồi, trong khổ thơ thứ
ba của bài thơ, tác giả lên trở về với không gian sông nước với khung cảnh mênh
mang, đìu hiu, thiếu vắng đi sự sống của con người.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bài vàng
Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” một lần nữa gợi lên trong người đọc hình
ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu. Thêm vào
đó, khổ thơ với việc sử dụng nghệ thuật phủ định lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh sự
hiu quạnh, thiếu sự sống của cảnh vật. Lẽ thường, chúng ta vẫn thường thấy rằng,
thuyền và cầu là những phương tiện, những hình ảnh thể hiện sự giao lưu, kết nối
giữa con người với con người, giữa miền đất này với miền đất khác nhưng ở đây
“không một chuyến đò”, “không một cây cầu”. Dường như, ở nơi đây chẳng có bất
cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình
con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau.
Có lẽ bởi thế mà hai bờ của dòng sông cứ thể chạy dài, chạy dài mãi mà chẳng bao
giờ gặp nhau, chỉ còn lại ở nơi đây những bờ xanh, những bãi vàng nối tiếp nhau -
một bức tranh đẹp nhưng tĩnh lặng và thật buồn.
Nếu trong ba khổ thơ trên, tác giả vẽ nên một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, hoang
vắng với nỗi buồn, cô đơn thì trong khổ thơ cuối cùng, tác giả đã thêm vào cho bức
họa thiên nhiên ấy một gam màu mới và ẩn sau đó là nỗi nhớ quê hương da diết,
cháy bỏng của tác giả.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiểu sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hai câu thơ đầu khổ thơ cuối đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ
đẹp hùng vĩ, nên thơ. Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác
nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát bạc.
Dường như chỉ với một câu thơ thôi nhưng tác giả đã tạo nên một bức tranh thật đẹp.
Và để rồi, trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, hình ảnh cánh chim xuất hiện như
ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu
thẳm tâm hồn của nhà thơ. Dường như, sự đối lập giữa cái nhỏ bé của cánh chim
chiều với sự rộng lớn, hùng vĩ của “lớp lớp mây cao” càng làm không gian như rộng
hơn và nỗi buồn, sự cô đơn của nhà thơ cũng thế tăng lên. Và để rồi, trước không
gian ấy, trong lòng nhà thơ hiện lên nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng. Hình ảnh
“dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi
lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ - nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ
quê hương da diết. Đặc biệt, câu thơ đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả
một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ và
tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng thường gặp ở tầng lớp tiểu tư sản thời bấy giờ.
Tóm lại, “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và màu
sắc hiện đại cùng những hình ảnh thơ độc đáo đã gợi lên trong chúng ta nỗi buồn, sự
cô đơn của một cái tôi trước khung cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn và đặc biệt đó
chính là tấm lòng tha thiết với quê hương, với đất nước. Đọc bài thơ, giúp chúng ta
hiểu vì sao Xuân Diệu từng đánh giá “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông,
đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 10
Mỗi ai khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dòng
sông quê hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là
nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ không thể kìm lòng
mà phải viết. Một dòng sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ
Tế Hanh, một con sông Đà trong tùy bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm
đềm trong văn Hoàng Phủ…. Và chỉ khi đến với “Tràng Giang” của Huy Cận, ta
mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng chứa chan tình quê trong
cảm thức của tác giả.
Mang trong mình cả cái tài, cái tâm lẫn cái tầm, Huy Cận được mệnh danh là nhà
thơ lớn, nhà văn hóa lớn. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại,
hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào
tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – những khi đạt
đến độ thuần thục – rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ
năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy Cận – vừa mộc mạc chân tình vừa
lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc
khắp các tứ thơ. Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh
mà thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người
đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản
ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói: ấn tượng không gian
có được – trước hết – nhờ phong vị Ðường thi. Nhà thơ Xuân Diệu có lần từng nhận
xét: “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy
Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất
của tâm hồn mình”. Và “Tràng Giang” đã thể hiện sâu sắc điều đó.
“Tràng giang” là bài thơ tuyệt bút in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940.
Theo tác giả cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại
học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng mênh
mông, lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng
giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước
cảnh: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Có thể nói nhan đề của một bài thơ chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc
có thể lần mò theo đó khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ
“Tràng giang” cũng vậy, ý nghĩ, nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn
vẹn hai từ “Tràng giang”. “Tràng giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ
hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải
“Trường giang”. Bởi vốn dĩ “Trường giang” chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn
thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông,
vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi
niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông rộng lớn mênh mông này.
Bước vào thế giới của Tràng Giang, ta như lạc vào một miền sông dài trời rộng đầy cuốn hút:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ đầu mở ra với sóng. Không ồn ào, mạnh mẽ mà là “sóng gợn”. Động từ
“gợn” vừa miêu tả tư thế, vừa miêu tả tâm thế. Bởi lẽ, “gợn” trước hết gợi đến
những chuyển động vô cùng nhỏ, chậm rãi của sóng. Tuy là một động từ nhưng
thực chất “gợn” gợi ra cái không khi tĩnh lặng, im ắng của thiên nhiên sông nước.
Nghệ thuật lấy động tả tĩnh của nhà thơ sao thật tài tình. Chi tiết hé mở hoàn cảnh
thiên nhiên, nhưng cũng mở ra không gian tâm trạng của nhà thơ. Ta thấy ở đó tâm
thế của một con người mang trong mình sự sâu lắng, mà cũng đượm buồn. Sóng
không chỉ là sóng sông mà còn là sóng lòng, sóng tâm đang nhẹ nhàng từng gợn nhỏ,
thấm cái “buồn điệp điệp” toát ra từ cảnh và dội vào lòng thi nhân. Từ láy ‘điệp
điệp” không chỉ vẽ lên những đợt sóng gợn liên hồi của sông nước mà còn là dòng
sông tâm trạng của nhà thơ, sóng lòng từng đợt từng đợt cuộn vào nhau. Đặc biệt
hơn, ngay ở câu đầu, tác giả đã nhắc lại nhan đề bài thơ không phải không có dụng
ý. “Tràng Giang” là con sông vừa dài vừa rộng, gợi ra không gian rộng lớn, choáng
ngợp. Đặt giữa cái nền ấy là một con người lẻ bóng, nhỏ nhoi đang đưa cặp mắt
buồn theo mấy con sóng lăn tăn tít tắp đến tận chân trời.
Điều này càng tô đậm thêm nỗi lòng của Huy Cận, một thi sĩ sẵn sàng buồn mọi lúc
mọi nơi. Nỗi buồn của người lữ thứ dừng chân trên quán chật đèo cao, buồn đêm
mưa, buồn nhớ bạn, buồn khi nắng xuống, khi chiều lên, thậm chí là buồn khi không
còn thấy những dấu chân trên đường.
Nếu như câu thơ đầu chập chùng sóng vỗ thì đến những câu tiếp theo đã thấp
thoáng bóng dáng của con thuyền. “Con thuyền xuôi mái nước song song” hay cũng
chính là con thuyền trôi vô định, trôi song song dòng nước, cho con sóng đưa đi.
Hình ảnh đó gợi cho tôi một tâm thế buông xuôi, phó mặc cho dòng đời, sự đời đưa
đẩy của thi nhân. Cùng với nỗi “buồn điệp điệp” trên, câu thơ càng làm sáng tầng ý nghĩa sâu sắc này.
Có thể nói, câu thơ thứ ba là một sáng tạo tài tình của tác giả. Theo lẽ thường, nước
đẩy, thuyền trôi. Thuyền trôi theo dòng nước. Nói cách khác, thuyền và nước không
bao giờ tách rời nhau, ngược chiều nhau. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, nước
lại”. Hai thế đối lập gợi ra cái vô lí trong logic nhưng thực chất, xét ở bề sâu, bề sau,
bề xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng của người lữ khách miền sông nước. Phải
chăng đó là mặc cảm chia lìa trong cảm nhận của Huy Cận khi đứng trước sông dài
trời rộng? Cũng như Hàn Mặc Tử khi còn nằm trên giường bệnh, nhìn ra xa mà thấy
“Gió theo lối gió, mây đường mây”. Đó là nỗi buồn đầy ám ảnh trong mặc cảm chia
li. Thế nên Huy Cận “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu to lớn mà không gì có thể bù đắp được.
Toàn bộ nỗi lòng của nhà thơ cuối cùng được kết đọng cả trong hình ảnh “củi một
cành khô lạc mấy dòng”. Thơ ca từ cổ chí kim, nỗi buồn được cắt nghĩa dưới vô vàn
hình hài góc cạnh khác nhau. Có cái nỗi buồn khi thấy “cây ngô đồng, vàng rơi
vàng rơi thu mênh mông” (Bích Khê), có cái nỗi buồn trước “rặng liễu đìu hiu”
(Xuân Diệu), lại có cái buồn khi nghe thấy tiếng gà gáy não nùng trong thơ Lưu
Trọng Lư. Nhưng có lẽ, buồn trước một cành củi khô thì chưa bao giờ xuất hiện
trong kho tàng văn học Việt Nam. Củi chỉ những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh, cũng
trôi lênh đênh vô định trong dòng chảy của cuộc đời. Vậy nên, “củi một cành khô
lạc mấy dòng” là điều không thể tránh khỏi.
Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầu:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Điều đầu tiên gây ấn tượng trong lòng độc giả là phép đảo ngữ. Từ láy “lơ thơ”
được đặt lên đầu câu, nối tiếp sau đó là “cồn nhỏ gió đìu hiu”. Một câu mà xuất hiện
liên tiếp ba tính từ chỉ sự xơ xác, nhỏ bé, lẻ loi của tạo vật. Đìu hiu, hay cũng chính
là cái buồn không ai chia sẻ đang dậy sóng trong tác giả. Thay vì là bức tranh thiên
nhiên như khổ một, khỏ thơ thứ hai lại tái hiện cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà
tiêu biểu nhất là hình ảnh chợ chiều thời điểm vãn. Chợ vốn dĩ miêu tả cảm giác
đông đúc, ấm no, tràn đầy sức sống, đúng như Nguyễn Trãi từng miêu tả: “Lao xao
chợ cá làng Ngư Phủ”. Đủ để thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một phiên chợ. Huy
Cận không như thế, ông chọn cho mình thời điểm vãn chợ như một tín hiệu nghệ
thuật đặc sắc. Chợ vãn là khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ
còn vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…” (Thạch Lam). Chi tiết gợi ra cái hoang tàn,
xơ xác, hiu quạnh, heo hút của làng quê miền sông nước, cũng là gợi mở cái buồn
vô hạn trong lòng thi nhân.
Hai câu cuối là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho cái hồn thơ đậm phong vị
Đường thi của Huy Cận. Câu trước, câu sau đối nhau, niêm luật sử dụng chặt chẽ
cùng các động từ, tính từ đối nhau từng cặp: lên – xuống, dài – rộng như mở thêm
cho không gian. Sông nước đã rợn ngợp nay càng rộng lớn hơn nhiều lần. Sông
nước mở ra theo chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng. Không gian như đang
giãn nở từ từ theo mọi chiều kích. Đọc câu thơ ta thấy như mọi vật đang chuyển
động r xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn. Và ở chính giữa bức tranh ấy, ta thấy
tâm điểm vẫn là bóng dáng nhỏ bé tưởng chừng đơn độc, hiu quạnh giữa vũ trụ.
Nỗi buồn, nỗi sầu của thi nhân vì thế mà nhân lên gấp bội lần.
Khổ thơ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các
sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt nước mênh mông.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cảnh mênh mang, buồn bã, trống vắng của Tràng Giang được nhân lên mấy lần phủ
định. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ, là biểu hiện của sự giao nối của con người
và cuộc sống, thường gợi lên không khí tấp nập, thân tình, gợi nhớ quê hương:
“Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta – Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo – Đêm
trăng sáng chân cầu em giặt áo – Nhịp cầu nối những bờ vui.” (Nhịp cầu nối những
bờ vui). Nhưng ở đây, không một chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên
không một dấu vết của sự sống hay một cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn
gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chạy dài về phía chân trời như
hai thế giới cô đơn, xa lạ, không bao giờ gặp nhau, không chút niềm thân mật của
những tâm hồn đồng điệu. Cảnh Tràng Giang nay chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi
vàng”. Bức tranh thật đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn đến nao lòng.
Trên mặt nước ấy xuất hiện hình ảnh cánh bèo lẻ loi, đơn độc, gợi đến thân phận
“cánh bèo mặt nước” (Nguyễn Du), sự tan tác, chia lìa, phiêu bạt:
Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu cũng nữa là lênh đênh Nguyễn Du
Câu thơ cho ta thấy: Bèo dạt hoa trôi trên dòng Tràng Giang hay cũng chính là kiếp
trôi nổi của con người trong dòng thời gian. Cả bốn câu, mỗi câu một nỗi buồn riêng,
kéo nhau như sóng gợn trong lòng Huy Cận.
Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ
nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau
như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn,
nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng nên nhau, tạo thành
những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết
bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trơi giữa tầng không khi chiều về như
trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm
cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ
nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng
làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn
nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.
Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong
lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian:
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
“Lòng quê” hay cũng chính là hồn quê, tình quê trong lòng thi nhân, sự hướng tâm
chứ không chỉ đơn thuần là tấm lòng chất phác, quê mùa. Hai từ “dờn dợn” cho ta
cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang
nhớ thương vậy? Hai từ “dờn dợn “còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lươn
của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng
của một buổi chiêu tà.và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục, nhiểu lần
nhưng nỗi ấy mới chỉ là “dờn dợn” mà chưa phải là cuồng nhiệt. Câu thơ muốn nói
lên lòng nhớ quê hương khi tác giả đứng trước sông nước rợn ngợp.
Câu thơ cuối cùng kết lại toàn bài. Đó chính là điểm nhấn sâu sắc nhất, đóng lại tư
tưởng, tình cảm của bài thơ. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố
ngoại cảnh nào tác động trực tiếp đến thi nhân nhưng tại sao nhà thơ vẫn nhớ nhà?
Đặt trong thơ ca từ cổ chí kim, Thôi Hiệu đã từng bày tỏ nỗi hoài hương của mình
thế này: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng
ai” (Hoàng Hạc Lâu). Trước cảnh mà dâng trào nên tình nhớ. Còn ở Huy Cận, ta lại
thấy không một chút gợi nhớ nhưng tấm lòng nhà thơ vẫn hướng về quê cha đất tổ.
Đủ để thấy cái tình quê ấy nó đậm đà biết nhường nào. Đặt trong hoàn cảnh ra đời
bài thơ, Huy Cận đứng trước dòng sông quê hương mà vẫn nhớ quê hương, thâm
trầm nhưng sâu sắc. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy, mấy ai sánh kịp?
Dưới hình thức một bài thơ đậm phong vị Đường thi, kết cấu mạch lạc và cái tài
sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả, bài thơ hiện lên như một bản hòa ca mà ở
đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà phê
bình Phan Cự Đệ có lần từng nhận xét: “Các nhà lãng mạn gửi gắm vào trong thơ
một tấm lòng tha thiết yêu thiên nhiên đất nước và một sự nâng niu đối với tiếng
Việt, lúc bấy giờ bị xem như tiếng mẹ ghẻ, tiếng con đòi… Tiếng nói trong Thơ mới
là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh trong Thơ mới chính là đất nước Việt Nam
mĩ lệ với những vẻ đẹp riêng của từng vùng quê hương (“Quê hương” của Tế Hanh,
“Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, “Đà Lạt đêm sương” của Quách Tấn, “Chùa
Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Chiều xuân” của Anh Thơ…). Cho nên ta có thể
dễ dàng thống nhất với Xuân Diệu khi anh viết: “Tràng giang” là một bài thơ ca hát
non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.
Thời gian có thể phủ bụi một số thứ. Nhưng có những thứ càng rời xa thời gian,
càng sáng, càng đẹp. “Tràng Giang” của Huy Cận là một bài như thế. Cùng với tấm
lòng chan chứa tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ, thi phẩm sẽ còn sống mãi
với chúng ta cho đến tận muôn đời.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 11
Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài", là cảm hứng chủ đạo của Huy Cận
trong bài thơ "Tràng giang" đã khắc chạm vào thời gian và hồn người trong hơn nửa
thế kỉ qua. "Tràng giang" là bài thơ tuyệt bút in trong tập "Lửa thiêng" xuất bản năm 1940.
Theo tác giả cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại
học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng mênh
mông, lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận vể tràng
giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước
cảnh "Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".
Khổ thơ đầu nói về "sóng gợn", con thuyền và cành củi khô trôi trên dòng sông:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song".
Tràng giang - sông dài và lớn, như Hoàng Hà, Trường Giang,... ở đây là sông Hồng
thân yêu, dòng sông "đỏ nặng phù sa". Sóng gợn lăn tăn, lớp lớp "buồn điệp điệp",
như vỗ vào, thấm sâu vào lòng người bao ám ảnh. Con thuyền nhỏ bé, trôi xuôi
dòng, buông mái chèo "nước song song".
Cặp từ láy: "điệp điệp" và "song song" gợi tả một nỗi buồn thấm thía, xa vắng và
mơ hồ. Hình ảnh cành củi khô vừa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. "Củi
một cành khô" nhỏ bé, tầm thường từ rừng xa trôi về đã được đem vào thơ, tạo nên
"cái vị ý mới mẻ" của Thơ mới. Nó còn biểu tượng cho một kiếp người phù du, bé
nhỏ trôi nổi trên dòng đời vô định. Buồn thương thế, biết đi đâu về đâu?
"Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng".
Phép đối được sử dụng sáng tạo, chỉ đối ý, đối hình mà vần thơ vẫn cân xứng hài
hoà. Con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên tràng giang. Huy Cận đã
nói nhiều đến "vạn cổ sầu", "buồn thiên thu", ở đây ông lại viết "sầu trâm ngả". Cả
cõi dương và cõi âm? "Sầu trăm ngả" như toả rộng và phủ lên những kiếp người đau
thương. Các số từ trong ba vần thơ "sầu trăm ngả", "củi một cành khô", "lạc mấy
dòng" đã làm thấu rõ cái ám ảnh về kiếp người thì nhỏ bé, hữu hạn, sự đau khổ, sầu
thương thì to lớn, vô hạn.
Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu tả qua một không gian bao la. Cái bé nhỏ tương
phản với cái mênh mông, vô cùng. Cồn thì nhỏ bé thưa thớt, buồn bã: "Lơ thơ cồn
nhỏ gió đìu hiu". Vần lưng: "nhỏ - gió", kết hợp với láy âm: "lơ thơ" và "đìu hiu",
âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người về một nỗi buồn hiu hắt, cô quạnh. Nghệ
thuật sử dụng từ láy tài ba, gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc trở về với cổ
thi: "Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò" (Chinh phụ
ngâm), "Lơ thơ tơ liễu buông mành..." (Truyện Kiều).
Chợ chiều vốn đã buồn xao xác, vãn chợ chiều thì cái buồn xao xác xa vắng lại
nhiều lần nhân lên. Thế mà giờ đây cái âm thanh xao xác "vãn chợ chiều" từ một
làng xa cũng không còn nữa. Từ "đâu" biểu lộ cái ngơ ngác của thi nhân với một nỗi
buồn cô quạnh chứa chất trong lòng: "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều".
Bầu trời và lòng sông là không gian hai chiều. Trời cao thăm thẳm in xuống lòng
sông. Người ta thường nói: "cao chót vót", "sâu thăm thẳm", nhưng Huy Cận lại viết:
"sâu chót vót" để làm nổi bật hai tiểu đối: "nắng xuống" và "trời lên" kia, cái bao la,
mênh mông đều rợn ngợp của dòng sông, bầu trời và bến đò xa vắng:
"Nắng xuống trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".
"Tràng giang" là thi phẩm đại diện sáng chói, lung linh nhất của "Lửa thiêng". Nói
đến "Tràng giang" là nói đến "Lửa thiêng". Nói đến "Lửa thiêng" là nói đến nỗi
buồn mênh mang, bao trùm không gian và thời gian, dường như ngầm chất chứa
"cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế!" (Xuân Diệu).
Câu hát "bèo dạt mây trôi" trong dân ca quan họ từng gợi lên trong hồn ta nhiều
cảm xúc mơ hồ. Khổ thứ ba, Huy Cận lấy cánh bèo trôi dạt trên tràng giang làm
biểu tượng cho sự hợp tan, chia lìa trên dòng đời của những kiếp người truân chuyên lưu lạc:
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng".
Giữa cái bao la trời đất, sông nước hầu như không có bóng dáng con người. Câu thơ
phủ định bằng điệp từ "không" liên tiếp: "không một chuyến đò ngang", "không cầu
gợi chút niềm thân mật" và chỉ có một màu vàng của bãi tiếp nối với màu xanh của
bờ vô tận. Cái buồn và cô đom của một tâm trạng được diễn tả trong một không
gian "mênh mông" và "lặng lẽ'. Khổ thơ cuối nói về khoảnh khắc hoàng hôn. Hoàng
hôn trong thơ cổ thường gắn liền với tình quê, cố hương
"Dừng chân đứng lại: trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta". (Qua Đèo Ngang)
Thôi Hiệu, nhà thơ lỗi lạc đời Đường, đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng phủ
mờ trên sông buổi hoàng hôn mà lòng thổn thức:
"Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?". (Tản Đà dịch)
Huy Cận lựa chọn một số thi liệu đầy chất thơ để diễn tả một tình quê vơi đầy: một
cánh chim chiều, lớp lớp núi mây bạc. Không có khói sóng mà vẫn thương nhớ quê nhà da diết:
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".
Câu thơ nên họa, đầy hình tượng và dạt dào cảm xúc. Hồn thơ Đường như thấm vào
câu chữ. Ai đã từng xa quê, trong khoảnh khắc hoàng hôn mới thấy hết cái hay (đẹp
mà buồn) trong những bài thơ nói về tình quê, lòng quê. "Nay hoàng hôn đã lại mai
hôn hoàng" (Truyện Kiều),..: "Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ - Lấy ai mà kể
nỗi hàn ôn" (Chiều hôm nhớ nhà). - Từ cảm nhận ấy, ta như bâng khuâng nhập hồn
mình vào "Tràng giang", lặng lẽ trầm ngâm nhìn theo "vời con nước" mà "nhớ nhà", nhớ quê hương.
Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn "dợn dợn", vẫn "nhớ nhà". Rõ
ràng tình quê trong Huy Cận cháy bỏng và da diết vô cùng. Đúng là thơ đích thực
nâng đỡ lòng người, khơi dậy những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn
người để vươn tới cái cao cả. Đọc "Tràng giang" ta cảm nhận sâu thêm chân lí ấy.
"Tràng giang" là một trong những bài thơ hay nhất của Huy Cận trong tập "Lửa
thiêng", ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất
ngôn với bốn khổ thơ, như một bức hoạ tứ bình tuyệt tác. Một nỗi buồn thấm thía
được diễn tả lớp lớp tầng tầng qua những vần thơ mĩ lệ, hàm súc.
"Tràng giang" là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng người
mới có "Đất nở hoa" và những "Bài thơ cuộc đời" đằm thắm, nồng hậu... sau này.
Đọc "Tràng giang" để ta thêm yêu thêm nhớ đất trời sông núi quê hương.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 12
Trước Cách mạng tháng Tám, thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm
nỗi buồn - nỗi buồn tiêu biểu cho cả một thế hệ Thơ mới. Bài thơ Tràng giang (1939
- trích từ tập Lửa thiêng) thể hiện cái tôi buồn miên man của nhà thơ trước cảnh trời
rộng, sông dài; nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Bài thơ
còn thể hiện tình yêu đất nước thầm kín của nhà thơ
Tràng giang nghĩa là sông dài, từ tràng cũng đọc là trường. Nhưng từ tràng giang
với âm hưởng mênh mang của nó, gợi cảnh bao la, bát ngát hơn (tràng giang đại
hải). Tác giả dùng từ Hán - Việt đã tạo ra vẻ cổ kính, vĩnh viễn của dòng sông. Mở
đầu bài thơ là cảnh sông nước:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng gợn lô nhô gối
nhau tới chân trời tạo cảm giác êm ả trong không gian quạnh vắng như chứa đựng
sẵn nỗi buồn: buồn điệp điệp. Nỗi buồn lớp lớp nối nhau tỏa theo con nước đi về
trăm ngả: sầu trăm ngả. Cảnh tràng giang trong bài thơ mang một màu cổ kính;
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán.
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ. (Thuyền đi)
Hình ảnh bổ sung cho con thuyền là cành củi khô chìm nổi lênh đênh giữa cảnh bát
ngát của dòng sông: Củi một cành khô lạc mấy dòng. Từ rừng thẳm, cành củi qua
bao sông suối mà trôi về đây, dập dờn giữa chốn sông nước bao la, gợi liên tưởng
đến cảnh đời lạc loài, bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng
bị dòng đời cuốn trôi không biết về đâu.
Khổ thơ gợi tả cảnh với không gian sông nước mênh mông với những đường nét:
song song, điệp điệp, nhưng lại: sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nên không hứa hẹn gì
hội tụ, gặp gỡ mà chia tan, xa rời. Thủ pháp tương phản giữa hình ảnh dòng sông
rộng lớn với cảnh củi khô và chiếc thuyền nhỏ bé, càng làm nổi bật cảnh bát ngát,
vô tận của dòng sông và thân phận lẻ loi, bé nhỏ của con người.
Âm điệu chung cho cả bài thơ, buồn vì thân phận con người cô đơn, lạc loài trong
cuộc đời cũ. Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch thơ khổ đầu nhưng không gian được mở
rộng ra và đẩy lên cao hơn.
Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Cồn nhỏ đơn côi giữa dòng sông, lại thêm ngọn gió đìu hiu làm cho cảnh càng
hoang vu, hiu hắt, chìm khuất. Dòng nước lũ trên thượng nguồn đổ về nhấn chìm
cồn nhỏ giữa sông chỉ còn nhô lên vài ngọn cỏ lưa thưa gợi liên tưởng đến những
thân phận bị dòng đời nhấn chìm xô dạt.
Không gian mở rộng sang bên bờ: cảnh chợ chiều đã vãn càng tô đậm cái vắng vẻ,
xa lìa.. Cảnh chợ chiều có gợi đến cuộc sống, quê nhà nhưng chỉ là âm thanh xao
xác rồi mất hút dần trong cảnh mênh mang vắng lặng của dòng sông. Dòng sông và.
nhà thơ như bị tách ra khỏi cuộc đời nên đứng trong cảnh ấy lòng người càng thêm
thương nhớ cuộc sống quê hương.
Bầu trời hiện ra cũng làm tăng thêm vẻ lạc lõng: Nắng xuống trời lên sâu chót vót.
Câu thơ giàu hình tượng, gợi tả không gian có hình khối đường nét và màu sắc:
từng vạt nắng trên cao rơi xuống tạo nên khoảng không sâu thẳm trên bầu trời, độ
sâu của bầu trời như ở ngọn cót vót. Cách dùng từ sâu gợi không gian bầu trời như
mở rộng và đẩy lên cao hơn, sâu hơn, tạo ra không gian thăm thẳm, khôn cùng vô
biên của vũ trụ và nỗi buồn của nhà thơ dường như vô tận, mênh mông:
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Dòng sông, bến bãi, đến bầu trời đều rời rạc và được khỏa lấp nỗi buồn của nhà thơ,
buồn vì thiếu vắng cuộc sống nên mong tìm về với cuộc sống. Nhưng cảnh càng
xuất hiện càng lạc lõng, hờ hững:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu một chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Các sự vật được bên nhau: bèo dạt nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng tạo ra một
thế giới không liên hệ, chia lìa. Trong khung cảnh ấy hồn thơ muốn tìm đến dấu vết
của cuộc sống nhưng tất cả đều mênh mông xa vắng được nhấn mạnh bởi hai lần phủ định:
Mênh mông không một chuyển dò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Không một con đò, không một chiếc cầu tri âm, không có bóng người hay cái gì gợi
đến tình người để mà gặp gỡ giao tiếp. Chỉ có mặt nước mênh mông vắng lặng.
Tới ngã ba sóng nước bốn bề,
Nửa chiều gà lạ gáy bên đê (Em về nhà)
Trong cảnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì sự thiếu vắng cuộc sống. Nhà thơ
đứng ngay giữa quê hương mình mà cảm thấy bơ vơ, trơ trọi nên càng khao khát
gắn bó với con người, cuộc sống, với quê hương:
Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm (Đảo)
Bài thơ khép lại với cảnh hoàng hôn kì vĩ nơi chân trời xa:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khung cảnh mở ra với hình ảnh núi bạc được kết tạo bằng mây trắng lấp lánh ánh
nắng trời. Tác giả bình: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông
trắng nở ra trên trời cao. Ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp”. Một vẻ đẹp kì
thú, ngời sáng, hùng vĩ.
Hình ảnh này gợi nhớ đến một ý thơ dịch từ thơ Đường: “Mặt đất mây đùn cửa ải
xa” (Đỗ Phủ) nhưng lại có vẻ đẹp rạng rỡ hơn. Một cánh chim chiều xuất hiện làm
cho bức tranh thêm sinh động, thơ mộng, đẹp đẽ nhưng nhỏ bé, mông lung. Cánh
chim nhỏ như bị nắng chiều đè xuống, chỉ nghiêng cánh lá bóng chiều đổ xuống làm
cho không gian như có hình khối, trọng lượng và thiên nhiên có vẻ như trĩu nặng
nỗi buồn của thi nhân. Cảnh mông lung xa vắng ấy càng gợi thêm lòng thương nhớ quê hương:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Con sóng lòng nhớ quê của nhà thơ đã tỏa ra nhập vào con sóng nước. Con nước
cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi sóng nước. Con nước cảm thông đã
mang tình quê mênh mang đi về mọi nẻo. Ý thơ cuối mượn từ tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. (Hoàng Hạc Lâu)
Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, còn Huy Cận không cần khói sóng vẫn nhớ
quê hương. Vì mối tình ấy luôn khắc khoải trong lòng. Đó là nguyên nhân chính của
nỗi buồn trải dài suốt bài thơ. Một con người buồn nhớ quê hương khi đúng ngay
giữa quê hương mình càng thấy bơ vơ tội nghiệp làm sao! Bài thơ kết thúc là cảnh
hoàng hôn trên sông nước và mở ra một tình quê bát ngát.
Tóm lại, nỗi buồn sông nước, trời mây trong Tràng giang của Huy Cận cũng là nỗi
đau cuộc đời, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ gởi gắm vào đó một tấm lòng tha thiết yêu
quê hương đất nước, sự nâng niu đối với tiếng Việt. Vì vậy, Xuân Diệu đánh giá:
“Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng
yêu giang san, Tổ quốc”.
Bài thơ thể hiện cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn
toát ra từ cái đẹp của thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ không phải cái
buồn vì cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị
cổ điển ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở
không gian sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 13
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ông
có một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lí. Thơ Huy
Cận mang một nỗi buồn sâu lắng, miên man, ảo não và thảm đạm; nỗi buồn của
"đêm mưa", của "người lữ thứ", nỗi buồn của "quán chật đèo cao", của "trời rộng
sông dài". Tràng Giang là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác vào năm
1939, đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó in vào tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ
mang phong vị Đường thi khá rõ. Đây là bài thơ được cảnh sông nước mênh mông
của sông Hồng gợi tứ. Huy Cận đã có lần tâm sự: Tôi có thú vui thường chiều chủ
nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh
sông nước đẹp, gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ so sông
Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương".
Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" khái quát chủ đề của cả bài thơ là
một nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa đất trời mênh mông, rộng lớn
và bao la. Bài thơ toát lên vẻ đẹp vừa hiện đại, vừa cổ điển, cũng là một nét đặc
trưng trong thơ của Huy Cận.
Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước, khổ thơ đầu làm người đọc liên tưởng đến con
sông thăm thẳm chứa đựng biết bao nỗi buồn miên man
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Với
một loạt những từ ngữ gợi nỗi buồn thê lương "buồn", "sầu trăm ngả", "lạc mấy
dòng" kết hợp với từ láy "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc
thái của thơ Đường thi dường như đã lột tả được hết thần thái và nỗi buồn vô biên,
vô tận của nhà thơ. Trên dòng sông gợi sóng ấy là hình ảnh một "con thuyền xuôi
mái", lững lờ trôi thể hiện trong tĩnh có động nhưng sao người đọc vẫn cảm thấy vẻ
lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng mênh
mang, vô tận biết bao. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận và lòng người cũng
đầy ắp những nỗi buồn khó tả. Hình ảnh "thuyền", "nước" vốn đi liền với nhau, thế
mà Huy Cận lại để chúng xa cách nhau "thuyền về nước lại" sao nghe mà xót xa thế.
Chính vì thế mà gợi lên trong lòng người một nỗi "sầu trăm ngả". Lượng từ "trăm"
kết hợp cùng chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ một nỗi buồn dài vô tận, không có điểm dừng.
Nỗi buồn ấy được trút hết vào câu thơ cuối "củi một cành khô lạc mấy dòng", Huy
Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện sự cô đơn,
lạc lõng trước cảnh sắc bao la, rộng lớn. "Một" gợi lên sự cô đơn, đơn chiếc, "cành
khô: gợi lên sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, còn lại thân xác trơ trụi, khô héo,
"lạc"mang nỗi sầu vô đinh, trôi nổi, không có định hướng trên "mấy dòng" là thể
hiện sự chảy trôi một cách hư vô. Hình ảnh cành củi khô cứ trôi mãi trong vô định
khiến người đọc cảm thấy trống vắng, cô đơn đến lạ, thể hiện một kiếp người long
đong, đang trôi dạt giữa cuộc sống bộn bề chật chội.
Đến khổ thơ thứ hai dường như muốn đẩy nỗi hiu quạnh tăng lên gấp bội.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cảnh đìu hiu, buồn man mác của một làng
quê nghèo, thiếu sức sống. Hình ảnh "cồn nhỏ" với tiếng gió thổi "đìu hiu" như phủ
lên mình một nỗi buồn mặc định đến da diết. Đến nỗi nhà thơ phải đặt một câu hỏi
sao ngay cả tiếng ồn ào của phiên chợ chiều cũng không nghe thấy hay phải chăng
phiên chợ đó cũng buồn hiu quạnh như ở nơi đây. Từ "đâu" cất lên thật thê lương,
không điểm tựa để bấu víu. "Sông dài, trời rộng, bến cô liêu", khung cảnh hiện lên
qua câu thơ của Huy Cận sao mà hoang sơ, tiêu điều thế, nơi bến nước không có
một bóng người qua lại, không có một tiếng động của cỏ cây hay tiếng thở của con
người xung quanh chỉ có đất trời dài rộng, cô đơn lẻ loi một mình. Hai câu thơ cuối
tác giả đã mượn "trời", "sông" để tả cái mênh mang vô định của đất trời, của lòng
người. Nhà thơ không dùng trời "cao" mà lại dùng trời "sâu" để đo chiều sâu thực
sự là nét tinh tế, độc đáo trong thơ Huy cận. Câu cuối đoạn như nói hết, lột tả hết
nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai, nhà thơ đã phải nói thẳng sự "cô liêu".
Sang khổ thơ thứ ba, tác giải muốn tìm sự ấm áp của đất trời mênh mông nhưng
dường như cảnh sắc thiên nhiên lại không như lòng người mong đợi
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Đọc khổ thơ thứ 3, người đọc cảm nhận một sự chuyển biến, vận động của thiên
nhiên, không còn buồn rầu, u mê như những khổ thơ đầu và khổ thơ thứ 2. Từ “dạt”
đã diễn tả tinh tế sự chuyển biến của vạn vật thiên nhiên Tuy nhiên nó lại được gắn
liền với hình ảnh “bèo” mà “bèo” thì vốn vô định, trôi nổi khắp nơi, không có nơi
bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao
nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không có một chuyến đò. Tác giả chỉ đợi chờ
một chuyến đò để thấy được rằng sự sống đang tồn tại nhưng dường như điều này là không thể.
Đến khổ thơ cuối cùng, những cảm xúc, bút pháp của tác giả được đẩy lên đỉnh
điểm, nét vẽ chấm phá dùng rất đắc điệu
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Nét chấm phá trong hình ảnh “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường
càng khắc sâu sự cô đơn, buồn phiền. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng
chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn
thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được
trời chiều đang dần buông xuống. Mây ở đây chất chồng lên nhau, ánh lên trong
nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một
cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng
vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa dất trời bao la, như
tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa cuộc đời chông chênh vậy.
Sang hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà nhớ, nhớ quê được tác giả bộc lộ
một cách rõ ràng, tất cả những tình ảm ấy nhà thơ chẳng biết gửi vào đâu mà chỉ
biết chất chứa đong đầy trong trái tim mình. Hai từ "dờn dợn" gợi nỗi nhớ trào dâng
của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một chiều khi hoàng hôn buông
xuống. Câu thơ muốn nói lên nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ khi đứng trước
sông nước rợn ngợp. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố ngoại
cảnh nào tác động trực tiếp nhưng cảnh vật vẫn gợi trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ
quê cha đất tổ. Câu thơ cuối như bộc lộ tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ muốn gửi
gắm xuyên suốt bài thơ. Lúc nào trong lòng Huy Cận cũng mang một cái tình quê
sâu đậm, một nỗi nhớ quê da diết khôn nguôi.
Tràng giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Bài thơ
“Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên
một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Qua đó khắc họa được tâm trạng cô
liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương
chân thành, sâu sắc của Huy Cận. Dưới hình thức một bài thơ mang đậm phong
cách thơ Đường thi, kết cấu mạch lạc và cái tài sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của tác
giả, bài thơ hiện lên như một bản hòa ca mà ở đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên
khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết :Tràng giang là một
bài thơ ca non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc".
Bài thơ "tràng giang" là bài thơ đặc sắc trong cuộc đời thơ ca của Huy Cận. Bài thơ
là sự kết hợp bút pháp hiện thực đan xen bút pháp cổ điển đã khắc họa một bức
tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh, qua đó bộc lộ tâm trạng cô liêu, đơn độc của
con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu
sắc của nhà thơ. Bài thơ "tràng giang" của Huy Cận đã để lại rất nhiều tình cảm, ấn
tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 14
Hoài Thanh đã có một nhận định về các nhà thơ mới năm 1930: “Ta thoát lên tiên
cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép,
tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở
về hồn ta cùng Huy Cận”. Mỗi nhà thơ đều có một phong cách riêng làm nên nét
độc đáo riêng của mình. Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc với lời thơ đượm buồn
một nỗi sầu nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ đắc sắc và thể hiện rõ
nỗi sầu nhân thế của Huy Cận lúc bấy giờ.
Huy Cận là một trong số những nhà thơ mới trong giai đoạn 1930- 1945. Nếu như
Xuân Diệu say đắm trong trường tình thì Huy Cận lại chìm đắm trong nỗi sầu của
nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ tiêu biểu và đặc sắc nhất được trích
trong tập “Lửa thiêng” (1940). Huy Cận sáng tác bài thơ khi đang đứng ở bờ Nam
bến Chèm của sông Hồng, nhìn ngắm cảnh thiên thiên sông nước suy ngẫm về cuộc
đời mình mà “tức cảnh sinh tình”. Bài thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp thiên nhiên cũng
như nỗi buồn nhân thế của tác giả.
Ngay từ đầu bài thơ Huy Cận đã đưa chúng ta đến với một nét đẹp cổ điển mà ít ai
có, chỉ khi đến với Hay Cận chúng ta mới cảm nhận được. Đó là cách đặt tên nhan
đề bài thơ, “Tràng Giang” là sông lớn, sông dài. Nhưng tại sao ở đây tác giả không
dùng “Trường Giang” mà lại là “Tràng Giang”? “Tràng Giang” điệp vần “ang” tạo
nên một âm thanh vang xa, đồng thời cũng thể hiện một nỗi buồn trải dài xuyên suốt
cả bài thơ. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” lời đề từ cũng đã mở rộng ra trước
mắt chúng ta một không gian rộng lớn “trời rộng, sông dài”, một nỗi buồn da diết “bâng khuâng”.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Đến với khổ thơ thứ nhất, chúng ta bắt gặp được những hình ảnh mang tính cổ điển,
chỉ có ở trong thơ cổ mới có: “trường giang”, “con thuyền”, “củi một cành
khô”…Mở ra cho chúng ta một không gian rộng lớn, “điệp điệp” gợi ra không gian
theo chiều rộng, “song song” gợi mở không gian theo chiều dài. Một không gian
bao la rộng lớn, nhưng cũng tĩnh lặng lạ thường. Bao chum lên cảnh vật là một nỗi
buồn “điệp điệp” một nỗi buồn trải dài khiến hình ảnh con thuyền cũng tĩnh lặng
giữa dòng nước “song song”. “Thuyền” và “nước” là hai hình ảnh quen thuộc trong
thơ, ngoài đời thực chúng cũng là hai sự vật luôn đi liền với nhau không thể rời
nhau, Vậy mà ở đây tác giả lại cho ta thấy một sự chia ly giữa thuyền và nước:
“thuyền về” còn “nước lại” gọi sự chia ly, sự xa cách hững hờ. Tâm trạng của thi
nhân được bộc lộ rõ nét nhất qua câu thơ cuối cùng: “Củi một cành khô lạc mấy
dòng” . “Củi” là một hình ảnh nhỏ bé, mong manh vậy mà lại lênh đênh vô định
giữa một không gian rộng lớn của sông nước không biết sẽ trôi dạt về đâu. “Củi” đã
bé nay lại càng nhỏ bé hơn khi kết hợp với số từ “một” tác giả như muốn nhấn
mạnh thân phận bé nhỏ của chính bản thân mình trôi nổi mênh mông giữa dòng đời.
Một nỗi buồn cô đơn về thời thế.
Nỗi buồn của thi nhân càng được tăng thêm, càng được đẩy đến đỉnh điểm khi đến với khổ thơ thứ hai:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu”.
Bức tranh thiên nhiên sông nước ấy có phần tăng thêm sức sồng khi có thêm những
“cồn nhỏ”. Những gò đất nổi lên giữa lòng sông ấy lại chỉ “lơ thơ” thưa thớt gợi lên
một sự đơn sơ, hoang vắng, “đìu hiu” cô quạnh khi những làn gió thổi qua. Những
cơn gió không ồn ào mà chỉ “đìu hiu” làm cho nỗi buồn của thi nhân như được nhân
lên khi đứng trước một không gian tiêu điều.
Chợt có đâu đây có tiếng “chợ chiều”. “Chợ” là nơi mà khi đến đó ta biết được cuộc
sống nơi đây có ấm no sầm uất hay không. “Đâu” gợi cho chúng ta cảm giác mơ hồ
không biết có phải là có âm thanh đó hay không, tác giả cũng chỉ nghe thấy cảm
nhận thấy chứ không được nhìn thấy. Âm thanh ấy cũng mờ mờ ảo ảo, vừa thực mà
vừa hư. Tưởng chừng như âm thanh xuất hiện làm con người thêm vui nhưng chính
nó lại khiến tác giả thêm cô đơn, lẻ lõi trên chính mảnh đất quê hương mình.
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Nỗi sầu không chỉ nhuốm màu vào không gian mà còn trải dài theo thời gian bất tận.
Không gian được mở ra theo nhiều chiều vừa cao, vừa sâu, vừa rộng…”Nắng
xuống” và “trời lên” tạo nên một sự ngăn cách, chia li theo hai chiều đối nghịch
“lên” và “xuống”. Đây là cảm nhận mà chỉ khi đến với con người hiện đại chúng ta
mới thấy mới cảm nhận được. Không gian không chỉ được mở rộng theo chiều rộng,
chiều cao mà còn theo chiều sâu. Nắng càng xuống thấp, trời càng trở nên cao hơn
ngả bóng xuống lòng sông sâu “chót vót”. Tác giả đã sử dụng từ rất đặc biệt, không
phải cao “chót vót” mà là “sâu chót vót” vừa tả được độ cao cũng vừa cảm nhận
được độ cao ấy. Con người trở nên bó nhỏ cô đơn trước vũ trụ bao la vô tận…
“Sông dài, trời rộng” cảnh vật càng rộng lớn, kì vĩ bao nhiêu thì con người càng bé
nhỏ bấy nhiêu với hình ảnh “bến cô liêu”- bến đã nhỏ lại còn hiu quạnh. Con người
cảm thấy bé nhỏ hơn bao giờ hết.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Đến đây, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh những cánh bèo
gợi sự tan tác chia ly, những cánh bèo trôi “hàng nối hàng” vô định không biết trôi
dạt về nơi đâu. Đây cũng chính là số phận của những kiếp người nhỏ bé, cô đơn với
một cuộc sống bấp bênh. Giữa không gian “mênh mông” rộng lớn, thi nhân cố kiếm
tìm một niềm vui nhưng “không một chuyến đò ngang” không có hình bóng cuộc
sống của con người. “Không cầu gợi chút niềm thân mật” không có được sự chia sẻ
của tình người, tình đời. Điệp từ “không” như càng làm tăng thêm sự buồn bã cô
đơn, chỉ có “bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ có một mình thi nhân với thiên nhiên quạnh
hiu.Một lần nữa không gian lại được đẩy đến sự tận cùng của sự hoang vắng, cô liêu.
Thi nhân mở rộng thêm tầm nhìn của mình, không còn không gian ở tầm thấp nữa
mà được nhìn với tầm cao, tầm xa:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều xa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Chỉ với bốn câu thơ cuối, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh đậm
chất cổ điển với hình ảnh phía xa có hòn núi, những đám mây bay là đà “lớp lớp”.
Không phải là một đàn chim mà chỉ duy nhất có một cánh chim lạc đàn nhỏ bé đơn
côi “nghiêng cánh nhỏ” dưới “bóng chiều sa”. Cánh chim ấy cô đơn, lạc lõng, nỗi
buồn như càng đè nặng lên đôi cánh giữa bầu trời rộng thênh thanh. Nhiên nhiên ở
khổ thơ được vẽ ra là một thiên nhiên hung vĩ, tráng lệ không giống với thiên nhiên
ở các khổ trước hiu quạnh, vắng lặng.
“Lòng quê dợn dợn vờn con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
“Lòng quê” hay chính là tình yêu thiên nhiên đất nước mà nhà thơ muốn gửi gắm,
nó cuộn trào lên “dợn dợn” như sóng nước mênh mông. Tình yêu quê hương bất tận,
choáng ngợp như chính con sông “Trường Giang” vậy. “Không khói hoàng hôn
cũng nhớ nhớ”, những người con xa quê hương chỉ cần một hình ảnh nhỏ thôi cũng
làm họ gợi nhớ đến quê hương mình. Bóng chiều đã ngả đây là lúc con người ta
nhiều tâm trạng nhiều cảm xúc nhất, nếu như Thôi Hiệu nhìn thấy khói hoàng hôn
thì nhớ nhà “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói song cho buồn lòng
ai” thì đến với Huy Cận ông không cần nhìn thấy “khói hoàng hôn” nhưng vẫn nhớ
tới nhà da diết. Đây là sự sáng tạo độc đáo của Huy Cận trong thơ mới.
Bài thơ “Tràng Giang” đã vẽ trước mắt ta những một bức tranh hùng vĩ, với cách
nhìn độc đáo vừa gần vừa xa, vừa cao vừa sâu, nhưng bao chùm không gian ấy là
một nỗi buồn. Đó không chỉ là nỗi buồn cô đơn lẻ loi của chính tác giả mà còn là
nỗi buồn của một thế hệ khi phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Bức tranh mà
Huy Cận tạo nên với những hình ảnh gần gũi như sông nước bến thuyền vừa mang
một vẻ đẹp vừa cổ kính vừa hiện đại. Điều đó đã tô đậm thêm sự độc đáo trong thơ của Huy Cận.
Phân tích bài Tràng Giang mẫu 15
Nếu như Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian, thì Huy Cận là nhà thơ của
nỗi ám ảnh không gian, Huy Cận đã lượm lặt những chút buồn rơi rải rác để góp
nhặt nên những vần thơ âu sầu ảo não, mà Tràng Giang dường như là tiếng thơ tha
thiết nhất của cái tôi Huy Cận mang nỗi sầu thiên cổ.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Ngay từ những nốt nhạc đầu tiên, nỗi buồn điệp điệp đã cất lên đầy khắc khoải, da
diết và ám ảnh trước cái rộng lớn mênh mông của sông nước bao la. Ở câu thơ mở
đầu, ngay cách dùng từ Hán Việt “Tràng giang”, đã tạo cho người đọc cảm giác về
cái sầu thiên cổ miên man trong thơ Huy Cận, khi ta nhận ra câu thơ phảng phất
nhạc điệu và tứ thơ của Đỗ Phủ:
“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai”
Đó là nỗi buồn của thân phận cái tôi thơ Mới cô đơn, bế tắc, bơ vỡ. “Củi
một cành khô lạc mấy dòng”. Một câu thơ ngắn, nhưng dồn nén bao nhiêu sức nặng
và sức gợi, những khoảng vô ngôn mà rất đỗi dư tình. Vừa gợi sự cô đơn thăm thẳm,
vừa gợi sự tàn tạ, héo úa, vừa mang cảm giác về sự vô định, bế tắc giữa nhiễu
nhương thời cuộc. Đó có lẽ không chỉ là tâm trạng của riêng Huy Cận, mà còn là
tâm trạng của nhiều cái tôi thơ Mới khác, khi Xuân Diệu cũng từng viết:
“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”.
Đồng thời, cái mới của Huy Cận trong câu thơ cuối này, là ông đã sử dụng
chất liệu thô của sự sống, không phải là những điển cố điển tích sang trọng trong
văn học cổ điển, ông đưa cuộc sống, sự bộn bề và thô mộc của cuộc sống vào trong
thơ một cách thật tự nhiên.
Tiếp nối mạch cảm xúc trong khổ thơ đầu, khổ thơ thứ hai tiếp tục mở ra
một không gian đìu hiu hơn, nhưng không phải của sông nước mà là của sự sống:
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Đặc biệt hai câu thơ: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài trời rộng
bến cô liêu”. Sâu chót vót là một sự sáng tạo tài hoa của Huy Cận, nó vừa gợi độ
sâu, lại vừa như mở ra không gian mênh mông cao thăm thẳm vời vợi, cặp tiểu đối
“lên/ xuống” làm cho câu thơ tạo cảm giác dồn nén, ứ đọng, bế tắc ngột ngạt trước
không gian vời vợi, vì thế càng làm hiệu quả diễn đạt được gia tăng.
Sự sống heo hắt, cảnh vật cô liêu, tiêu điều, không gian sầu mộng mênh
mông, nên một chút niềm thân mật, một chút gắn kết cũng không có:
“Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Hình ảnh cây cầu bao giờ cũng gợi sự kết nối, và là phương tiện để kết nối,
nhưng ở đây, không cầu để gợi chút niềm thân mật cũng chẳng còn, đó phải chăng
chính là sự mất kết nối có tính phổ quát, điều tạo nên cảm giác buồn mênh mông vô
hạn trong Tràng Giang của Huy Cận mà chính Trần Đình Sử đã từng nhận định.
Đến khổ thơ cuối, toàn bộ hồn thơ sầu mộng không gian của Huy Cận như
càng trở nên thấm thía, da diết hơn bao giờ hết:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc’
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Hình ảnh núi bạc, cánh chim sa vào buổi hoàng hôn, tự nó đã nhuốm màu
buồn. Câu thơ phảng phất hương vị thơ cổ của Thôi Hiệu:
“Nhật mộ hương quan hà xứ nhị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.
Để cũng từ đó, có thể thấy cái hồn thơ Đường đã tấm khá sâu vào thơ Huy
Cận. Nhưng Huy Cận tập cổ mà không nệ cổ, xưa Thôi Hiệu buồn vì cõi tiên mờ
mịt quê nhà xa cách, khói sóng trên sông gợi nhớ đến cảnh mờ mịt mà sầu. Nay
Huy Cận buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn Tràng Giang khiến ông nhớ
đến quê hương như một nguồn an ủi ấm áp. Nên có thể thấy rõ ở đây, là tấm lòng
Huy Cận với quê hương xứ sở, cái tôi cô đơn bơ vơ, bế tắc khi đứng trên quê hương
mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương.
Tràng Giang là một bản nhạc buồn, cái buồn thấm thía vào từng thớ vỏ thơ, len lỏi
đằm sâu mãi vào trong tâm hồn người đọc. Đó có lẽ cũng là nỗi buồn của cái tôi thế
hệ thơ Mới, đồng thời cũng là cái tôi của đứa con dân tộc trong thời buổi loạn lạc,
bế tắc mượn dòng thơ để gửi tiếng lòng khát khao được đồng vọng.