Top 8 bài phân tích Đây mùa thu tới hay
đặc sắc
Đây mùa thu tới một trong những bài thơ nổi bật của Xuân Diệu, thể hiện
phong cách thơ độc đáo của ông – vừa hiện đại, vừa trữ tình, lãng mạn nhưng cũng
chất chứa nỗi buồn man mác. Bài thơ đã vẽ nên bức tranh mùa thu với những gam
màu dịu dàng, tinh tế, gợi lên cảm giác chuyển giao của thiên nhiên cùng nỗi lòng
con người trước thời gian trôi chảy.
Với ngôn từ giàu hình ảnh nhạc điệu uyển chuyển, Xuân Diệu không chỉ khắc
họa mùa thu bằng thị giác còn đánh thức mọi giác quan của người đọc, từ cái
lạnh se se, sắc vàng của đến làn gió nhẹ thoảng qua. Để giúp bạn đọc cảm nhận
trọn vẹn vẻ đẹp của bài thơ, dưới đây tổng hợp những bài phân tích Đây mùa
thu tới hay đặc sắc nhất, giúp bạn hiểu sâu hơn về nội dung nghệ thuật của
tác phẩm này.
Đây mùa thu tới một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Diệu. Được viết theo thể thơ
7 chữ, Đây mùa thu tới sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cách diễn đạt truyền
thống mới mẽ do học tập văn hóa Phương Tây, với tâm hồn thi giàu cảm xúc
tài năng của Xuân Diệu. Bài thơ là một bức tranh thu mang màu sắc đượm buồn
nhưng vẫn cùng xinh đẹp với nỗi buồn trong sáng, khao khát sự hòa nhập với
cuộc đời.
1. Dàn ý Đây mùa thu tới
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm: Xuân Diệu một trong những nhà thơ đặc biệt thành công khi
viết về mùa thu, với bài thơ “Đây mùa thu tới”, thi đã mang đến cho người đọc
những cảm nhận vừa tinh tế, vừa mới mẻ về một bức tranh mùa thu đẹp, lãng mạn
nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn, sự xót xa.
2. Thân bài
Mùa thu đến thật nhẹ nhàng, không rộn rã, ồn ào để dễ dàng nhận biết như
ngày hè. Thu về trên những rặng liễu đìu hìu, trong cảnh vật yên bình thấm
đượm nỗi buồn mơ hồ.
Thu đến mang theo những nỗi buồn và sự phấn khích, bất ngờ cho cảm nhận của
con người, đó tiếng reo vui của nhà thơ khi chợt nhận thấy mùa xuân đã về “Đây
mùa thu tới, mùa thu tới”.
Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ Xuân Diệu đã những cảm nhận sâu sắc hơn về
những dấu hiệu của ngày thu.
–> Khung cảnh mùa thu diễm lệ, lãng mạn thể làm xao xuyến lòng người nhưng
cũng gợi ra nỗi buồn về sự phôi pha, tàn úa.
Khung cảnh thi vị, lãng mạn nhưng cũng khẳng khiu, mỏng manh đến nao lòng
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Trăng thuộc về thiên nhiên nhưng được nhân hóa như một con người với những
cảm xúc buồn vui như con người mang đến sự đồng điệu giữa thiên nhiên con
người.
Những chuyến đò nhộp nhịp thường ngày cũng đổi khác khi thu về, đó là sự thưa
thớt, vắng lặng đến đìu hiu
Trong khổ thơ cuối cùng, thi Xuân Diệu vẫn mải miết cảm nhận từng bước đi
của nàng thu, mùa thu còn được cảm nhận qua những chuyển động cụ thể của
cánh chim và sự rộn rã trong lòng người
+ Nỗi buồn về sự chia li được nhà thơ gửi gắm thông qua hình ảnh cánh chim đang
di cư tránh rét.
+ Bầu không rộng lớn nhưng trầm buồn, u uất vì nhuốm màu chia li
+ Hình ảnh người thiếu nữ đa tình hay chính Xuân Diệu đa tình đã mang hết nỗi
lòng hòa vào mùa thu, để mặc cho những suy nghĩ xa xăm trôi dạt cùng mây trời.
3. Kết bài
“Đây mùa thu tới” thi phẩm xuất sắc của Xuân Diệu viết về mùa thu, thi sĩ không
chỉ mang đến cho người đọc bức tranh mùa thu tuyệt đẹp còn gửi gắm những
nỗi niềm, cảm xúc của bản thân trước mùa thu và những đổi thay của đất trời.
2. Giới thiệu, đánh giá về nội dung nghệ thuật
của bài thơ Đây mùa thu tới - Xuân Diệu
1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
- Xuân Diệu - nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, “nhà thơ của
niềm giao cảm hết mình giữa con người với con người” ngay từ khi xuất hiện giữa
làng thơ Việt Nam, Hoài Thanh đã khẳng định: “…Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn
sống dào dạt chưa từng thấy chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình
yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời
ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn , tha thiết.” (
Trích Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh, Hoài Chân)
- “Đây mùa thu tới” một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước
Cách mạng tháng Tám, rút trong tập "Thơ thơ", xuất bản năm 1938.
2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)
- Cảnh thu, tình thu đẹp nhưng buồn nét nổi bật nhất của bài thơ. Đồng thời bài
thơ còn thể hiện sự nối tiếp truyền thống và những cách tân sáng tạo của Xuân Diệu
khi tiếp tục khai thác đề tài vô cùng quen thuộc của thơ ca cổ điển.
- Đây mùa thu tới thể hiện sự nhạy cảm và mới mẻ của hồn thơ Xuân Diệu. Bài thơ
buồn nhưng có nhiều sự sống. Thiên nhiên đẹp và có hồn qua cảm nhận của thi sĩ.
- nhà thơ của cảm thức về thời gian, Xuân Diệu rất nhạy cảm với những bước đi
của các mùa trong năm. Thời điểm giao mùa vốn dễ gợi nhiều cảm xúc cho con
người với thi nhân đó thời điểm sản sinh ra ý thơ. Mỗi mùa trôi qua bao giờ
nhà thơ cũng những dòng cảm xúc. Khi thì “giục giã”, “vội vàng”, khi thì reo vui
chào đón, khi lại tiếc nuối… Với tâm hồn nhạy cảm, nhà thơ đã cảm nhận được
bước đi rất nhẹ nhàng của mùa thu. Điều này đã được thể hiện ở Đây mùa thu tới.
* Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính tính độc đáo của
các phương diện ngôn từ.
- Sự phát triển của hình tượng chính
+ Khổ 1
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hình ảnh Rặng liễu :một thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ điển. Đây hình ảnh
đặc trưng của mùa thu.
Từ ngữ đìu hiu, buồn, lệ ngàn hàng: cảnh thu vắng vẻ và buồn bã.
Từ phai - một cách miêu tả tinh tế và chính xác cảnh chớm thu. Cây cỏ chưa tàn
úa, đã ngả vàng nhưng vẫn tươi.
"Đây mùa thu tới /mùa thu tới: Câu thơ như một tiếng reo khẽ thốt lên, Nhưng không
phải reo vui như người tưởng. Làm sao có thể reo vui khi cảnh buồn đến thế. Đó
chỉ thể tiếng reo ngỡ ngàng. sững sờ nhận ra thế mùa thu đã về, vừa
ngạc nhiên vừa vồn vã. Nhịp thơ 4/3 diễn tả bước thu sang. Giọng thơ xôn xao như
cất tiếng đón chào.
Xuân Diệu thú vị phát hiện ra cả một trời thu bao la" với áo mơ phai dệt lá vàng". Từ
mơ phai - một cách miêu tả tinh tế và chính xác cảnh chớm thu. Cây cỏ chưa tàn úa,
đã ngả vàng nhưng vẫn tươi. Một cái nhìn tinh tế sắc màu cây cỏ- một cách miêu tả
tinh tế chính xác cảnh chớm thu. Cây cỏ chưa tàn úa, đã ngả vàng nhưng vẫn
tươi. Trên cái nền vàng nhạt “mơ phai" dần dần ửng lên, sáng lên một màu vàng
tươi khắp vườn cây, ngàn lá. ràng thu mới đến, buổi thu mới màu "mơ
phai" ấy. Cái màu vàng ấy đã tạo ra một không gian nghệ thuật đầy thi vị. Nó gợi tả
vẻ đẹp tươi sáng, thanh nhẹ của mùa thu Hà Nội.
Chữ "dệt" trong câu thơ như một nét vẽ tinh vi, mỏng thoáng trên gam màu rực rỡ,
điểm tô cái hồn thu được cảm nhận.
+ Khổ 2
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Từ hơn một: “Hơn một" chứ không phải “nhiều” mùa thu chỉ mới vừa chạm ngõ
đất trời, chỉ mới vừa dột những đường chỉ đầu tiên của chiếc “do phai” tuyệt
đẹp. "Hơn một loài hoa’’ chứ không phải "Đã mấy loài hoa rụng dưới cành” như Thế
Lữ đã từng sửa cho Xuân Diệu? “Một duy nhất nhưng "hơn một” thì cái thế độc
tôn ấy đã bị phá vỡ.
Chữ “rũa[1]”. Có người đã hiểu đây là chữ “rữa”. Không phải! Xuân Diệu đâu có diễn
tả sự phân huỷ của xác lá. Điều thi nhân muốn diễn tả tinh vi thanh nhã hơn
nhiều: sự phôi pha trên màu lá. Cũng nói về sự chuyển mùa bằng việc chuyển màu
trên thảo mộc cỏ cây. Chữ “rũa” thế. Ta không chỉ thấy mùa thu về trên những
vòm là, những dòng sông, những chân trời, những tầng trời. còn thấy thu đến
trong từng hạt diệp lục đang phai màu. Nếu màu xanh thuộc về mùa hạ, thì màu đỏ
mùa thu. Trên từng chiếc lá, thi thấy thu về đương tranh chấp với mùa hạ.
Màu đỏ lấn tới đâu làm màu xanh phôi pha tới đó. Mùa thu lan tới đâu, mùa hạ lùi
bước tới đó. “Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, câu thơ như đã thu nhỏ cả cuộc
đổi mùa lớn lao vào một góc vườn, vào từng chiếc lá đang phai.
Biện pháp điệp phụ âm run rẩy rung rinh cùng đắc địa. Bốn âm rung liên tiếp
không chỉ khắc họa tinh tế chuyển động run rẩy của lá cây mà còn khiến câu thơ đọc
lên cũng nghe rung rinh một điệu nhạc. Có người vè đoán rằng “luồng run rẩy” ở đây
luồng gió nhưng nếu vậy thì câu thơ chỉ dừng lại việc tả chứ đâu gợi rét, đâu
thể chuyển tải được những cảm nhận tinh vi, bén nhạy ở nhà thơ. “Luồng run rẩy” ở
đây chính cái rùng mình của cây lá, luồng run rẩy của cảm súc “khắp mình tôi
run rẩy tựa dây đàn”. Tâm hồn nhà thơ mong manh quá, đa cảm quá, tưởng như chỉ
cần chạm khẽ, đụng hờ cũng rung lên những tiếng lòng. Lấy chuyển động của
cây để tả gió, gợi rét, làm cái rét tuy không hiên ra như thấm sâu, ngấm vào
từng dòng nhựa sống. Cái tài, cái độc đáo của Xuân Diệu chính là ở chỗ đó.
Đôi nhánh khô gày xương mỏng manh: Câu thơ bảy chữ đã đến sáu thanh
bằng, tạo cảm giác ngưng đọng, ngừng nghĩ như dấu lặng giữa ban nhạc, (lẽ dư ba,
dư âm của khổ thơ ngân mãi và bắc cầu sang khổ thứ ba.
+ Khổ 3
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò...
Trăng thu buồn như tâm sự. Hai câu thơ tả trăng và núi thu mang lại sắc màu
cổ điển rất rõ nét. Còn cái lạnh cuối thu đã thấm thía.
Hai từ đã như sự khẳng định chắc chắn rằng thu đã đến thật rồi. Sự tàn phai
vẻ buồn của mùa thu đã được thể hiện đủ đầy. Những bước thu êm được cảm nhận
thật tinh tế. Một bức tranh thu nhiều đường nét màu sắc. Còn con người tuy
không trực tiếp xuất hiện nhưng tâm trạng đã được thể hiện rất rõ qua cảnh thu.
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...: Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, từ
nghe”, “ luồn” cảm nhận cacsi lạnh bằng thị giác, thính giác, cảm giác và tâm hồn
Đã vắng người sang những chuyến đò...: Trước cái lạnh của thiên nhiên hoạt động
con người nhạt dần
+ Khổ 4
Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.
đến khổ thơ cuối ta thấy xuất hiện hình ảnh con người. Nhưng cảnh vật chẳng
những không vui hơn còn buồn hơn bởi vì con người xuất hiện trong hoàn cảnh
và một tâm thế đầy tâm trạng
Thiếu nữ ấy mang tâm sự ? Chắc chắn tâm sự buồn. Nỗi buồn mông lung
không xác định, thiếu một đường viền cụ thể, rất mơ hồ.
Nỗi buồn không xác định : “ít nhiều”, không thành hình thành tiếng : “buồn không nói
“. Ý nghĩ thì mông lung : “nghĩ ngợi gì”. Nỗi buồn mơ hồ nhưng thấm thía. Thiếu nữ
không nhìn cái cụ thể, nhìn xa hồ, bởi lúc này thiếu nữ đang nhìn vào
chính lòng mình, lắng nghe tiếng nói của trái tim mình để cảm nhận nỗi buồn khi thu
đến và thời gian qua đi.
Câu thơ kết không nói rệt gợi mở rất nhiều. Nỗi buồn thu đến hay chính là
nỗi buồn của con người về cuộc đời đã nhuốm lên cảnh vật. Nỗi buồn của Xuân
Diệu cũng chính là nỗi buồn của thế hệ các nhà Thơ mới. Từ góc độ này có thể thấy
Đây mùa thu tới không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, niềm khát khao giao cảm
mãnh liệt của Xuân Diệu còn gợi lên tình cảm đối với quê hương đất nước. Bài
thơ khép lại mà ý thơ lại mở ra bao suy nghĩ.
- Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ:
+ Bút pháp tả cảnh ngụ tình
+ Nghệ tuật nhân hóa
+ Cách cách tân trong việc tổ chức lời thơ, xây dựng hình ảnh, lựa chọn ngôn từ.
+ Lối diễn đạt hiện đại - ảnh hưởng văn chương Pháp
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác
cùng đề tài, chủ đề, thể loại
Cũng viết về đề tài mùa thu - một đề tài quen thuộc của thơ ca Việt Nam. Nhưng cái
thu trong bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu không giống với cảnh thu, trời thu,
sắc thu truyền thống trong chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ này tác
giả gửi vào đó những xúc cảm mới, đồng thời nhiều cách tân táo bạo trong việc
xử thi liệu, trong diễn đạt,…đã làm nên một mùa thu rất độc đáo trong hồn thơ
Xuân Diệu.
Mùa thu với vẻ đẹp riêng rất lãng mạn rất thơ nên đã chiếm được cảm tình đặc
biệt của thi nhân. Dường như thu mùa của tâm trạng, của cảm xúc. Trước cảnh
thu người ta thường tức cảnh sinh tình. Đỗ Phủ khi xa quê trong cảnh loạn li, trước
mùa thu đã chùm Thu hứng nổi tiếng. Nguyễn Khuyến với tâm sự u uất của một
nhà nho đau đời trước cảnh nước mất nhà tan, một làng quê yên đã cả
“chùm thơ thu” nức tiếng. Cuộc chia tay đầy dự cảm của Thúc Sinh Thuý Kiều
được diễn ra trong cảnh thu hiu hắt với rừng phong đã “nhuốm màu quan san”. Lưu
Trọng lại xao động trước “Tiếng thu” huyền diệu. Còn thu đến dưới cặp mắt xanh
non của thi đa tình, đa sầu, đa cảm Xuân Diệu là sự kết hợp của cả hai yếu tố cổ
điển và hiện đại
3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
Như vậy, với tâm hồn nhạy cảm sự cảm nhận cùng tinh tế, bước đi của thời
gian, bước thu đi đã được tác giả miêu tả thành công qua từng nét thu, từng dáng
thu đẹp đẽ nhưng thấm đượm nỗi buồn. Chính điều này đã làm nên cái "tôi" riêng
của Xuân Diệu trong làng thơ mới. Qua đó, chúng ta có thể cảm nhận được một hồn
thơ khao khát giao cảm với thiên nhiên, đất trời cùng tình yêu thiên nhiên của Xuân
Diệu.
3. Viết bài văn giới thiệu, đánh giá về nội dung
nghệ thuật bài Đây mùa thu tới
“Đây mùa thu tới” in trong tập “Thơ thơ” (1938) một trong những tác phẩm nổi tiếng
của Xuân Diệu trước cách mạng. Cảnh sắc mùa thu trong bài thơ thấm một nỗi
buồn. Đó cái buồn muôn thuở, nhưng cũng là cái buồn của thời đại, cái buồn của
riêng Thơ mới. Buồn vì cái lạnh len lỏi đâu đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì sự chia lìa từ
hoa cỏ, chim muông đến con người. Buồn một nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ, phảng
phất trong không gian và trong lòng người.
Mở đầu bài thơ những dòng chuyển động của không gian, thời gian chuyển thu,
nhưng trong đoạn thơ này cũng thể hiện nỗi buồn thương của cảnh vật, qua một số
miêu tả của tác giả: liễu yếu đào tơ, liễu tang tóc buồn “đứng chịu tang” “lệ ngàn
hàng”. Tất cả những nổi buồn đó đều tâm trạng tác giả dùng cảnh vật, thiên
nhiên để nói đến sự cô đơn của người thiếu nữ. Những nỗi buồn mênh mang, mang
những cảm xúc tâm trạng của người thi trong cảnh thu, sự mênh mang đó mang
những nỗi buồn man mác, gợi lên những nỗi buồn của cảnh đầu thu.
Tiếp đến những tín hiệu báo thu sang: “Hơn một loại hoa đã rụng cành”, nắng
vàng nhạt, trăng vàng nhạt, gió vàng nhạt, đôi nhành khô gầy xương mỏng manh.
Mùa thu đến cũng làm cho con người thêm những tâm trạng buồn, đơn, tác
giả đang lạc lõng trên con đường với những đơn, trống vắng trong tâm hồn của
nhân vật trữ tình. Nhân vật đây đang mang những nỗi bâng khuâng, không biết
nghĩ “tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”… Mùa thu làm cho tâm hồn người thiếu nữ
cũng chút thay đổi rệt, những khoảng trống trong tâm hồn, những suy tư, cảm
xúc của người thiếu nữ hòa vào không gian mênh mông của thời gian, không gian
cảnh vật con người. Mùa thu mang những cảm xúc trống vắng, không gian
chuyển động của cảnh vật chuyển thu thể hiện ràng trong tập thơ, đó là cảm xúc
nhẹ nhàng sâu lắng, mang những dòng cảm xúc rất riêng đối với không gian
thiên nhiên, con người.
Bài thơ chính khung cảnh đất trời với “hơi thở” man mác buồn cùng với đó là nỗi
bâng khuâng của người thiếu nữ khi mùa thu về. Nói đến ngôn ngữ thơ Xuân Diệu
nói đến ngôn ngữ thơ tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ mới. Ngôn từ giàu hình
ảnh, diễn đạt chính xác cái hồ, mong manh, muôn hình, muôn vẻ của thiên
nhiên. Lời thơ tâm tình nồng nàn, kín đáo, say mê, hiện ở trong những giai điệu thơ
thiết tha, bồng bột, xôn xao, chơi vơi và lãng mạn.
Trong hai tập thơ viết trước Cách mạng: “Thơ thơ” “Gửi hương cho gió” rất
nhiều bài thơ nói đến sắc thu, hương thu, trăng thu, tình thu, thiếu nữ buổi thu về…
Mùa thu thật đáng yêu, làm cho tâm hồn thi như dây đàn huyền diệu đang rung
lên xao xuyến… Nét hấp dẫn người đọc bởi cách lựa chọn dấu hiệu mùa thu rất
riêng của Xuân Diệu: “Rặng liễu... ngàn hàng”. Mỗi ngày mỗi đêm đi qua. Thu đã về
thu dần dần trôi qua. Cảnh vật biến đổi. Hoa đã "rụng cành". Tác giả không nói
“đôi ba…”, lại viết “hơn một” cách dùng số từ ấy cũng một cách nói rất mới.
Trong vườn, màu đỏ (từng chấm nhỏ) đang lấn dần, đã đang "rũa màu xanh"!
Cũng nói về sự biến đổi ấy, trong bài "Cảm thu, tiễn thu” thi sĩ Tản Đà viết:
“Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vùng cây đỏ bóng tà tà dương”.
mùa xuân hay mùa thu, mùa hay mùa đông, giữa thiên nhiên trăm sắc
nghìn hương ấy, hình ảnh thiếu nữ đa tình, duyên dáng luôn luôn thấp thoáng qua
những vần thơ của Xuân Diệu. Thi sĩ đa tình nên thiếu nữ cũng đa tình?
“Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm
Hây hây thục nữ mắt như thuyền”.
("Nụ cười xuân" – Thơ thơ)
Trong chùm thơ thu của Yên Đổ, tình thu buồn thấm thía cô đơn được thể hiện qua
hình ảnh một ông lão, lúc đang "tựa gối ôm cần" trên một chiếc thuyền câu "bé tẻo
teo" giữa chiếc ao thu "lạnh lẽo", lúc là một cụ già đang ngồi uống rượu ngà ngà say
trong đêm sâu, có lúc lại là một nhà nho đang lặng ngắm cảnh thu, muốn cầm bút đề
thơ phân vân, lưỡng lự… Còn trong thơ thu của Xuân Diệu là hình bóng một giai
nhân trong tương tư, đang mộng tưởng. Đó cũng một nét mới nói về mùa thu
trong thơ Xuân Diệu.
Với “Đây mùa thu tới”, nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất
sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những
đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái
độ trân quý thời gian thi đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời
cũng mang nét u buồn, cô đơn.
4. Phân tích Đây mùa thu tới hay, ngắn gọn
Xuân Diệu nhà thơ đại diện xuất sắc trong nền thơ ca lãng mạn Việt Nam thời kì
1930 – 1945. Thơ Xuân Diệu bộc lộ niềm yêu đời, yêu cuộc sống, con người và khát
khao hạnh phúc. Thơ ông luôn thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, với vũ trụ.
Ông luôn mở rộng tâm hồn để đón nhận hương sắc muôn màu của cuộc sống. Từ
mối giao hòa ấy, Xuân Diệu đã để lại nhiều bài thơ đặc sắc.
Một trong số đó bài Đây mùa thu tới viết trước Cách mạng (1938). Cả bài thơ gợi
tả phong cảnh khi mới chớm vào thu, mang nỗi buồn của mùa thu và gieo vào lòng
người đọc nỗi buồn thấm thía nhưng thật đẹp. Đoạn thơ đầu rất tiêu biểu in đậm nét
thu riêng của hồn thơ Xuân Diệu:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Bài thơ mở đầu bằng cảnh thật buồn. Cái buồn của lòng người thấm vào cảnh vật:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang. Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Trong thơ
ca truyền thống, nói đến mùa thu là nói đến sen tàn, là ngô đồng rụng, cúc nở hoa:
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu.
Chỉ cần một chiếc ngô đồng rụng biết đất trời đã vào thu, nào cần phải nói
nhiều. Chiếc ngô đồng lìa cành trong thơ xưa trở thành biểu tượng của mùa thu.
Xuân Diệu không cần đến chiếc ngô đồng rụng vẫn cứ mùa thu. Mùa thu
của ông không hẳn đã sự tàn tạ, chết chóc mặc nỗi buồn cũng đến độ
cùng:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Mùa thu được Xuân Diệu cảm nhận trước hết bằng hình ảnh rặng liễu. Đây là hình
ảnh ước lệ xuất hiện nhiều trong thơ trung đại: “Khi về hỏi liễu Chương Đài”, “Lơ thơ
liễu buông mành” (Nguyễn Du), “Dặm liễu sương sa khách bước dồn” (Bà
Huyện Thanh Quan). Đối với Xuân Diệu, liệu lại được nhân hóa như con người:
mướt dài rủ xuống, thướt tha như người thiếu nữ đứng cúi đầu cho những làn tóc
mây đổ xuống, đồng thời cũng gợi ngàn dòng lệ tuôn rơi hàng nối hàng.
Quả thật khi mùa thu vừa tới cảnh đã buồn thê lương, không phải nỗi buồn
man mác, hắt hiu như Nguyễn Khuyến, Tản Đà… một nỗi buồn vợ ra bằng
nước mắt, bằng ngàn dòng lệ tang tóc. Nỗi buồn ấy thật mênh mang.
mở ra cả không gian ba chiều dày đặc bởi đâu phải một cây liễu một
“rặng liễu”, một hàng người… Những từ “đìu hiu”, “chịu tang”, “tóc buồn buông
xuống lệ ngàn hàng” cách sử dụng thanh điệu láy âm đã tạo ra một âm điệu
buồn, gợi rất đạt cái dáng buông xuống, rủ xuống mềm mại của những hàng tơ liễu.
Nhưng ngay hai câu thơ này, mùa thu tuy buồn vẫn đẹp nhất vẫn trẻ
trung.
Với Xuân Diệu thì ngược lại, ông lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, thiên
nhiên được nhân hóa một cách nghệ thuật. Do vậy mặc cảnh buồn đến thế
nhưng với cách nhìn trẻ trung của nhà Thơ mới, luôn nhìn đời bằng cặp mắt “xanh
non, biếc rờn” nên người đọc vẫn thấy cảnh buồn mà lại đẹp:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Câu thơ vang lên như một tiếng reo khẽ. Được nhắc lại tới hai lần với từ “đây” ở đầu
câu biểu hiện nỗi niềm đầy hứng khởi, xác nhận một sự thực bấy lâu vẫn chờ mong:
ấy sự hiện diện trọn vẹn của mùa thu. Nhịp điệu câu thơ bỗng trở nên gấp gáp,
một sự ngỡ ngàng chợt đến nhẹ nhàng, một chút yêu đời, yêu cuộc sống.
Câu thơ cuối hình ảnh bầu trời thu, không gian mùa thu, cái không gian mùa thu
ấy như chiếc áo màu “mơ phai” choàng cho cảnh vật, tạo cho mùa thu một dáng vẻ
tươi sáng thanh nhẹ.
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Xuân Diệu cũng nằm bất rất đúng cái sắc vàng của mùa thu ấy nhưng vàng
nhạt, màu của chiếc áo “mơ phai” dệt bằng sắc vàng tươi. Cái đẹp của chiếc áo
thu vàng như chứa đựng một sự tàn phai quên lãng, nhưng chính nhờ cái sắc màu
tươi sáng thanh nhẹ ấy mà đoạn thơ tuy buồn nhưng không hiu hắt bi thương.
Chỉ với bốn câu thơ/ Xuân Diệu đã làm sống dậy cả một cảnh thu, một sắc thu Việt
Nam với những vẻ đẹp vừa thân quen, vừa mới lạ của một hồn thơ nhạy cảm
tinh tế. Nhưng thấm sâu trong cảnh thu vẫn một nỗi buồn man mác. Đó nỗi
buồn của thời đại, nỗi buồn của một thế hệ thi nhân mất nước mang cái “tôi” bé nhỏ
của các nhà thơ lãng mạn bơ vơ trước cuộc đời. Nỗi buồn ấy, vẻ đẹp ấy đã làm nên
một nét thu riêng của Xuân Diệu nhưng lại là một nét thu tiêu biểu cho thơ lãng mạn
bấy giờ.
thể nói đoạn thơ đầu đoạn hay nhất trong bài thơ mùa thu của Xuân Diệu,
được cảm nhận với những hình ảnh! màu sắc, âm thanh rất riêng, rất Xuân Diệu.
Đoạn thơ thể hiện cảm xúc tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, tất cả được diễn tả
bằng ngôn ngữ mới lạ. Đúng như nhà phê bình văn học Hoài Thanh nói: “Xuân Diệu
là nhà Thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”.
5. Phân tích Đây mùa thu tới Xuân Diệu
Mùa thu luôn nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân để tạo ra những thi phẩm để
đời. Mùa thu trong thơ của Nguyễn Khuyến một bức tranh thu nơi thôn quê yên
bình, tĩnh lặng. Mùa thu trong Tiếng thu của Lưu Trọng lại những cảm nhận
tinh tế của tác giả về một không gian trời thu chân thực sống động. Nhưng đến
với Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, với tâm hồn nhạy cảm xốn xang của người
nghệ sĩ, mùa thu trong thơ Xuân Diệu mang trong mình biết bao sắc thái diệu kì.
Ngay từ tiêu đề “Đây mùa thu tới”, độc giả đã phần nào hiểu được nội dung chủ yếu
của bài thơ gì. Đó nói về mùa thu nhưng không phải giữa mùa thu hay cuối
thu. đương lúc mùa thu mới tới, đất trời vừa mới tiễn biệt mùa hè để đón thu
tới. Khi ngắm nhìn sự chuyển đổi của đất trời đó, nhà thơ Xuân Diệu phát hiện ra:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
Đập vào mắt nhà thơ đầu tiên khi mùa thu đến hình ảnh rặng liễu rũ. Nếu người
thường, thấy rặng liễu ấy sẽ mang dáng vẻ dịu dàng ê ấp, thế nhưng, ở đây nhà thơ
lại thấy rặng liễu như mang tâm trạng buồn như đang chịu tang, như đang trong
cảnh biệt li chết chóc. Từng cành buông xuống, được nhà thơ như những giọt
lệ tuôn rơi. Thật một cảnh sắc thật buồn thê lương. Dường như ẩn đàng sau hình
bóng rặng liễu hình ảnh một thiếu phụ đang khóc lóc trong cảnh đưa tang. Đọc
câu thơ lên độc giả cảm thấy buồn đến nao lòng. Đến hai câu tiếp, nhà thơ
thông báo “mùa thu tới mùa thu tới” với màu sắc mờ nhạt và lá vàng, lại càng nhán
mạnh thêm sự ảm đạm trong bức tranh thu mới tới.
khổ thơ này, nhà thơ đã dùng những từ ngữ nhân hóa, khiến cho mùa thu cũng
mang dáng vẻ của con người, biết khóc, biết buồn, biết dệt lá. Qua đây, chúng ta có
thể cảm nhận được tâm trạng sầu thảm trước cuộc sống của nhà thơ.
Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới đến khổ thơ 2, chúng ta càng thấm thía hơn
khung cảnh ảm đạm của mùa thu. Dưới con mắt nhạy cảm, tinh tế nhưng đầy u uất
của nhà thơ, mùa thu tới mang theo sự chia lìa, khi các loài hoa thay nhau rụng
xuống. Thay vì sắc xanh tươi trẻ của mùa hè thì giờ đây sắc đỏ đã chiếm chỗ và xua
đuổi màu xanh đi để chiếm trọn không gian thu cho riêng mình. Không những thế,
mùa thu tới mang theo những cơn gió heo may se se lạnh, khiến cho cành rung
rinh một cách run rẩy chứ không phải rung rinh vui vẻ như khi mùa hè. Cùng với đó
là những cành cây rụng hết là chỉ còn trơ xương gầy mỏng mảnh thiếu sức sống.
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Cả khổ thơ, tác giả đã dùng màu sắc các nét chấm phá để khắc họa lên bức
tranh thu đầy xác khô héo. Dường như ẩn chứa dáng vẻ thất vọng, chán
chường của tâm trạng con người. Con người trước Cách mạng tháng tám hay chính
nhà thơ đang thấy mình thiếu sức sống, không biết bấu víu vào đâu và cảm thấy run
rẩy trước dòng chảy của thời gian. Bốn câu thơ đều sử dụng phép đảo ngữ, nhằm
nhấn mạnh những thay đổi của thiên nhiên khi mùa thu tới cũng nhằm làm nổi
bật nét thu đầy buồn thương.
Nếu như những câu thơ trên, nhà thơ mới phác họa bức tranh thu qua những đổi
thay của thiên nhiên, thì tới khổ thơ tiếp theo nhà thơ đã nói tới sự vần chuyển của
cả trụ lẫn con người. đây, nhà thơ không gọi bóng trăng, hay ánh trăng mà
gọi “nàng trăng”. Cụm từ ấy cho độc giả thấy nàng trăng như cô gái ngẩn ngơ tiếc
nuối trước sự đổi thay của đất trời, của thời gian. Trăng thu không sáng vành vạch
như thường mà lại thỉnh thoảng ngẩn ngơ như đang mơ tưởng hay tiếc nuối điều gì.
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…”
Không chỉ trăng ngẩn ngơ núi non cũng trở nên mờ nhạt. Dường như vạn vật
đều trở nên hiu quạnh, mờ ảo khi bước chân mùa thu tới. Đã thế, đâu đó còn
những cơn gió lạnh đầu mùa, khiến cho cả đất trời lẫn con người bỗng trở nên buốt
giá, lạnh lẽo. Cũng chính thế những chuyến đò vốn tập nập hàng ngày giờ
trở nên nên vắng vẻ, chẳng còn ai qua sông. Điều đó chứng tỏ sức sống của con
người cũng trở nên khô cằn, con người đều lui về ẩn. Điệp từ “đã” đây tác giả
sử dụng nhằm nhấn mạnh rằng mùa thu đã tới thực sự. Mùa thu không còn mới tới
nữa mà đã bao trùm lên khắp không gian, cảnh vật và hồn người.
Qua quá trình phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu, chúng ta
cảm nhận nét đẹp sầu bi của mùa thu. Thu chẳng còn vẻ đẹp lãng mạn mộng
chất chứa đầy nỗi buồn u uất. Đó cũng chính là tâm trạng của hầu hết các thi sĩ,
nhà văn Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 khi đất nước còn trong cảnh lầm than,
khi mọi sự đang còn trong vòng luẩn quẩn đời sống con người đang bị chà đạp
bởi những thế lực tàn bạo nửa thực dân nửa phong kiến.
“Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.
Chính bởi tâm trạng đang buồn rầu nên tác giả đã nhuốm màu buồn đó lên cảnh
thu. Mặc thể, mùa thu không đến nỗi sầu đau như thế. Nhưng vì quá uất hận,
quá bi thương nên nhà thơ Xuân Diệu đã không thể giấu được lòng mình. Ông đã
gửi gắm qua những câu thơ về mùa thu đầy xót xa. Đặc biệt ở khổ thơ cuối. Nhà thơ
đã cho xuất hiện một loạt hình ảnh thể hiện sự chia ly, sự tử biệt. Rồi giữa khung
cảnh mùa thu tang thương ấy, hình ảnh người thiếu nữ buồn không nói càng làm
cho bức tranh trở nên sầu thảm. Người thiếu nữ ấy nhìn xa xăm, vô định, nghĩ ngợi
mông lung về điều không biết chính xác là điều gì. Dường như đó cũng chính
tâm của nhà thơ khi đang khao khát điều đó nhưng lại không thể biết chính
xác điều gì. Cái hình ảnh “tự cửa” nhìn xa xăm không nói sao mà buồn thảm sao
bất an nhiều lo lắng đến thế. Dường như con người đang không biết bấu víu
vào đâu, không biết đi đâu về đâu giữa cuộc đời đầy bất an đó.
Toàn bộ bài thơ một một bức tranh mùa thu buồn được vẽ bằng những bút pháp
nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ đã sử dụng những từ láy gợi cảm giác như “run rẩy”,
“ngẩn ngơ”, “đìu hiu”, “mỏng manh”… Nhờ những từ đó là bức tranh thu trở nên sinh
động hơn, sức hút hơn với người đọc. Đặc biệt, những cách đảo ngữ thú vị càng
giúp bài thơ bộc lộ rõ hơn sự biến chuyển của thời gian và tâm trạng não nề của tác
giả. Với thể thơ tự do, nhà thơ cho thấy tâm hồn của mình thật phóng khoáng,
không bị rào cản trong một khuôn mẫu nào cả. Nhờ thế mà bài thơ cũng dễ đi
vào lòng người, dễ hiểu, dễ thuộc và dễ cảm hơn.
Với "Đây mùa thu tới", nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất
sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những
đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái
độ trân quý thời gian thi đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời
cũng mang nét u buồn, cô đơn.
6. Phân tích Đây mùa thu tới ngắn gọn
Xuân Diệu ông hoàng của thơ tình yêu, chưa kể những bài thơ của ông đều mang
những quan niệm rất mới về cuộc sống, tuổi trẻ và về tình yêu. Ông cũng được xem
thi của mùa thu, cũng chính cái lãng mạn, khoảnh khắc xao xuyến của thu
mà những vần thơ của nhà thơ hồn hậu và có hồn biết bao nhiêu. Đây mùa thu tới là
một trong số những sáng tác tiêu biểu của Xuân Diệu. Mùa thu đó hiện ra thật đáng
yêu, làm cho tâm hồn thi như dây đàn rung lên những điệu nhạc xao xuyến lòng
người.
Rút từ tập Thơ Thơ”, sáng tác "Đây mùa thu tới" một bài thơ thu tuyệt bút của
Xuân Diệu, xuất bản năm 1938. Thu đến, những chiếc rụng, gió hắt hiu làm xốn
xang lòng người đặc biệt một tâm hồn của một người thi sĩ, vốn đã có chút nhạy
cảm với những thay đổi của đất trời dù là nhỏ nhất.
Nhưng lẽ hình ảnh mùa thu tới trong tác phẩm khiến cho người đọc cảm nhận
một không khí tang thương bi ai,những hình ảnh không phải hoa lá, không phải gió
đưa cần trúc, không phải mặt nước xanh biếc mà gắn với hình ảnh những cành liễu
"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".
Không gian hiện ra với vẻ "đìu hiu", buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như "đứng
chịu tang". liễu buông dài như tóc nàng phụ "buồn buông xuống". Sương thu
ướt đẫm trên những nhánh liễu khiến tác giả ngâm nga một câu khiến chúng trở nên
hồn. Những cành liễu giống như những giá thướt tha, nhưng mắt buồn đẫm
lệ. Biện pháp láy âm được Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm
điệu, nhạc điệu: "đìu hiu – chịu", "tang – ngàn – hàng", "buồn – buông – xuống". Đây
tạo nên những nét thú vị của thơ Xuân Diệu những năm đầu thế kỉ 20.
Ngắm nhìn rặng liễu, đột nhiên tác giả chợt nhận ra màu thu đã tới, với cách ngắt
nhịp 4/3 với điệp ngữ "mùa thu tới" đã diễn tả bước đi của mùa thu niềm mong
đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ.
"Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng".
Cách hiệp vần lưng thần tình: "tới với", một chữ "dệt" tinh tế trong miêu tả và cảm
nhận. Thu tới cũng chính muôn nơi được nhuộm bởi một màu vàng của cây đổi lá,
được dệt một cách tỉ mỉ mang tới một vẻ đẹp không phải tự dưng mà có. "Với áo
phai dệt vàng" một câu thơ thi vị biết bao, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi
lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô cùng. Tuy nhiên mùa thu
đó lại bắt đầu với một nỗi buồn ảm đạm hắt hiu.
Thu về cũng chính lúc cảnh vật đổi khác, khoác lên mình những màu sắc rực rỡ.
Thu đã về thu dần trôi,thời gian trôi nhanh không tưởng. Cảnh vật một lúc một
khác, hoa rơi, màu đỏ lấm chấm dần rủa màu xanh. Cây cối cảnh vật bắt đầu
rụng trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước những làn gió thu lành
lạnh, se sắt.
"Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".
khổ thơ này, tác giả sử dụng những từ láy như: "run rẩy", "rung rinh”, "mỏng
manh" những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây buổi
chiều thu. Đặc biệt hình ảnh sắc đỏ rủa màu xanh khiến cho câu thơ mang một
nét đẹp nghệ thuật độc đáo. Màu xanh đó không mướt như ngọc từ từ từ lan
rộng ra, và mọi thứ như ngấm chất thu vào đó.
Thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo ở
khổ thơ thứ 3 được sử dụng một cách triệt để: là "nàng trăng tự ngẩn ngơ" trên bầu
trời. Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Hình ảnh núi nhấp nhô trong làn
sương mờ cành làm nổi bật những hình ảnh của mùa thu. Trăng núi trong thơ
Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân
thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:
"Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ… "
"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi
chiều thu với không khí se se lạnh. Chúng ta thấy chuyển đổi cảm giác giữa xúc
giác và thính giác. Sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ
bằng giác quan còn bằng cả linh hồn nữa. Như chính tác giả dang đứng giữa
chiều gió thu, se se lạnh,chữ "luồn" đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được bằng
trực giác.
Đâu đẹp bằng hình ảnh thiên nhiên đẹo đẽ khổ thơ cuối.Có vẻ đẹp của thiên
nhiên, của mây trời, cánh chim, xuất hiện vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp
nhưng thoáng buồn hồ mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp
chia li như "bèo dạt mây trôi" của tình ca!
"Mây vẩn từng không chim bay đi,

Preview text:

Top 8 bài phân tích Đây mùa thu tới hay đặc sắc
Đây mùa thu tới là một trong những bài thơ nổi bật của Xuân Diệu, thể hiện rõ
phong cách thơ độc đáo của ông – vừa hiện đại, vừa trữ tình, lãng mạn nhưng cũng
chất chứa nỗi buồn man mác. Bài thơ đã vẽ nên bức tranh mùa thu với những gam
màu dịu dàng, tinh tế, gợi lên cảm giác chuyển giao của thiên nhiên cùng nỗi lòng
con người trước thời gian trôi chảy.
Với ngôn từ giàu hình ảnh và nhạc điệu uyển chuyển, Xuân Diệu không chỉ khắc
họa mùa thu bằng thị giác mà còn đánh thức mọi giác quan của người đọc, từ cái
lạnh se se, sắc vàng của lá đến làn gió nhẹ thoảng qua. Để giúp bạn đọc cảm nhận
trọn vẹn vẻ đẹp của bài thơ, dưới đây là tổng hợp những bài phân tích Đây mùa
thu tới hay và đặc sắc nhất, giúp bạn hiểu sâu hơn về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm này.
Đây mùa thu tới là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Diệu. Được viết theo thể thơ
7 chữ, Đây mùa thu tới là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cách diễn đạt truyền
thống và mới mẽ do học tập văn hóa Phương Tây, với tâm hồn thi sĩ giàu cảm xúc
và tài năng của Xuân Diệu. Bài thơ là một bức tranh thu mang màu sắc đượm buồn
nhưng vẫn vô cùng xinh đẹp với nỗi buồn trong sáng, khao khát sự hòa nhập với cuộc đời.
1. Dàn ý Đây mùa thu tới 1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm: Xuân Diệu là một trong những nhà thơ đặc biệt thành công khi
viết về mùa thu, với bài thơ “Đây mùa thu tới”, thi sĩ đã mang đến cho người đọc
những cảm nhận vừa tinh tế, vừa mới mẻ về một bức tranh mùa thu đẹp, lãng mạn
nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn, sự xót xa. 2. Thân bài
– Mùa thu đến thật nhẹ nhàng, nó không rộn rã, ồn ào để dễ dàng nhận biết như
ngày hè. Thu về trên những rặng liễu đìu hìu, trong cảnh vật yên bình mà thấm
đượm nỗi buồn mơ hồ.
– Thu đến mang theo những nỗi buồn và sự phấn khích, bất ngờ cho cảm nhận của
con người, đó là tiếng reo vui của nhà thơ khi chợt nhận thấy mùa xuân đã về “Đây
mùa thu tới, mùa thu tới”.
– Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ Xuân Diệu đã có những cảm nhận sâu sắc hơn về
những dấu hiệu của ngày thu.
–> Khung cảnh mùa thu diễm lệ, lãng mạn có thể làm xao xuyến lòng người nhưng
cũng gợi ra nỗi buồn về sự phôi pha, tàn úa.
– Khung cảnh thi vị, lãng mạn nhưng cũng khẳng khiu, mỏng manh đến nao lòng “
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
– Trăng thuộc về thiên nhiên nhưng được nhân hóa như một con người với những
cảm xúc buồn vui như con người mang đến sự đồng điệu giữa thiên nhiên và con người.
– Những chuyến đò nhộp nhịp thường ngày cũng đổi khác khi thu về, đó là sự thưa
thớt, vắng lặng đến đìu hiu
– Trong khổ thơ cuối cùng, thi sĩ Xuân Diệu vẫn mải miết cảm nhận từng bước đi
của nàng thu, mùa thu còn được cảm nhận qua những chuyển động cụ thể của
cánh chim và sự rộn rã trong lòng người
+ Nỗi buồn về sự chia li được nhà thơ gửi gắm thông qua hình ảnh cánh chim đang di cư tránh rét.
+ Bầu không rộng lớn nhưng trầm buồn, u uất vì nhuốm màu chia li
+ Hình ảnh người thiếu nữ đa tình hay chính Xuân Diệu đa tình đã mang hết nỗi
lòng hòa vào mùa thu, để mặc cho những suy nghĩ xa xăm trôi dạt cùng mây trời. 3. Kết bài
“Đây mùa thu tới” là thi phẩm xuất sắc của Xuân Diệu viết về mùa thu, thi sĩ không
chỉ mang đến cho người đọc bức tranh mùa thu tuyệt đẹp mà còn gửi gắm những
nỗi niềm, cảm xúc của bản thân trước mùa thu và những đổi thay của đất trời.
2. Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật
của bài thơ Đây mùa thu tới - Xuân Diệu

1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
- Xuân Diệu - nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, “nhà thơ của
niềm giao cảm hết mình giữa con người với con người” ngay từ khi xuất hiện giữa
làng thơ Việt Nam, Hoài Thanh đã khẳng định: “…Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn
sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình
yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời
ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn , tha thiết.” (
Trích Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh, Hoài Chân)
- “Đây mùa thu tới” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước
Cách mạng tháng Tám, rút trong tập "Thơ thơ", xuất bản năm 1938.
2. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)
- Cảnh thu, tình thu đẹp nhưng buồn là nét nổi bật nhất của bài thơ. Đồng thời bài
thơ còn thể hiện sự nối tiếp truyền thống và những cách tân sáng tạo của Xuân Diệu
khi tiếp tục khai thác đề tài vô cùng quen thuộc của thơ ca cổ điển.
- Đây mùa thu tới thể hiện sự nhạy cảm và mới mẻ của hồn thơ Xuân Diệu. Bài thơ
buồn nhưng có nhiều sự sống. Thiên nhiên đẹp và có hồn qua cảm nhận của thi sĩ.
- Là nhà thơ của cảm thức về thời gian, Xuân Diệu rất nhạy cảm với những bước đi
của các mùa trong năm. Thời điểm giao mùa vốn dễ gợi nhiều cảm xúc cho con
người và với thi nhân đó là thời điểm sản sinh ra ý thơ. Mỗi mùa trôi qua bao giờ
nhà thơ cũng có những dòng cảm xúc. Khi thì “giục giã”, “vội vàng”, khi thì reo vui
chào đón, khi lại tiếc nuối… Với tâm hồn nhạy cảm, nhà thơ đã cảm nhận được
bước đi rất nhẹ nhàng của mùa thu. Điều này đã được thể hiện ở Đây mùa thu tới.
* Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của
các phương diện ngôn từ.
- Sự phát triển của hình tượng chính + Khổ 1
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hình ảnh Rặng liễu :một thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ điển. Đây là hình ảnh đặc trưng của mùa thu.
Từ ngữ đìu hiu, buồn, lệ ngàn hàng: cảnh thu vắng vẻ và buồn bã.
Từ mơ phai - một cách miêu tả tinh tế và chính xác cảnh chớm thu. Cây cỏ chưa tàn
úa, đã ngả vàng nhưng vẫn tươi.
"Đây mùa thu tới /mùa thu tới: Câu thơ như một tiếng reo khẽ thốt lên, Nhưng không
phải reo vui như có người tưởng. Làm sao có thể reo vui khi cảnh buồn đến thế. Đó
chỉ có thể là tiếng reo ngỡ ngàng. Vì sững sờ nhận ra thế là mùa thu đã về, vừa
ngạc nhiên vừa vồn vã. Nhịp thơ 4/3 diễn tả bước thu sang. Giọng thơ xôn xao như cất tiếng đón chào.
Xuân Diệu thú vị phát hiện ra cả một trời thu bao la" với áo mơ phai dệt lá vàng". Từ
mơ phai - một cách miêu tả tinh tế và chính xác cảnh chớm thu. Cây cỏ chưa tàn úa,
đã ngả vàng nhưng vẫn tươi. Một cái nhìn tinh tế sắc màu cây cỏ- một cách miêu tả
tinh tế và chính xác cảnh chớm thu. Cây cỏ chưa tàn úa, đã ngả vàng nhưng vẫn
tươi. Trên cái nền vàng nhạt “mơ phai" dần dần ửng lên, sáng lên một màu vàng
tươi khắp vườn cây, ngàn lá. Rõ ràng là thu mới đến, buổi thu sơ mới có màu "mơ
phai" ấy. Cái màu vàng ấy đã tạo ra một không gian nghệ thuật đầy thi vị. Nó gợi tả
vẻ đẹp tươi sáng, thanh nhẹ của mùa thu Hà Nội.
Chữ "dệt" trong câu thơ như một nét vẽ tinh vi, mỏng thoáng trên gam màu rực rỡ,
điểm tô cái hồn thu được cảm nhận. + Khổ 2
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Từ hơn một: “Hơn một" chứ không phải “nhiều” vì mùa thu chỉ mới vừa chạm ngõ
đất trời, chỉ mới vừa dột những đường chỉ đầu tiên của chiếc “do mơ phai” tuyệt
đẹp. "Hơn một loài hoa’’ chứ không phải "Đã mấy loài hoa rụng dưới cành” như Thế
Lữ đã từng sửa cho Xuân Diệu? “Một là duy nhất nhưng "hơn một” thì cái thế độc
tôn ấy đã bị phá vỡ.
Chữ “rũa[1]”. Có người đã hiểu đây là chữ “rữa”. Không phải! Xuân Diệu đâu có diễn
tả sự phân huỷ của xác lá. Điều thi nhân muốn diễn tả tinh vi và thanh nhã hơn
nhiều: sự phôi pha trên màu lá. Cũng nói về sự chuyển mùa bằng việc chuyển màu
trên thảo mộc cỏ cây. Chữ “rũa” là thế. Ta không chỉ thấy mùa thu về trên những
vòm là, những dòng sông, những chân trời, những tầng trời. Mà còn thấy thu đến
trong từng hạt diệp lục đang phai màu. Nếu màu xanh thuộc về mùa hạ, thì màu đỏ
là mùa thu. Trên từng chiếc lá, thi sĩ thấy thu về và đương tranh chấp với mùa hạ.
Màu đỏ lấn tới đâu làm màu xanh phôi pha tới đó. Mùa thu lan tới đâu, mùa hạ lùi
bước tới đó. “Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, câu thơ như đã thu nhỏ cả cuộc
đổi mùa lớn lao vào một góc vườn, vào từng chiếc lá đang phai.
Biện pháp điệp phụ âm run rẩy rung rinh vô cùng đắc địa. Bốn âm rung liên tiếp
không chỉ khắc họa tinh tế chuyển động run rẩy của lá cây mà còn khiến câu thơ đọc
lên cũng nghe rung rinh một điệu nhạc. Có người vè đoán rằng “luồng run rẩy” ở đây
là luồng gió nhưng nếu vậy thì câu thơ chỉ dừng lại ở việc tả chứ đâu gợi rét, đâu
thể chuyển tải được những cảm nhận tinh vi, bén nhạy ở nhà thơ. “Luồng run rẩy” ở
đây chính là cái rùng mình của cây lá, là luồng run rẩy của cảm súc “khắp mình tôi
run rẩy tựa dây đàn”. Tâm hồn nhà thơ mong manh quá, đa cảm quá, tưởng như chỉ
cần chạm khẽ, đụng hờ cũng rung lên những tiếng tơ lòng. Lấy chuyển động của
cây để tả gió, gợi rét, làm cái rét tuy không hiên ra mà như thấm sâu, ngấm vào
từng dòng nhựa sống. Cái tài, cái độc đáo của Xuân Diệu chính là ở chỗ đó.
Đôi nhánh khô gày xương mỏng manh: Câu thơ bảy chữ mà đã có đến sáu thanh
bằng, tạo cảm giác ngưng đọng, ngừng nghĩ như dấu lặng giữa ban nhạc, (lẽ dư ba,
dư âm của khổ thơ ngân mãi và bắc cầu sang khổ thứ ba. + Khổ 3
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò...
Trăng thu buồn và như có tâm sự. Hai câu thơ tả trăng và núi thu mang lại sắc màu
cổ điển rất rõ nét. Còn cái lạnh cuối thu đã thấm thía.
Hai từ đã như là sự khẳng định chắc chắn rằng thu đã đến thật rồi. Sự tàn phai và
vẻ buồn của mùa thu đã được thể hiện đủ đầy. Những bước thu êm được cảm nhận
thật tinh tế. Một bức tranh thu có nhiều đường nét và màu sắc. Còn con người tuy
không trực tiếp xuất hiện nhưng tâm trạng đã được thể hiện rất rõ qua cảnh thu.
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...: Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, từ “
nghe”, “ luồn” cảm nhận cacsi lạnh bằng thị giác, thính giác, cảm giác và tâm hồn
Đã vắng người sang những chuyến đò...: Trước cái lạnh của thiên nhiên hoạt động con người nhạt dần + Khổ 4
Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.
Và đến khổ thơ cuối ta thấy xuất hiện hình ảnh con người. Nhưng cảnh vật chẳng
những không vui hơn mà còn buồn hơn bởi vì con người xuất hiện trong hoàn cảnh
và một tâm thế đầy tâm trạng
Thiếu nữ ấy mang tâm sự gì ? Chắc chắn là tâm sự buồn. Nỗi buồn mông lung
không xác định, thiếu một đường viền cụ thể, rất mơ hồ.
Nỗi buồn không xác định : “ít nhiều”, không thành hình thành tiếng : “buồn không nói
“. Ý nghĩ thì mông lung : “nghĩ ngợi gì”. Nỗi buồn mơ hồ nhưng thấm thía. Thiếu nữ
không nhìn cái gì cụ thể, nhìn xa và mơ hồ, bởi vì lúc này thiếu nữ đang nhìn vào
chính lòng mình, lắng nghe tiếng nói của trái tim mình để cảm nhận nỗi buồn khi thu
đến và thời gian qua đi.
Câu thơ kết không nói gì rõ rệt mà gợi mở rất nhiều. Nỗi buồn thu đến hay chính là
nỗi buồn của con người về cuộc đời đã nhuốm lên cảnh vật. Nỗi buồn của Xuân
Diệu cũng chính là nỗi buồn của thế hệ các nhà Thơ mới. Từ góc độ này có thể thấy
Đây mùa thu tới không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên, niềm khát khao giao cảm
mãnh liệt của Xuân Diệu mà còn gợi lên tình cảm đối với quê hương đất nước. Bài
thơ khép lại mà ý thơ lại mở ra bao suy nghĩ.
- Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ:
+ Bút pháp tả cảnh ngụ tình + Nghệ tuật nhân hóa
+ Cách cách tân trong việc tổ chức lời thơ, xây dựng hình ảnh, lựa chọn ngôn từ.
+ Lối diễn đạt hiện đại - ảnh hưởng văn chương Pháp
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác
cùng đề tài, chủ đề, thể loại
Cũng viết về đề tài mùa thu - một đề tài quen thuộc của thơ ca Việt Nam. Nhưng cái
thu trong bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu không giống với cảnh thu, trời thu,
sắc thu truyền thống trong chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ này tác
giả gửi vào đó những xúc cảm mới, đồng thời có nhiều cách tân táo bạo trong việc
xử lý thi liệu, trong diễn đạt,…đã làm nên một mùa thu rất độc đáo trong hồn thơ Xuân Diệu.
Mùa thu với vẻ đẹp riêng rất lãng mạn và rất thơ nên đã chiếm được cảm tình đặc
biệt của thi nhân. Dường như thu là mùa của tâm trạng, của cảm xúc. Trước cảnh
thu người ta thường tức cảnh sinh tình. Đỗ Phủ khi xa quê trong cảnh loạn li, trước
mùa thu đã có chùm Thu hứng nổi tiếng. Nguyễn Khuyến với tâm sự u uất của một
nhà nho đau đời trước cảnh nước mất nhà tan, ở một làng quê yên ả đã có cả
“chùm thơ thu” nức tiếng. Cuộc chia tay đầy dự cảm của Thúc Sinh – Thuý Kiều
được diễn ra trong cảnh thu hiu hắt với rừng phong đã “nhuốm màu quan san”. Lưu
Trọng Lư lại xao động trước “Tiếng thu” huyền diệu. Còn thu đến dưới cặp mắt xanh
non của thi sĩ đa tình, đa sầu, đa cảm Xuân Diệu là sự kết hợp của cả hai yếu tố cổ điển và hiện đại
3. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
Như vậy, với tâm hồn nhạy cảm và sự cảm nhận vô cùng tinh tế, bước đi của thời
gian, bước thu đi đã được tác giả miêu tả thành công qua từng nét thu, từng dáng
thu đẹp đẽ nhưng thấm đượm nỗi buồn. Chính điều này đã làm nên cái "tôi" riêng
của Xuân Diệu trong làng thơ mới. Qua đó, chúng ta có thể cảm nhận được một hồn
thơ khao khát giao cảm với thiên nhiên, đất trời cùng tình yêu thiên nhiên của Xuân Diệu.
3. Viết bài văn giới thiệu, đánh giá về nội dung và
nghệ thuật bài Đây mùa thu tới

“Đây mùa thu tới” in trong tập “Thơ thơ” (1938) một trong những tác phẩm nổi tiếng
của Xuân Diệu trước cách mạng. Cảnh sắc mùa thu trong bài thơ thấm một nỗi
buồn. Đó là cái buồn muôn thuở, nhưng cũng là cái buồn của thời đại, cái buồn của
riêng Thơ mới. Buồn vì cái lạnh len lỏi đâu đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì sự chia lìa từ
hoa cỏ, chim muông đến con người. Buồn vì một nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ, phảng
phất trong không gian và trong lòng người.
Mở đầu bài thơ là những dòng chuyển động của không gian, thời gian chuyển thu,
nhưng trong đoạn thơ này cũng thể hiện nỗi buồn thương của cảnh vật, qua một số
miêu tả của tác giả: liễu yếu đào tơ, liễu tang tóc buồn “đứng chịu tang” “lệ ngàn
hàng”. Tất cả những nổi buồn đó đều là tâm trạng mà tác giả dùng cảnh vật, thiên
nhiên để nói đến sự cô đơn của người thiếu nữ. Những nỗi buồn mênh mang, mang
những cảm xúc tâm trạng của người thi sĩ trong cảnh thu, sự mênh mang đó mang
những nỗi buồn man mác, gợi lên những nỗi buồn của cảnh đầu thu.
Tiếp đến là những tín hiệu báo thu sang: “Hơn một loại hoa đã rụng cành”, nắng
vàng nhạt, trăng vàng nhạt, gió vàng nhạt, đôi nhành khô gầy xương mỏng manh.
Mùa thu đến cũng làm cho con người có thêm những tâm trạng buồn, cô đơn, tác
giả đang lạc lõng trên con đường với những cô đơn, trống vắng trong tâm hồn của
nhân vật trữ tình. Nhân vật ở đây đang mang những nỗi bâng khuâng, không biết
nghĩ gì “tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”… Mùa thu làm cho tâm hồn người thiếu nữ
cũng có chút thay đổi rõ rệt, những khoảng trống trong tâm hồn, những suy tư, cảm
xúc của người thiếu nữ hòa vào không gian mênh mông của thời gian, không gian
và cảnh vật con người. Mùa thu mang những cảm xúc trống vắng, không gian và
chuyển động của cảnh vật chuyển thu thể hiện rõ ràng trong tập thơ, đó là cảm xúc
nhẹ nhàng và sâu lắng, mang những dòng cảm xúc rất riêng đối với không gian thiên nhiên, con người.
Bài thơ chính là khung cảnh đất trời với “hơi thở” man mác buồn cùng với đó là nỗi
bâng khuâng của người thiếu nữ khi mùa thu về. Nói đến ngôn ngữ thơ Xuân Diệu
là nói đến ngôn ngữ thơ tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ mới. Ngôn từ giàu hình
ảnh, diễn đạt chính xác cái mơ hồ, mong manh, muôn hình, muôn vẻ của thiên
nhiên. Lời thơ tâm tình nồng nàn, kín đáo, say mê, hiện ở trong những giai điệu thơ
thiết tha, bồng bột, xôn xao, chơi vơi và lãng mạn.
Trong hai tập thơ viết trước Cách mạng: “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió” có rất
nhiều bài thơ nói đến sắc thu, hương thu, trăng thu, tình thu, thiếu nữ buổi thu về…
Mùa thu thật đáng yêu, làm cho tâm hồn thi sĩ như dây đàn huyền diệu đang rung
lên xao xuyến… Nét hấp dẫn người đọc bởi cách lựa chọn dấu hiệu mùa thu rất
riêng của Xuân Diệu: “Rặng liễu... ngàn hàng”. Mỗi ngày mỗi đêm đi qua. Thu đã về
và thu dần dần trôi qua. Cảnh vật biến đổi. Hoa đã "rụng cành". Tác giả không nói
“đôi ba…”, mà lại viết “hơn một” cách dùng số từ ấy cũng là một cách nói rất mới.
Trong vườn, màu đỏ (từng chấm nhỏ) đang lấn dần, đã và đang "rũa màu xanh"!
Cũng nói về sự biến đổi ấy, trong bài "Cảm thu, tiễn thu” thi sĩ Tản Đà viết:
“Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vùng cây đỏ bóng tà tà dương”.
Là mùa xuân hay mùa thu, là mùa hè hay mùa đông, giữa thiên nhiên trăm sắc
nghìn hương ấy, hình ảnh thiếu nữ đa tình, duyên dáng luôn luôn thấp thoáng qua
những vần thơ của Xuân Diệu. Thi sĩ đa tình nên thiếu nữ cũng đa tình?
“Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm
Hây hây thục nữ mắt như thuyền”.
("Nụ cười xuân" – Thơ thơ)
Trong chùm thơ thu của Yên Đổ, tình thu buồn thấm thía cô đơn được thể hiện qua
hình ảnh một ông lão, lúc đang "tựa gối ôm cần" trên một chiếc thuyền câu "bé tẻo
teo" giữa chiếc ao thu "lạnh lẽo", lúc là một cụ già đang ngồi uống rượu ngà ngà say
trong đêm sâu, có lúc lại là một nhà nho đang lặng ngắm cảnh thu, muốn cầm bút đề
thơ mà phân vân, lưỡng lự… Còn trong thơ thu của Xuân Diệu là hình bóng một giai
nhân trong tương tư, đang mộng tưởng. Đó cũng là một nét mới nói về mùa thu trong thơ Xuân Diệu.
Với “Đây mùa thu tới”, nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất
sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những có
đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái
độ trân quý thời gian thi sĩ đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời
cũng mang nét u buồn, cô đơn.
4. Phân tích Đây mùa thu tới hay, ngắn gọn
Xuân Diệu là nhà thơ đại diện xuất sắc trong nền thơ ca lãng mạn Việt Nam thời kì
1930 – 1945. Thơ Xuân Diệu bộc lộ niềm yêu đời, yêu cuộc sống, con người và khát
khao hạnh phúc. Thơ ông luôn thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, với vũ trụ.
Ông luôn mở rộng tâm hồn để đón nhận hương sắc muôn màu của cuộc sống. Từ
mối giao hòa ấy, Xuân Diệu đã để lại nhiều bài thơ đặc sắc.
Một trong số đó là bài Đây mùa thu tới viết trước Cách mạng (1938). Cả bài thơ gợi
tả phong cảnh khi mới chớm vào thu, mang nỗi buồn của mùa thu và gieo vào lòng
người đọc nỗi buồn thấm thía nhưng thật đẹp. Đoạn thơ đầu rất tiêu biểu in đậm nét
thu riêng của hồn thơ Xuân Diệu:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Bài thơ mở đầu bằng cảnh thật buồn. Cái buồn của lòng người thấm vào cảnh vật:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang. Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Trong thơ
ca truyền thống, nói đến mùa thu là nói đến sen tàn, là ngô đồng rụng, cúc nở hoa:
Ngô đồng nhất diệp lạc Thiên hạ cộng tri thu.
Chỉ cần một chiếc lá ngô đồng rụng là biết đất trời đã vào thu, nào cần phải nói gì
nhiều. Chiếc lá ngô đồng lìa cành trong thơ xưa trở thành biểu tượng của mùa thu.
Xuân Diệu không cần đến chiếc lá ngô đồng rụng mà vẫn cứ là mùa thu. Mùa thu
của ông không hẳn đã là sự tàn tạ, chết chóc mặc dù nỗi buồn cũng là đến độ vô cùng:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Mùa thu được Xuân Diệu cảm nhận trước hết bằng hình ảnh rặng liễu. Đây là hình
ảnh ước lệ xuất hiện nhiều trong thơ trung đại: “Khi về hỏi liễu Chương Đài”, “Lơ thơ
tơ liễu buông mành” – (Nguyễn Du), “Dặm liễu sương sa khách bước dồn” (Bà
Huyện Thanh Quan). Đối với Xuân Diệu, liệu lại được nhân hóa như con người: lá
mướt dài rủ xuống, thướt tha như người thiếu nữ đứng cúi đầu cho những làn tóc
mây đổ xuống, đồng thời cũng gợi ngàn dòng lệ tuôn rơi hàng nối hàng.
Quả thật khi mùa thu vừa tới mà cảnh đã buồn thê lương, không phải là nỗi buồn
man mác, hắt hiu như Nguyễn Khuyến, Tản Đà… mà là một nỗi buồn vợ ra bằng
nước mắt, bằng ngàn dòng lệ tang tóc. Nỗi buồn ấy thật mênh mang.
Nó mở ra cả không gian ba chiều dày đặc bởi đâu có phải một cây liễu mà là một
“rặng liễu”, một hàng người… Những từ “đìu hiu”, “chịu tang”, “tóc buồn buông
xuống lệ ngàn hàng” … cách sử dụng thanh điệu và láy âm đã tạo ra một âm điệu
buồn, gợi rất đạt cái dáng buông xuống, rủ xuống mềm mại của những hàng tơ liễu.
Nhưng ngay ở hai câu thơ này, mùa thu tuy buồn mà vẫn đẹp và nhất là vẫn trẻ trung.
Với Xuân Diệu thì ngược lại, ông lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, thiên
nhiên được nhân hóa một cách nghệ thuật. Do vậy mặc dù cảnh buồn đến thế
nhưng với cách nhìn trẻ trung của nhà Thơ mới, luôn nhìn đời bằng cặp mắt “xanh
non, biếc rờn” nên người đọc vẫn thấy cảnh buồn mà lại đẹp:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Câu thơ vang lên như một tiếng reo khẽ. Được nhắc lại tới hai lần với từ “đây” ở đầu
câu biểu hiện nỗi niềm đầy hứng khởi, xác nhận một sự thực bấy lâu vẫn chờ mong:
ấy là sự hiện diện trọn vẹn của mùa thu. Nhịp điệu câu thơ bỗng trở nên gấp gáp,
một sự ngỡ ngàng chợt đến nhẹ nhàng, một chút yêu đời, yêu cuộc sống.
Câu thơ cuối là hình ảnh bầu trời thu, không gian mùa thu, cái không gian mùa thu
ấy như chiếc áo màu “mơ phai” choàng cho cảnh vật, tạo cho mùa thu một dáng vẻ tươi sáng thanh nhẹ.
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Xuân Diệu cũng nằm bất rất đúng cái sắc vàng của mùa thu ấy nhưng mà vàng
nhạt, màu của chiếc áo “mơ phai” dệt bằng sắc lá vàng tươi. Cái đẹp của chiếc áo
thu vàng như chứa đựng một sự tàn phai quên lãng, nhưng chính nhờ cái sắc màu
tươi sáng thanh nhẹ ấy mà đoạn thơ tuy buồn nhưng không hiu hắt bi thương.
Chỉ với bốn câu thơ/ Xuân Diệu đã làm sống dậy cả một cảnh thu, một sắc thu Việt
Nam với những vẻ đẹp vừa thân quen, vừa mới lạ của một hồn thơ nhạy cảm và
tinh tế. Nhưng thấm sâu trong cảnh thu vẫn là một nỗi buồn man mác. Đó là nỗi
buồn của thời đại, nỗi buồn của một thế hệ thi nhân mất nước mang cái “tôi” bé nhỏ
của các nhà thơ lãng mạn bơ vơ trước cuộc đời. Nỗi buồn ấy, vẻ đẹp ấy đã làm nên
một nét thu riêng của Xuân Diệu nhưng lại là một nét thu tiêu biểu cho thơ lãng mạn bấy giờ.
Có thể nói đoạn thơ đầu là đoạn hay nhất trong bài thơ mùa thu của Xuân Diệu,
được cảm nhận với những hình ảnh! màu sắc, âm thanh rất riêng, rất Xuân Diệu.
Đoạn thơ thể hiện cảm xúc tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, tất cả được diễn tả
bằng ngôn ngữ mới lạ. Đúng như nhà phê bình văn học Hoài Thanh nói: “Xuân Diệu
là nhà Thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”.
5. Phân tích Đây mùa thu tới Xuân Diệu
Mùa thu luôn là nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân để tạo ra những thi phẩm để
đời. Mùa thu trong thơ của Nguyễn Khuyến là một bức tranh thu nơi thôn quê yên
bình, tĩnh lặng. Mùa thu trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư lại là những cảm nhận
tinh tế của tác giả về một không gian trời thu chân thực và sống động. Nhưng đến
với Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, với tâm hồn nhạy cảm và xốn xang của người
nghệ sĩ, mùa thu trong thơ Xuân Diệu mang trong mình biết bao sắc thái diệu kì.
Ngay từ tiêu đề “Đây mùa thu tới”, độc giả đã phần nào hiểu được nội dung chủ yếu
của bài thơ là gì. Đó là nói về mùa thu nhưng không phải là giữa mùa thu hay cuối
thu. Mà là đương lúc mùa thu mới tới, đất trời vừa mới tiễn biệt mùa hè để đón thu
tới. Khi ngắm nhìn sự chuyển đổi của đất trời đó, nhà thơ Xuân Diệu phát hiện ra:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.
Đập vào mắt nhà thơ đầu tiên khi mùa thu đến là hình ảnh rặng liễu rũ. Nếu người
thường, thấy rặng liễu ấy sẽ mang dáng vẻ dịu dàng ê ấp, thế nhưng, ở đây nhà thơ
lại thấy rặng liễu như mang tâm trạng buồn bã như đang chịu tang, như đang trong
cảnh biệt li chết chóc. Từng cành lá buông xuống, được nhà thơ ví như những giọt
lệ tuôn rơi. Thật là một cảnh sắc thật buồn thê lương. Dường như ẩn đàng sau hình
bóng rặng liễu là hình ảnh một thiếu phụ đang khóc lóc trong cảnh đưa tang. Đọc
câu thơ lên mà độc giả cảm thấy buồn đến nao lòng. Đến hai câu tiếp, nhà thơ
thông báo “mùa thu tới mùa thu tới” với màu sắc mờ nhạt và lá vàng, lại càng nhán
mạnh thêm sự ảm đạm trong bức tranh thu mới tới.
Ở khổ thơ này, nhà thơ đã dùng những từ ngữ nhân hóa, khiến cho mùa thu cũng
mang dáng vẻ của con người, biết khóc, biết buồn, biết dệt lá. Qua đây, chúng ta có
thể cảm nhận được tâm trạng sầu thảm trước cuộc sống của nhà thơ.
Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới đến khổ thơ 2, chúng ta càng thấm thía hơn
khung cảnh ảm đạm của mùa thu. Dưới con mắt nhạy cảm, tinh tế nhưng đầy u uất
của nhà thơ, mùa thu tới mang theo sự chia lìa, khi các loài hoa thay nhau rụng
xuống. Thay vì sắc xanh tươi trẻ của mùa hè thì giờ đây sắc đỏ đã chiếm chỗ và xua
đuổi màu xanh đi để chiếm trọn không gian thu cho riêng mình. Không những thế,
mùa thu tới mang theo những cơn gió heo may se se lạnh, khiến cho cành lá rung
rinh một cách run rẩy chứ không phải rung rinh vui vẻ như khi mùa hè. Cùng với đó
là những cành cây rụng hết là chỉ còn trơ xương gầy mỏng mảnh thiếu sức sống.
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.
Cả khổ thơ, tác giả đã dùng màu sắc và các nét chấm phá để khắc họa lên bức
tranh thu đầy xơ xác và khô héo. Dường như nó ẩn chứa dáng vẻ thất vọng, chán
chường của tâm trạng con người. Con người trước Cách mạng tháng tám hay chính
nhà thơ đang thấy mình thiếu sức sống, không biết bấu víu vào đâu và cảm thấy run
rẩy trước dòng chảy của thời gian. Bốn câu thơ đều sử dụng phép đảo ngữ, nhằm
nhấn mạnh những thay đổi của thiên nhiên khi mùa thu tới và cũng nhằm làm nổi
bật nét thu đầy buồn thương.
Nếu như những câu thơ trên, nhà thơ mới phác họa bức tranh thu qua những đổi
thay của thiên nhiên, thì tới khổ thơ tiếp theo nhà thơ đã nói tới sự vần chuyển của
cả vũ trụ lẫn con người. Ở đây, nhà thơ không gọi là bóng trăng, hay ánh trăng mà
gọi là “nàng trăng”. Cụm từ ấy cho độc giả thấy nàng trăng như cô gái ngẩn ngơ tiếc
nuối trước sự đổi thay của đất trời, của thời gian. Trăng thu không sáng vành vạch
như thường mà lại thỉnh thoảng ngẩn ngơ như đang mơ tưởng hay tiếc nuối điều gì.
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…”
Không chỉ trăng ngẩn ngơ mà núi non cũng trở nên mờ nhạt. Dường như vạn vật
đều trở nên hiu quạnh, mờ ảo khi bước chân mùa thu tới. Đã thế, đâu đó còn có
những cơn gió lạnh đầu mùa, khiến cho cả đất trời lẫn con người bỗng trở nên buốt
giá, là lạnh lẽo. Cũng chính vì thế mà những chuyến đò vốn tập nập hàng ngày giờ
trở nên nên vắng vẻ, chẳng còn ai qua sông. Điều đó chứng tỏ sức sống của con
người cũng trở nên khô cằn, con người đều lui về ở ẩn. Điệp từ “đã” ở đây tác giả
sử dụng nhằm nhấn mạnh rằng mùa thu đã tới thực sự. Mùa thu không còn mới tới
nữa mà đã bao trùm lên khắp không gian, cảnh vật và hồn người.
Qua quá trình phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu, chúng ta
cảm nhận nét đẹp sầu bi của mùa thu. Thu chẳng còn vẻ đẹp lãng mạn mộng mơ
mà chất chứa đầy nỗi buồn u uất. Đó cũng chính là tâm trạng của hầu hết các thi sĩ,
nhà văn Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 khi đất nước còn trong cảnh lầm than,
khi mọi sự đang còn trong vòng luẩn quẩn và đời sống con người đang bị chà đạp
bởi những thế lực tàn bạo nửa thực dân nửa phong kiến.
“Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.
Chính bởi tâm trạng đang buồn rầu nên tác giả đã nhuốm màu buồn đó lên cảnh
thu. Mặc dù có thể, mùa thu không đến nỗi sầu đau như thế. Nhưng vì quá uất hận,
quá bi thương nên nhà thơ Xuân Diệu đã không thể giấu được lòng mình. Ông đã
gửi gắm qua những câu thơ về mùa thu đầy xót xa. Đặc biệt ở khổ thơ cuối. Nhà thơ
đã cho xuất hiện một loạt hình ảnh thể hiện sự chia ly, sự tử biệt. Rồi giữa khung
cảnh mùa thu tang thương ấy, hình ảnh người thiếu nữ buồn không nói càng làm
cho bức tranh trở nên sầu thảm. Người thiếu nữ ấy nhìn xa xăm, vô định, nghĩ ngợi
mông lung về điều gì mà không biết chính xác là điều gì. Dường như đó cũng chính
là tâm tư của nhà thơ khi đang khao khát điều gì đó nhưng lại không thể biết chính
xác là điều gì. Cái hình ảnh “tự cửa” nhìn xa xăm không nói sao mà buồn thảm sao
mà bất an và nhiều lo lắng đến thế. Dường như con người đang không biết bấu víu
vào đâu, không biết đi đâu về đâu giữa cuộc đời đầy bất an đó.
Toàn bộ bài thơ một là một bức tranh mùa thu buồn được vẽ bằng những bút pháp
nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ đã sử dụng những từ láy gợi cảm giác như “run rẩy”,
“ngẩn ngơ”, “đìu hiu”, “mỏng manh”… Nhờ những từ đó là bức tranh thu trở nên sinh
động hơn, có sức hút hơn với người đọc. Đặc biệt, những cách đảo ngữ thú vị càng
giúp bài thơ bộc lộ rõ hơn sự biến chuyển của thời gian và tâm trạng não nề của tác
giả. Với thể thơ tự do, nhà thơ cho thấy tâm hồn của mình thật phóng khoáng,
không bị gò bó rào cản trong một khuôn mẫu nào cả. Nhờ thế mà bài thơ cũng dễ đi
vào lòng người, dễ hiểu, dễ thuộc và dễ cảm hơn.
Với "Đây mùa thu tới", nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất
sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những có
đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái
độ trân quý thời gian thi sĩ đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời
cũng mang nét u buồn, cô đơn.
6. Phân tích Đây mùa thu tới ngắn gọn
Xuân Diệu ông hoàng của thơ tình yêu, chưa kể những bài thơ của ông đều mang
những quan niệm rất mới về cuộc sống, tuổi trẻ và về tình yêu. Ông cũng được xem
là thi sĩ của mùa thu, cũng chính vì cái lãng mạn, khoảnh khắc xao xuyến của thu
mà những vần thơ của nhà thơ hồn hậu và có hồn biết bao nhiêu. Đây mùa thu tới là
một trong số những sáng tác tiêu biểu của Xuân Diệu. Mùa thu đó hiện ra thật đáng
yêu, làm cho tâm hồn thi sĩ như dây đàn rung lên những điệu nhạc xao xuyến lòng người.
Rút từ tập “ Thơ Thơ”, sáng tác "Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của
Xuân Diệu, xuất bản năm 1938. Thu đến, những chiếc lá rụng, gió hắt hiu làm xốn
xang lòng người đặc biệt là một tâm hồn của một người thi sĩ, vốn đã có chút nhạy
cảm với những thay đổi của đất trời dù là nhỏ nhất.
Nhưng có lẽ hình ảnh mùa thu tới trong tác phẩm khiến cho người đọc cảm nhận
một không khí tang thương bi ai,những hình ảnh không phải hoa lá, không phải gió
đưa cần trúc, không phải mặt nước xanh biếc mà gắn với hình ảnh những cành liễu
"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".
Không gian hiện ra với vẻ "đìu hiu", buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như "đứng
chịu tang". Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ "buồn buông xuống". Sương thu
ướt đẫm trên những nhánh liễu khiến tác giả ngâm nga một câu khiến chúng trở nên
có hồn. Những cành liễu giống như những cô giá thướt tha, nhưng mắt buồn đẫm
lệ. Biện pháp láy âm được Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm
điệu, nhạc điệu: "đìu hiu – chịu", "tang – ngàn – hàng", "buồn – buông – xuống". Đây
tạo nên những nét thú vị của thơ Xuân Diệu những năm đầu thế kỉ 20.
Ngắm nhìn rặng liễu, đột nhiên tác giả chợt nhận ra màu thu đã tới, với cách ngắt
nhịp 4/3 với điệp ngữ "mùa thu tới" đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong
đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ.
"Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng".
Cách hiệp vần lưng thần tình: "tới – với", một chữ "dệt" tinh tế trong miêu tả và cảm
nhận. Thu tới cũng chính muôn nơi được nhuộm bởi một màu vàng của cây đổi lá,
nó được dệt một cách tỉ mỉ mang tới một vẻ đẹp không phải tự dưng mà có. "Với áo
mơ phai dệt lá vàng" là một câu thơ thi vị biết bao, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi
lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô cùng. Tuy nhiên mùa thu
đó lại bắt đầu với một nỗi buồn ảm đạm hắt hiu.
Thu về cũng chính là lúc cảnh vật đổi khác, khoác lên mình những màu sắc rực rỡ.
Thu đã về và thu dần trôi,thời gian trôi nhanh không tưởng. Cảnh vật một lúc một
khác, hoa rơi, màu đỏ lấm chấm dần và rủa màu xanh. Cây cối cảnh vật bắt đầu
rụng lá trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước những làn gió thu lành lạnh, se sắt.
"Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".
ở khổ thơ này, tác giả sử dụng những từ láy như: "run rẩy", "rung rinh”, "mỏng
manh" là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi
chiều thu. Đặc biệt hình ảnh sắc đỏ “ rủa “ màu xanh khiến cho câu thơ mang một
nét đẹp nghệ thuật độc đáo. Màu xanh đó không mướt như ngọc mà từ từ từ lan
rộng ra, và mọi thứ như ngấm chất thu vào đó.
Thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo ở
khổ thơ thứ 3 được sử dụng một cách triệt để: là "nàng trăng tự ngẩn ngơ" trên bầu
trời. Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Hình ảnh núi nhấp nhô trong làn
sương mờ cành làm nổi bật những hình ảnh của mùa thu. Trăng và núi trong thơ
Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân
thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:
"Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ… "
"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi
chiều thu với không khí se se lạnh. Chúng ta thấy có chuyển đổi cảm giác giữa xúc
giác và thính giác. Sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ
bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa. Như chính tác giả dang đứng giữa
chiều gió thu, se se lạnh,chữ "luồn" đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được nó bằng trực giác.
Đâu đẹp bằng hình ảnh thiên nhiên đẹo đẽ ở khổ thơ cuối.Có vẻ đẹp của thiên
nhiên, của mây trời, cánh chim, xuất hiện vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp
nhưng mà thoáng buồn mơ hồ mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp
chia li như "bèo dạt mây trôi" của tình ca!
"Mây vẩn từng không chim bay đi,