



















Preview text:
Top 7 mẫu cảm nhận về bài thơ Quê hương hay sâu sắc
1. Dàn ý cảm nhận bài thơ Quê hương I. Mở bài
- Nỗi niềm buồn nhớ quê hương là nỗi niềm chung của bất kì người xa quê nào, và
một nhà thơ thuộc phong trào Thơ Mới như Tế Hanh cũng không phải là ngoại lệ.
- Bằng cảm xúc chân thành giản dị với quê hương miền biển của mình, ông đã viết
nên “Quê hương” đi vào lòng người đọc. II/ Thân bài
1. Cảm nhận về hình ảnh quê hương trong nỗi nhớ của tác giả
- “Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới”: Cách gọi giản dị mà đầy thương yêu, giới thiệu
về một miền quê ven biển với nghề chính là chài lưới
- Vị trí của làng chài: cách biển nửa ngày sông
⇒ Cách giới thiệu tự nhiên nhưng cụ thể về một làng chài ven biển
2. Cảm nhận về bức tranh lao động của làng chài
a. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi
- Thời gian bắt đầu: Sớm mai hồng => gợi niềm tin, hi vọng
- Không gian “trời xanh”, “gió nhẹ”
⇒ Người dân chài đi đánh cá trong buổi sáng đẹp trời, hứa hẹn một chuyến ra khơi đầy thắng lợi
- Hình ảnh chiếc thuyền “hăng như con tuấn mã”: phép so sánh thể hiện sự dũng
mãnh của con thuyền khi lướt sóng ra khơi, sự hồ hởi, tư thế tráng sĩ của trai làng biển
- “Cánh buồm như mảnh hồn làng”: hồn quê hương cụ thể gần gũi, đó là biểu tượng
của làng chài quê hương
- Phép nhân hóa “rướn thân trắng” kết hợp với các động từ mạnh: con thuyền từ tư
thế bị động thành chủ động
⇒ Nghệ thuật ẩn dụ: cánh buồm chính là linh hồn của làng chài
⇒ Cảnh tượng lao động hăng say, hứng khởi tràn đầy sức sống
b. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về - Không khí trở về: + Trên biển ồn ào + Dân làng tấp nập
⇒ Thể hiện không khí tưng bừng rộn rã vì đánh được nhiều cá
⇒ Lòng biết ơn đối với biển cả cho người dân chài nhiều cá tôm
- Hình ảnh người dân chài:
+ “Da ngăm rám nắng”, “nồng thở vị xa xăm”: phép tả thực kết hợp với lãng mạn =>
vẻ đẹp khỏe khoắn vạm vỡ trong từng làn da thớ thịt của người dân chài
- Hình ảnh “con thuyền” được nhân hóa “im bến mỏi trở về nằm” kết hợp với nghệ
thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác => Con thuyền trở nên có hồn, có sức sống như
con người cơ thể cũng nuộm vị nắng gió xa xăm
⇒ Bức tranh sinh động về một làng chài đầy ắp niềm vui, gợi tả một cuộc sống bình yên, no ấm
3. Cảm nhận về nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả
- Nỗi nhớ quê hương thiết tha của tác giả được bộc lộ rõ nét: + Màu xanh của nước + Màu bạc của cá
+ Màu vôi của cánh buồm + Hình ảnh con thuyền
+ Mùi mặn mòi của biển
⇒ Những hình ảnh, màu sắc bình dị, thân thuộc và đặc trưng
⇒ Nỗi nhớ quê hương chân thành da diết và sự gắn bó sâu nặng với quê hương III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Cảm nhận về lòng yêu quê hương, đất nước trong mỗi con người.
2. Đoạn văn cảm nhận về bài thơ Quê hương - Tế Hanh
Quê hương là một bài thơ hay của tác giả Tế Hanh được viết khi ông còn rất trẻ. Với
những vần thơ bình dị nhưng không kém phần hình ảnh, Tế Hanh đã mở ra một
làng chài đẹp đẽ, tràn đầy sức sống. Đến với những câu thơ tiếp theo, Tế Hanh đã
vẽ nên bức tranh đẹp với chất liệu ngôn ngữ có sớm mai hồng cùng làn gió nhè nhẹ
với trời trong mây trắng. Trong cảnh đẹp vô ngần ấy, là hình ảnh dân làng trai tráng
ra khơi đánh cá. Những chàng trai mang trong mình đầy nhựa sống cùng với nhuyết
huyết lao động hăng say. Trong bức tranh ra khơi ấy, con thuyền mạnh mẽ rẽ sóng
ra khơi, sự hồ hởi của nó tạo nên một sức sống riêng. Tất cả những hình ảnh về
cuộc sống, con người nơi quê hương đã được ông miêu tả một cách sống động
bằng tất cả tình yêu thương rung cảm về những con người nơi quê hương mình.
Qua đó, ta thấy được niềm tha thiết chảy trong thơ ông là quê hương với những tình
cảm thiết tha và chân thành nhất.
3. Cảm nhận của em về bài thơ Quê hương lớp 8
Có thể nói, quê hương là một chủ đề bất tận trong thi ca. Mỗi khi nhắc đến quê
hương, chắc hẳn bất kì ai trong mỗi chúng ta đều dâng lên một nỗi niềm thương
cảm dạt dào về tình yêu quê hương đất nước. Và Tế Hanh cũng vậy, tình yêu quê
hương của ông đã được tác giả thể hiện với những ngôn từ giản dị nhưng vẫn thiết
tha mặn nồng qua bài thơ Quê hương.
Nếu như Quê hương của Đỗ Trung Quân là chùm khế ngọt thì đến với Quê hương
của Tế Hanh ta dường như cảm nhận được vị mặn của biển qua từng câu chữ.
Ngay từ bài thơ đầu tiên viết về quê hương, người đọc đã có cảm tình với một giọng
thơ chân thành, rủ rỉ. Chàng thanh niên miền biển kể về làng quê của mình bằng những lời mộc mạc:
“Làng tôi vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”.
Sau câu mở đầu giản dị, cảm hứng như đã được khơi nguồn thi sĩ bắt đầu say sưa
mô tả cảnh đẹp của quê hương:
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bai thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”….
Dòng thơ cứ nhẹ nhàng tuôn chảy, hình ảnh như tự nó thi nhau kéo đến, đẩy câu
thơ đi liền một mạch theo dòng cảm xúc dào dạt của nhà thơ. Ngọn bút của thi nhân
chỉ điểm phớt qua vài nét mà cảnh vật.như bừng sáng: “trời trong, gió nhẹ, sớm mai
hồng”. Một ngày mới ở làng thuở bắt đầu bằng vẻ tươi mát của thiên nhiên và tâm
trạng hào‘hứng của người lao động. Chiếc thuyền “băng” ra biển trong tư thế của
một “con tuấn mã”, khi những “trai tráng” vạm vỡ, đầy sinh lực khua những nhịp
chèo hối hả, mê say: “Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”. Thuyền lướt ra
khơi, cánh buồm được kéo lên từ từ rồi bất chợt căng phồng vì no gió…
Những hình ảnh so sánh đẹp và gợi cảm đi vào bài thơ một cách tự nhiên, dung dị,
như không cần một cố gắng kĩ thuật nào. Dưới ngòi bút nhà thơ, cảnh sớm mai ỏ’
làng chài hiện lên đầy vẻ rạng rỡ, tinh khôi và điểm sáng huy hoàng nhất ở đây là hình ảnh:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thầu góp gió”.
Biết bao thi tứ đã nảy sinh từ cánh buồm kiêu hãnh và thơ mộng. Lec-môn-tôp (nhà
thơ Nga) có bài thơ trữ tình nổi tiếng về một cánh buồm khao khát đời giông tố:
“Thấp thoáng xa xa một cánh buồm
Chập chờn trên biển cả mù sương
Buồm kiếm tìm chi nơi đất lạ?
Giã từ chi đó chốn quê hương?”
Thơ Nguyễn Bính cũng có một cánh buồm đau đáu nhó’ nhung:
‘”Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”…
Sau này, Hoàng Trung Thông còn mượn hình tượng Những cánh buồm để trò
chuyện với con mình… Có bao nhiêu cánh buồm trong thơ ca là có bấy nhiêu cách
cảm nghĩ khác nhau về hình tượng đó. Đối với Tế Hanh, cánh buồm như một biểu
tượng của làng quê. Cánh buồm mỏng manh như “mảnh hồn làng” nhưng nó mở
rộng “bao la” như tâm hồn rộng mở của quê hương, nó vươn lên, dân thân và che
chở… Từ một “cánh buồm” hết sức cụ thể đem so với “mảnh hồn làng” vô cùng trừu
tượng, nhà thơ đã mỏ’ ra một khoảng trời thênh thang cho những liên tưởng của
người đọc: cánh buồm, hay mảnh hồn làng, là sự che chỏ’ cho thuyền nhỏ bé, là
sức mạnh (góp gió) đẩy thuyền đi xa, là phương tiện để chèo lái con thuyền…
Người dân chài ra khơi như mang đi một phần máu thịt quê hương, cánh buồm gắn
với con thuyền như “hồn vía” làng quê chỏ’ che, neo giữ họ… Kẻ xa quê lâu ngày,
thoáng thấy cánh buồm tưởng như bắt gặp hình bóng của miền quê yêu dấu… Tế
Hanh, với trái tim mẫn cảm của một nhà thơ, đã thấy ỏ’ cánh buồm, tâm hồn lộng
gió của quê hương mình.
Tình cảm gắn bó với làng quê khiến nhà thơ cảm nhận được sâu sắc niềm vui đơn
sơ, hồn hậu của những.người dân chài khi thuyền cá trỏ’ về:
“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
Nhờ ơn trời biển, lặng cá đầy ghe,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”.
Cuộc sống khắc nghiệt, luôn phải đương đầu với muôn nỗi hiếm nguy buộc những
người dân ở đây gạn kết thành một cộng đồng chặt chẽ. Họ hợp lực với nhau trong
những chuyên đi biển và chia sẻ cùng nhau mọi nỗi vui buồn. Mỗi lần thuyền ra khơi
đánh cá, cả người ỏ’ nhà lẫn người ra đi đều cầu trời khấn Phật đế được bình an. Vì
thế, mỗi một khoang cá nặng chỏ’ về là niềm vui, là hạnh phúc của mọi nhà: “Khắp
dân làng tấp nập đón ghe về”. Hơn ai hết, người dân chài thấu hiểu: đằng sau
những mẻ cá “tươi ngon” là bao nỗi vất vả gian nan, bao hiểm nguy mà người thân
của họ đã trải qua. Khi nhà thơ thay họ xúc động thốt lên:
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”
Người đọc bỗng cảm thấy một niềm hạnh phúc rưng rưng lan toả trong dòng tho’ rất đỗi bình thường:
“Những con cá tươi ngon’thăn bạc trắng”.
Giọng thơ đang náo nức, sôi nổi ỏ’ đoạn đầu, đến đây bắt đầu lắng xuống, nhịp thơ
đi chậm lại. Ngòi bút nhà thơ chuyển sang đặc tả chân dung người đánh cá và con thuyền về bến:
“Dân chài lưới làn da ngâm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vố”.
Đây là khổ thơ đẹp nhất, gợi cảm nhất của bài thơ, giống như một tác phẩm điêu
khắc bằng thơ. Nếu như ỏ’ phần trên Tế Hanh thiên về mô tả cảnh đẹp nhìn thấy thì
ở đây, nhà thơ lại nghiêng về khai thác những vẻ đẹp cảm thấy. Hình tượng thơ, vì
thế, như có chiều sâu hơn. Với “làn da ngăm rám nắng” người dân chài làm ta liên
tưởng đến bức tượng đồng vạm vỡ.
Hình ảnh đẹp như tượng nhưng ấm nồng sự sống, bởi: “Cả thân hình nồng thở vị xa
xăm”. Nhà thơ đã thi vị hóa một hiện tượng bình thường trong đời thực – nước biển
mặn ngấm vào da thịt người dân chài tạo thành mùi vị riêng trên cơ thể họ – để gợi
nên một hình ảnh vô cùng lãng mạn: chàng đánh cá sau chuyến phiêu du trên biển,
lúc trở về còn mang theo hương vị nồng nàn của những vùng biển lạ. Và con
thuyền, được hình dung như một cơ thể sống động, cũng mỏi mệt “nằm” im trên
bến, lặng lẽ cảm nhận vị mặn mòi của biển ngấm vào cơ thể:
“Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
Trong câu thơ nhân hóa con thuyền, nhà thơ đã phối hợp tài tình hai hiện tượng:
nước biển mặn ngấm sâu vào vỏ gỗ của con thuyền ngâm nước lâu ngày, tiếng tí
tách rạn nứt của lòng thuyền ngấm mặn khi phơi mình trên bờ cát… Cả người và
thuyền, hai hình tượng đều đẹp đến say lòng trong trạng thái nghỉ ngơi thư giãn.
Bao nhiêu tài hoa của nhà thơ như đã dồn tụ ở bốn câu thơ đặc sắc này. Nếu bài
thơ kết thúc ở đây, có lẽ sức gợi cũng chẳng kém gì khi cố thêm khổ cuối:
“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước, xanh, cá hạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”.
Đoạn kết bài thơ chỉ muốn tổng hợp lại những nỗi nhớ cụ thể của chàng trai. Có lẽ
thơ không nên nói đến tận cùng, nói đủ đầy nhu thế chăng?
Nhưng, đối với Tế Hanh, sự hồn nhiên chân thành trong tình cảm bao giờ cũng lấn
át những dụng công kĩ thuật của nghề thơ. Bất chấp thời gian và sự biến đổi của
lòng người, cảm xúc về quê hương vẫn là nguồn mạch dâng trào trong trái tim thi sĩ,
để mỗi lần thấy biển, nhà thơ lại xốn xang:
“Biển xao động nôn nao chiều con nước Lòng như thuyền chờ đợi buổi ra khơi”…
Quê hương trong mỗi người chúng ta là những cảm nhận khác nhau. Là nơi chúng
ta sinh ra, được nuôi dưỡng bởi những câu ca ru ngọt ngào của mẹ:
4. Cảm nhận về bài thơ Quê hương Mẫu 1
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Bài hát với giai điệu và ca từ sâu lắng, chân tình đã đi vào biết bao trái tim người
Việt để rồi khi nhớ về mảnh đất chôn nhau, cắt rốn của mình, ai ai cũng không khỏi
rưng rưng. Tế Hanh đã sáng tác không ít tác phẩm về miền quê làng chài ven biển
của ông như một nỗi nhớ, niềm thương về một nơi đầy những hồi ức yêu dấu, ngọt
ngào. "Quê hương" là một trong những sáng tác nằm trong dòng cảm xúc ấy.
Hai câu thơ mở bài như một lời giới thiệu của tác giả về làng quê miền biển của
mình. Nó là một làng quê nằm ăn sát ra biển, bốn bề quanh năm sóng vỗ. Qua hai
câu mở bài này, tác giả còn muốn giới thiệu với mọi người về nghề nghiệp chính ở
quê mình, đó là nghề ngư nghiệp.
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Hai câu thơ tiếp theo như những dòng nhật kí tâm tình của Tế Hanh, nói về công
việc thường nhật xảy ra ở ngôi làng ven biển này. Tiết trời ở đây thật trong lành: bầu
trời trong xanh, gió biển nhẹ, bình minh rực rỡ sắc hồng. Lúc đó, những người thanh
niên, trai tráng trong làng cùng nhau căng buồm, tiến ra biển cả.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Trong hai câu thơ này, tác giả Tế Hanh đã sử dụng những động từ, tính từ mạnh:
“hăng, phăng, vượt” và sử dụng nghệ thuật so sánh “chiếc thuyền nhẹ” với “con tuấn
mã”, làm gợi lên vẻ đẹp, sự dũng mãnh của con thuyền.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Ở hai câu tiếp theo này, nghệ thuật so sánh lại được sử dụng. “Cánh buồm” được
so sánh với “mảnh hồn làng”, thể hiện tình yêu quê hương luôn tiềm tàng trong con người Tế Hanh.
Được sử dụng một lần nữa, động từ, tính từ mạnh: “giương, rướn, bao la” đã cho ta
thấy một vẻ đẹp kiêu hãnh, đầy tự hào của cánh buồm vi vu trong gió biển.
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ,
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe”
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Khắp thân mình nồng thở vị xa xăm.
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm,
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Tám câu thơ tiếp theo này thể hiện hình ảnh làng chài khi những chiếc thuyền cá trở
về sau những ngày chìm trong gió biển. Người dân làng chài vui sướng biết bao khi
những người thân của họ đã mang về những thành quả tương xứng. Dân chài lưới
mang một màu da thật riêng, có một mùi hương riêng biệt. Cái mùi này chỉ những
người yêu quê hương tha thiết, nồng nàn như tác giả Tế Hanh mới có thể cảm nhận
được. Chiếc thuyền cũng mệt mỏi sau những ngày đi biển, tựa như con người vậy.
Cái chất muối thấm trong thớ vỏ cũng được tác giả cảm nhận bằng cách “nghe”, thật độc đáo!
Nay xa cách, lòng tôi luôn tưởng nhớ:
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Khi viết bài thơ này, tác giả đang ở xa quê hương. Vậy mà, ông vẫn luôn nhớ về
mảnh đất quê hương yêu dấu của mình. Nhớ màu nước biển xanh, nhớ những con
cá bạc, nhớ cánh buồm trắng, nhớ con thuyền đang băng băng rẽ sóng ra khơi. Ông
còn nhớ cả cái mùi muối mặn của biển quê nhà.
Với những vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh đã vẽ ra
một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên
hình ảnh khoẻ khoắn, đầy sức sống của người dân làng chài và sinh hoạt lao động
làng chài. Bài thơ còn cho thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ. Mẫu 2
Tình quê chân thật, bình dị, tinh tế giúp Tế Hanh ghi được đôi nét cảnh sắc rất chân
tình cảnh sinh hoạt chốn làng biển quê hương. Đây là bài thơ mở đầu cho chủ đề
quê hương – một trong những chủ đề thành công nhất của thơ Tế Hanh. Nhan đề
quê hương có phần chung. Giá đặt là Làng quê, Làng biển… có lẽ phù hợp với
giọng thơ, tình thơ hơn. Câu thơ đề từ của người cha tác giả: Chim bay dọc biển
đem tin cá dã nói lên một đặc trưng của làng biển — làng đánh cá. Người con —
nhà thơ trẻ, bằng cách cảm nhận riêng, sẽ tả làng quê mình bằng con mắt và trái tim hoa niên của mình.
Hai câu đầu giới thiệu vị trí đặc biệt của làng, nghề nghiệp đặc trưng của cư dân ở đây.
Đánh cá là nghề truyền thống của làng. Làng như bán đảo, như cù lao, ba bề bốn
bên là nước bao vây. Sống quen với sông nước, biển khơi nên con đường từ làng ra
biển cũng được tính bằng đường thủy đường sông.
Cảnh thuyền chở trai làng ra khơi đánh cá trong buổi bình minh đẹp sáng, dưới ngòi
bút Tê Hanh, hiện lên đầy khí thê trẻ trung mà không kém phần sâu sắc, mới mẻ.
Trai tráng bơi thuyền như những tráng sĩ, kị sĩ tài ba. Chiếc thuyền dưới bàn tay
chèo lái của họ, như con ngựa hay đè sóng, lướt tới xuôi sông dài hướng ra khơi xa.
Những cánh tay săn chắc, bắp thịt vồng lên, cuồn cuộn, bóng loáng mồ hôi dưới
nắng ban mai; những mái chèo bổ nước phăm phăm, ràn rạt đưa con thuyền chồm
lên, lướt đi vun vút, hồ hởi, phấn khởi tự tin.
Nhưng hình ảnh độc đáo, bất ngờ nhất trong bài thơ là so sánh:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Linh hồn làng biển đã được hình ảnh hóa, cụ thể hóa bằng hình ảnh cánh buồm
trắng, buồm nâu no gió, căng phồng, cứ rướn cao, rướn cao mãi ra thuyền ra biển
lớn. Cánh buồm gợi những chuyến đi xa, những ước mơ khoáng đạt, bay bổng, lãng
mạn của tuổi trẻ nhiều hoài bão. Cánh buồm như cánh chim trời, như muốn dời khỏi
cột buồm, vút bay lên bầu trời xanh cao thăm thẳm, đó là tình quê, tình yêu làng
ngây thơ, trong sáng và đắm đuối của chàng trai Tế Hanh.
Hai khổ thơ tiếp theo tả cảnh thuyền trở về trong niềm hân hoan chào đón của bà
con làng chài. Những câu thơ tả thực mà không kém phần lãng mạn, khỏe khoắn.
Cảnh làm việc khẩn trương, yêu đời của những người lao động miền biển. Làn da,
ngăm ngăm, rám nắng của những chàng trai suốt ngày đêm phơi mình dưới nắng
gió, bão giông, vẻ đẹp, khỏe của những ngư dân trẻ gắn liền với bao chuyến đi khơi,
đi lộng vất vả và hiểm nguy. Ngắm những chàng ngư phủ, ta như được nghe thấy
hơi thở nặng trầm của họ, ngửi được mùi vị nồng nàn, mặn mòi của biển cả, của
muối tinh qua hơi thở ấy. Bởi vậy, hình ảnh thực có phần mờ đi, chân dung dân chài
vụt mờ nhòa và bay bổng trong tình yêu và niềm tự hào của người con quê biển.
Hai câu cuối tả cảnh chiếc thuyền nằm yên, mỏi mệt trên bến là hình tượng hóa,
nhân hóa tư thế và tâm trạng người dân làng biển sau những chuyến đi xa trở về
nghỉ ngơi, thư giãn vừa mệt mỏi vừa khoan khoái, say sưa.
Cho nên, dù đã lớn, đi học, đi làm xa, mỗi lần nhớ về quê hương — một làng đánh
cá nghèo ven biển Trung Trung Bộ, Tế Hanh lại nhắc tới màu nước xanh, con cá
bạc, bên bờ cát. Hình ảnh, chi tiết, mùi vị đậm đà nhất vẫn là: Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.
Cái mùi nồng của muối, cá, gió, nắng, sóng biển là đặc trưng riêng của linh hồn quê
hương đã ám ảnh nhà thơ suốt đời. Câu cuối bài thơ cất lên như một tiếng kêu thầm
mỗi khi nhớ quê đến không kìm nổi lòng mình. Sự thành thật của nhà thơ thật không
ngờ. Không có một tâm hồn đắm đuôi không thể viết lên nhừng lời như thế. (Hoài Thanh)
5. Cảm nhận về bài thơ Quê hương hay nhất
Thi sĩ Tế Hanh sinh năm 1921, ở Quảng Ngãi, miền Trung. Năm 18 tuổi đang học
Trung học tại Huế, ông viết bài thơ “Quê hương”. Bài thơ có 20 câu, mỗi câu có 8
chữ. Lời thơ trong sáng, hình ảnh sáng tạo, cảm xúc nồng hậu thiết tha. Tình yêu
quê hương, lòng thương nhớ quê hương của đứa con xa quê được trang trải qua
những vần thơ đậm đà, ý vị.
Hai câu thơ đầu, với hai chữ “làng tôi” cất lên đầy thương nhớ tự hào. Đó là một
làng chài ven biển miền Trung. Sông nước bao la ‘bao vây”. Làng cách biển “nửa
ngày sông”, một cách tính độ dài dân dã. Chữ “vốn” rất hay, nói lên nghể chài lưới là
nghề chính rất lâu đời của làng tôi:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới,
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”.
Sáu câu thơ tiếp theo nói về cảnh ra khơi đánh cá của trai tráng “làng tôi". Đó là
những bình minh đẹp. Bầu trời trong sáng, gió nhẹ thổi, ánh mai hồng bùng lên. Các
tính từ dùng rất chọn lọc, tạo nên hình ảnh đẹp: "trong”, “nhẹ”, “hồng". Giọng thơ
nhỏ nhẹ, tâm tình. Như có tiếng reo:
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”.
Niềm vui đi chinh phục biển và khí thế ra khơi của bà con dân chài đrợc thể hiện qua
các hình ảnh con thuyền, cánh buồm, mái chèo đầy ấn tượng. Chiếc thuyền được
so sánh với “con tuấn mã” ngựa đẹp phi nhanh lướt sóng ra khơi, đầy khí thế hăng
hái. Mái chèo như lưỡi kiếm khổng lồ chém xuống, “phăng' xuống lòng sông. Cánh
buồm trắng “to như mảnh hồn làng” đang mang con thuyền “rướn” lên mặt sóng. So
sánh cánh buồm với “Mảnh hồn làng” rất sáng tạo nhằm nói lên khí thế lao động và
khát vọng vẻ ấm no, hạnh phúc của làng chài. Câu thơ “Rướn thân trắng bao la thâu
góp gió” là một câu thơ rất đẹp gợi lên cánh buồm rất to, lớn, ôm trọn bầu trời, căng
gió biển khơi. Các từ ngữ: “hăng”, “phăng”, “vượt”, “rướn”, “thâu góp” đã làm nổi bật
sức mạnh, niềm tin tưởng tự hào vào khí thế ra khơi cúa đoàn thuyền đánh cá:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.
Hai khổ thơ 8 câu tiếp theo tả cảnh làng chài trong mùa cá. Vui như hội, bến đỗ “ổn
ào”, “tấp nập” đông vui. Các hình ảnh: “cá đầy ghe” và “những con cá tươi ngon thân
hạc trắng” đã nói lên rất gợi cảm của một chuyến ra khơi may mắn, đánh bắt được
nhiều cá tươi, cá ngon. Ba tiếng “nhờ ơn trời” là tiếng lòng cảm tạ thiên nhiên của
những người dân chài chất phác, hồn hậu. Trời đã cho biển lặng sóng êm, một
chuyến ra khơi bình yên. Vần thơ đầy màu sác và hương vị biển:
“Ngày hâm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”.
Yêu quê hương là yêu mến tự hào những chàng trai làng chài cường tráng có “làn
da ngăm rám nắng”, được tôi luyện trong lao động, trong sóng gió mạn mòi của đại
dương: “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”. Yêu làng chài là yêu những con thuyền
sau một chuyến ra khơi vất vả, trở về nằm ngủ im lìm trên bến. Con thuyền được
nhân hóa gợi cảm cuộc sống lao động vất vả mà yên vui cúa bà con làng chài:
Tìm hiểu tâm hồn Tế Hanh qua bài thơ Quê hương của ông
“Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm,
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”
Các chữ: “im”, “mỏi”, “nằm”, “nghe”, “thấm dần” rất gợi cảm và biểu cảm. Sự chuyển
đổi cảm giác tài tình đã tạo nên vần thơ giàu cảm xúc và cảm giác.
Khổ cuối nói lên nỗi thương nhớ làng chài của đứa con li hương. Nhớ cảnh sắc cụ
thể, nhớ tha thiết bồi hồi - cảm xúc ấy được diễn tả qua điệp ngữ “nhớ”:
"Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”.
"Tưởng nhớ” quê hương là nhớ màu “xanh” của nước, màu b“ạc” tươi ngon của cá,
màu "vôi” bạc phếch vì nắng mưa của cánh buồm. Là nhớ hình bóng con thuyền
làng chài “rẽ sóng ra khơi”. Là nhớ “cái mùi nồng mặn quá” hương vị của biển, nơi
chôn rau cắt rốn thân yêu. Chữ "thoáng” rất hay, vừa gợi tả hình bóng con thuyền ra
khơi mờ dần cuối chân trời dòng sông, vừa thể hiện niềm “tưởng nhớ” trong hoài niệm.
Thi sĩ Tố Hữu đã ca ngợi thơ Tế Hanh là “những câu hát yêu thương”. Nhà thơ
Xuân Diệu nhận xét thơ Tế Hanh “như một đồng suối nhỏ nhưng là nguồn tình cảm
trong lành, và bền vững”. Đọc bài thơ “Quê hương”, ta cảm thấy yêu thơ, hồn thơ Tế
Hanh. Với ông, những cảnh sắc về bầu trời, dòng sông, con thuyền, chiếc buồm,
bến đỗ, con cá... là màu sắc, hương vị, hình bóng quê hương thân yêu. Hình tượng
thơ của Tế Hanh tuy bình dị, thân thuộc mà hữu tình nên thơ. Những phép nhân hóa
và so sánh trong “Quê hương” rất sáng tạo, đáng yêu. Ta càng thêm bồi hồi vẻ một
câu hát: “Quê hương nghĩa năng tình sâu..” mà mẹ và bà vẫn ru vẫn hát.
6. Cảm nhận của em về bài thơ Quê hương của Tế Hanh
Quê hương trong xa cách là cả một dòng cảm xúc dạt dào, lấp lánh suốt đời Tế
Hanh. Cái làng chài nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng nước bao vây cách biển
nửa ngày sông đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tế Hanh, đã trở thành nỗi nhớ da diết để
ông viết nên những vần thơ thiết tha, lai láng. Trong dòng cảm xúc ấy, Quê hương là
thành công khởi đầu rực rỡ.
Nhà thơ đã viết Quê hương bằng tất cả tình yêu thiết tha, trong Sáng, đầy thơ mộng
của mình. Nổi bật lên trong bài thơ là cảnh ra khơi đánh cá của trai làng trong một sớm mai đẹp như mơ:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Tâm hồn nhà thơ náo nức những hình ảnh đầy sức mạnh:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.
Giữa trời nước bao la nổi bật hình ảnh con thuyền hiên ngang, hăng hái, đầy sinh
lực dưới bàn tay điều khiển thành thạo của dân trai tráng đang nhẹ lướt trên sóng
qua hình ảnh so sánh như con tuấn mã. Đằng các từ ngữ sinh động, nhà thơ đã
khắc hoạ tư thế kiêu hãnh chinh phục sông dài, biển rộng của người làng chài. Lời
thơ như băng băng về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với
cánh buồm Tế Hanh đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm
hồn thiết tha gắn bó nên mới liên tưởng Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng.
Bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người lao động
được gửi gắm ở đấy.
Cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập cũng được miêu tả với một tình yêu tha thiết:
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Ở đoạn trước, khi tả cảnh ra đi mạnh mẽ vượt trường giang của đoàn thuyền, hơi
thở băng băng, phơi phới. Đến đoạn này, âm điệu thơ thư thái và dần lắng lại theo
niềm vui nó ấm, bình yên của dân làng. Chính từ đây, xuất hiện những câu thơ hay
nhất, tinh tế nhất của Quê hương:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Chỉ ai sinh ra và lớn lên ở nơi sông nước mới viết được những câu thơ như thế. Tế
Hanh xây dựng tượng đài người dân chài giữa đất trời lộng gió với hình khối, màu
sắc và cả hương vị không thể lẫn: bức tượng đài nồng thở vị xa xăm – vị muối mặn
mòi của biển khơi, của những chân trời tít tắp mà họ thường chinh phục. Chất muối
mặn mòi ấy ngấm vào thân hình người dân chài quê hương, thấm dần trong thớ vỏ
chiếc thuyền hay đã ngấm sâu vào làn da thớ thịt, vào tâm hồn thơ Tế Hanh để
thành niềm cảm xúc bâng khuâng, kì diệu?
Một tâm hồn như thế khi nhớ nhung tất chẳng thể nhàn nhạt, bình thường. Nỗi nhớ
quê hương trong đoạn kết đã đọng thành những kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi. Tôi thấy
nhớ cái mùi nồng mặn quá – câu thơ cuối cùng cho ta rõ thêm tâm hồn thiết tha,
thành thực của Tế Hanh.
Quê hương của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về
cái làng vạn chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ mình. Bài thơ đã góp phần bồi đắp cho
mỗi người đọc chúng ta tình yêu quê hương thắm thiết.
7. Cảm nhận về đoạn thơ thứ 3 bài Quê hương
Ta có thể bắt gặp trong thơ ông hơi thở nồng nàn của những người con đất biển,
hay một dòng sông đầy nắng trong những buổi trưa gắn với tình yêu quê hương sâu
sắc của nhà thơ. Bài thơ "Quê hương" là kỉ niệm sâu đậm thời niên thiếu, là tác
phẩm mở đầu cho nguồn cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, bài thơ đã
được viết bằng tất cả tấm lòng yêu mến thiên nhiên thơ mộng và hùng tráng, yêu
mến những con người lao động cần cù.
Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ phối hợp cả hai kiểu gieo vần liên tiếp và vần
ôm đã phần nào thể hiện được nhịp sống hối hả của một làng chài ven biển:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Quê hương trong tâm trí của những người con Việt Nam là mái đình, là giếng nước
gốc đa, là canh rau muống chấm cà dầm tương.
Còn quê hương trong tâm tưởng của Tế Hanh là một làng chài nằm trên cù lao giữa
sông và biển, một làng chài sóng nước bao vây. một khung cảnh làng quê như đang
mở ra trước mắt chúng ta vô cùng sinh động: "Trời trong – gió nhẹ – sớm mai hồng",
không gian như trải ra xa, bầu trời như cao hơn và ánh sáng tràn ngập.
Bầu trời trong trẻo, gió nhẹ, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh đang đến là một
báo hiệu cho ngày mới bắt đầu, một ngày mới với bao nhiêu hi vọng, một ngày mới
với tinh thần hăng hái, phấn chấn của biết bao nhiêu con người trên những chiếc thuyền ra khơi:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Nếu như ở trên là miêu tả vào cảnh vật thì ở đây là đặc tả vào bức tranh lao động
đầy hứng khởi và dạt dào sức sống. Con thuyền được so sánh như con tuấn mã
làm cho câu thơ có cảm giác như mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm vui và phấn khởi của
những người dân chài. Bên cạnh đó, những động từ "hăng", "phăng", "vượt" diễn tả
đầy ấn tượng khí thế băng tới vô cùng dũng mãnh của con thuyền toát lên một sức
sống tràn trề, đầy nhiệt huyết. Vượt lên sóng. Vượt lên gió. Con thuyền căng buồm
ra khơi với tư thế vô cùng hiên ngang và hùng tráng:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Từ hình ảnh của thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng đến "hồn người", phải là một tâm
hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng xóm Tế
Hanh mới có thể viết được như vậy. Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc
nay trở nên lớn lao và thiên nhiên. Cánh buồm trắng thâu gió vượt biển khơi như
hồn người đang hướng tới tương lai tốt đẹp. Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng linh
hồn của quê hương đang nằm trong cánh buồm. Hình ảnh trong thơ trên vừa thơ
mộng vừa hoành tráng, nó vừa vẽ nên chính xác hình thể vừa gợi được linh hồn của sự vật.
Ta có thể nhận ra rằng phép so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ thể hơn
mà đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao. Đó chính là sự tinh tế của
nhà thơ. Cũng có thể hiểu thêm qua câu thơ này là bao nhiêu trìu mến thiêng liêng,
bao nhiêu hy vọng mưu sinh của người dân chài đã được gửi gắm vào cánh buồm
đầy gió. Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ tạo cho ta ấn tượng của một không gian
mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa sóng nước mênh mông, hình ảnh con người trên
chiếc tàu nhỏ bé không nhỏ nhoi đơn độc mà ngược lại thể hiện sự chủ động, làm
chủ thiên nhiên của chính mình.
Cả đoạn thơ là khung cảnh quê hương và dân chài bơi thuyền ra đánh cá, thể hiện
được một nhịp sống hối hả của những con người năng động, là sự phấn khởi, là
niềm hy vọng, lạc quan trong ánh mắt từng ngư dân mong đợi một ngày mai làm
việc với báo kết quả tốt đẹp:
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Những tính từ "ồn ào", "tấp nập" toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi động
của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống trong không
khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người
dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy "những con cá tươi ngon
thân bạc trắng". Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt cá như thế nào nhưng
ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt
được thành quả như mong đợi.
Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về năm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.