-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Top 30 Vấn đề ôn tập môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội
Top 30 Vấn đề ôn tập môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác- Lênin (HK01) 56 tài liệu
Đại học Mở Hà Nội 405 tài liệu
Top 30 Vấn đề ôn tập môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội
Top 30 Vấn đề ôn tập môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác- Lênin (HK01) 56 tài liệu
Trường: Đại học Mở Hà Nội 405 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Mở Hà Nội
Preview text:
Vấn đề 1: Trình bày nội dung vấn đề cơ bản của triết học.
Tại sao nói đây là vấn đề cơ bản của triết học?
I.Khái niệm triết học
Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí
của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy
luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó
giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự
phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.
II. Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ của tư duy với tồn tại, của ý thức đối
với vật chất. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn
đề khác của triết học.
Đối với các hệ thống triết học, vấn đề cơ bản của triết học không chỉ được thể hiện trong các quan niệm
có tính chất bản thể luận, mà còn được thể hiện trong các quan niệm chính trị-xã hội, đạo đức và tôn giáo,
tất nhiên có thể là nhất quán hoặc không nhất quán.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên suốt lịch sử phát triển của tư tưởng
triết học và thể hiện tính đảng trong triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt, tương ứng là hai câu hỏi lớn:
-Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi: giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
-Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
III. Tại sao nói đây là vấn đề cơ bản của triết học
Một dân tộc muốn đứng ở đỉnh cao khoa học thì không thể thiếu tư duy triết học. Triết học giúp
cho xã hội con người phát triển, mà để phát triển thì bắt buộc phải có sự cạnh tranh. Sự cạnh tranh của
hai trường phái triến học giúp cho triết học phát triển từ đó kéo theo xã hội con người phát triển. Nên
ta có thể nói nội dung cơ bản của triết học là sự cạnh tranh của hai trường phái Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm
Vấn đề 2: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng về vật chất. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận?
I,Khái niệm về vật chất
1,Trước Mác-Lenin
-Phương Đông:các nhà duy vật cổ đại quy vật chất về 1 hay vài dạng cụ thể và xem chúng là khởi nguyên của thế giới
. Ấn Độ:đất,nước,lửa,gió
.Trung Quốc:kim, mộc ,thủy,hỏa,thổ
.Phương Tây:nước,lửa,vật chất là nguyên tử
2,Thời kì Mác Lê Nin
-Vật chất là 1 phạm trù triết học dung để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm
giác,được cảm giác của chúng ta chép lại,chụp lại,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
-Nội dung định nghĩa vật chất :
.Thứ nhất :vật chất là thực tại khách quan cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức
.Thứ hai:vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác
.Thứ ba:vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó II. Nội dung
1.Phương thức tồn tại của vật chất
- Phương thức tồn tại của vật chất là cách thức tồn tại và hình thức tồn tại của vật chất
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Vật chất tồn tại phải bằng cách vận động
Thông qua vận động biểu hiện sự tồn tại của mình
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
Vận động của vật chất là vận động tự thân
Vận động gắn liền với vật chất
Vật chất không tự sinh ra , không tự mất đi , vì vậy vận động cũng không tự nhiên sinh ra và tự mất đi ,
nó tồn tại vĩnh viễn vô tận vô hạn
Những hình thức vận động cơ bản của vật chất -Vận động cơ học -Vận động hóa học Vận động vật lí -Vận động sinh học -Vận đọng đứng im
-Đứng im là trạng thái ổn định về vật chất hiện tượng .Là hình thức biểu hiện sự vậy hiện
tượng .Là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của sự vật hiện tượng .Là biểu hiện cho sự vận
động chuyển hóa của vật chất
-Đứng im là trạng thái ổn định về vật chất của sự vật hiện tượng. Là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự
của sự vật hiện tượng. Là biểu hiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất
2.Không gian và thời gian
-Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất vận động
-Là hai thuộc tính , hai hình thức tồn tại khác nhau của vật chất vận động nhưng chúng không tách rời nhau
3.Tính thống nhất vật chất của thế giới
Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới
Thế giới thống nhất ở tính vật chất
Chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất
Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất vói nhau
Thế giới vật chất không do ai sinh ra , cũng không tự mất đi , tồn tại vĩnh viễn , vô hạn , vô tận
III. Ý nghĩa phương pháp luận
- Đã giải quyết 2 mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng
- Cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm
- Đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc khách quan , xuất phát từ hiện thực khách quan , tôn trọng khách quan
- Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội
- Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội
Vấn đề 3: Tại sao nói vận động là phương thức tồn tại của vật chất,
là thuộc tính cố hữu của vật chất? Cho ví dụ. I.Khái niệm vận động
-Quan niệm siêu hình về vận động : Chỉ là vận động cơ học, vận động là sự di chuyển các vật thể
Nguồn gốc của vận động là nằm ở bên ngoài
- Vận động theo nghĩa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Anghen viết: "Vận động hiểu theo nghĩa
chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản
cho đến tư duy.Như vậy bản chất của vận động là
.Phương thức tồn tại của vật chất
.Thuộc tính cố hữu của vật chất
II, Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
- Mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động. Bằng sự vận động và thông qua sự vận động mà các sự vật,
hiện tượng tồn tại và thể hiện đặc tính của mình. Không thể có vật chất mà không có vận động và ngược lại.
- Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động của vật chất là tự thân vận động; bởi vì tất cả các dạng
vật chất đều là một kết cấu vật chất bao gồm các yếu tố, các mặt, các quá trình liên hệ, tác động qua lại
với nhau. Chính sự tác động đó đã dẫn đến sự biến đổi nói chung, tức là vận động. Quan điểm này đối lập
với quan điểm duy tâm, siêu hình về vận động đi tìm nguồn gốc của vận động ở thần linh hoặc ở chủ thể nhận thức.
-Vận động là hình thức tồn tại của vật chất nên các dạng vật chất được nhận thức thông qua sự vận động của chúng.
-Vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất nên nó không do ai sáng tạo ra và cũng không thể tiêu
diệt được. Nguyên lý này được chứng minh bằng định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng
III.Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
- Vận động tồn tại cùng với sự tồn tại của vật chất và chỉ khi nào vật chất mất đi thì vận động mới mất đi.
Mà vật chất không mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác, do đó vận động cũng không mất đi.
Định luật bảo toàn năng lượng đã chứng minh điều đó. Vật chất là tự thân vận động. Nguồn gốc của vận
động là quá trình giải quyết mâu thuẫn vận động. (*) Giải thích
- Vật chất có kết cấu, các thành phần liên kết với nhau, ràng buộc với nhau, tạo thành quá trình vận động.
Tuy nhiên do có các yếu tố cấu thành bên trong sự vật, mà có những hiện tượng thúc đẩy, phát triển cùng
nhau, đồng thời cũng có những mặt đối lập. Ví dụ ngay trong cơ thể con người có quá trình đồng hóa và
dị hóa. Vì vậy giải quyết mâu thuẫn là làm cho sự vật vận động và phát triển.
- Vận động là vận động của vật chất và vận động là tuyệt đối. Như vậy là ý thức không phải là không vận
động, mà ý thức chỉ là một sản phẩm của thế giới vật chất, sự vận động của ý thức phụ thuộc vào sự vận
động của thế giới vật chất.
(*) Các hình thức vận động
- . Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)
-Vận động vật lí (vận động của các phần tử ,các hạt cơ bản ,vận động của điện tử ,các quá trình nhiệt điện,..)
- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất
- Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường)
- Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội)
(*)Quan hệ giữa 5 hình thức vận động của vật chất
- Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất, từ vận động cơ học đến vận động xã hội là sự khác
nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này là sự tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất
- Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả
các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi đó các hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm
các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Bởi vậy, mọi sự quy giản các hình thức vận động thấp đều là sai lầm
- Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật đều có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Tuy
nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Ví
dụ trong cơ thể sinh vật có các hình thức vận động khác nhau như vận động cơ học, vận động vật lý, vận
động hóa học, vận động sinh học, nhưng hình thức vận động sinh học mới là hình thức vận động cơ bản
của sinh vật. Vận động xã hội là hình thức đặc trưng cho hoạt động của con người.
,Ví dụ: Sự sống chỉ tồn tại khi có trao đổi chất với môi trường hay trái đất chỉ tồn tại khi tự nó quay
quanh trục của nó và xung quanh mặt trời.
Vấn đề 4: Trình bày quan điểm chủ chủ nghĩa duy vật biện chứng
về nguồn gốc, bản chất của ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận.
I,Khái niệm ý thức
- Theo triết học Mác-Lênin: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có
sự cải biến và sáng tạo
II,Nguồn gốc ý thức
1.Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
- Tạo thành bởi 2 yếu tố là bộ óc con người và thế giới khách quan. Trong đó, thế giới khách quan tác
động đến bộ óc con người từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan
Ý thức chính là sự phản ánh của con người về thế giới khách quan.
− Các trình độ phản ánh của thế giới vật chất: •
(Phản ánh sinh học ( Đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh) được thể hiện qua:
Tính kích thích là phản ứng ở thực vật và động vật bậc thấp
Tính cảm ứng: động vật chưa có hệ thần kinh(
((( Phản xạ không điều kiện: động vật có hệ thần kinh
((( Phản ánh tâm lí: động vật bậc cao
((( Phản ánh ý thức: con người •
Phản ánh cơ-lí-hóa (Giới tự nhiên vô sinh) được thể hiện qua những
biến đổi về cơ-lí-hóa khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng
vật chất vô sinh ( thay đổi kết cấu, vị trí, phân giải các chất…)
Mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn.
→ Bộ óc con người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan
tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo đây là nguồn gốc tự nhiên của ý thức
2.Nguồn gốc xã hội của ý thức -Lao động: -Ngôn ngữ:
+Chuyền tải tư duy ,ý thức
+Đỡ lệ thuộc vào các đối tượng vật chất cụ thể giúp tư duy phát triển
III,Bản chất của ý thức
1.Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
-Ý thức là ‘hình ảnh” về hiện thực khách quan trong óc người. Nội dung phản ánh là khách quan.
Hình thức phản ánh là chủ quan
Ý thức là sự phản ánh tích cực sáng tạo gắn với thực tiễn xã hội:
Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản anh
Xây dựng các học thuyết, lí thuyết khoa học
Vận dụng để cải tạo hoạt động thực tiễn
2.Ý thức mang bản chất lịch sử- xã hội dựa trên: -Điều kiện lịch sử -Quan hệ xã hội
IV,Ý nghĩa phương pháp luận
1. Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Cần chống bệnh chủ quan, duy ý chí
2. Do ý thức là phản ánh tự giác ,sáng tạo hiện thực nên cần chống tư tưởng thụ động và chủ
nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn
3. Vì thế ý thức con người cần hình thành trên cơ sở thực tiễn , gắn liền với thực tế đời
sống ,tránh tiếp thu những tư tưởng lệch lạc ,bảo thủ,cố chấp.Hình thành ý thức tích cực tiếp
thu có chọn lọc ,chủ động và ngày càng hoàn thiện .
Vấn đề 5: Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức. Bài học rút ra cho bản thân sau khi nghiên cứu mối quan hệ này.
I,Khái niệm về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
-Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là :”vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,đặc biệt là của
triết học hiện đại”; khi giải quyết mối mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành hai
đường lối cơ bản trong triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
-Trước Mác : Khi lý giải mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, các nhà triết học đã phạm nhiều
sai lầm chủ quan, phiến diện do không hiểu được bản chất thực sự của vật chất và ý thức
-Thời kì của Mác : “Đã chỉ rõ hạn chế của cả chủ nghĩa duy vật trực quan và chủ nghĩa duy
vật”: sự vật, thực tại, cảm tính chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức
trực quan chứ không được nhận thức là hoạt động cảm tính của con người, là thực tiễn, không
được nhận thức về mặt chủ quan.
II. Nội dung về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
-Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ
động mà có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
-Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh lại và
không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
-Đặc điểm của vật chất:
+)Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.
+)Không có vận động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận động;
+)Vật chất vận động trong không gian và thời gian;
+)Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể và là hình
thức tồn tại của vật chất.
-Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Ý
thức mang bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là sự phản ánh tích
cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn.
-Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
+.Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
+,Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
(*) Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn
gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
⁃ Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con
người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là
kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là là sản phẩm của thế giới vật chất.
Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự
nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
⁃ Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới
khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc là
chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất
(bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
(*) Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
⁃ Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội
dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức
biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi
trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ
quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
-Trong mối quan hệ với vật chất có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
-Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con
người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi
hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con
người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi
thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy
con người xác định mục tiêu để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác
động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
-Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực.
Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có
ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng
lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải
tạo – đó là sự tác động tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không
đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động
của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực
đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
-Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức
có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo ý
thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật
chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật
chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản
ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức
của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động
theo định hướng của ý thức
-Ví dụ: Trước khi thực hiện một trận đánh chung ta làm quyết tâm thư thực hiện tự phê bình
và phê bình rút ra các nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực. thực hiện giáo
dục nhận thức thông qua các phong trào thực tiễn
III. Phương pháp luận
1, Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
2, Cần phát huy tính năng động sáng tạo môi trường
3, Nhận thức và hoạt động thực tiễn còn xuất phát từ tính khách quan tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan
4, Giải quyết hài hoà không được tuyệt đối hoá vai trò vật chất IV. Bài học
- Bản thân phải xác định được các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày, vì
vật chất quyết định ý thức nên con người cần phải ý thức được những vật chất của cuộc sống
còn thiếu thốn để có hành động phù hợp với thực tế khách quan
-. Phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động hàng ngày. Kết cấu của ý thức
thì tri thức là quan trọng nhất nên mỗi chúng ta cần chú trọng phát triển tri thức của bản thân.
-Cần phải tiếp thu có chọn lọc kiến thức mới và không chủ quan trong mọi tình huống
- Khi giải thích một hiện tượng cần phải xét có yếu tố vật chất lẫn tinh thần, cả yếu tố khách
quan và điều kiện khách quan.
- Cụ thể hơn: vì vật chất quyết định ý thức vì vậy nhận thức và hoat động của tôi phải xuất
phát từ thế giới khách quan. Hay khi đánh giá một ai tôi cần tiếp xúc và lắng nghe quan điểm nhưngx người xung quanh
Vấn đề 6: Vì sao sự ra đời của triết học Mác-Lênin là một
tất yếu lịch sử và là một cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học?
I,KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC
-Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó, là
khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy
II. Sự ra đời của triết học mác-lênin là một tất yếu lịch sử
- Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử vì nó chính là một sản phẩm lý luận của sự phát triển
lịch sử nhân loại xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX với những điều kiện, tiền đề khách quan của nó.
1.Điều kiện kinh tế xã hội
- Sự củng cố và phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất TBCN trong điều kiện cách mạng công
nghiệp. Vào những năm 30 – 40 thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng cuộc cách mạng công nghiệp, phương thức
sản xuất TBCN đã thực sự đi vào giai đoạn phát triển mới và trở thành lực lượng kinh tế thống trị ở các
nước châu u như Anh, Pháp, Đức.
Phương thức sản xuất TBCN phát triển thể hiện tính hơn hẳn của nó so với phương thức sản xuất phong
đồng thời làm cho những mâu thuẫn xã hội càng ngày càng gay gắt hơn. Xung đột giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản ở các nước này đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt. : Ví dụ:
Anh và Pháp cơ bản đã hoàn thành cách mạng công nghiệp
Đức dù còn là nước quân chủ phong kiến nhưng có bước phát triển vượt bậc về kinh tế
- Trong cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trong các nước tư bản này, biểu
hiện ở phong trào cộng sản những năm 30 – 40 thế kỷ XIX ngày càng phát triển và trở nên chín mùi. Giai
cấp vô sản châu u dần dần trưởng thành và trở thành một lực lượng chính trị – xã hội độc lập trên vũ đài lịch sử.
-Sự ra đời giai cấp vô sản cách mạng và sự phát triển mạnh mẽ phong trào công nhân đã tạo cơ sở xã hội
cho sự ra đời lý luận tiến bộ và cách mạng của C.Mác và Ph.Angghen,. Chính sự ra đời của lý luận này đã
lý giải một cách khoa học về sự xung đột không thể điều hòa giữa tư bản và lao động, về sứ mệnh lịch sử
vĩ đại của giai cấp vô sản cách mạng với sự phát triển và tiến bộ xã hội.Có thể nói, sự ra đời triết học Mác
chính là sự phản ánh, đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi về mặt lý luận của thực tiễn xã hội nói chung, thực tiễn
cách mạng của vô sản ở giai đoạn 30-40 thế kỷ XIX nói riêng
2.Tiền đề lí luận
- Sự ra đời triết học Mác không chỉ là sản phẩm tất yếu của những điều kiện kinh tế – xã hội của xã hội
TBCN giữa thế kỷ XIX mà còn là sản phẩm tất yếu của sự phát triển hợp qui luật của lịch sử tư tưởng
nhân loại. Triết học Mác ra đời là một sự kế thừa biện chứng những học thuyết, lý luận trước kia mà trực
tiếp và rõ nét nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp hồi thế kỷ XIX.
-Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Hêghen và của Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp
của triết học Mác. Đối với triết học của Hêghen, một mặt C.Mác và Ph.Ănghgen phê phán tính chất duy
tâm thần bí trong triết học này, mặt khác hai ông đánh giá rất cao tư tưởng biện chứng của nó. Từ đó,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên triết học mới, trong đó, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
thống nhất hữu cơ với nhau.
- Sự ra đời triết học Mác cũng diễn ra trong sự tác động qua lại với quá trình C.Mác kế thừa, cải tạo các lý
luận về kinh tế và về CNXH. Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu xuất
sắc là A.Xmít và Đ.Ricácđô đã tạo điều kiện cho C.Mác hoàn thành quan niệm duy vật lịch sử cũng như
xây dựng nên học thuyết về kinh tế của mình.
-Việc kế thừa và cải tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như
Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê đã giúp C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng lý luận khoa học của mình về
CNXH. Trên thực tế, sự hình thành và phát triển triết học Mác không tách rời với sự phát triển lý luận về
CNXH của Mác, tức CNXH khoa học.
3. Tiền đề khoa học tự nhiên
- Cùng với những nguồn gốc lý luận trên, sự ra đời triết học Mác còn dựa vào những tiền đề khoa học tự
nhiên. Những thành tựu về khoa học tự nhiên làm bộc lộ rõ tính hạn chế, bất lực của phương pháp tư duy
siêu hình trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học cho sự phát triển tư
duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
-Trong số những thành tựu KHTN thời đó, Ph.Ăngghen nêu bật ý nghĩa của 3 phát minh lớn đối với sự
hình thành triết học duy vật biện chứng: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và
thuyết tiến hóa Đácuyn. Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa
các hình thức vận động của vật chất. Thuyết tế bào chứng minh về sự thống nhất và sự phát triển của sự
sống từ thấp lên cao, từ đơn giản tới phức tạp. Thuyết tiến hóa Đácuyn đã lý giải về tính biện chứng của
sự phát triển phong phú, đa dạng của các giống loài
III. Sự ra đời của triết học mác-lênin là một cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học
-Triết học Mác đã khắc phục được sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử
phát triển của triết học trước đó. Trên cơ sở cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ mang tính siêu hình cũng như
phép biện chứng duy tâm. Triết học C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên một nền triết học mới – triết
học duy vật biện chứng.
-Sự ra đời chủ nghĩa duy vật lịch sử, một bộ phận của triết học Mác chính là thành tựu vĩ đại nhất của tư
tưởng khoa học. Với việc xây dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm
cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để, biểu hiện sự mở rộng học thuyết này từ chỗ nhận thức
giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người.
-Với sự ra đời triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri
thức khoa học đã có sự biến đổi. Nếu như đối với triết học trước kia chủ yếu đóng vai trò giải thích thế
giới thì triết học Mác ra đời không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là công cụ cải tạo thế giới. Triết học
Mác trở thành công cụ nhận thức thế giới và cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng của giai cấp công
nhân và quần chúng lao động. Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, là “vũ khí
lý luận” của giai cấp này trong công cuộc cải tạo xã hội, giải phóng bản thân và giải phóng loài người nói
chung. Tương tự, giai cấp công nhân chính là vũ khí vật chất, là lực lượng vật chất quan trọng của triết
học mác, để nhờ đó, triết học Mác thể hiện được vai trò cải tạo thế giới của mình.
IV. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
- Sự ra đời triết học Mác đã chấm dứt quan niệm của triết học cũ coi triết học là “khoa học của các khoa
học”, đứng trên mọi khoa học. Trái lại, triết học Mác khẳng định về vai trò của khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội đối với sự phát triển của bản thân triết học; trong đó, tùy vào sự phát triển của khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội, đòi hỏi triết học cũng phải biến đổi theo, phải thay đổi hình thức cho phù hợp
Vấn đề 7: Vai trò của triết học Mác – Lênin đối với hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người. I.
Khái niệm triết học
-Là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của
con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại kiến thức, giá trị, quy
luật, ý thức và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức nó
giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và
sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.
-Là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về trị trí, vai trò của con người trong thế giới
II. Nguồn gốc ra đời của triết học
- Triết học ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức về thế giới của con người. Triết học chỉ xuất hiện
khi những kho tàng tri thức của loài người đã hình thành được một vốn hiểu biết nhất định. Trên cơ
sở đó, những tri thức riêng lẻ về thế giới phải được tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa những
khái niệm, phạm trù, quan điểm, quy luật, học thuyết,... đủ sức phổ quát để giải thích thế giới.
- Triết học chỉ ra đời khi xã hội loài người đã đạt đến một trình độ tương đối cao của sản xuất ra hội,
phân công lao động xã hội hình thành, có của cải dư thừa, tư hữu hóa về tư liệu sản xuất, sự phân hóa
giai cấp lao động, nhà nước ra đời. Tầng lớp trí thức xuất hiện, có điều kiện và nhu cầu, nghiên
cứu,có năng lực hệ thống hóa các quan niệm, quan điểm hình thành học thuyết, lý luận. Những người
xuất sắc trong tầng lớp này được xã hội công nhận là các nhà thông thái, các triết gia
III. Vai trò của triết học đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người
- Được thể hiện qua chức năng của triết học như:chức năng nhận thức,chức năng đánh giá,chức năng
giáo dục...nhưng chức năng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận
-Có thể khẳng định, việc tìm hiểu, học tập triết học là một tiền đề quan trọng để nâng cao hiểu biết,
trình độ và năng lực tư duy lý luận để từ đó xây dựng được một thế giới quan, nhân sinh quan đúng
đắn, phù hợp với sự phát triển của thế giới và của thời đại
- Triết học Mác - Lênin là triết học do Mác và Ăngghen xây dựng vào giữa thế kỷ XIX trên cơ sở kế
thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại, đồng thời được
Lênin phát triển, hoàn thiện vào đầu thế kỷ XX. Triết học Mác - Lênin không phải là một lý luận
thuần túy mà là một lý luận triệt để, mang tính khoa học cao do chỗ nó cũng được xây dựng trên cơ
sở tổng kết, khái quát các thành tựu quan trọng của khoa học cụ thể lúc đó.
-Trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất chặt chẽ với nhau. Thế
giới quan trong triết học Mác - Lênin là thế giới quan duy vật biện chứng.
IV. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Phương pháp luận trong triết học Mác - Lênin là phương pháp luận biện chứng duy vật. Điều đó
biểu hiện, mỗi luận điểm của triết học Mác - Lênin vừa mang tính thế giới quan vừa mang tính
phương pháp luận. Do đó, triết học Mác - Lênin có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc trang bị
cho con người thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn chỉ đạo mọi hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con người. Việc tìm hiểu, vận dụng triết học Mác - Lênin chính là tìm hiểu, tiếp thu và vận
dụng một thế giới quan khoa học và một phương pháp luận đúng đắn. Điều đó thể hiện ở thái độ
khách quan trong đánh giá sự vật, biết tôn trọng sự vật khách quan, cũng như biểu hiện ở một phương
pháp tư duy biện chứng, xem xét, đối xử với sự vật một cách linh hoạt, mềm dẻo. Nói cách khác, việc
bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng trong quá trình nhận thức và vận
dụng triết học Mác - Lênin chính là mục đích và cũng là kết quả cao nhất để có thể tránh rơi vào chủ
nghĩa chủ quan và phương pháp tư duy siêu hình.
Vấn đề 8: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong
phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này?
I,Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện
- Với các tính chất thể hiện trong tính khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa dạng
của các mối liên hệ và sự phát triển của tất cả các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Sự tác động lẫn nhau này giúp cách sự vật được phản ánh với tính chất đa dạng trong thực
tế. Một sự vật được nhìn nhận theo các yếu tố tác động và những tác động nên yếu tố khác.
-Những phản ánh trên sự vật đều được giải thích và đều cần phải giải thích. Khi những nguyên
nhân luôn tồn tại và sự vật tác động lẫn nhau. Khi đó, việc nhìn nhận và đánh giá muốn mang
đến hiệu quả phải dựa trên những tính chất phản ánh đầy đủ nhất. Xác định đúng đắn mới mang
đến hiệu quả trong quan điểm thể hiện. Do đó mà tính chất toàn diện là tính chất cần thiết, quan trọng.
-Những nhìn nhận và đánh giá phải được xây dựng từ nhiều chiều. Nó giải thích cho những phản
ánh kết quả tồn tại trên thị trường. Những nguyên nhân được tìm ra có nguyên nhân trực tiếp hay
tác động không trực tiếp. Và phản ánh năng lực, khả năng và cái nhìn nhiều chiều của một chủ thể. II. Nguyên tắc
- Nguyên tắc toàn diện trong sự đối lập với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện, phản ánh mối liên hệ
chủ yếu để rút ra những mặt, những mối liên hệ tất yếu của sự vật, hiện tượng đó; nhận thức chúng trong
sự thống nhất hữu cơ nội tại bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ nhất sự tồn
tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của các khách thể nhận thức.
- Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ gắn với nhu cầu thực tiễn; không viển vông, ảo tưởng bởi mối
liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh, chỉ phản ánh
được mối liên hệ nào đó phù hợp với nhu cầu của con người nên nhận thức về sự vật, hiện tượng cũng
mang tính tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó, sẽ tránh được việc tuyệt đối hoá
những tri thức đã có, xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối mà không bổ sung, không phát triển.
Chỉ có như vậy mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá trình
vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng.
- Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ đồng bộ; không cục bộ, phiến diện; nghĩa là trong thực tiễn,
phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động làm thay đổi
các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải
nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải quyết, tránh dàn trải. Nguyên tắc toàn
diện dự báo được khả năng vận động, phát triển; tránh trì trệ, bảo thủ.
III. Ý nghĩa phương pháp luận
- Mối quan hệ này có thể là giữa các yếu tố, các bộ phận, giữa sự vật này với sự vật khác, giữa mối liên hệ
trực tiếp với gián tiếp.
Cái nhìn phiến diện không mang đến hiệu quả cho công tác thực hiện. Ngược lại còn có thể tạo ra những
nhận định hay quan điểm lệch lạc, cũng như mang đến các quyết định không đúng đắn cho mục tiêu của
thực hiện phản ánh quan điểm đòi hỏi con người phải chú ý và biết phân biệt từng mối liên hệ.
-Cách nhìn nhận trên các khía cạnh khác nhau phản ánh những đặc trưng riêng biệt. Nó làm nên tính đa
dạng của chủ thể trong các thể hiện trên thực tế. Do đó mà việc quan tâm và phân tích từng yếu tố cũng
được thể hiện trên cơ sở của nó.
Cụ thể hơn đó là các mối quan hệ chủ yếu với tất yếu, mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ về
bản chất. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể hiểu rõ được bản chất của sự việc. Đòi hỏi con người nắm
bắt được khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Những nhìn nhận mang đến phản ánh như
thế nào cho mức độ phù hợp hay cơ sở phát triển trong tương lai.
Hoặc những yếu tố biến động cũng có thể được đánh giá để mang đến nhận định cần thiết. Nó giúp cho
việc thực hiện các hoạt động tác động trên sự vật được tiến hành hiệu quả. Đáp ứng các mong muốn của chủ thể tiến hành
Vấn đề 9: Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm phát triển trong
phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này?
I.Khái niệm phát triển
-Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh
hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Quan điểm siêu hình:
+,Phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật, hiện tượng.
+,Phát triển chỉ là sự tăng hoặc giảm về mặt lượng, không có sự thay đổi về mặt chất, không có
sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới.
- Quan điểm biện chứng
+, Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện của sự vật.
+,Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co, phức tạp thậm chí có những bước thụt lùi. -Phân biệt:
+Tiến hóa : Một dạng của phát triển, diễn ra từ từ, là sự biến đổi hình thức của tồn tại từ đơn giản đến phức tạp.
+,Tiến bộ : Một quá trình biến đổi hướng tới cái thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
II,Tính chất của sự phát triển
-Tính khách quan: Nguồn gốc của sự phát triển do các quy luật khách quan chi phối mà cơ bản
nhất là quy luật mâu thuẫn
-Tính phổ biến : Sự phát triển diễn ra ở trong mọi lĩnh vực, mọi sự vật, hiện tượng, mọi quá
trình và giai đoạn của chúng và kết quả là cái mới xuất hiện
-Tính phong phú,đa dạng : Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng không hoàn toàn giống
nhau, ở những không gian và thời gian khác nhau, chịu sự tác động của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể
III. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khi xem xét sự vật, hiện tượng phải luôn đặt nó trong khuynh hướng vận động, biến đổi,
chuyển hóa nhằm phát hiện ra xu hướng biến đổi của nó.
- Biết phát hiện và ủng hộ cái mới; chống bảo thủ, trì trệ, định kiến.
- Biết kế thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển, sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
- Nhận thức sự vật, hiện tượng trong tính biện chứng để thấy được tính quanh co, phức tạp của sự phát triển.
Vấn đề 10: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái
riêng và cái đơn nhất. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này trong
học tập và hoạt động thực tiễn của bản thân? I,Khái niệm
- Cái riêng” là phạm trù được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
- Cái đơn nhất” là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở
một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu vật chất nào khác.
- “Cái chung” là phạm trù được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có
một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa “cái riêng”, “cái chung” và “cái đơn nhất”
- “Cái chung” chỉ tồn tại trong “cái riêng”, thông qua “cái riêng”.
“Cái chung” không tồn tại biệt lập, tách rời “cái riêng” mà chỉ tồn tại trong “cái riêng”.
“Cái riêng” chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến “cái chung”.
“Cái chung” là một bộ phận của “cái riêng”, còn “cái riêng” không gia nhập hết vào “cái chung”.
“Cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại
-“Cái riêng” chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến “cái chung”.
Điều này có nghĩa “cái riêng” tồn tại độc lập, nhưng sự độc lập này không có nghĩa là cô lập với
những cái khác. Thông qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hóa, “cái riêng” của loại
này có liên hệ với những “cái riêng” của loại khác Bất cứ “cái riêng” nào cũng tồn tại trong một
môi trường, hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường, hoàn cảnh ấy, do đó đều tham gia
vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật, hiện tượng khác xung quanh mình.
Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần, gặp gỡ rồi giao thoa với các mối liên hệ qua lại
khác, kết quả là tạo nên một mạng lưới các mối liên hệ mới, trong đó có những mối liên hệ dẫn
đến một hoặc một số “cái chung” nào đó. Bất cứ “cái riêng” nào cũng không tồn tại mãi mãi.
Mỗi “cái riêng” sau khi xuất hiện đều tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định rồi biến thành
một “cái riêng” khác. “Cái riêng” khác này lại biến thành “cái riêng” khác thứ ba…v.v., cứ như
vậy đến vô cùng tận. Kết quả của sự biến hóa vô cùng tận này là tất cả “cái riêng” đều có liên hệ
với nhau. Thậm chí, có những cái tưởng chừng như hết sức xa lạ, hoàn toàn không dính dáng gì
đến nhau, nhưng qua hàng ngàn mối liên hệ, hàng ngàn sự chuyển hóa, ta vẫn thấy chúng liên quan nhau.
- “Cái chung” là một bộ phận của “cái riêng”, còn “cái riêng” không gia nhập hết vào “cái chung”
Do “cái chung” được rút ra từ “cái riêng”, nên rõ ràng nó là một bộ phận của “cái riêng”.
Mặt khác, bên cạnh những thuộc tính (cái chung) được lặp lại ở các sự vật khác, bất cứ “cái
riêng” nào cũng còn chứa đựng những đặc điểm, thuộc tính mà chỉ “cái riêng” đó mới có. Tức là,
bất cứ “cái riêng” nào cũng chứa đựng những “cái đơn nhất”
- Cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại
Sự chuyển hóa “cái đơn nhất” biến thành “cái chung” và “cái chung” biến thành “cái đơn nhất”
sẽ xảy ra trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều kiện nhất định.
Sở dĩ như vậy là do trong hiện thực, cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc, mà
lúc đầu xuất hiện dưới dạng “cái đơn nhất”, cái cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định
sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng hoàn thiện, tiến tới hoàn toàn thay thế cái cũ và trở thành “cái chung”.
III,Ý nghĩa phương pháp luận
- Phải xuất phát từ “cái riêng” để tìm “cái chung”. Vì “cái chung” chỉ tồn tại trong và thông qua
“cái riêng”, nên chỉ có thể tìm hiểu, nhận thức về “cái chung” trong “cái riêng” chứ không thể
ngoài “cái riêng”. Để phát hiện, đào sâu nghiên cứu “cái chung”, ta phải bắt đầu nghiên cứu từ
những sự vật, hiện tượng riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người
-Cần nghiên cứu cải biến “cái chung” khi áp dụng “cái chung” vào từng trường hợp “cái
riêng”:Vì “cái chung” tồn tại như một bộ phận của “cái riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với
những bộ phận còn lại của “cái riêng” mà không gia nhập vào “cái chung”, nên bất cứ “cái
chung” nào cũng tồn tại trong “cái riêng” dưới dạng đã bị cải biến. Tức là, luôn có sự khác biệt
một chút giữa “cái chung” nằm trong “cái riêng” này và “cái chung” nằm trong “cái riêng” kia.
Sự khác biệt đó là thứ yếu, rất nhỏ, không làm thay đổi bản chất của “cái chung”.
- Do đó, bất cứ “cái chung” nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng lẻ cũng cần được cải
biến, cá biệt hóa. Nếu không chú ý đến sự cá biệt hóa, đem áp dụng nguyên xi “cái chung”, tuyệt
đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm của những người giáo điều, tả khuynh. Ngược lại, nếu
xem thường “cái chung”, tuyệt đối hóa “cái đơn nhất”, thì lại rơi vào sai lầm của việc chỉ bảo tồn
cái vốn có mà không tiếp thu cái hay từ bên ngoài. Đó là sai lầm của những người xét lại, bảo
thủ, trì trệ, hữu khuynh.
-Không được lảng tránh giải quyết những vấn đề chung khi giải quyết những vấn đề riêng. Vì
“cái riêng” gắn bó chặt chẽ với “cái chung”, không tồn tại bên ngoài mối liên hệ dẫn tới “cái
chung”, nên nếu muốn giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu quả thì không thể bỏ qua
việc giải quyết những vấn đề chung. Nếu không giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề
mang ý nghĩa lý luận – thì sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện. Nếu bắt tay vào giải quyết
những vấn đề riêng trước khi giải quyết những vấn đề chung thì ta sẽ không có định hướng mạch lạc.
- Khi cần thiết, cần tạo điều kiện cho “cái đơn nhất” biến thành “cái chung” và ngược lại. Vì
trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định, “cái đơn nhất” có thể biến
thành “cái chung” và ngược lại, nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần hết sức tạo điều kiện thuận
lợi cho “cái đơn nhất” phát triển, trở thành “cái chung” nếu điều này có lợi. Ngược lại, phải tìm
cách làm cho “cái chung” tiêu biến dần thành “cái đơn nhất” nếu “cái chung” không còn phù hợp
với lợi ích của số đông mọi người.
Vấn đề 11: Rút ra bài học cho bản thân sau khi nghiên cứu mối
quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả. I, Khái niệm
-Khác với quan niệm của chủ nghĩa triết học trước đây, chủ nghĩa Mác cho rằng:
-Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
-Kết quả là một phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn
nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
-Nội hàm của khái niệm nguyên nhân vừa trình bày đưa lại cho chúng ta nhận thức
đầu tiên rất quan trọng, đó là sự vật hiện tượng không bao giờ là chính bản thân
nguyên nhân, chỉ có sự tác động của các sự vật hiện tượng mới là nguyên nhân. II,Nội dung
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ qua lại:
Thứ nhất: Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.
-Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây nên ảnh hưởng
cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác
động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng của nhau.
-Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, có thể phân loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Thứ hai: Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
-.Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động
đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân
Thứ ba: Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả.
- Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác nhau. Một hiện
tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình sẽ trở thành
nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc,
tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầu hay cuối cùng.
III,Phương pháp luận
- Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần tìm
trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện. Một kết quả có thể do
nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả.
Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản,
nguyên nhân khách quan,… Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó
có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến họt động và hạn chế sự
hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.
- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải khai thác, tận
dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thức đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.
Vấn đề 12: Vận dụng mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực, hãy
rút ra bài học cho bản trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. I,Khái niệm
-Khả năng : Hiện chưa có, chưa tới nhưng nó sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện thích hợp.
-Hiện thực; Những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.
II,Mối quan hệ giữa khả năng và hỉiện thực
1.Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau,
luôn chuyển hóa lẫn nhau.
-Sở dĩ như vậy vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng, còn khả năng hướng tới biến thành hiện thực.
Trong thực tế, quá trình phát triển chính là quá trình trong đó khả năng biến thành hiện thực,
còn hiện thực này lại sản sinh ra những khả năng mới. Cả khả năng mới ấy trong những điều
kiện thích hợp lại biến thành hiện thực mới.
Sự chuyển hóa cứ tiếp diễn mãi như vậy, tạo thành quá trình vô tận.
-Để khả năng biến thành hiện thực cần có vai trò của các điều kiện khách quan và chủ quan
-Qúa trình khả năng biến thành hiện thực chủ yếu là 1 quá trình khách quan nói chủ yếu là trong
tự nhiên không phải mọi khả năng dều biến thành hiện thực 1 cách tự phát
-Trong lĩnh vực xã hội, bên cạnh các điều kiện khách quan, khả năng muốn biến thành hiện
thực còn cần có các điều kiện chủ quan. Đó là hoạt động thực tiễn của con người. Ở đây, khả
năng sẽ không bao giờ biến thành hiện thực nếu không có sự tham gia của con người.
-Hoạt động có ý thức của con người có vai trò rất to lớn trong việc biến khả năng thành hiện
thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực. Nó cũng
có thể điều khiển khả năng phát triển theo hướng này hay theo hướng khác bằng cách tạo ra các điều kiện thích ứng.
2. Các khả năng có thể cùng tồn tại với nhau.
-Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, có thể tồn tại một số khả năng chứ
không phải chỉ có một khả năng.
-Ngoài một số khả năng vốn có ở sự vật trong những điều kiện có sẵn nào đó, khi có thêm những
điều kiện mới thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm một hoặc nhiều khả năng mới.
-Đó là do với sự xuất hiện của những điều kiện mới, về thực chất, một hiện thực mới phức tạp
hơn đã xuất hiện do sự tác động qua lại giữa hiện thực cũ và điều kiện mới. Từ đó làm cho số
tương tác tăng thêm và dẫn đến làm tăng thêm khả năng mới.
3. Sự biến đổi của mỗi khả năng
-Mỗi khả năng không phải là không thay đổi. Nó tăng lên hay giảm đi tùy thuộc vào sự biến đổi
của sự vật trong những điều kiện cụ thể.
-Do đó, muốn cho một khả năng nào đấy phát triển biến thành hiện thực thì phải tạo cho nó các
điều kiện thích hợp tương ứng.
-Để một khả năng nào đó biến thành hiện thực thường cần có không chỉ một điều kiện mà là một
tập hợp các điều kiện. Tập hợp đó được gọi là điều kiện cần và đủ, nếu có nó thì khả năng nhất
định biến thành hiện thực.
III,Phương pháp luận
1.Trong hoạt động thực tiễn ,phải dựa vào thực tế nhưng cũng cần tính đến các khả năng
-Tuy nhiên, nói như vậy không phải là bỏ qua, xem thường khả năng. Mà ta phải tính
đến các khả năng để đề ra chủ trương, kế hoạch, bởi khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển
của sự vật trong tương lai.
-Nếu ta tách rời khả năng và hiện thực, chúng ta sẽ không thấy khả năng tiềm ẩn trong sự vật,
dẫn đến không dự đoán được tương lai phát triển của sự vật. Hoặc sẽ không thấy khả năng có thể
biến thành hiện thực, do đó không tạo ra những điều kiện thiết yếu để thúc đẩy hoặc ngăn cản sự
chuyển biến tùy theo mục đích của mình.
2.Thực hiện quy trình ,cách thức xác định các khả năng trong thực tiễn
-Sở dĩ là do khả năng nảy sinh vừa do tác động qua lại giữa các mặt ở bên trong sự vật, vừa do
sự tác động của sự vật với hoàn cảnh bên ngoài.
+ Vì khả năng tồn tại trong chính bản thân sự vật, gắn bó chặt chẽ với sự vật nên ra dễ nhầm
lẫn khả năng với hiện thực. Để tránh nhầm lẫn, ta cần lưu ý: Hiện thực là cái đã có, đã tới,
còn khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới.
+ Chúng ta không được tách rời khả năng khỏi hiện thực. Lý do là vì khả năng nằm ngay
trong hiện thực, gắn bó chặt chẽ với hiện thực
3.Tiến hành lựa chọn và thực hiện các khả năng
-Sau khi xác định được khả năng phát triển của sự vật, nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn là phải
tiến hành lựa chọn và thực hiện các khả năng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, ta cần lưu ý:
-– Vì một khả năng chỉ biến thành hiện thực khi có đủ những điều kiện cần thiết, nên cần chủ
động tạo ra những điều kiện cần và đủ để có được hiện thực theo mong muốn.
– Trong lĩnh vực xã hội, phải có sự tham gia của con người (nhân tố chủ quan) để khả năng biến
thành hiện thực. Nên tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn, ta cần tạo mọi điều kiện để nhân
tố con người tham gia tích cực vào quá trình biến đổi hoặc ngăn cản sự biến đổi khả năng thành hiện thực.
_ Do những điều kiện thực tế khác nhau nên cuộc sống mỗi người đều có thể xuất hiện những
khả năng phát triển khác nhau. Vấn đề ở chỗ là chúng ta phải tự xác định và lựa chọn được cho
bản thân khả năng có tính khả thi nhất và tối ưu nhất để hành động và biến nó thành hiện thực.
_ Trong xã hội, quá trình khả năng biến đổi thành hiện thực diễn ra thông qua hoạt động có ý
thức của con người. Điều đó đò hỏi chúng ta phải phát huy tính năng động sáng tạo của chính
bản thân mỗi người để biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy xã hội phát triển.
-_ Trong mọi hoạt động, chúng ta trước hết phải xuất phát từ hiện thực, nếu chỉ dựa vào cái mới
còn ở dạng khả năng thì như vậy sẽ bị rơi vào ảo tưởng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tính đến
khả năng để đề ra chủ trương kế hoạch hoạt động sát hợp hơn. Phân loại các khả năng tất nhiên,
khả năng ngẫu nhiên, khả năng gần, khả năng xa,… Từ đó, mới tạo ra được các điều kiện thích
hợp để biến khả năng trở thành hiện thực, thúc đẩy sự vật phát triển.
_ Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta phải liên kết chặt chẽ giữa khả năng và hiện thực để thấy
được tiềm năng vận động, phát triển của sự vật và tranh thủ thúc đẩy các điều kiện thích hợp cho
những khả năng gần trở thành hiện thực.
Vấn đề 13:. Vận dụng mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên,
hãy rút ra bài học cho bản thân trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. I,Khái niệm
-Một phạm trù để chỉ những nguyên nhân cơ bản bên trong kết cấu vật chất quyết định, bên trong
điều kiện nhất định mà nó phải xảy ra như thế và không thể nào khác được
-Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ đến kết cấu vật chất ,sự vật quyết định mà do các yếu tố
bên ngoài ,ngẫu nhiên và yếu tố bên trong mỗi hoàn cảnh khác nhau quyết định.Do đs ,nó có thể
xuất hiện ,không xuất hiện ,hoặc xuất hiện thế này thế kia ..
II,Mối quan hệ giữa ngẫu nhiên và tất nhiên
-+ Cả hai đều tồn tại khách quan, đều có vai trò nhất định với sự vận động phát triển của sự vật,
hiện tượng và cái tất nhiên đóng vai trò quyết định. Nhưng ngẫu nhiên cũng đóng vai trò nhất
định, nếu tất nhiên có tác dụng chi phối quá trình vận động phát triển của sự vật thì ngẫu nhiên
có tác dụng làm cho sự vật diễn ra theo chiều hướng khác nhau (nhanh hay chậm,.. )
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất biện chứng với nhau. Không có cái tất
nhiên thuần túy và ngẫu nhiên thuần túy. Cái tất nhiên luôn vạch đường cho mình thông qua vô
số cái ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên là cái bổ sung cho tất nhiên, là hình thức biểu hiện cho tất nhiên.
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên không thường xuyên tồn tại ở trạng thái cũ. Chúng luôn thay đổi và
phát triển trong nhiều hoàn cảnh, ở những điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hóa cho nhau
III,Phương pháp luận
-Tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối, chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy ta cần tạo
điều kiện nhất định để thúc đẩy hoặc cản trở chúng chuyển hóa lẫn nhau theo mục đích phù hợp với mong muốn của chúng ta.
-Trong hoạt động thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải cái ngẫu nhiên. Vì cái tất nhiên
mới là bản chất của sự vật
- Đúng vậy, khi bắt đầu làm một việc gì đó, chúng ta phải tìm hiểu về bản chất của công việc, những yếu
tố đầu tiên góp phần triển khai công việc một cách chính xác nhất. Khi đó chúng ta sẽ có căn cứ và bàn
đạp vững chắc để tiến tới thành công trong công việc đó. Đồng thời cần chú ý tới những hoạt động ngoài
lề và chuẩn bị nhiều phương pháp dự phòng để đề phòng sự cố xảy ra.
--Tất nhiên và ngẫu nhiên không chỉ góp phần tạo nên phép biện chứng duy vật mà nó còn là những bài
học trong cuộc sống giúp ta hình thành và nhận thức đời sống thực tiễn
-Trong đời sống thực tiễn và tư duy, chúng ta phải căn cứ vào cái tất nhiên bởi vì cái tất nhiên là bản chất
của sự vật, cái nhất định phải xảy ra tuân theo quy luật nội tại của sự vật. Tuy nhiên không được loại bỏ
cái ngẫu nhiên, bởi cái ngẫu nhiên là điểm tựa và nơi xuất phát cho cái tất nhiên.
Vấn đề 14: Vận dụng mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, hãy
rút ra bài học cho bản thân trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. I,Khái niệm
- -Nội dung là phạm trù chỉ tổng thể tất cả các mặt, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng.
-Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại, biểu hiện và phát triển của sự vật, hiện tượng ấy. Là hệ
thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố cái thành nội dung của sự vật, hiện tượng
=> Hình thức là cái không chỉ thể hiện bên ngoài, mà chủ yếu thể hiện cấu trúc bên trong của sự vật, hiện tượng.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động phát triển của sự vật
Nội dung sẽ có khuynh hướng chủ đạo là biến đổi. Còn hình thức tương đối bền vững, ổn định.
=> Sự biến đổi phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi phát triển của nội dung, còn hình
thức cũng biến đổi nhưng chậm hơn, ít hơn so với nội dung.
Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ nội dung sẽ kéo theo sự biến đổi của hình thức
cho phù hợp với nó. Khi nội dung biến đổi thì hình thức buộc phải biển đổi theo cho phù hợp với nội dung mới.
-Nội dung và hình thức không tách rời
+Nội dung và hình thức là hai phương diện cấu thành nên mỗi sự vật, hiện tượng: không có sự vật, hiện
tượng nào tồn tại mà chỉ có nội dung mà không có hình thức.
+Cùng một nội dung trong tình hình phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức và ngược lại, cùng
một hình thức có thể biểu hiện những nội dung khác nhau.
- - Hình thức luôn có tính độc lập và tác động tích cực trở lại nội dung: Khi phù hợp, nó sẽ mở đường và
thúc đẩy sự phát triển của nội dung và ngược lại…
Lúc đầu, những biến đổi trong nội dung chưa ảnh hưởng đến hệ thống mối liên hệ tương đối bền vững của
hình thức. Nhưng khi những biến đổi đó tiếp tục diễn ra thì tới một lúc nào đó, hệ thống mối liên hệ
tương đối cứng nhắc đó trở nên chật hẹp và kìm hãm sự phát triển của nội dung. Lúc này, hình thức
không phù hợp với nội dung nữa.
Tới một lúc nào đó,nội dung và hình thức xung đột sâu sắc. Nội dung mới sẽ phá bỏ hình thức cũ, hình
thức mới sẽ hình thành. Trên cơ sở hình thức mới, nội dung mới tiếp tục biến đổi,phát triển và chuyển
sang trạng thái mới về chất.
- Nội dung và hình thức có thể chuyển hoá cho nhau
Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức còn biểu hiện ở sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng.
Cái trong điều kiện này quan hệ này là nội dung thì trong điều kiện khác hay quan hệ khác là hình thức và ngược lại
III,Phương pháp luận
- -Tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối, chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy ta cần
tạo điều kiện nhất định để thúc đẩy hoặc cản trở chúng chuyển hóa lẫn nhau theo mục đích phù hợp với mong muốn của chúng ta.
-Trong hoạt động thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải cái ngẫu nhiên. Vì cái tất nhiên
mới là bản chất của sự vật.
-Khi bắt đầu làm một việc gì đó, chúng ta phải tìm hiểu về bản chất của công việc, những yếu tố đầu tiên
góp phần triển khai công việc một cách chính xác nhất. Khi đó chúng ta sẽ có căn cứ và bàn đạp vững
chắc để tiến tới thành công trong công việc đó. Đồng thời cần chú ý tới những hoạt động ngoài lề và
chuẩn bị nhiều phương pháp dự phòng để đề phòng sự cố xảy ra.
- -Tất nhiên và ngẫu nhiên không chỉ góp phần tạo nên phép biện chứng duy vật mà nó còn là những bài
học trong cuộc sống giúp ta hình thành và nhận thức đời sống thực tiễn
-Trong đời sống thực tiễn và tư duy, chúng ta phải căn cứ vào cái tất nhiên bởi vì cái tất nhiên là bản chất
của sự vật, cái nhất định phải xảy ra tuân theo quy luật nội tại của sự vật. Tuy nhiên không được loại bỏ
cái ngẫu nhiên, bởi cái ngẫu nhiên là điểm tựa và nơi xuất phát cho cái tất nhiên.
Vấn đề 15: Vận dụng mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng, hãy
rút ra bài học cho bản thân trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. I,Khái niệm
- Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên trong sự
vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó
- Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ thuộc bản chất của sự vật và hiện tượng, hiện tượng ra bên ngoài
II, Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng
1. Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống:
Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại tại khách quan bất kể con người có nhận thức được hay không.
2.Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Không những tồn tại khách quan mà bản chất và hiện tượng còn có mối liên hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ.
Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau
3.Sự mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất phản ánh cái chung tất yếu còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.
Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan còn hiện tượng là mặt bên ngoài của
hiện tượng khách quan ấy.
III,Ý nghĩa phương pháp luận
1. Trong nhận thức:
-Để hiểu đầy đủ về sự vật, ta không nên dừng lại ở hiện tượng mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của nó.
=> Nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của khoa học nhận thức nói riêng là phải vạch ra được bản chất của sự vật
2. Trong hoạt động thực tiễn:
-Cần dựa vào bản chất chứ không phải dựa vào hiện tượng:
-Vì bản chất tồn tại khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra bản chất sự vật ở bên
trong sự vật ấy, tránh những nhận định chủ quan.
-Vì bản chất không tồn tại dưới dạng thuần túy mà lúc nào cũng bộc lộ ra bên ngoài qua các hiện tượng
tương ứng nên phải tìm ra cái bản chất trên cơ sở nghiên cứu hiện tượng
Vấn đề 16. Tại sao trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải
quán triệt quan điểm toàn diện,quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể ? a. Khái niệm
-nhận thức: Là sự phản ánh của thế giới khách quan vào trong bộ não con người một cách
năng động và sáng tạo, thông qua lao động và ngôn ngữ.
-Hành động thực tiễn: Là tất cả những hoạt động vật chất có tính chất lịch sử và xã hội của con
người nhằm làm biến đổi tự nhiên và xã hội.Những hoạt động thực tiễn như: hoạt động sản xuất
vật chất,hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội và thực nghiệm khoa học.
b. Quan điểm toàn diện
Quan điểm khi nghiên cứu và xem xét hiện tượng,sự vật hay sự việc phải quan tâm đến tất cả các
yếu tố kể cả khâu gián tiếp hay trung gian có liên quan đến sự vật
Điều này xuất phát từ mối liên hệ nằm trong nguyên lý phổ biến của các hiện tượng,sự vật trên
thế giới.Phải có quan điểm toàn diện vì bất cứ mối quan hệ nào cũng tồn tại sự vật,sự việc.Không
có bất cứ sự vật nào tồn tại một cách riêng biệt,cô lập,độc lập với các sự việc khác. -Chứng minh
=>Vì thế vẻ bề ngoài không nói lên được tất cả.Câu nói “Tâm sinh tướng” chỉ đúng trong một số
ít trường hợp chứ không thể áp dụng cho toàn thể.Con người rất dễ thay đổi do những tác động
khách quan lẫn chủ quan thế nên,muốn đánh giá một con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu
dài,nhìn nhận họ trên mọi phương diện,ở từng thời điểm,từng hoàn cảnh khác nhau.Để đảm bảo
nguyên tắc toàn diện quá trình nhận thức sự vật hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối
liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
b.quan điểm toàn diện Chứng minh
Mọi sự vật,hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển.Phát triển mang
tính khách quan-phổ biến là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến cao,từ đơn
giản đến phức tạp,từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của một hệ thống vật chất,do việc giải
quyết mâu thuẫn,thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định.
khi tiến hành xem xét các sự vật hiện tượng thì cần phải đặt nó trong sự vận động và phát triển
không được dao động trước những quanh co những phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn
b. Quan điểm lịch sử cụ thể
Trong thực tế Đảng,chính phủ và nhà nước ta đã áp dụng quan niệm lịch sử cụ thể đối với tình
hình dịch bệnh Covid-19.Khi dịch bệnh mới bùng nổ tại nước ta,nhà nước đã đặt lệnh toàn dân
phải tự cách ly tại nhà,đóng cửa khẩu,đường bay,…Ngay khi đã kiểm soát được tình hình dịch
bệnh ở phạm vi cho phép hầu hết người dân đều được tiêm vaccine,nhà nước đã cho người dân
được tự do đi lại hoạt động.Dù dịch bệnh có lây lan nhưng không mang đến ảnh hưởng nghiêm trọng như trước nữa.
=>Qua đó,ta nhận thức được tầm quan trọng của việc nhìn nhận sự vật hiện tượng qua quan điểm
lịch sử cụ thể góp phần định hướng,chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo
hiện thực,cải tạo chính bản thân chúng ta.Để thực hiện được điều đó,trước hết chủ thể có thẩm
quyền phải nắm vững kiến thức về quan điểm lịch sử cụ thể trong triết học Mác- Lênin.
Vấn đề 17. Phân tích nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay
đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận? a. Khái niệm
-chất: Để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng là sự thống nhất hữu cơ
các thuộc tính cấu thành nó, bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
-Lượng; Để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số
lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng
.=> Chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một quá
trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy . Cả chất và lượng đều tồn tại khách quan Độ:
Chỉ khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng đã làm cho chất của sự vật thay đổi.
-Điểm nút: Chỉ điểm giới hạn mà ở đó sự thay đổi về lượng đã làm cho chất của sự vật thay đổi.
-Bước nhảy: Chỉ sự ra đời của chất mới thay thế cho chất cũ.
-quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
-Trong thế giới luôn luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất
tạo ra một đường nút vô tận, thể hiện cách thức vận động, phát triển của sự vật từ thấp đến cao.
- Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật trên nhiều phương diện như:
làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Sự thay đổi của lượng lại là nguồn gốc cho sự ra đời của một chất mới tiếp theo.
Quá trình tác động giữa chất và lượng diễn ra liên tục tạo thành phương thức cơ
bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội, tư duy.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Phải coi trọng cả hai loại chi tiêu về chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.
Tuỳ theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích luỹ về lượng để có thể làm thay đổi chất, đồng thời
có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng.
Cần phải khắc phục tư tưởng tà khuynh và hữu khuynh.
Cần phải có sự vận dụng linh hoạt của các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều
kiện, từng lĩnh vực cụ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hoá từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất.
Vấn đề 18. Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn. Ý nghĩa phương pháp luận? a. Khái niệm
-Quy luật mâu thuẫn là một trong những quy luật cơ bản trong phép biện chứng duy vật và biện
chứng duy vật lịch sử khằng định về: mọi sự vật hay hiện tượng ở trong tự nhiên đều có sự tồn
tại và mâu thuẫn bên trong. Quy luật mâu thuẫn còn được gọi là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. -Nội dung:
Mọi sự vật hoặc hiện tượng đều chứa đụng những khuynh hướng, mặt đối lập, từ đó tạo thành
những mâu thuẫn trong bản thân chúng. Sự thống nhất và đấu tranh từ các mặt đối lập tạo ra
xung lực nội của sự vận động, phát triển, và dẫn tới mất đi cái cũ thay thế bưởi cái mới.
b.Khái niệm về mặt đối lập, mâu thuẫn, biện chứng, thống nhất, đấu tranh
-Đối lâp ; Những mặt mà có những thuộc tính, đặc điểm, những tính quy định mà có khuynh
hướng biến đổi trái ngược, tồn tại theo khách quan ở trong tự nhiên, tư suy và xã hội.
-Mâu thuẫn: Trạng thái mà mặt đối lập liên hệ, chúng có tác động qua lại với nhau, theo đó,
mâu thuẫn biện chứng được tồn tại một cách khách quan, phổ biến ở trong xã hội, tư duy tự nhiên.
-Thống nhất: Sự nương tựa với nhau, tồn tại nhưng không tách rời với nhau của các mặt đối lập,
tự tồn tại đó phải lấy sự tồn tại của mặt khác để làm tiền đề.
-Đấu tranh: Sự tác động qua lợi với nhau theo xu hướng là bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
-Mâu thuẫn là nguồn gốc sự vận động, phát triển
Sự thống nhất, đấu tranh các mặt đối lập chính là hai xu hướng tác động khác nhau mặt đối lập
Trong đó, hai xu hướng này tạo ra loại mâu thuẫn đặc biệt, từ đó mâu thuẫn biện chứng bao gồm
sự thống nhất và sự đấu tranh của mặt đối lập.
Trong quá trình phát triền và vận động thì sự thống nhất, đấu tranh của mặt đối lập không tách rời nhau.
Đấu tranh của mặt đối lập được quy định tất yếu về sự thay đổi các mặt đang tác động, làm mâu thuẫn phát triển.
Khi bắt đầu xuất hiện thì mâu thuẫn chỉ là một sự khác nhau cơ bản. Tuy nhiên theo khuynh
hướng trái ngược nhau thì sự khác nhau này càng lớn lên và rộng dẫn ra đến khi nào trở thành đối lập.
Khi hai mặt đối lập có sự xung đột gay gắt, đủ điều kiện thì sẽ tự chuyển hóa lẫn nhau và từ đó
mâu thuận được giải quyết. Nhờ sự giải quyết theo hướng này mà thể thống nhất mới sẽ thay thế
thể thống nhất cũ hay sự vật mới thay cho sự vật cũ bị mất đi.
-Sự phát triển là cuộc đấu tranh các mặt đối lập.
Ta đã thấy rằng khi có thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ có đấu tranh, đấu tranh và thống nhất
các mặt đối lập thì không thể tách rời khỏi nhau đối với mâu thuẫn biện chứng.
Sự vận động, phát triển là sự thống nhất trong tính ổn định và tính thay đổi, đấu tranh và thống
nhất các mặt đối lập quy định về tính thay đổi và tính ổn định sự vật. Do đó, mâu thuẫn là nguồn
gốc của phát triển và vận động. -Phân loại mâu thuẫn
Dựa vào quan hệ của sự vật được xem xét, mâu thuẫn sẽ được phân loại thành mâu thuẫn bên
trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Dựa vào ý nghĩa sự tồn tại, phát triển toàn bộ sự vật thì mâu thuẫn được chia làm mâu thuẫn cơ
bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Dựa vào vai trò mâu thuẫn của sự tồn tại, phát triển sự vật ở 1 giai đoạn nhất định thì mâu thuẫn
phân loại là mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu.
Dựa vào tính chất của quan hệ lợi ích, mâu thuẫn chia làm mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận.
Để nhận thức được ban chất của sự vật hoặc tìm ra phương hướng, giải pháp cho hoạt động thực
tiễn cần phải nghiên cứu mâu thuẫn sự vật.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối Thế giới vận động không
ngừng thông qua quá trình phủ định của phủ định; tức là sự vật mới ra đời như là kết quả của sự
phủ định biện chứng cái cũ, cứ thế tạo thành quá trình xoắn ốc.lập hay quy luật mâu thuẫn có ý
nghĩa quan trọng đối với nhận thực, hoạt động thực tiễn.
Bởi mâu thuận là động lực và cùng là nguồn gốc của sự vận động, phát triển, có tính khách quan phổ biến.
Vấn đề 19. Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận? a. Khái niệm
-Thế giới vận động không ngừng thông qua quá trình phủ định của phủ định; tức là sự vật mới
ra đời như là kết quả của sự phủ định biện chứng cái cũ, cứ thế tạo thành quá trình xoắn ốc. b. Nội dung
-Sự phát triển theo khuynh hướng phủ định của phủ đinh đã từng được các nhà biện chứng tự
phát nêu ra, coi đó như là 1 quá trình diễn ra theo vòng tròn khép kín.
-Những nhà triết học duy vật biện chứng thì cho rằng sự vận động diễn ra theo nhiều xu hướng,
tính vô cùng vô tận của thế giới vật chất cũng được biểu hiện trong tính vô cùng vô tận của các
khuynh hướng vận động; không phải là khuynh hướng duy nhất.
-Sự phát triển biện chứng thông qua nhiều lần phủ định biện chứng, chính là sự thống nhất loại
bỏ, kế thừa và phát triển; mang lại những nhân tố tích cực mới
=> Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn; mỗi lần phủ định
là kết quả đấu tranh chuyển hóa các mặt đối lập trong bản thân sự vật, sự phủ định lần thứ nhất
được thực hiện một cách căn bản sẽ làm cho sự vật cũ trở thành cái đối lập của mình.
c. ý nghĩa phương pháp luận
-Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết 1 cách đúng đắn về xu hướng của sự phát triển
và được diễn ra trong quá trình quanh co, phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực đời sống xã hội.
-Quy luật phủ định của phủ định giúp ta có cái nhìn về xu thế của thời đại ta đang sống chuẩn xác nhất
- Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết đầy đủ hơn về cái mới, cái mới là cái ra đời
phù hợp với quy luật phát triển của sự vật, nó luôn biểu hiện là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển.
Vấn đề 20. Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức? Ví dụ? I. Khái niệm
-Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học Mác – Lênin nói chung và
của lý luận nhận thức Mácxít nói riêng, đây là một phạm trù đã được nghiên cứu từ rất lâu với
nhiều quan điểm khác nhau:
+ Chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con
người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử xã hội.
+ Chủ nghĩa duy vật trước Mác, mặc dù đã hiểu thực tiễn là một hành động vật chất của con
người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài hoạt động tinh thần của con
người đều là hoạt động thực tiễn.
- Là hoạt động có mục đích. Khác hoạt đông bản năng của động vật.
Có tính lịch sử - xã hội: Là hoạt động của con người trong xã hội và trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Nhận thức là sự hiểu biết của con người đối vơi hiện thực khách quan là quá trình tạo thành tri
thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan, bản chất nhận thức là quá trình phản ánh
biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào óc con người trên cơ sở thực tiễn.
Dựa trên cơ sở tình độ xâm nhập vào bản chất của đối tượng, nhận thức được phân chia thành hai
cấp độ nhận thức khác nhau về đối tượng, tính chất, chức năng, hình thức và trình tự phản ảnh,
đó là nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.
- Nhận thức kinh nghiệm là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Nhận thức kinh nghiệm hình
thành những tri thức kinh nghiệm, bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
- Nhận thức lý luận là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất, quy luật của
các sự vật, hiện tượng. Kết quả của nhận thức lý luận là tri thức lý luận. Tri thức lý luận thể hiện
chân lý sâu sắc, chính xác và hệ thống hơn nhận thức kinh nghiệm.
II.Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
1.Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề khía cạnh hay ở lĩnh vực gì đi
chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà không phục vụ thực tiễn thì
không phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.
Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa
thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực
tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp năng lượng nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con
người nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc về thế giới.
Ví dụ 1: Để chống lại Covid 19, nhiều nước đã cố gắng sản xuất ra vaccine chống thứ bệnh này.
=> Xuất phát từ thực tiễn bệnh dịch đang có chiều hướng nghiêm trọng, nguy hiểm cho sự sống
của con người nên các nhà nghiên cứu đã chế tạo ra các loại vaccine để cứu con người khỏi tay loại dịch này
Ví dụ 2: Để bảo vệ môi trường, nhiều người đã nghĩ ra các vật liệu thân thiện với môi trường
như cốc tái chế, ống hút giấy... Việc tạo ra những vật liệu, đồ dùng này chính là nhằm phục vụ
cho mục đích bảo vệ môi trường
Ví dụ 3: Để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, mọi người đã tạo ra chiếc của cách âm, các vật liệu cách âm
2.Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân
lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà luôn biến
đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người nên không tránh
khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người thành những chân lý
tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt
được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp
tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn.
Ví dụ 1: Nhà bác học Galile tìm ra định luật về sức cản của không khí.
Ví dụ 2: Trái đất quay quanh mặt trời
Ví dụ 3: Không có gì quý hơn độc lập tự do
Những ví dụ trên chứng minh cho thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Bởi chỉ có đem những
tri thức đã thu nhận được qua nhận thức đối chiếu với thực tiễn để kiểm tra, kiểm nghiệm mới có
thể khẳng định được tính đúng đắn.
III,Ý nghĩa phương pháp luận
-Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn quán triệt quan điểm thực
tiễn. Quan điểm này yêu cầu:-
-Phải không cho quan điểm thực tiễn : việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn . dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng tổng kết thực tiễn.
-Nghiên cứu lý luận phải song song với thực tiễn ; học phải song song với hành. Xa rời thực tiễn
dẫn đến bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu .
-Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi
vào chủ nghĩa thực dụng
Vấn đề 21. Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức 1.khái niệm nhận thức
- Nhận thức được định nghĩa cơ bản chính là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng
tạo thế giới khách quan vào bộ óc của con người dựa trên cơ sở của thực tiễn, nhằm mục đích để
có thể thông qua đó sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó.
Nhờ nhận thức mà con người có xúc cảm, tình cảm, đặt ra được mục đích và dựa vào đó mà hành động.
Như vậy, quá trình nhận thức xuất phát từ hành động, làm tiền đề cho các quá trình tâm lý khác
2.khái niệm biện chứng:
-Biện chứng là từ dùng để chỉ những mối liên hệ và sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội và tư duy.
-Biện chứng có thể chia thành các loại khác nhau dựa vào các căn cứ khác nhau:
- Biện chứng khách quan & Biện chứng chủ quan
Biện chứng khách quan là phép biện chứng phản ánh mối liên hệ, sự phát triển của các sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên (tồn tại độc lập với ý thức con người)
Biện chứng chủ quan là sự phản ánh mối liên hệ, sự vật, hiện tượng vào đầu óc con người (tức là
đã mang tính ý thức của con người).
3. phân tích con đương biện chứng của quá trình nhận thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi nhận thức không phải là sự phản ánh giản đơn, thụ động mà là
một quá trình gắn liền với hoạt động thực tiễn. Quá trình đó đã được Lênin chỉ ra như sau: ‘‘ Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường
biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan’’
Nhận thức là sự phản ánh thế giới được thực hiện trên cơ sở thực tiễn và con đường biện chứng
của nhận thức gồm hai giai đoạn kế tiếp, bổ sung cho nhau : Nhận thức cảm tính & Nhận thức lý tính
a.Nhận thức cảm tính( trực quan sinh động)
-Nhận thức cảm tính là những tri thức do các giác quan mang lại. Nét đặc trưng cơ bản ở giai
đoạn này là nhận thức được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với thực tiễn thông qua các nấc
thang cảm giác, tri giác, biểu tượng.
-Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên các giác
quan của con người. Cảm giác phản ánh từng mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng.
- giác là sự tổng hợp của nhiều cảm giác riêng biệt vào một mối liên hệ thống nhất tạo nên một
hình ảnh tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng.
- tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có
sự tham gia của các yếu tố phân tích, trừu tượng và khả năng ghi nhận thông tin của não người.
Đây là nấc thang cao và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính; là hình ảnh cảm tính
tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng được lưu lại trong não người và do tác động nào đó
được tái hiện lại khi sự vật, hiện tượng không còn nằm trong tầm cảm tính.
-Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) Nhận thức lý tính là sự phát triển tất yếu của quá trình
nhận thức dựa trên cơ sở nhận thức cảm tính. Nó phản ánh mang tính gián tiếp và cũng có ba
hình thức phản ánh: khái niệm, phán đoán, suy luận
-Khái niệm là sự phản ánh bao quát một lớp khách thể ở tính bản chất. Lấy một số khái niệm
minh họa như khái niệm vật chất, ý thức, vận động v.v… Khái niệm được hình thành trên cơ sở
hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người.
-Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định
một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng; là hình thức phản ánh mối liên hệ
giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào ý thức của con người tạo nên vai trò của
phán đoán là hình thức biểu hiện và diễn đạt các quy luật khách quan.
Suy luận là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới theo
phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề. Suy luận có vai trò
quan trọng trong tư duy trừu tượng, bởi nó thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái đã
biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết.
Mói quan hệ biện chứng :Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá
trình nhận thức. Tuy có những sự khác biệt về mức độ phản ánh hiện thực khách quan, nhưng
giữa hai quá trình đó có sự liên hệ, tác động qua lại. Trên thực tế, nhận thức lý tính không thể
thực hiện nếu thiếu tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại. Nhận thức cảm tính là cơ sở tất yếu
của nhận thức lý tính và ngược lại, nhận thức lý tính sẽ làm cho nhận thức cảm tính sâu sắc và chính xác hơn.
Mỗi kết quả của nhận thức, mỗi nấc thang mà con người đạt được trong nhận thức thế giới khách
quan đều là kết quả của cả trực quan sinh động và tư duy trừu tượng được thực hiện trên cơ sở
thực tiễn, do thực tiễn quy định. Trong đó, trực quan sinh động là điểm khởi đầu, tư duy trừu
tượng tổng hợp những tri thức của trực quan sinh động thành các kết quả của nhận thức và thực
tiễn là nơi kiểm nghiệm tính chân thực của các kết quả của nhận thức đó. Đó chính là con đường
biện chứng của nhận thức.
Mỗi chu trình nhận thức đều phải đi từ thực tiễn đến trực quan sinh động rồi đến tư duy trừu
tượng rồi đến thực tiễn. Trong đó, thực tiễn giữ vai trò là điểm bắt đầu và khâu kết thúc của chu
trình đó. Nhưng sự kết thúc chu trình nhận thức này lại là sự khởi đầu của chu trình nhận thức
mới ở mức độ cao hơn, rộng hơn chu trình cũ và cứ thế vận động mãi làm cho nhận thức của con
người ngày càng sâu hơn, nắm được bản chất và quy luật của thế giới khách quan.
Vấn đề 22.Phân tích vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại
và phát triển của xã hội. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm Phương thức sản xuất
-Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất
là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn nhất định trong
lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
-Phương thức sản xuất đóng vai trò nhất định đối với tất cả mọi mặt trong đời sống kinh tế xã
hội. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất
định và quan hệ sản xuất tương ứng.
2.Khái niệm lực lượng sản xuất
Trước Mác : Nếu vào những năm 1843 – 1844 khái niệm quan hệ sản xuất chưa được C.Mác sử
dụng, thì khái niệm lực lượng sản xuất đã được ông sử dụng khá phổ biến theo những cách khác
nhau, như “sức sản xuất của lao động”; “lực lượng sản xuất có tính bản chất của con người”
Từ những năm 1845 – 1846 trở về sau, mặc dù không đưa ra một định nghĩa thật tường minh nào
về khái niệm lực lượng sản xuất, nhưng trong tác phẩm quan trọng của giai đoạn này là Hệ tư
tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã quan niệm có phần rõ hơn về vai trò của con người trong
lực lượng sản xuất khi viết: “Lực lượng sản xuất được nhân lên gấp bội và ra đời nhờ sự hợp tác
của những cá nhân khác nhau do phân công lao động quy định”. Hoặc, cũng trong tác phẩm Hệ
tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen còn viết: “Một phương thức sản xuất nhất định hay một
giai đoạn công nghiệp nhất định là luôn luôn gắn liền với một phương thức hợp tác nhất định hay
một giai đoạn xã hội nhất định; rằng bản thân phương thức hợp tác ấy là một “sức sản xuất”; và
cũng do đó mà thấy rằng tổng thể những lực lượng sản xuất mà con người đã đạt được, quyết
định trạng thái xã hội” Tóm lại
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ của con người với tự nhiên hình thành trong quá trình sản
xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của con người. Đó
là kết quả năng lực thực tiễn của con người tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của loài người.
Trong cấu thành của lực lượng sản xuất, có thể có một vài ý kiến nào đó khác nhau về một số
yếu tố khác của lực lượng sản xuất, song suy đến cùng thì chúng đều vật chất hóa thành hai phần
chủ yếu là tư liệu sản xuất và lực lượng con người. Trong đó tư liệu sản xuất đóng vai trò là
khách thể, còn con người là chủ thể.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất:
Người lao động: Là chủ thể của quá trình lao động sản xuất với sự vận dụng trí tuệ, năng lực và
kinh nghiệm của con người vào tư liệu sản xuất để tạo ra vật chất.
Tư liệu sản xuất: Là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để con người tiến hành quá trình lao
động sản xuất, đây được xem là yếu tố thiết yếu của lực lượng sản xuất. Nó bao gồm tư liệu lao
động và đối tượng lao động 3. quan hệ sản xuất
- Quan hệ sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, cũng
giống như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống xã hội. Nó có tính khách
quan và tồn tại độc lập với ý muốn chủ quan của con người, thể hiện sự đặc trưng của mỗi hình
thái kinh tế - xã hội nhất định.Quan hệ sản xuất bao gồm các kết cấu sau:
-Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
-Quan hệ tổ chức quản lý.
-Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
-Ba mặt nói trên có mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, mỗi mặt đều có tác động thúc
đẩy hoặc kìm hãm qua lại, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối
với những quan hệ khác.
-Quan hệ tổ chức và quản lý có tác động lớn đối với quá trình sản xuất, là nhân tố ảnh hưởng
trực tiếp đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất và quyết định quy mô, tốc độ của nền kinh tế.
-Quan hệ phân phối sản phẩm lao động bị chi phối bởi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và
quan hệ tổ chức quản lý nhưng lại đóng vai trò là chất xúc tác trực tiếp đến lợi ích và thái độ của
con người trong quá trình lao động sản xuất,nó có thể thúc đẩy hoặc cản trở sản xuất phát triển.
Vấn đề 23.Nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phất triển của lực lượng sản xuất. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam?
1. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai
trò quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Và chỉ làm biến đổi cục
bộ chứ không thể thay đổi toàn diện bởi quy luật này thể hiện sự cân đối hài hòa của bản chất
mối quan hệ trên. Lực lượng sản xuất được xem là nội dung của quá trình sản xuất có xu hướng
phát triển và biến đổi thường xuyên, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất có yếu
tố tương đối ổn định và bảo thủ, khi nội dung thay đổi làm hình thức thay đổi theo. Sự phù hợp
giữa chúng tạo động lực giúp cho sản xuất phát triển cân đối, có hiệu quả giữa các yếu tố, làm
tăng năng suất lao động đồng thời giảm chi phí và thời gian sản xuất
2. Sự tác động trở lại của Quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.
-Trong mối quan hệ biện chứng, quan hệ sản xuất giữ vai trò hình thức kinh tế của quá trình
sản xuất, là tiền đề tạo ra mục tiêu thích hợp cho lực lượng sản xuất. Do đó quan hệ sản xuất đã
tác động trở lại, quy định mục đích, cách thức sản xuất và phân phối những lợi ích từ quá trình
sản xuất, gây ra tác động trực tiếp tới thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng cũng như
hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động và ngược lại. Từ đó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp giữa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo động lực và điều kiện giúp thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời do tính chất ổn định không còn phù hợp với tính chất
vận động của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất, điều này
thường xảy ra trong lịch sử do sự vận động của xã hội. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra
trong điều kiện nhất định và mức giới hạn quy định
Đây được xem là quy luật cơ bản, chi phối sự vận động của xã hội loài người và không ngừng
phát triển phá vỡ sự phù hợp. Khi cả hai không đồng nhất, phù hợp với nhau sẽ tạo ra mâu thuẫn
về mặt xã hội được gọi là mâu thuẫn giai cấp và chỉ mang tính chất tạm thời, khi đó mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất cũ sẽ được giải quyết bằng cách thay thế quan
hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất.
3. Ý nghĩa của phương pháp luận
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, việc nhận thức đúng đắn quy luật này giúp cho việc nắm bắt quan điểm, hoạch
định đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức rõ sự đổi mới trong tư duy kinh tế của
Đảng và Nhà nước ta.Khi có xuất hiện mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với
sự lạc hậu của quan hệ sản xuất thì cần phải có những cuộc cải cách, đổi mới mà cao hơn là một
cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn, từ đó từng bước khôi phục, tạo
lập sự phù hợp giữa chúng.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam
Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm,
đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến
việc nhận thức và vận dụng đúng đắn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn.
Nhờ áp dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã
đem lại nhiều tín hiệu tích cực cho nền kinh tế nước nhà, đó là sự tăng nhanh về năng suất, chất
lượng sản phẩm, khiến cho Tổng sản phẩm trong nước mỗi năm tăng cao, Việt Nam từ một nước
thiếu ăn với nền kinh tế chậm phát triển đã vươn lên thành một nước xuất khẩu lương thực hàng
đầu thế giới cũng như là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Các quan hệ sản xuất ở trình
độ khác nhau được thiết lập đa dạng hóa các hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đã từng
bước tạo nên sự phù hợp với trình độ phát triển không đồng đều về mọi yếu tố trong kết cấu của lực lượng sản xuất.
Vấn đề 24.Nội dung mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng.Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam? 1. cơ sở hạ tầng
Khái niệm cơ sở hạ tầng :
-Cơ sở hạ tầng trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, là tổng hợp những quan hệ sản xuất tạo thành cơ
cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Thông thường, cơ sở hạ tầng của một xã hội ở một giai
đoạn lịch sử nhất định bao gồm ba loại quan hệ sản xuất: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản
xuất tàn dư, quan hệ sản xuất mầm mống (tương lai) – trong đó, quan hệ sản xuất thống trị quy
định, chi phối các quan hệ sản xuất còn lại, tuy nhiên 2 quan hệ sản xuất lại cũng có vai trò nhất định
Cần phân biệt thuật ngữ cơ sở hạ tầng này với tư cách là phạm trù triết học với thuật ngữ cơ sở
hạ tầng thường sử dụng, đó là cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng trong đời sống như điện, đường,
trường, trạm... chúng chủ yếu sử dụng là nền tảng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh
hoạt và nó thuần túy là vật chất hữu hình.
-Nếu xét trong nội bộ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất. Còn nếu xét trong tổng thể các quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất hợp thành
cơ sở kinh tế của xã hội đó. Đây là cơ sở hiện thực để con người dựng nên kiến trúc thượng tầng tương ứng
VD: Nhà cửa, cầu cống, bệnh viện, đường xá, đường sắt, sân bay, cảng biển v.v
2. kiến trúc thượng tầng
- Kiến trúc thượng tầng (thượng tầng các mối quan hệ tư tưởng, chính trị) là
Toàn bộ những quan điểm xã hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v)
Những thiết chế tương ứng (nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v) và
Những mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố đó của kiến trúc thượng tầng. “Toàn bộ những quan
hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một
kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với
cơ sở hạ tầng hiện thực
- Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng
Các yếu tố cơ bản của một kiến trúc thượng tầng gồm:
Những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp đang thống trị.
Tàn dư những quan điểm xã hội của xã hội trước.
Quan điểm và tổ chức xã hội của các giai cấp mới ra đời
VD: Chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, nhà nước, đảng phái,
giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v
3. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng
Tính chất của kiến trúc thượng tầng do tính chất của cơ sở hạ tầng quy định. Trong các quan hệ
xã hội, quan hệ vật chất, kinh tế (cái thứ nhất) quy định quan hệ tinh thần, tư tưởng (cái thứ hai).
Mâu thuẫn trong đời sống vật chất, kinh tế, xét cho đến cùng, quy định mâu thuẫn trong đời sống tinh thần, tư tưởng.
Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến những biến đổi trong kiến trúc thượng tầng. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất làm biến đổi quan hệ sản xuất, kéo theo sự biến đổi của cơ sở
hạ tầng và thông qua sự biến đổi này, làm biến đổi kiến trúc thượng tầng. Trong đó quan điểm
chính trị, pháp luật v.v thay đổi trước; tôn giáo, nghệ thuật v.v biến đổi sau, thậm chí chúng còn
được kế thừa trong kiến trúc thượng tầng mới. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế
– xã hội cụ thể cũng như trong quá trình chuyển hoá từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình
thái kinh tế-xã hội khác, có nghĩa là mỗi hình thái kinh tế – xã hội đều có kiến trúc thượng tầng
và cơ sở hạ tầng của riêng mình (là tính lịch sử – cụ thể của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng).
Sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng phong phú và phức tạp. Bên trong kiến
trúc thượng tầng cũng có những mối liên hệ tác động lẫn nhau, đôi khi dẫn đến những biến đổi
trong kiến trúc thượng tầng mà không do cơ sở hạ tầng gây nên. Nhưng suy cho đến cùng, mọi
sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng đều có cơ sở từ những sự biến đổi trong cơ sở hạ tầng.
- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng.
Trong đời sống xã hội, các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều tác động, bằng nhiều hình thức
khác nhau, theo những cơ chế khác nhau, ở mức độ này hay ở mức độ kia, ở vai trò này hoặc vai
trò khác đối với cơ sở hạ tầng.
Trong mỗi kiến trúc thượng tầng còn kế thừa một số yếu tố của kiến trúc thượng tầng trước. Các
yếu tố chính trị, pháp luật tác động trực tiếp, còn triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa
học v.v tác động gián tiếp đối với cơ sở hạ tầng, bị các yếu tố chính trị, pháp luật chi phối.
Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố vật chất có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ
tầng. Nhà nước kiểm soát xã hội và sử dụng bạo lực, bao gồm những yếu tố vật chất như cảnh
sát, toà án, nhà tù để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Sự tác động tích cực
của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc
thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xóa bỏ cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ. Trong đó, nhà nước, dựa trên hệ tư tưởng, kiểm soát xã
hội và sử dụng bạo lực, bao gồm những yếu tố vật chất như quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù, để
tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Tác dụng những tác động của kiến trúc
thượng tầng lên cơ sở hạ tầng sẽ là tích cực khi tác động đó cùng chiều với sự vận động của các
quy luật kinh tế khách quan, nếu trái lại, thì sẽ gây trở ngại cho sự phát triển sản xuất, cản đường
phát triển của xã hội. Kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh, nhưng không thay thế được yếu
tố vật chất, kinh tế; nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển của kinh tế-xã hội thì sớm
hay muộn, bằng cách này cách khác, kiến trúc thượng tầng đó sẽ được thay thế bằng kiến trúc
thượng tầng mới, thúc đẩy kinh tế-xã hội tiếp tục phát triển.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu này ở Việt Nam
Trước đổi mới (1986): đề cao thái quá vai trò của kiến trúc thượng tầng, chính trị là thống soái,
Nhà nước, cơ quan quản lí can thiệp thô bạo vào kinh tế bằng những mệnh lệnh chủ quan; vi
phạm các quy luật kinh tế khách quan => khủng hoảng kinh tế, xã hội.
-Từ 1986 đến nay: Thực hiện đổi mới toàn diện (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội), lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới về chính trị, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế; giải
quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế quyết định chính trị, những chính trị tác động mạnh mẽ qua lại với kinh tế.
-Thực trạng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay. Về cơ sở hạ tầng
Nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Đất nước đã có
sự thay đổi cơ bản và toàn diện, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Kinh tế tăng trưởng khá
nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại.
-Về kiến trúc thượng tầng:
Qua 25 năm đổi mới: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày
càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề:
Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương
lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong
hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về phẩm chất và
năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu vừa không đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của NN có lúc có nơi chưa
rõ ràng, chồng chéo, buông lỏng.
Ý thức chấp hành PL của cán bộ, nhân dân còn yếu, hệ thống PL chưa đồng bộ, hoàn chỉnh; đạo
đức lối sống sa sút đáng lo ngại, bản chất văn hóa dân tộc bị xói mòn, tội phạm, tệ nạn XH có xu
hướng gia tăng; sự tấn công của các mặt trái cơ chế thị trường cũng như những âm mưu chống
phá của các thế lực thù địch với VN càng ngày càng lộ rõ và gia tăng.
Tệ quan liêu tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng
5. Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay: * Về cơ sở hạ tầng
- Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trọng tâm.
- Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để
rút ngắn quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát
triển kinh tế tri thức,phát triển các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
- Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng
bộ các vấn đề nông nghiệp
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, quan hệ kinh tế với nước ngoài.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực
hiện công bằng ngày một tốt hơn.
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở hữu và bước
đi thích hợp làm cho QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
- Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,trong đó kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước: Nhà nước làm tốtcác chức năng định
hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch,kế hoạch và cơ chế; chính sách trên cơ sở
tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh
* Về kiến trúc thượng tầng
Nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng:
Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, coi xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt
Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến bộ mang đậm bản sắc dân tộc, giải quyết tốt vấn đề
tiến bộ và công bằng xã hội.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tính quốc tế, tính giai cấp, tính dân tộc, tính
nhân dân; trong đó quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân
Xây dựng hệ thống PL đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội để quản lý mọi mặt xã hội văn minh
Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân
chủ tăng cường pháp chế XHCN.
Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, chính quyền, các ban ngành, các tổ
chức quần chúng từ trung ương đến địa phương.
Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng
đập tan mọi âm mưu phá hoại nền kinh tế và lật đổ chế độ.
Vấn đề 25: Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Vì sao nói sự phát triển
của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên?
I,Hình thái kinh tế - xã hội là gì?
-Là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định
của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
- Là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
Là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật
vận động, phát triển khách quan của xã hội
Vì sao nói sự phát triển của các hình thái KT -XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên?
Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân
theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế –
xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,…
Trong đó quan trọng và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa,… của xã hội suy đến cùng, xét đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp
hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội
Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của các
hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài
người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định
chính là sự tác động của các quy luật khách quan.
Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của
nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế – xã hội: hình thái kinh tế – xã hội
nguyên thủy đến hình thái kinh tế – xã hội nô lệ, phong kiến, hình thái kinh tế – xã hội tư bản
chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn
ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất
định, một hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
- Sản xuất vật chất lại luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, sự phát triển đó bao giờ
cũng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động – cái mà con
người thường xuyên sáng tạo, cải tiến và phát triển qua các trình độ khác nhau.
- Do đó, nó kéo theo sự biến đổi, thay thế lẫn nhau của các quan hệ sản xuất và hình thành các
phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Phương thức sản xuất thay đổi kéo theo toàn bộ trật tự xã hội
thay đổi, đó chính là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội. Theo quy luật phát
triển, hình thái kinh tế – xã hội tiến bộ hơn, cao hơn sẽ ra đời thay thế hình thái kinh tế – xã hội
cũ đã tỏ ra lỗi thời và lạc hậu.
Như vậy, sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử là một quá trình
phát triển từ thấp đến cao theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Vấn đề 26.Đấu tranh giai cấp là gì ? Tại sao nói đấu tranh giai cấp
là động lực phát triển của xã hội có giai cấp ?
- Xã hội có giai cấp tất yếu dẫn tới đấu tranh giai cấp. Các giai cấp lỗi thời và phản động vốn sợ
đấu tranh giai cấp của các giai cấp tiến bộ, cách mạng và quần chúng lao động, cho nên xuyên
tạc cuộc đấu tranh này như những cuộc “nổi loạn” mà nguyên nhân là “không thông cảm” giữa
“kẻ có của và người có công”, hay “bị xúi giục làm phản”…
1. Đấu tranh giai cấp là gì?
-Khái niệm đấu tranh giai cấp được V.I.Lênin định nghĩa một cách khoa học như sau: “Đấu tranh
giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của
quần chúng bị tước các quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức
và ăm bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống
những người hữu sản hay giai cấp tư sản” .
-Một là, cũng như giai cấp trong định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin, đấu tranh giai cấp không phải
là xung đột cá nhân hay xung đột của các nhóm nhỏ, mà là đấu tranh trên quy mô rộng lớn của
xã hội (đặc trưng về lượng).
-Hai là, đấu tranh giai cấp có nguyên nhân xã hội từ xung đột về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh
tế giữa các giai cấp đối kháng – dù cho các thành viên của các giai cấp nhận thức được hay
không. Xét đến cùng, cội nguồn vật chất của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn ngày càng sâu sắc
và chín muồi giữa lực lượng sản xuất mới đòi được giải phóng với quan hệ sản xuất lỗi thời. Như
vậy, nếu đặc trưng bản chất của giai cấp (được phân tích từ định nghĩa của V.I.Lênin) vốn mang
tính vật chất – khách quan, thì đấu tranh giai cấp qua định nghĩa vừa được phân tích cũng mang
tính vật chất – khách quan một cách tương ứng. Nói vắn tắt: đấu tranh giai cấp là biểu hiện tất
yếu về mặt xã hội của mâu thuẫn trong lòng phương thức sản xuất.
-Ba là, trong định nghĩa đấu tranh giai cấp, V.I.Lênin không quên nhấn mạnh cuộc đấu tranh
giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản như là cuộc đấu tranh cao nhất, điển hình nhất và cũng là
cuối cùng của lịch sử đấu tranh giai cấp. Các cuộc đấu tranh giai cấp trước kia từ thời chiếm hữu
nô lệ tới thời phong kiến là kém điển hình, vì thường diễn ra dưới hình thức đẳng cấp hơn là giai cấp.
-Bốn là, trong những bối cảnh lịch sử nhất định, có thể có đối kháng về lợi ích giữa các giai cấp,
các tập đoàn bóc lột – thống trị, nhưng chúng vẫn có thể dễ dàng cấu kết với nhau để đàn áp cuộc
đấu tranh chính nghĩa của quần chúng lao động và các dân tộc bị áp bức.
-Năm là, cần lưu ý liên minh giai cấp là vấn đề đặc biệt quan trọng trong đấu tranh giai cấp, là
một hình thức tập hợp lực lượng thêm bạn, bớt thù trong đấu tranh giai cấp, đặc biệt khi mà đấu
tranh giai cấp phát triển tới giai đoạn quyết định: nó có thể và cần phải lôi cuốn ngày càng đông
đảo các giai cấp, tầng lớp vào bên này hay bên kia trận tuyến. Có liên minh tạm thời giữa các
giai cấp hay tầng lớp có lợi ích căn bản đối lập nhau. Có liên minh lâu dài giữa các giai cấp hay
tầng lớp có lợi ích căn bản phù hợp nhau. Liên minh giai cấp cùng với liên minh dân tộc có thể
diễn ra từ quy mô trong nước tới quốc tế để hình thành nên các tầng mặt trận thống nhất dân tộc,
khu vực và toàn thế giới. Đương nhiên, không phải vì vậy mà ảo tưởng rằng đấu tranh giai cấp bị
xóa nhòa trong các liên minh hay trong các mặt trận. Xưa nay, không một liên minh hay mặt trận
nào khiến cho các giai cấp khác nhau tự nguyện vứt bỏ lợi ích cơ bản sống còn của mình.
2. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển chủ yếu của xã hội có giai cấp
CNDV lịch sử khẳng định động lực phát triển chân chính và chủ yếu nhất của lịch sử xã hội có
giai cấp là đấu tranh cách mạng của các giai cấp bị áp bức, bị bóc lột chống lại các giai cấp thống
trị, áp bức, bóc lột. Cùng với thời gian, cuộc đấu tranh này sẽ phát triển tới đỉnh cao là các cuộc
cách mạng xã hội. Kết cục vật chất của những biến cố lịch sử phi thường này là sự chiến thắng
của các quan hệ sản xuất mới đối với các quan hệ sản xuất cũ, giải phóng và phát triển vượt bậc
lực lượng sản xuất nói riêng, thúc đẩy tiến bộ xã hội nói chung trên mọi mặt của đời sống xã hội.
Vai trò động lực của đấu tranh giai cấp không chỉ thể hiện rõ nhất qua các cuộc cách mạng xã
hội long trời lở đất, mà còn được triết học Mác-Lênin nhìn nhận dưới một loạt các khía cạnh dưới đây:
Thứ nhất, đấu tranh giai cấp còn là động lực phát triển xã hội trong thời bình. C.Mác nêu ví
dụ điển hình ở nước Anh, rằng “… kể từ 1925 (nổ ra khủng hoảng “thừa” đầu tiên trong lịch sử
phát triển TBCN – chú thích của chúng tôi), sự phát sinh và sử dụng máy móc chỉ là do kết quả
của đấu tranh của các chủ xí nghiệp và công nhân” . Xét đến cùng thì điều đó vẫn đúng đối với
cả cách mạng khoa – công nghệ trong điều kiện của CNTB hiện đại ngày nay.
Thứ hai, các cải cách xã hội tiến bộ nhất định mà các giai cấp thống trị lỗi thời thực hiện
không phải là “ban ơn”, mà chính là kết quả đấu tranh bền bỉ của quần chúng lao động cùng với
các lực lượng tiến bộ trong nước và trên thế giới.
Thứ ba, đấu tranh giai cấp đặc biệt để lại những dấu ấn sâu sắc trong lĩnh vực tinh thần tinh tế
và nhạy cảm của đời sống xã hội là lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, và cũng là động lực mạnh mẽ của lĩnh vực này.
Thứ tư, đấu tranh giai cấp chẳng những có tác động cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng lỗi
thời và phản động, mà còn cải tạo chính bản thân các giai cấp cách mạng.
Thứ năm, đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất của xã hội có giai cấp, nhưng là
động lực mạnh mẽ nhất và trực tiếp nhất của xã hội có giai cấp. Các cuộc đấu tranh khác như đấu
tranh dân tộc, đấu tranh tôn giáo… như nhận xét của Ăngghen – đều phản ánh ít nhiều đấu tranh giai
3.Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở thời kì quá độ chủ nghĩa xã hội.
Ở những nước giai cấp vô sản đã lên nắm chính quyền thì cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp bóc lột vẫn tiếp tục vì:
Sự chống đối của giai cấp bóc lột đã mất chính quyền trở nên đặc biệt gay gắt hòng giành lại
chính quyền và những lợi ích, của cải đã mất.
Trong một thời gian dài sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, những cơ sở vật chất để
nảy sinh giai cấp bóc lột và sự phân chia giai cấp vẫn tồn tại.
Do vậy, giai cấp công nhân phải tổ chức xây dựng một hệ thống quan hệ xã hội mới theo yêu cầu
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại và định hướng các thành phần kinh tế đi lên xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, giai cấp vô sản cũng phải từng bước khắc phục những tư tưởng tâm lý, tập quán văn
hóa còn lạc hậu của xã hội cũ còn in sâu vào đời sống tinh thần của xã hội.
Bọn đế quốc, các thế lực thù địch, phản động ở bên ngoài luôn câu kết với các lực lượng chống
đối ở trong nước hòng âm mưu lật đổ chính quyền của nhân dân, can thiệp phá hoại những thành
quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong quá trình quá độ hiện nay cũng là một tất yếu. Do bối cảnh
lịch sử của quá trình hình thành giai cấp và điều kiện mới của xu thế quốc tế hóa, cuộc đấu tranh
giai cấp ở Việt Nam có những đặc điểm riêng.
Vấn đề 27.PHÂN TÍCH NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, ĐẶC TRƯNG
VÀ CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC
Nhà nước là một hiện tượng xã hội, tồn tại trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Do nhận thức, lợi ích giai cấp khác nhau, phương pháp tiếp cận khác nhau nên trong lịch sử tư
tưởng của nhân loại đã có nhiều cách hiểu khác nhau về nhà nước xoay quanh những vấn đề cơ
bản như: nguồn gốc, bản chất, đặc trưng và chức năng của nhà nước.
1. Nguồn gốc của nhà nước
-Nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là nguyên nhân kinh tế, bắt nguồn từ sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Nguồn gốc trực tiếp dẫn đến sự ra đời và tồn tại của nhà nước chính
là sự xuất hiện chế độ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được.
Lịch sử cho thấy rằng, xã hội cộng sản nguyên thủy dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp và chưa có nhà nước. Tổ chức đầu tiên của xã hội
loài người, phù hợp với tình trạng kinh tế còn thấp kém lúc bấy giờ là chế độ thị tộc, bộ lạc.
Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc là những tộc trưởng, hội đồng các tộc trưởng; những người và
những cơ quan này do nhân dân bầu ra, họ chịu trách nhiệm trước nhân dân, coi sóc các công
việc chung và có thể bị bãi miễn nếu không còn sự tín nhiệm trong nhân dân
Sự phát triển của lực lượng sản xuất vào thời kỳ cuối của xã hội nguyên thủy đã dẫn tới chế
độ tư hữu xuất hiện, và xã hội bắt đầu phân chia thành những giai cấp đối kháng: giai cấp chủ nô
và giai cấp nô lệ; quan hệ người áp bức người thay thế quan hệ bình đẳng, hợp tác tương trợ. Sự
đối kháng giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột ngày càng sâu sắc và không thể điều hòa
được. Để bảo vệ địa vị thống trị của mình, để duy trì ách áp bức bóc lột đối với những người nô
lệ, giai cấp chủ nô đã lập ra bộ máy bạo lực, trấn áp buộc giai cấp nô lệ phải phục tùng tuân theo
những trật tự do mình đặt ra, bộ máy đó là nhà nước.
Nhà nước đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Tiếp đó là nhà nước
phong kiến, nhà nước tư sản. Sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng nhà nước không phải là cơ
quan để điều hòa mâu thuẫn giai cấp; mà ngựơc lại, nhà nước ra đời chính là do mâu thuẫn giai
cấp ngày càng sâu sắc không thể điều hòa được. Ở đâu, lúc nào mà mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hòa được thì nhà nước xuất hiện. Nhà nước xuất hiện và tồn tại không phải do ý muốn chủ
quan của một ai hay của một giai cấp nào. Trái lại, sự xuất hiện nhà nước là một tất yếu khách
quan để “khống chế những đối kháng giai cấp”, để làm “dịu” sự xung đột giai cấp, làm cho sự
xung đột giai cấp diễn ra trong vòng “trật tự”; trật tự ấy hoàn toàn cần thiết để duy trì chế độ
kinh tế, trong đó giai cấp này bóc lột giai cấp khác. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai
đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
2. Bản chất của nhà nước
Nhà nước ra đời trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong
xã hội có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Theo Ph. Ăngghen, nhà nước “chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp
một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ”.
Theo Mác, nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một giai cấp
này đối với một giai cấp khác; đó là sự kiến lập “trật tự”, trật tự này hợp pháp hóa và củng cố sự
áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp.
Theo quan điểm của CN Mác-Lênin, thì bản chất nhà nước có 02 thuộc tính:
a) Bản chất giai cấp của nhà nước:
Nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp, và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai
cấp sâu sắc, thể hiện ở chỗ nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt, là công cụ sắc bén nhất
để thực hịên sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì trật tự xã hội.
b) Bản chất xã hội của nhà nước:
Thể hiện qua vai trò quản lý xã hội của Nhà nước, Nhà nước phải giải quyết tất cả các vấn đề nảy
sinh trong xã hội, bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, phục vụ những nhu cầu mang tính chất
công cho xã hội như: xây dựng trường học, bệnh viện, đường xá, giải quyết các tệ nạn xã hội…
Như vậy, về bản chất, nhà nước là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế
nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Nhà nước dù có
tồn tại dưới hình thức nào thì cũng phản ánh và mang bản chất giai cấp.
3. Đặc trưng của nhà nước
Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Đặc trưng này phân biệt sự khác
nhau của các tổ chức nhà nước với tổ chức thị tộc, bộ lạc trước kia. Các tổ chức thị tộc, bộ lạc
được hình thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống, còn tổ chức nhà nước gắn liền với việc
phân chia dân cư theo phạm vi lãnh thổ mà họ cư trú. Nói cách khác, quyền lực nhà nước có hiệu
lực với tất cả các thành viên ở trong một biên giới quốc gia, bất kể họ thuộc quan hệ huyết thống nào.
Bộ máy quyền lực chuyên nghiệp của nhà nước mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên
trong xã hội. Đó là những đội vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát…), những công cụ (tòa án,
trại giam…) và một bộ máy đông đảo các viên chức được trả lương để chuyên làm công việc hành chính cai trị.
Tồn tại một hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy nhà nước hoạt động. Nhà nước không thể tồn tại,
nếu không dựa vào hệ thống thuế khóa. Nói cách khác, về cơ bản mọi nhà nước đều tồn tại được
nhờ vào sự chu cấp của nhân dân bằng con đường cưỡng bức hay tự nguyện hoặc phối hợp cả hai.
Chủ quyền quốc gia thể hiện đặc trưng về quyền lợi tuyệt đối của nhà nước trong một lãnh thổ.
Nhà nước là người đại diện cho sự toàn vẹn bên trong lãnh thổ và sự độc lập đối với bên ngoài.
Chủ quyền quốc gia còn thể hiện ở việc nhà nước thay mặt toàn dân tham gia các quan hệ đối
ngoại, tham gia các công ước quốc tế, v.v. Nhà nước cai trị xã hội bằng pháp luật. Nhà nước là
cơ quan duy nhất có quyền làm ra luật, tổ chức thực hiện luật, giám sát và xét xử đối với những vi phạm pháp luật.
Đây là đặc quyền của Nhà nước mà các tổ chức xã hội khác không có. Pháp luật do nhà nước đặt
ra, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, nhằm điều chỉnh mọi quan hệ xã hội theo định hướng và
mục tiêu xác định. Tính cưỡng chế của pháp luật thể hiện sức mạnh cưỡng chế của nhà nước đối với toàn bộ xã hội.
4. Chức năng nhà nước
Về bản chất, nhà nước là công cụ thống trị của giai cấp thống trị, song để duy trì xã hội trong
vòng “trật tự”, nhà nước đồng thời phải thực hiện nhiều chức năng như: chức năng thống trị và
chức năng xã hội, chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp nói lên rằng bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ
chuyên chính của một giai cấp, nó sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, mọi biện pháp có thể có để bảo
vệ sự thống trị của giai cấp đó.
Chức năng xã hội của nhà nước nói lên rằng bất kỳ nhà nước nào cũng phải thực hiện việc
quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, phải lo một số công việc chung của toàn
xã hội; trong giới hạn có thể được, phải thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư
nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Mối quan hệ giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội của nhà nước: Do bản
chất giai cấp, nhà nước bao giờ cũng đặt chức năng thống trị chính trị của mình lên hàng đầu.
Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước như một công cụ thống trị để duy trì quyền thống trị của
mình, bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp mình.
Chính vì vậy, chức năng thống trị chính trị của nhà nước giữ vai trò quyết định, chi phối và định
hướng chức năng xã hội của nhà nước.
Chức năng đối nội có hai mặt:
Một là, duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và các trật tự xã hội khác theo luật pháp của giai
cấp thống trị; đồng thời sử dụng các phương tiện khác như bộ máy thông tin, tuyên truyền văn
hóa, giáo dục… để xác lập và củng cố hệ tư tưởng của giai cấp thống trị biến nó thành tư tưởng thống trị trong xã hội.
Hai là, quản lý và giải quyết các nhu cầu của xã hội (cũng còn gọi là chức năng quản lý công cộng).
Hai mặt của chức năng đối nội có quan hệ biện chứng, trong đó mặt thống trị giai cấp là mục
đích, còn mặt xã hội là cơ sở, là điều kiện để thực hiện chức năng giai cấp.
Chức năng đối ngoại thể hiện quan hệ của nhà nước với các quốc gia khác trên trường quốc tế.
Trong chức năng này, tùy bản chất của từng nhà nước mà có thể là việc tổ chức toàn dân chống
lại ngoại xâm, phòng thủ đất nước. Cũng có thể là việc mở rộng lãnh thổ bằng cách phát động
chiến tranh xâm lược, tìm kiếm thị trường, thuộc địa v.v. Ngày nay, trong xu thế hòa bình, hợp
tác, chức năng đối ngoại thể hiện ở việc tổ chức, thực hiện các quan hệ hợp tác về từng mặt hay
nhiều mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa…), song phương hay đa phương.
Chức năng đối nội cũng như chức năng đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai
cấp thống trị. Nếu quyền lợi của mình bị trực tiếp đe doạ bởi phong trào đấu tranh của quần
chúng nhân dân, thì giai cấp bóc lột sẵn sàng thỏa hiệp, thậm chí đầu hàng bọn xâm lược bên
ngoài để đối phó với cuộc nổi dậy của nhân dân trong nước. Chúng là một thể thống nhất, trong
đó, chức năng đối nội là chủ yếu và có ý nghĩa quyết định; chức năng đối ngoại là kế tục chức
năng đối nội, phục vụ cho đối nội. Do đó, đường lối đối nội của một nhà nước quyết định đường
lối đối ngoại của nhà nước đó.
Vấn đề 28.Cách mạng xã hội là gì ? Vai trò của cách mạng xã hội
đối với sự vận động phát triển của xã hội ?
1. Khái niệm cách mạng xã hội:
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính bước ngoặt và căn bản về chất trong
toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội
lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình độ phát triển cao hơn.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời và thiết lập một
chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách mạng.
Quan niệm trước Mác:
Trong lịch sử nhân loại không phải chỉ trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp mới có
cách mạng xã hội. Theo Ph. Ăngghen, trong xã hội cộng sản nguyên thủy cũng đã diễn ra cách
mạng xã hội. Sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy sang hình thái
kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ là một bước phát triển nhảy vọt làm thay đổi về chất mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Đó là một cuộc cách mạng xã hội thật sự, thậm chí, theo Ph. Ăngghen,
sự thay thế chế độ mẫu quyền bằng chế độ phụ quyền cũng là một cuộc cách mạng – “một trong
những cuộc cách mạng triệt để nhất mà nhân loại đã trải qua. Quan niệm sau Mác
-Trong phong trào công nhân quốc tế đã từng có khuynh hướng tả khuynh, khi chỉ coi trọng
cách mạng xã hội mà coi thường cải cách xã hội và khuynh hướng hữu khuynh, chỉ coi trọng cải
cách xã hội, sợ cách mạng xã hội nổ ra sẽ có nhiều tổn thất. Hai khuynh hướng này đều bị V.I.
Lênin phê phán, xem đó là chủ nghĩa xét lại hoặc là chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân thế giới
Ví dụ về cách mạng xã hội: Khi lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản ngày phát triển đến
trình độ xã hội hoá cao thì càng làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa càng thêm sâu
sắc. Tính mùi thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện trên lĩnh vực
chính trị – xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư sản
ngày càng trở nên quyết liệt. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện
ngay từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành. Khi Đảng Cộng sản ra đời toàn bộ hoạt động của Đảng
đều hướng vào lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản xác lập nhà nước của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động. Việc thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là sự
mở đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa là chế độ xã hội phát triển cao nhất, có quan hệ sản
xuất dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển, tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn so với cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản;
có kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân với trình độ xã hội hoá ngày càng cao.
Vai trò của cách mạng xã hội với sự vận động phát triển của xã hội
- Cách mạng xã hội góp phần vào quá tình thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới, tiến bộ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mới thay thế được hình thái kinh tế – xã hội
cũ bằng hình thái kinh tế – xã hội mới cao hơn.
Cách mạng xã hội là phương thức dẫn đến sự thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội xét cho cùng
về mặt kinh tế, là giải quyết sự xung đột giữa lực lượng sản xuất đang phát triển với quan hệ sản
xuất cũ đã lạc hậu và lỗi thời. Về chính trị cách mạng xã hội giải quyết sự xung đột giữa kiến
trúc thượng tầng cũ đã lỗi thời với cơ sở kinh tế mới đã được hình thành
Cách mạng xã hội là bước chuyển vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh tế - chính trị – văn hoá – tư tưởng.
-Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, thực hiện mục đích cao cả là
giới phong giai cấp vô sản và quần chúng lao động khác. Đó cũng là sự giải phóng con người nói
chung khỏi sự bóc lột, áp bức và bất công.
Vấn đề 29.Phân tích bản chất con người theo quan niệm của triết học Mác – Lênin
1. QUAN ĐIỂM VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI CỦA NHỮNG NHÀ TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC
Các nhà triết học cổ điển Đức trước kia nói chung, từ Cartơ đến Heghen nói riêng đã phát triển
quan điểm triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Heghen quan niệm con
người là sản phẩm của ý niệm, tức là con người do thần thánh hoặc thượng đế sinh ra, cuộc sống
con người do đấng tối cao sắp đặt. Đối lập với Hêghen, Phơbách lại đưa ra quan điểm duy vật,
cho rằng con người không phải là nô lệ của thượng đế hay tinh thần tuyệt đối, mà là sản phẩm
của tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển của tự nhiên, là cái cao quý nhất mà giới tự nhiên
có. Ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia
cắt của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích
con người trong mối liên hệ cộng đồng thì Phơbách lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.
Các quan niệm nói trên đều tuyệt đối hóa mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hóa
mặt sinh học mà không thấy mặt xã hội của con người. Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục
những mặt hạn chế đó, đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học
thuyết triết học trước đây để đưa ra quan niệm về bản chất con người.
2. Quan điểm của mac về bản chất con người
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học. Với triết học Mác –
Lênin, lần đầu tiên vấn đề con người được giải quyết một cách đúng đắn trên quan điểm biện
chứng duy vật. Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ cao nhất của giới
tự nhiên và lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả thành tựu của văn minh và văn hóa
A. CON NGƯỜI LÀ THỰC THỂ SINH HỌC – XÃ HỘI
Dựa trên kết quả của những thành tựu của khoa học tự nhiên, triết học Mác khẳng định: Con
người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên,vừa là sản phẩm hoạt động chính của
bản thân con người. Con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Là thực thể sinh học, con người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên (theo thuyết
tiến hóa của ĐacUyn). Vì con người là sản phẩm của quá trình tiến hóa tự nhiên nên con người là
một bộ phận tất yếu, không tách rời của giới tự nhiên. Ph.Angghen cho rằng : “Bản thân cái sự
kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn
toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật” .
Hay nói cách khác, Tiền đề vật chất đầu tiên quyết định cho sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là “thân thể vô cơ
của con người”. Con người tồn tại được trước tiên phải có cơ thể sống, trong khi đó, cơ thể sống
là một bộ phận của tự nhiên, là sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Mặt khác, con
người phải đấu tranh để sinh tồn và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên, các quy luật sinh
học (Ví dụ: quy luật sinh tử, quy luật về quan hệ giữa cơ thể và môi trường, quy luật dinh dưỡng,
quy luật di truyền và biến dị, quy luật đồng hóa, dị hóa…). Tuy nhiên, con người không chỉ sống
dựa vào tư nhiên mà còn cải biến tự nhiên dựa trên các quy luật khách quan, đây cũng là một
trong những điểm đặc biệt để phân biệt con người với các loài vật khác.
Tuy nhiên, chúng ta không được tuyệt đối hóa điều đó. Các đặc tính sinh học, bản năng sinh học
hay sự sinh tồn thể xác không phải là những cái duy nhất quy định bản chất con người, mà chúng
ta còn phải nhắc đến phương diện xã hội. Bởi lẽ, đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người
với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Con người là một thực thể xã hội có các hoạt
động xã hội mà điển hình chính là hoạt động lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả
năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Con người sống bằng lao động
sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Vì
vậy, ta hoàn toàn có thể khẳng định: Lao động là điều kiện kiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết
định sự hình thành và phát triển của con người.
Mặt khác, tính xã hội của con người chỉ có trong “xã hội loài người”, con người không thể tách
khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Hoạt động của con người
gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho xã hội như ngôn
ngữ giao tiếp, lương tâm, ý thức con người,…… Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó
mà cũng có sự thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của xã hội.
Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội. Hai mặt này vừa đối
lập nhau, vừa quy định ràng buộc và làm tiền đề cho nhau, trong đó mặt tự nhiên quyết định sự
tồn tại của con người, còn mặt xã hội quyết định bản chất con người.
B. Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội
Có thể nói, con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với
tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó đều
mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất
cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy,
để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm
Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội ”. Mác cho rằng xem xét yếu tố cấu thành bản chất con người phải vạch ra bản chất con
người trong tính hiện thực của nó.
Đây là một luận đề hết sức khoa học, đầy đủ. Luận đề khẳng định rằng, không có con người trừu
tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định,
sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Khi nói con người thì
không phải là nói con người trong trạng thái tự nhiên thuần tuý, mà là con người hoạt động thực
tiễn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi đời sống xã hội đồng thời cũng biến
đổi chính bản thân mình. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân
tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...), con người mới bộc
lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Tất cả các quan hệ đó đều góp phần vào việc hình thành
bản chất con người, tùy theo thời gian cường độ tác động mà mức độ ảnh hưởng khác nhau,
nhưng suy cho cùng thì các quan hệ kinh tế hiện tại, trực tiếp, ổn định sẽ giữ vai trò quyết định.
Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Mác về bản chất con người. Trong điều kiện đó sự tác động
giữa con người và hoàn cảnh cụ thể tạo nên những bản sắc riêng của con người mỗi thời đại.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự
nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với
mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã
hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta
nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
C. CON NGƯỜI VỪA LÀ CHỦ THỂ CỦA LỊCH SỬ, VỪA LÀ SẢN PHẨM CỦA LỊCH SỬ
Lịch sử là quá trình đan xen, nối tiếp nhau với tất cả những bảo tồn và biến đổi xảy ra trong quá
trình ấy. Lịch sử là hoạt động có ý thức của chính bản thân con người. Con người tách khỏi động
vật như thế nào thì họ bước vào lịch sử như thế ấy. Lịch sử xã hội loài người hình thành khi con
người biết chế tạo ra công cụ lao động, từ đó không còn lệ thuộc vào tự nhiên, tách mình ra khỏi
thế giới loài vật, chuyển sang thế giới loài người và lịch sử xã hội bắt đầu. Để tồn tại và phát
triển, con người phải lao động, tạo ra của cải vật chất để nuôi sống mình và xã hội. Sản xuất ra
của cải vật chất là đặc trưng riêng chỉ có ở con người. Đó là quá trình lao động có mục đích và
không ngừng sáng tạo của con người, tạo của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại của xã hội và
thúc đẩy xã hội phát triển. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con
người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Vì thế, con người là chủ
thể sáng tạo nên các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội cũng như là động lực của các cuộc
cách mạng xã hội. Có thể nói, con người là chủ thể của lịch sử.
Con người làm ra lịch sử, nhưng không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình mà phải dựa
trên những điều kiện có sẵn do quá khứ để lại. Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã
hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu
dài của giới hữu sinh. Con người tồn tại và phát triển trong một hệ thống môi trường xác định, là
sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội. Con người sống, hoạt động trong một xã hội nhất
định, một thời đại nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định, nghĩa là những con người
cùng với xã hội mình khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển ý thức. Trên thực tế, con
người lại là những con người ở những thời đại khác nhau, các dân tộc khác nhau, các giai cấp,
các nhóm xã hội khác nhau, nên trong họ, cái tự nhiên tồn tại trong sự tác động của cái xã hội.
Như vậy, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử.
-Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN + LIÊN HỆ THỰC TẾ
Trong tất cả những nghiên cứu về bản chất con người cho đến thời điểm hiện tại thì quan điểm
triết học Mác-Lênin đã giải quyết vấn đề một cách đúng đắn và đầy đủ nhất trên quan điểm biên
chứng duy vật. Theo ông, con người là thực thể sinh học-xã hội; là chủ thể và là sản phẩm của
lịch sử. Song trong đời sống xã hội, khi xem xét con người phải đặt nó trong tổng thể các quan
hệ xã hội, bởi “ Trong tính hiện thực, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.”
Quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con người mang lại ý nghĩa vô cùng to lớn trên
nhiều phương diện. Nghiên cứu về vấn đề này, con người sẽ tiến gần hơn một bước trong việc
khám phá về chính mình, từ đó ứng dụng vào đời sống ở những lĩnh vực khác nhau như: chính
trị, kinh tế, xã hội,….. Hiểu rõ hơn về bản chất của bản than và những mối quan hệ liên quan ,
con người sẽ biết tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những mối quan hệ đó, từ đó có
động lực phát triển bản thân nói riêng cũng như cộng đồng, xã hội nói chung bền vững đi lên.
Con người là một thành viên, là một tế bào của xã hội, của đất nước. Con người sẽ phát triển tốt
khi được ở trong một môi trường điều kiện xã hội tốt, nhưng môi trường điều kiện xã hội không
tự nhiên xuất hiện mà nó là kết quả hoạt động của con người. Vì thế, muốn được phát triển bản
thân một cách toàn diện, con người trước hết cần phải có trách nhiệm bảo vệ và phát triển xã hội bằng cách:
Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung, luôn biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân.
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa tôn trọng kỷ cương
phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất lao động cao vì
lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Vấn đề 30: Trình bày vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ
trong lịch sử. Ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”.
1. Khái niệm quần chúng nhân dân
Chính hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân hay một
tổ chức nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình đã làm cho lịch sử vận động và phát triển
qua các giai đoạn khác nhau.
Tuỳ vào điều kiện lịch sử xã hội, tuỳ thuộc vào nhiệm vụ đặt ra cho mỗi thời đại mà quần chúng
nhân dân bao hàm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp khác nhau.
Như vậy, quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành
phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá
nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi các đặc trưng sau:
Những người lao động ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ
bản của quần chúng nhân dân. Như vậy, quần chúng nhân dân có số lượng đông đảo.
Quần chúng nhân dân – những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.
Những giai cấp những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua các hoạt động của
mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Rõ ràng, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động, biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
2. Vai trò của quần chúng nhân dân Trước Mác :
Các trường phái triết học trước Mác đều chưa nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân:
Họ phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò của quần chúng nhân dân hoặc cho rằng lịch sử phát triển của
xã hội loài người là do lực lượng siêu nhiên quyết định: tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong
lịch sử là do ý chí của đấng tối cao, do mệnh trời tạo nên và trao quyền cho các cá nhân thực
hiện. Chủ nghĩa duy tâm trong triết học đề cao, tuyệt đối hoá vai trò của các cá nhân lãnh tụ, còn
quần chúng nhân dân chỉ là công cụ, là phương tiện để sai khiến. Chủ nghĩa duy vật trước Mác
vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về xã hội khi cho rằng: nhân tố quyết định sự phát triển
của xã hội là tư tưởng, đạo đức của các vĩ nhân, và chỉ có họ mới sớm nhận thức được chân lý
vĩnh cửu, dẫn dắt quần chúng. Có nhà tư tưởng lại đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, phủ
nhận vai trò của các vĩ nhân, hoặc không lý giải một cách khoa học vai trò của quần chúng nhân dân. Mác :
Khác với quan niệm của các nhà triết học trước đây , chủ nghĩa Mác khẳng định, quần chúng
nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, giữ vai trò quyết định đối với tiến trình lịch
sử. Bởi vì: một lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được chứng minh thông qua
sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân dân. Hơn nữa tư tưởng, tự bản thân nó không làm
biến đổi xã hội mà phải thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng
nhân dân, để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội.
(*)Vai trò sáng tạo chân chính ra lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung sau:
-Thứ nhất, quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định trong sản xuất ra của cải vật chất, đảm
bảo cho xã hội tồn tại, phát triển.
Vì sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, mà quần
chúng nhân dân là lực lượng cơ bản để tiến hành sản xuất vật chất, làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những sản phẩm vật chất đó
chỉ có thể được đáp ứng thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất đông đảo là lao động trí óc và
lao động chân tay: họ là người sáng tạo, cải tạo và trực tiếp sử dụng công cụ sản xuất tác động
vào đối tượng lao động tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Cách mạng khoa học kỹ thuật
hiện nay có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song, vai trò
của khoa học chỉ có thể được phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao
động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội của thời đại kinh tế
trí thức. Bằng hoạt động thực tiễn của mình, quần chúng nhân dân trực tiếp biến đường lối chính
sách kinh tế thành hiện thực.
Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
-Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử nhân
loại đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động
đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết
định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.
Nguyên nhân suy đến cùng của cuộc cách mạng xã hội là giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của nhân dân. Trong
các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh
tế xã hội khác, nhân dân lao động là lực lượng đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng
là sự nghiệp của quần chúng. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế,
chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Thực tế đã chỉ
rõ không có cuộc cách mạng xã hội nào mà chỉ có cá nhân lãnh tụ, không có quần chúng nhân dân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần. Vì quần chúng
nhân dân là người sáng tạo ra đời sống vật chất thì cũng quyết định đời sống tinh thần của xã hội.
Triết học Mác không phủ nhận vai trò của các danh nhân văn hóa, nhưng khẳng định vai trò
quyết định của quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát
triển của khoa học nghệ thuật, văn học đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào thực tiễn.
Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức…
của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa tinh
thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là
nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị
văn hóa chỉ có thể được trường tôn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận, truyền
bá sâu rộng và gìn giữ để trở thành giá trị phổ biến 3. Khai niệm lãnh tụ
Trong sự phát triển của lịch sử, khi phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân hình
thành và phát triển dẫn tới sự xuất hiện của lãnh tụ. Đó là những cá nhân kiệt xuất.
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất, trưởng thành từ phong trào của quần chúng, nắm bắt được
những vấn đề căn bản nhất trong một lĩnh vực nhất định của hoạt động thực tiễn và lý luận. Đó là
những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật.
Như vậy, để trở thành lãnh tụ phải là người có phẩm chất cơ bản sau:
Có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân
dân vào nhiệm vụ dân tộc, quốc tế và thời đại.
Gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của dân tộc, quốc tế thời đại. Ở
những giai đoạn lịch sử khác nhau, dân tộc khác nhau, thời kỳ khác nhau khi lịch sử đặt ra những
nhiệm vụ cần giải quyết thì tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ từ phong trào quần chúng nhân
dân, đáp ứng với yêu cầu của lịch sử. Lênin viết “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ
chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
Lãnh tụ xuất hiện là tất yếu vì: xã hội loài người vận động phát triển theo các qui luật khách quan
vốn có của nó. Hoạt động của con người chỉ thực sự có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xã hội
khi họ nắm được và hành động theo quy luật khách quan đó. Nhưng trình độ nhận thức của con
người hoàn toàn khác nhau. Không phải bất cứ ai cũng nắm được quy luật vận động của lịch sử.
Trong quá trình phát triển lâu dài của phong trào quần chúng, khi lịch sử đòi hỏi, sẽ xuất hiện
những cá nhân đáp ứng được yêu cầu đó. Lãnh tụ xã hội là tất yếu.
4. Vai trò của lãnh tụ
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân ở mỗi giai đoạn cách mạng xã hội, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu sau:
Trước hết, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật
khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trên cơ sở đó mà định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hoạt động cách mạng. Từ
đó tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí hành động của quần
chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng để ra.
Từ nhiệm vụ của lãnh tụ, thấy rõ vai trò của lãnh tụ đối với phong trào quần chúng như sau :
Một là, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ xã hội: nắm bắt được qui luật vận động khách quan
của lịch sử thì lãnh tụ sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua lãnh đạo phong trào quần
chúng; ngược lại, nếu không nắm bắt được những qui luật của lịch sử xã hội thì lãnh tụ sẽ kìm
hãm sự phát triển của xã hội, thậm chí có thể dẫn lịch sử trải qua những bước quanh co, phức tạp.
Hai là, lãnh tụ với vai trò của mình sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn của tổ
chức đó. Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức điều khiển và quản lý các tổ chức chính trị, xã hội, có
vai trò và ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại, phát triển và hoạt động của các tổ chức ấy.
Ba là, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó.
Không có lãnh tụ cho mọi thời đại, chỉ có lãnh tụ gắn với một thời đại nhất định. Sau khi hoàn
thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu tượng tinh thần mãi mãi tồn tại trong nhân dân.
5. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là quan hệ biện chứng, nó được biểu hiện:
Thứ nhất, là sự thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có phong trào cách
mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đông đảo
quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh tụ. Những cá nhân kiệt xuất, ưu tú là sản
phẩm của thời đại. Vì vậy họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Sự
thống nhất về các mục tiêu cách mạng, hành động cách mạng giữa quần chúng nhân dân là lãnh
tụ do chính quan hệ lợi ích qui định. Lợi ích biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau: lợi ích
kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hóa… quan hệ lợi ích là cầu nối, là nội lực để liên kết các cá
nhân cũng như quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất về ý chí và hành động. Lợi ích
đó cũng vận động, phát triển tuỳ thuộc vào thời đại, vào địa vị lịch sử của giai cấp cầm quyền mà
lãnh tụ làm đại biểu, phụ thuộc vào khả năng nhận thức và vận dụng để giải quyết mối quan hệ
giữa các cá nhân, giai cấp và tầng lớp xã hội. Như vậy, mức độ thống nhất về lợi ích là cơ sở qui
định sự thống nhất hành động giữa lãnh tụ và quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Thứ ba, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau của
sự tác động đến lịch sử. Cùng đóng vai trò thúc đẩy lịch sử phát triển, nhưng quần chúng nhân
dân là lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ là người định hướng dẫn dắt phong trào,
thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Bởi vậy, quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ là quan hệ biện chứng vừa có sự
thống nhất vừa có sự khác biệt.
Ý nghĩa phương pháp luận, Liên hệ thực tế
Phong trào quần chúng quyết định sức mạnh, đặc điểm của lãnh tụ. Bởi vì: phong trào cách
mạng của quần chúng đòi hỏi phải có lãnh tụ để tổ chức lãnh đạo phong trào đó là yêu cầu khách
quan, không có yêu cầu đó không có lãnh tụ xuất hiện. Chính phong trào cách mạng của quần
chúng đã đào luyện lãnh tụ của mình. Lãnh tụ luôn gắn với phong trào quần chúng.
Ngược lại, khi lãnh tụ xuất hiện với tài năng, đức độ, uy tín lãnh tụ có ảnh hưởng to lớn đến
hướng đi, quy mô, tốc độ và sắc thái của phong trào cách mạng, qua đó tác động đến sự phát
triển của lịch sử. Đặc biệt, những thời điểm cách mạng gặp khó khăn, khi thời cơ cách mạng xuất
hiện… Sự sáng suốt, tài giỏi, quyết đoán của lãnh tụ giữ vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, vai trò của lãnh tụ có to lớn đến đâu cũng không quyết định toàn
bộ quá trình phát triển của lịch sử, vai trò đó thuộc về quần chúng nhân dân. Lãnh tụ có yếu kém,
sai lầm đến đâu cũng chỉ kìm hãm tiến trình phát triển của lịch sử, đến một mức độ nhất định sẽ bị lịch sử đào thải.
Chủ nghĩa Mác Lênin đánh giá rất cao vai trò của cá nhân lãnh tụ trong sự phát triển của lịch sử,
nhưng kiên quyết chống lại tệ sùng bái cá nhân. Tệ sùng bái cá nhân là thần thánh hóa cá nhân
người lãnh đạo đi đến chỗ chỉ thấy vai trò quyết định tất cả của cá nhân lãnh đạo mà thấy hoặc
xem nhẹ vai trò lãnh đạo tập thể và quần chúng nhân dân
Tệ sùng bái cá nhân tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực như thái độ xu nịnh, quan liêu, gia trưởng,
hành động tham nhũng, cũng như mọi tệ nạn khác. Nó phá hoại nghiêm trọng mối quan hệ giữa
quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ, phá hoại thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Người mắc căn bệnh về sùng bái cá nhân thường đặt mình cao hơn tập thể, đứng ngoài đường
lối, chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước. Họ không thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt
Đảng, gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết.
Vì vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin luôn luôn coi sùng bái cá nhân là một hiện
tượng hoàn toàn xa lạ với bản chất, mục đích, lý tưởng của giai cấp công nhân. Những lãnh tụ vĩ
đại của giai cấp công nhân như Mác, Ăng ghen và Lênin trong cả cuộc đời mình luôn khiêm tốn,
chân thành, không hề tách ra khỏi quần chúng nhân dân, mặc dù họ là những lãnh tụ kiệt xuất
được quần chúng tin yêu, tôn kính.
Và không phải nói đâu xa mà ở chính đất nước Việt Nam ta , Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của
dân tộc đã suốt đời gắn bó với quần chúng nhân dân, khơi dậy, đề cao và tập hợp sức mạnh quần
chúng làm nên những thành tựu kỳ diệu của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX.