Top 9 bài phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay | Ngữ văn 9

Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du trong bài viết sau đây bao gồm dàn ý phân tích Chị em Thúy Kiều cùng các bài văn mẫu phân tích bài Chị em Thúy Kiều hay chọn lọc sẽ là tài liệu tham khảo hiệu quả cho các bạn học sinh. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 9 437 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 9 0.9 K tài liệu

Thông tin:
32 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Top 9 bài phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay | Ngữ văn 9

Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du trong bài viết sau đây bao gồm dàn ý phân tích Chị em Thúy Kiều cùng các bài văn mẫu phân tích bài Chị em Thúy Kiều hay chọn lọc sẽ là tài liệu tham khảo hiệu quả cho các bạn học sinh. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

236 118 lượt tải Tải xuống
Top 9 bài phân tích Chị em Thúy Kiều
siêu hay
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm trong phần: “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới
thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Chị em Thúy Kiều là đoạn trích cho người đọc
cảm nhận rõ nét nhất về vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của Thúy Kiều và Thúy Vân. Sau
đây là nội dung chi tiết bài văn phân tích đoạn thơ Chị em Thúy Kiều hay chọn lọc,
mời các bạn cùng tham khảo.
1. Dàn ý phân tích Chị em Thúy Kiều
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du (đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới).
Truyện Kiều là tác phẩm gây tiếng vang, trở thành kiệt tác văn học Việt Nam.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều không chỉ khắc họa vẻ đẹp của những trang tuyệt thế
giai nhân mà còn thể hiện tài năng miêu tả chân dung nhân vật bậc thầy của Nguyễn
Du.
II. Thân bài
1. Khái quát vấn đề chung
Miêu tả nhân vật, khắc họa tính cách và số phận của con người là tài năng của
Nguyễn Du, đây là thành công lớn của ông.
Miêu tả nhân vật chính diện: sử dụng bút pháp lý tưởng hóa nhân vật. Miêu tả nhân
vật phản diện: bút pháp hiện thực hóa. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều thể hiện vẻ đẹp
toàn bích tới chuẩn mực Á Đông là hai nàng Vân, Kiều.
2. Phân tích vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân (4 câu)
- Ban đầu, Nguyễn Du gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều từ hình ảnh thiên nhiên:
mai, tuyết. Bút pháp ước lệ gợi ấn tượng về vẻ đẹp với cốt cách như mai, thanh tao,
và cốt cách trong trắng, tinh khôi như tuyết
- Bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: thanh cao, duyên dáng, trong trắng.
Câu thơ “Vân xem trang trọng khác vời” khái quát được vẻ đẹp cao sang, quý phái
của nàng.
Vẻ đẹp của Vân sánh với những thứ đẹp nhất từ tự nhiên như hoa, mây trắng, tuyết,
ngọc.
Chân dung của Thúy Vân đẹp từ khuôn mặt, nụ cười, mái tóc, làn da, với phong thái
điềm đạm (các chi tiết so sánh, ẩn dụ thú vị trong thơ).
→ Vẻ đẹp của Vân hơn mọi chuẩn mực của tự nhiên, khiến tự nhiên cúi đầu chịu
‘thua”, “nhường”, ắt hẳn cuộc đời nàng sẽ được an ổn, không sóng gió.
3. Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều (12 câu tiếp theo)
- Tác giả tả vẻ đẹp Thúy Vân trước để làm nổi bật vẻ đẹp Thúy Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà: Vẻ đẹp của Thúy Kiều mặn mà về tâm hồn, sắc sảo về
trí tuệ.
Tác giả sử dụng lối ước lệ tượng trưng: thu thủy, xuân sơn để đặc tả riêng đôi mắt
trong sáng, long lanh của Kiều.
Thúy Kiều gợi lên là trang tuyệt thế giai nhân với vẻ đẹp khiến tự nhiên phải ganh
ghét, đố kị: hoa ghen, liễu hờn.
Cái tài của Thúy Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến:
cầm, kì, thi, họa.
Nhấn mạnh tài đàn của nàng, đặc biệt cung đàn bạc mệnh của nàng (Một thiên bạc
mệnh lại càng não nhân) là tiếng lòng của trái tim đa sầu, đa cảm.
→ Chân dung Thúy Kiều khiến tạo hóa ganh ghét, tài hoa thiên bẩm, tâm hồn đa
sầu đa cảm dự báo số phận trắc trở, nghiệt ngã đầy sóng gió bởi “Chữ tài chữ mệnh
khéo là ghét nhau”.
- Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân trước rồi miêu tả Thúy Kiều, thủ pháp đòn bẩy này
làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.
- Sử dụng tài tình các tính từ miêu tả vẻ đẹp Vân, Kiều (vẻ đẹp mang số phận): mặn
mà, trang trọng, sắc sảo...
- Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đối xứng, liệt kê, tăng tiến, điển tích điển
cố... được sử dụng linh hoạt trong đoạn trích.
→ Bút pháp ước lệ tượng trưng là cách thể hiện con người quen thuộc trong thơ ca
trung đại (miêu tả qua những công thức, chuẩn mực có sẵn được quy ước trong
nghệ thuật)
III. Kết bài
Đoạn trích khắc họa rõ nét chân dung chị em Thúy Kiều nhờ bút pháp ước lệ tượng
trưng, thủ pháp đòn bẩy và các biện pháp tu từ.
Nguyễn Du thể hiện cảm hứng nhân văn qua việc đề cao con người, ca ngợi vẻ đẹp
tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh.
2. Phân tích Chị em Thúy Kiều dàn ý
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều
Trích tắt đoạn thơ.
II. Thân bài
1. Khái quát và dẫn vào đoạn thơ
- Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” gồm 24 câu thơ lục bát, nằm ở phần 1 “Gặp gỡ và
đính ước” của tác phẩm “Truyện Kiều”.
- Trong đoạn trích này, Nguyễn Du tập trung miêu tả vẻ đẹp của chị em thúy Kiều để
từ đó ca ngợi vẻ đẹp, đức hạnh và tài năng của những những người phụ nữ trong
xã hội phong kiến.
- Sức hấp dẫn của đoạn trích được tạo nên từ giọng điệu ngợi ca và những hình
ảnh ước lệ tượng trưng giàu ý nhĩa
- Dẫn dắt vào đoạn thơ:
Ở phần đầu của đoạn trích, Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng bút pháp ước
lệ tượng trưng để giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều đồng thời miêu tả
Thúy Vân qua những chi tiết rất cụ thể. Thông qua những câu thơ ấy, ta nhận ra ở
hai nàng là cốt cách thanh tao cao quý và một tâm hồn trắng trong tinh sạch. Và đến
mười hai câu thơ tiếp, tác giả dành hết tài năng, tình cảm và tâm huyết của mình để
miêu tả nhan sắc tài năng của Thúy Kiều.
2. Vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều trong đoạn thơ
* Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo mặn mà, so với Thúy Vân, nàng đẹp hơn cả về tài
và sắc.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
+ Tác giả miêu tả Thúy Kiều bằng mười hai câu thơ lục bát => cho thấy sự ưu ái của
nhà thơ đối với nàng.
+ Tác giả sử dụng thủ pháp đòn bẩy để miêu tả Thúy Kiều để khẳng định Vân đã
đẹp Kiều còn đẹp hơn đồng thời miêu tả như thế cũng là để vẻ đẹp của Thúy Vân
không bị lu mờ trước vẻ đẹp của Thúy Kiều. Điểm này Nguyễn Du thật tinh tế.
+ Thúy Kiều mang vẻ đẹp “mặn mà, sắc sảo” tức là ở nàng vừa có cả sự đằm thắm
dịu dàng, vừa có cả sự tinh anh về trí tuệ. Vẻ đẹp ấy được Nguyễn Du miêu tả ở cả
hai phương diện là tài và sắc.
*Về nhan sắc Kiều mang vẻ đẹp của một tuyệt thế giai nhân
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoag hen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng ngước nghiêng thành”
+ Nếu như tả Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả rất chi tiết cụ thể, từ khuôn mặt đến đôi
lông mày, từ giọng nói, nụ cười đến làn da, mái tóc thì khi tả Kiều tác giả chỉ tập
trung miêu tả đôi mắt. Có lẽ bởi đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nhìn vào đôi mắt,
người ta có thể đoán biết được tâm tư, tình cảm.
+ Tả đôi mắt của Kiều, nhà thơ sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng (làn thu thủy
nét xuân sơn). => qua đó cho thấy nàng có một đôi mắt trong như làn nước mùa
thu, đẹp như dáng núi mùa xuân- một đôi mắt biết nói, biết cười, biết yêu thương
hờn giận, đôi mắt chứa đựng cả tình đời, tình người mênh mông. Đôi mắt ấy đã
khiến cho bao đấng nam nhi phải mê say đắm đuối.
+ Kiều đẹp đến mức hoa phải ghen vì thua sắc thắm, liễu phải hờn vì kém sắc xanh.
Phép nhân hóa có tính chất cường điệu “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
như một lời khẳng định vẻ đẹp của Thúy Kiều đã vượt hơn hẳn vẻ đẹp của thiên
nhiên, khiến cho thiên nhiên phải ghen hờn, đố kị. => Nhưng trong vẻ đẹp của Kiều
đã ẩn chứa những mầm tai hoạ.
+ Nghệ thuật Việt hóa điển tích: Người Trung Quốc có điển tích “khuynh quốc
khuynh thành” để nói về những cô gái đẹp. Dùng điển tích ấy để miêu tả vẻ đẹp của
Thúy Kiều là Nguyễn Du muốn khẳng định vẻ đẹp của nàng cũng chẳng thua kém gì
các mĩ nhân thủa trước.
=> Như vậy chỉ với một vài câu thơ lục bát, bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, biện
pháp tu từ nhân hóa, nghệ thuật đòn bẩy và các từ ngữ chọn lọc, Nguyễn Du đã vẽ
ra trước mắt người đọc bức chân dung của một tuyệt thế giai nhân. Thúy Kiều mang
vẻ đẹp mà có lẽ trên thế gian này không ai có thể sánh được.
* Tuy nhiên, người thiếu nữ ấy không chỉ có nhan sắc mà tài năng cũng xuất chúng
hơn người.
“Thông minh vốn sẵn tính trời
...
Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân”
+ Theo Nguyễn Du miêu tả thì sự thông minh của Thúy Kiều là do trời phú.
+ Nàng rất đa tài. Kiều am hiểu rất nhiều các bộ môn nghệ thuật. Từ cầm, kì, thi
họa, tài năng nào của nàng cũng đạt đến trình độ đỉnh cao, xuất chúng. + Nguyễn
Du khẳng định về nàng là “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”(tức là về nhan sắc
thì trên thế gian này không ai có thể sánh kịp nàng còn tài năng thì họa chăng may
ra mới có một người vượt qua).
+ Và trong tất cả các bộ môn nghệ thuật, Thúy Kiều giỏi nhất là đánh đàn.
Tiếng đàn của nàng mang nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, lúc trầm lúc bổng, lục
nhặt, lúc khoan. Tiếng đàn ấy dường như mang cả nỗi lòng, tâm tư của nàng.
+ Hơn nữa nàng còn biết tự sáng tác nhạc. “Thiên Bạc mệnh” do nàng sáng tác đã
khiến cho người nghe ai nấy đều cảm thấy đau xót, não nề, và nó cũng là minh
chứng cho một trái tim đa sầu đa cảm.
3. Đánh giá
* Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
- Bằng giọng điệu ngợi ca, thể thơ lục bát truyền thống mềm mại tinh tế, bút pháp
ước lệ tượng trưng, các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, nghệ thuật đòn bẩy cùng
các từ ngữ hìn ảnh chọn lọc, đoạn thơ trên đã khắc họa thành công bức chân dung
của nhân vật Thúy Kiều – một người con gái tài sắc vẹn toàn.
- Không những thành công trong việc khắc họa chân dung mà còn thông qua đó dự
cảm về số phận của Thúy Kiều. Bức chân dung của nàng mang tính chất số phận
hội tụ đủ: “sắc, tài, tình, mệnh”.
- Qua đoạn trích, người đọc thấy được tấm lòng yêu mến, trân trọng của tác giả
Nguyễn Du dành cho những người phụ nữ trong xã hội xưa.
* Mở rộng nâng cao vấn đề, liên hệ thực tiễn, rút ra bài học:
- Trong xã hội hiện đại, người phụ nữ ngày càng có vị thế. Họ ngày càng trở nên
xinh đẹp, không chỉ giỏi việc nước mà đảm cả việc nhà. Và dù ở thời đại nào thì họ
vẫn xứng đáng để chúng ta yêu thương và trân trọng.
III.Kết bài
- Nhận xét chung về đoạn trích
- Đoạn trích khơi gợi tình cảm gì
- Em rút ra được bài học gì từ đoạn trích
3. Mở bài chị em Thúy Kiều
Mẫu 1
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần đầu của tác phẩm Truyện Kiều của đại thi
hào Nguyễn Du. Bằng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học cổ điển
cùng với ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã khắc họa nên hình ảnh của Thúy Kiều và
Thúy Vân sống động và chân thực, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Mẫu 2
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc. Với tuyệt phẩm Truyện Kiều, ông đã để lại
cho hậu thế những áng văn chương bất hủ về câu chuyện đời bất hạnh của nàng
Thúy Kiều. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều là một phần thuộc đoạn đầu của tác phẩm.
Thông qua đoạn trích tác giả đã cho người đọc cảm nhận rất rõ nét về vẻ đẹp ngoại
hình cũng như tính cách của 2 chị em Thúy Kiều.
Mẫu 3
Trong bài thơ Kính gửi Cụ Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu viết:
Tiếng thơ ai động đất trời,
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày...
Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện Kiều là kiệt tác của nền thi ca
cổ dân tộc sáng ngời tinh thần nhân đạo, về phương diện nghệ thuật, áng thơ này là
mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, tả tình, tự sự v.v... đem lại
cho nhân dân ta nhiều thú vị văn chương. Đoạn thơ giới thiệu Chị em Thúy Kiều là
một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều.
Mẫu 4
Tìm đến thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Truyện
Kiều của thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. 24 câu lục bát đã
miêu tả sắc, tài và đức hạnh chị em Thúy Kiều, Thúy Vân - hai tuyệt thế giai nhân -
với tất cả tấm lòng quý mến và trân trọng của nhà thơ thiên tài dân tộc.
4. Phân tích chị em Thúy Kiều học sinh giỏi
Nguyễn Du (1765 - 1820) quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông là đại thi hào
của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Một trong những tác phẩm thành công về
chữ Nôm của ông là “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi là “Truyện Kiều”. Truyên
không những có nội dung sâu sắc mà còn rất thành công về nghệ thuật. Tiêu biểu
cho nghệ thuật khắc họa nhân vật là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”. Đoạn trích đã
đề cao trân trọng vẻ đẹp của con người đặc biệt là người phụ nữ thông qua việc
miêu tả tài và sắc của chị em Thúy Kiều. Đây là đoạn trích thể hiện sâu sắc cảm
hứng nhân vật của Nguyễn Du.
Bốn dòng thơ đầu tác giả giới thiệu chung về vị thứ và vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười”
Bằng cách giới thiệu hai “ả tố nga” vừa ngắn gọn vừa giản dị hết sức ấn tượng đầy
đủ. Trong gia đình họ Vương có hai cô con gái đầu lòng đẹp như “Hằng Nga”. Và
câu thơ “‘Mai cốt cách, tuyết tinh thần” bằng việc sử dụng bút phát ước lệ tượng
trưng thông qua hai hình ảnh “mai”, “tuyết”, tác giả gợi lên trước mắt chúng ta vẻ
đẹp của hai thiếu nữ với dáng người mảnh dẻ, duyên dáng như cây mai một loài
hoa đẹp và cao quý, tâm hồn của họ trong trắng như tuyết, cả hai đều đẹp hoàn
thiện, hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”, mỗi người mang một nét đẹp riêng "Mỗi
người mỗi vẻ", đúng là cách nhìn đầy ngợi ca trân trọng của tác giả.
Đến với bốn câu thơ tiếp theo, tác giả ngợi về vẻ đẹp của Thúy Vân.
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Câu thơ đầu “Vân xem trang trọng khác vời” đã khái quát đặc điểm của nhân vật.
Hai chữ “trang trọng” gợi vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thúy Vân, có thể nói có bao
nhiêu cái đẹp của tạo vật, thiên nhiên đều được Nguyễn Du mượn để tạo nên chân
dung của Thúy Vân. Đó là “trăng, hoa, tuyết, ngọc, mây” - bằng bút pháp ước lệ, thư
pháp liệt kê, vẻ đẹp của Vân được tác giả cụ thể hóa bằng khuôn mặt, đôi mày, mái
tóc, làn da, nụ cười, giọng nói. Cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ làm nổi bật vẻ đẹp
của đối tượng được miêu tả: “đầy đặn”, “nở nang” và “đoan trang”. Những biện pháp
tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa đều nhằm thể hiện vẻ đẹp phúc hậu mà quý phái của
người thiếu nữ. Một Thúy Vân với gương mặt đầy đặn dịu nhẹ như trăng rằm, lông
mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong như
ngọc, mái tóc mềm mượt hơn mây, làn da trắng hơn tuyết. Vẻ đẹp ấy làm cho thiên
nhiên ngưỡng mộ “mây thua”, “tuyết nhường”. Hai chữ “thua” và “nhường” biểu hiện
sự hài lòng không ghen ghét, điều này dự báo nàng sẽ có một cuộc sống bình lặng,
suôn sẻ không gặp sóng gió.
Nếu tả Thúy Vân với bốn câu thơ thì sang Thúy Kiều Nguyễn Du dành cho nàng
mười hai câu thơ. Nếu Vân được miêu tả với vẻ đẹp hoàn hảo thì Thúy Kiều còn
vượt lên trên cái hoàn hảo đó, nếu Vân Nguyễn Du chỉ nói đến sắc thì Kiều còn đẹp
cả sắc lẫn tài, đó là vẻ đẹp của tuyệt thế giai nhân sắc sảo mặn mà.
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Ở đây, Nguyễn Du rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đòn bẩy. Miêu tả
Vân trước để làm nền cho vẻ đẹp của Kiều. Chỉ bằng một câu thơ với các từ “càng”,
“hơn”, tác giả giúp người đọc hình dung rõ vẻ đẹp vượt trội của Kiều. Nàng không
những tuyệt đỉnh về nhan sắc mà còn sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Khi miêu tả Thúy Kiều, tác giả vẫn sử dụng bút pháp ước lệ thông qua các hình
tượng thiên nhiên “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa ghen”, “liễu hờn”. Chỉ có điều Nguyễn
Du không liệt kê nhiều chi tiết như Vân à chỉ tập trung ở đôi mắt. Hình ảnh ước lệ
“thu thủy” gợi tả đôi mắt Kiều đẹp trong như nước mùa thu, “xuân sơn” gợi lên đôi
lông mày thanh tú trên khuôn mặt trẻ trung, đôi mắt ấy của Kiều chính là cửa sổ tâm
hồn, thể hiện sự sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Sắc của Kiều làm cho
người ta ngưỡng mộ say mê đến lỗi có thể “mất nước, mất thành”, con thiên nhiên
thì ganh ghét, đố kỵ “hoa ghen”, “liễu hờn”.
Sắc đã vậy còn tài, tình của Kiều thì sao? Miêu tả Kiều tác giả dành một phần để nói
về nhan sắc, còn dành đến hai phần để nói về tài năng. Đây chính là dụng ý nghệ
thuật của Nguyễn Du. Ông muốn nhấn mạnh sắc đẹp của Kiều thì không có bút
pháp nào tả nổi. Về sắc đẹp của Kiều là số một còn về tài thì trong thiên hạ may ra
có người thứ hai:
“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”
Kiều thông minh bẩm sinh, cái tài do trời phú. Tài năng của nàng đạt tới mức hoàn
thiện theo quan niệm thẩm mỹ gồm cả" cầm, kỳ, thi. họa"
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương”
Đặc biệt tài đàn của nàng là nổi trội hơn cả - là sở trường, tiếng đàn của nàng thật
hay, hay đến mức có thể ăn đứt bất cứ nghệ sĩ tài ba nào trong thiên hạ. Kiều không
chỉ giỏi đánh đàn mà còn giỏi sáng tác nhạc, đến mức có thể soạn cho mình một
bản nhạc về nhan đề " bạc mệnh" . Mỗi khi nàng gảy bản đàn đó đều khiến cho lòng
người âu sầu, ảo não người nghe chau mày rơi lệ. Cung đàn “bạc mệnh” chính là
sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm.
Như vậy vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp cả sắc, tài và tình, một vẻ đẹp vượt qua
ngoài khuôn khổ khiến cho tạo hóa ghen ghét đố kỵ.
“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Từ việc khắc họa bức chân dung Thúy Kiều tác giả dự báo về số phận éo le, đau
khổ, một tương lai chìm nổi sẽ đến với nàng. Mặc dù tài sắc của Thúy Kiều, Thúy
Vân khác nhau dự báo về tương lai cuộc sống khác nhau, nhưng đức hạnh của hai
nàng đều đáng trân trọng, điều này thể hiện qua bốn câu thơ cuối:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Mặc dù đã đến tuổi cập kê nhưng “hai ả tố nga’ đã và đang sống cuộc đời nề nếp,
gia giáo, cuộc sống của các thiếu nữ phong khuê không hề có tình yêu thiếu đúng
đắn.
Như vậy với hai tư câu thơ trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những
đoạn thơ mẫu mực về nghệ thuật tả người. Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, thủ
pháp đòn bẩy, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ. Tác giả đã khắc họa
chân dung hai người thiếu nữ với tất cả sắc, tài, tình, mệnh. Đằng sau bức chân
dung chị em Thúy Kiều là tấm lòng ngợi ca trân trọng của tác giả - đó là một biểu
hiện của tinh thần nhân văn trong Truyện Kiều, qua đây ta hiểu trân trọng thêm vẻ
đẹp của con người đặc biệt là người phụ nữ.
5. Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều ngắn gọn
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn luôn
nhìn đời bằng con mắt “nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”. Nhắc đến
ông chúng ta không thể bỏ qua kiệt tác “Truyện Kiều” trong đó để lại ấn tượng sâu
sắc trong lòng người đọc là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” miêu tả vẻ đẹp của hai
chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.
Ở bốn câu thơ đầu, Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp chung của hai chị em:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Bằng cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ mang ý nghĩa ước
lệ tượng trưng, nhà thơ đã giúp người đọc hình dung được vẻ đẹp của hai chị em
với “ả tố nga”, “Mai cốt cách tuyết tinh thần”, “mười phân vẹn mười”. Nguyễn Du gọi
Thúy Kiều với Thúy Vân là “ả tố nga” tức là người con gái đẹp. Đặc biệt bằng việc
mượn hình ảnh thiên nhiên mai và tuyết còn cho thấy hai chị em Thúy Kiều hiện lên
đều có cốt cách ngay thẳng thanh cao lại vô cùng dịu dàng và mỗi người một vẻ đẹp
khác nhau không ai kém ai cả.
Bốn câu thơ tiếp theo được tác giả dùng để miêu tả vẻ đẹp của cô em Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Thúy Vân hiện lên là một người con gái vô cùng duyên dáng với khuôn mặt “đầy
đặn” tròn trịa với “nét ngài nở nang”. Mỗi khi nàng cười là toát lên vẻ đoan trang đầy
phúc hậu, khiến cho “mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Thiên nhiên cũng
phải ghen tị với làn da mái tóc của nàng, phải chịu thua trước vẻ đẹp của người con
gái này. Như vậy bằng việc miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã phần nào
gợi ra số phận đầy yên bình êm đềm của người con gái này, luôn được vạn vật
nhường nhịn chịu thua.
Nếu như miêu tả Thúy Vân, tác giả chỉ sử dụng bốn câu thơ thì đến khi nói về vẻ
đẹp của Thúy Kiều, nhà thơ lại phải dùng đến tận mười sáu câu thơ.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Tác giả sử dụng bốn câu thơ để nói về nhan sắc của nàng Kiều. Nếu Thúy Vân toát
lên vẻ đẹp phúc hậu thì Kiều lại “sắc sảo mặn mà” hơn hẳn. Nàng có đôi mắt tuyệt
đẹp, trong như làn nước mùa thu với đôi lông mày đẹp và thanh thoát như dãy núi
mùa xuân. Hai vẻ đẹp này kết hợp với nhau tạo nên vẻ đẹp có môt không hai, khiến
cho ngay cả thiên nhiên cũng phải ghen ghét đố kị với vẻ đẹp của nàng “hoa ghen
liễu hờn”. Điều này dự đoán một tương lai đầy những sóng gió trắc trở của Kiều.
Kiều không chỉ có nhan sắc mà còn có tài năng đặc biệt là tài đánh đàn:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Nhà thơ đã cho nàng Kiều trở thành một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn với biết bao
tài năng cầm kì thi họa. Đặc biệt là tài đánh đàn của nàng là độc nhất đến nỗi “ăn
đứt hồ cầm một chương”. Thế nhưng tiếng đàn của nàng tuy hay nhưng lại có chút
gì đó sầu não đầy bạc mệnh như chính cuộc đời của nàng vậy.
Như vậy, bằng tài năng nghệ thuật của mình, tác giả Nguyễn Du đã giúp chị em hình
dung về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều với mỗi người một vẻ đẹp khác nhau.
Thúy Vân thì toát lên vẻ đoan trang phúc hậu trong khi Thúy Kiều lại tài sắc vẹn
toàn. Đồng thời qua việc miêu tả vẻ đẹp của hai chị em, nhà thơ cũng dự báo trước
số phận mà hai người con gái này sắp phải trải qua đặc biệt là số phận bấp bênh
mà Kiều sắp phải trải qua.
6. Phân tích vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều
Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” trích trong “Đoạn
trường tân thanh” tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những
vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai
chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.
Với ngòi bút của một kỳ tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai nàng
giai nhân tuyệt thế:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”
Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình Vương
viên ngoại) đều là những ả tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp của hai nàng
là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:
“Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình
thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười
nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất
của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều mang vẻ đẹp lí
tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.
Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng
cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời,”
Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Vẻ
đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:
“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn
da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng
trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa,
giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh
hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét
kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ
đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên
nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như thế,
Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Qua bức
chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính
bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.
Tả Vân thật kỹ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ
thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của
Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái
mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái tóc
như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc tả bởi đôi
mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:
“Làn thu thủy nét xuân sơn,”
Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn thu
thủy - làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn
mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:
“Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh”
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên
khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua, nhường
mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kỵ hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của Vân là những
gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp của nước non, của
không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm cho nghiêng nước, đổ
thành:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành,”
Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai
nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những
phẩm chất bên trong cao quý là tài và tình rất đặc biệt:
“Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”
Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng
đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là
cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề
riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở
mức độ tuyệt đối: “vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi”. Không những giỏi ca hát,
chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên “Bạc
mệnh”. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nguyễn Du
cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của
Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung
hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình
và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn
để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm
hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của
định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn mỹ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia
khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn “Bạc mệnh” nàng tự sáng tác như dự
báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi
sẽ sóng gió, nổi chìm, truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức
chân dung Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận.
Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở
ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo
nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai
cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em
Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu
mực của hai chị em Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”
Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc - tài - tình mà còn có đức hạnh. Sống
phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê - tới tuổi búi tóc, cài
trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy
trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt
tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao
hơn đức hạnh của hai nàng.
Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy
Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mỹ lệ nhất. Hai bức tranh mỹ nhân bằng thơ
đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế
của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
7. Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 1
Có ý kiến cho rằng: “Truyện Kiều là một kiệt tác hàng trăm năm nay đã được lưu
truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với người đọc”. Thật vậy bằng tài và
tâm của mình, Nguyễn Du đã tạo nên một kiệt tác để đời. Trong đó có đoạn trích “chị
em Thúy Kiều” tiêu biểu cho cái tài khắc họa, miêu tả nhân vật.
Là một đoạn trích khắc họa rõ nét hai chị em Thúy Kiều, không chỉ vậy, qua những
nét khắc họa đó còn thể hiện tính cách và số phận của hai chị em. Mở đầu đoạn
trích với bốn câu giới thiệu hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Hai chị em xuất hiện, được tác giả gọi là “tố nga” tức chỉ một người con gái đẹp ở
thời xưa. Thúy Kiều và Thúy Vân, hai người con gái có vóc dáng thanh mảnh như
cây mai và có lòng trắng trong như tuyết đầu mùa. Hai người con gái với những nét
đẹp khác nhau nhưng đều hoàn hảo và vẹn toàn. Dường như , hai chị em được coi
là chuẩn mực của cái đẹp đương thời.
Sau khi tác giả giới thiệu về hai người con gái xinh đẹp nết na, đại thi hào đi vào
khắc họa từng nhân vật. Trong đoạn trích Thúy Vân đẹp ngỡ ngàng:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vân với vẻ đẹp đoan trang của thiếu nữ thời xưa. Mặt đầy đặn, tròn như trăng rằm,
lông mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, làn da trắng
mịn như tuyết, tóc bồng bềnh mượt như mây. Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp so
sánh, sử dụng các hình ảnh thiên nhiên như: “trăng, con ngài, hoa, mây, tuyết” làm
cho vẻ đẹp của Vân hiện lên sống động chân thật với tất cả những nét đẹp tự nhiên.
Ta cảm nhận được qua những nét khắc họa của tác giả, Vân là một người con gái
đoan trang, phúc hậu, thùy mị, nết na. Đặc biệt vẻ đẹp đó tạo sự hài hòa với thiên
nhiên đất trời: “mây thua”, “tuyết nhường” biểu thị thái độ nhường nhịn chấp nhận
của thiên nhiên trước vẻ đẹp của nàng. Nhìn vào vẻ đẹp của Thúy Vân, cho ta một
dự cảm về một tương lai số phận bình yên tốt đẹp sẽ đến với nàng.
Nếu Thúy Vân với những nét đẹp phúc hậu cao quý thì vẻ đẹp của Thúy Kiều càng
vượt trội cả sắc lẫn tài qua mười hai câu đặc tả Kiều với bốn câu khắc họa chân
dung:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Trong xã hội cũ, người ta luôn quan niệm rằng thiên nhiên là chuẩn mực của cái
đẹp, con người thường được so sánh với thiên nhiên, hoặc hiện lên qua các hình
| 1/32

Preview text:

Top 9 bài phân tích Chị em Thúy Kiều siêu hay
Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm trong phần: “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới
thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Chị em Thúy Kiều là đoạn trích cho người đọc
cảm nhận rõ nét nhất về vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của Thúy Kiều và Thúy Vân. Sau
đây là nội dung chi tiết bài văn phân tích đoạn thơ Chị em Thúy Kiều hay chọn lọc,
mời các bạn cùng tham khảo.
1. Dàn ý phân tích Chị em Thúy Kiều I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du (đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới).
Truyện Kiều là tác phẩm gây tiếng vang, trở thành kiệt tác văn học Việt Nam.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều không chỉ khắc họa vẻ đẹp của những trang tuyệt thế
giai nhân mà còn thể hiện tài năng miêu tả chân dung nhân vật bậc thầy của Nguyễn Du. II. Thân bài
1. Khái quát vấn đề chung
Miêu tả nhân vật, khắc họa tính cách và số phận của con người là tài năng của
Nguyễn Du, đây là thành công lớn của ông.
Miêu tả nhân vật chính diện: sử dụng bút pháp lý tưởng hóa nhân vật. Miêu tả nhân
vật phản diện: bút pháp hiện thực hóa. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều thể hiện vẻ đẹp
toàn bích tới chuẩn mực Á Đông là hai nàng Vân, Kiều.
2. Phân tích vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân (4 câu)
- Ban đầu, Nguyễn Du gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều từ hình ảnh thiên nhiên:
mai, tuyết. Bút pháp ước lệ gợi ấn tượng về vẻ đẹp với cốt cách như mai, thanh tao,
và cốt cách trong trắng, tinh khôi như tuyết
- Bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: thanh cao, duyên dáng, trong trắng.
Câu thơ “Vân xem trang trọng khác vời” khái quát được vẻ đẹp cao sang, quý phái của nàng.
Vẻ đẹp của Vân sánh với những thứ đẹp nhất từ tự nhiên như hoa, mây trắng, tuyết, ngọc.
Chân dung của Thúy Vân đẹp từ khuôn mặt, nụ cười, mái tóc, làn da, với phong thái
điềm đạm (các chi tiết so sánh, ẩn dụ thú vị trong thơ).
→ Vẻ đẹp của Vân hơn mọi chuẩn mực của tự nhiên, khiến tự nhiên cúi đầu chịu
‘thua”, “nhường”, ắt hẳn cuộc đời nàng sẽ được an ổn, không sóng gió.
3. Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều (12 câu tiếp theo)
- Tác giả tả vẻ đẹp Thúy Vân trước để làm nổi bật vẻ đẹp Thúy Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà: Vẻ đẹp của Thúy Kiều mặn mà về tâm hồn, sắc sảo về trí tuệ.
Tác giả sử dụng lối ước lệ tượng trưng: thu thủy, xuân sơn để đặc tả riêng đôi mắt
trong sáng, long lanh của Kiều.
Thúy Kiều gợi lên là trang tuyệt thế giai nhân với vẻ đẹp khiến tự nhiên phải ganh
ghét, đố kị: hoa ghen, liễu hờn.
Cái tài của Thúy Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến: cầm, kì, thi, họa.
Nhấn mạnh tài đàn của nàng, đặc biệt cung đàn bạc mệnh của nàng (Một thiên bạc
mệnh lại càng não nhân) là tiếng lòng của trái tim đa sầu, đa cảm.
→ Chân dung Thúy Kiều khiến tạo hóa ganh ghét, tài hoa thiên bẩm, tâm hồn đa
sầu đa cảm dự báo số phận trắc trở, nghiệt ngã đầy sóng gió bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.
- Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân trước rồi miêu tả Thúy Kiều, thủ pháp đòn bẩy này
làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.
- Sử dụng tài tình các tính từ miêu tả vẻ đẹp Vân, Kiều (vẻ đẹp mang số phận): mặn
mà, trang trọng, sắc sảo...
- Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đối xứng, liệt kê, tăng tiến, điển tích điển
cố... được sử dụng linh hoạt trong đoạn trích.
→ Bút pháp ước lệ tượng trưng là cách thể hiện con người quen thuộc trong thơ ca
trung đại (miêu tả qua những công thức, chuẩn mực có sẵn được quy ước trong nghệ thuật) III. Kết bài
Đoạn trích khắc họa rõ nét chân dung chị em Thúy Kiều nhờ bút pháp ước lệ tượng
trưng, thủ pháp đòn bẩy và các biện pháp tu từ.
Nguyễn Du thể hiện cảm hứng nhân văn qua việc đề cao con người, ca ngợi vẻ đẹp
tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh.
2. Phân tích Chị em Thúy Kiều dàn ý I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều Trích tắt đoạn thơ. II. Thân bài
1. Khái quát và dẫn vào đoạn thơ
- Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” gồm 24 câu thơ lục bát, nằm ở phần 1 “Gặp gỡ và
đính ước” của tác phẩm “Truyện Kiều”.
- Trong đoạn trích này, Nguyễn Du tập trung miêu tả vẻ đẹp của chị em thúy Kiều để
từ đó ca ngợi vẻ đẹp, đức hạnh và tài năng của những những người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
- Sức hấp dẫn của đoạn trích được tạo nên từ giọng điệu ngợi ca và những hình
ảnh ước lệ tượng trưng giàu ý nhĩa
- Dẫn dắt vào đoạn thơ:
Ở phần đầu của đoạn trích, Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng bút pháp ước
lệ tượng trưng để giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều đồng thời miêu tả
Thúy Vân qua những chi tiết rất cụ thể. Thông qua những câu thơ ấy, ta nhận ra ở
hai nàng là cốt cách thanh tao cao quý và một tâm hồn trắng trong tinh sạch. Và đến
mười hai câu thơ tiếp, tác giả dành hết tài năng, tình cảm và tâm huyết của mình để
miêu tả nhan sắc tài năng của Thúy Kiều.
2. Vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều trong đoạn thơ
* Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo mặn mà, so với Thúy Vân, nàng đẹp hơn cả về tài và sắc.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
+ Tác giả miêu tả Thúy Kiều bằng mười hai câu thơ lục bát => cho thấy sự ưu ái của nhà thơ đối với nàng.
+ Tác giả sử dụng thủ pháp đòn bẩy để miêu tả Thúy Kiều để khẳng định Vân đã
đẹp Kiều còn đẹp hơn đồng thời miêu tả như thế cũng là để vẻ đẹp của Thúy Vân
không bị lu mờ trước vẻ đẹp của Thúy Kiều. Điểm này Nguyễn Du thật tinh tế.
+ Thúy Kiều mang vẻ đẹp “mặn mà, sắc sảo” tức là ở nàng vừa có cả sự đằm thắm
dịu dàng, vừa có cả sự tinh anh về trí tuệ. Vẻ đẹp ấy được Nguyễn Du miêu tả ở cả
hai phương diện là tài và sắc.
*Về nhan sắc Kiều mang vẻ đẹp của một tuyệt thế giai nhân
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoag hen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng ngước nghiêng thành”
+ Nếu như tả Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả rất chi tiết cụ thể, từ khuôn mặt đến đôi
lông mày, từ giọng nói, nụ cười đến làn da, mái tóc thì khi tả Kiều tác giả chỉ tập
trung miêu tả đôi mắt. Có lẽ bởi đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nhìn vào đôi mắt,
người ta có thể đoán biết được tâm tư, tình cảm.
+ Tả đôi mắt của Kiều, nhà thơ sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng (làn thu thủy
nét xuân sơn). => qua đó cho thấy nàng có một đôi mắt trong như làn nước mùa
thu, đẹp như dáng núi mùa xuân- một đôi mắt biết nói, biết cười, biết yêu thương
hờn giận, đôi mắt chứa đựng cả tình đời, tình người mênh mông. Đôi mắt ấy đã
khiến cho bao đấng nam nhi phải mê say đắm đuối.
+ Kiều đẹp đến mức hoa phải ghen vì thua sắc thắm, liễu phải hờn vì kém sắc xanh.
Phép nhân hóa có tính chất cường điệu “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
như một lời khẳng định vẻ đẹp của Thúy Kiều đã vượt hơn hẳn vẻ đẹp của thiên
nhiên, khiến cho thiên nhiên phải ghen hờn, đố kị. => Nhưng trong vẻ đẹp của Kiều
đã ẩn chứa những mầm tai hoạ.
+ Nghệ thuật Việt hóa điển tích: Người Trung Quốc có điển tích “khuynh quốc
khuynh thành” để nói về những cô gái đẹp. Dùng điển tích ấy để miêu tả vẻ đẹp của
Thúy Kiều là Nguyễn Du muốn khẳng định vẻ đẹp của nàng cũng chẳng thua kém gì
các mĩ nhân thủa trước.
=> Như vậy chỉ với một vài câu thơ lục bát, bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, biện
pháp tu từ nhân hóa, nghệ thuật đòn bẩy và các từ ngữ chọn lọc, Nguyễn Du đã vẽ
ra trước mắt người đọc bức chân dung của một tuyệt thế giai nhân. Thúy Kiều mang
vẻ đẹp mà có lẽ trên thế gian này không ai có thể sánh được.
* Tuy nhiên, người thiếu nữ ấy không chỉ có nhan sắc mà tài năng cũng xuất chúng hơn người.
“Thông minh vốn sẵn tính trời ...
Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân”
+ Theo Nguyễn Du miêu tả thì sự thông minh của Thúy Kiều là do trời phú.
+ Nàng rất đa tài. Kiều am hiểu rất nhiều các bộ môn nghệ thuật. Từ cầm, kì, thi
họa, tài năng nào của nàng cũng đạt đến trình độ đỉnh cao, xuất chúng. + Nguyễn
Du khẳng định về nàng là “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”(tức là về nhan sắc
thì trên thế gian này không ai có thể sánh kịp nàng còn tài năng thì họa chăng may
ra mới có một người vượt qua).
+ Và trong tất cả các bộ môn nghệ thuật, Thúy Kiều giỏi nhất là đánh đàn.
Tiếng đàn của nàng mang nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, lúc trầm lúc bổng, lục
nhặt, lúc khoan. Tiếng đàn ấy dường như mang cả nỗi lòng, tâm tư của nàng.
+ Hơn nữa nàng còn biết tự sáng tác nhạc. “Thiên Bạc mệnh” do nàng sáng tác đã
khiến cho người nghe ai nấy đều cảm thấy đau xót, não nề, và nó cũng là minh
chứng cho một trái tim đa sầu đa cảm. 3. Đánh giá
* Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
- Bằng giọng điệu ngợi ca, thể thơ lục bát truyền thống mềm mại tinh tế, bút pháp
ước lệ tượng trưng, các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, nghệ thuật đòn bẩy cùng
các từ ngữ hìn ảnh chọn lọc, đoạn thơ trên đã khắc họa thành công bức chân dung
của nhân vật Thúy Kiều – một người con gái tài sắc vẹn toàn.
- Không những thành công trong việc khắc họa chân dung mà còn thông qua đó dự
cảm về số phận của Thúy Kiều. Bức chân dung của nàng mang tính chất số phận
hội tụ đủ: “sắc, tài, tình, mệnh”.
- Qua đoạn trích, người đọc thấy được tấm lòng yêu mến, trân trọng của tác giả
Nguyễn Du dành cho những người phụ nữ trong xã hội xưa.
* Mở rộng nâng cao vấn đề, liên hệ thực tiễn, rút ra bài học:
- Trong xã hội hiện đại, người phụ nữ ngày càng có vị thế. Họ ngày càng trở nên
xinh đẹp, không chỉ giỏi việc nước mà đảm cả việc nhà. Và dù ở thời đại nào thì họ
vẫn xứng đáng để chúng ta yêu thương và trân trọng. III.Kết bài
- Nhận xét chung về đoạn trích
- Đoạn trích khơi gợi tình cảm gì
- Em rút ra được bài học gì từ đoạn trích
3. Mở bài chị em Thúy Kiều Mẫu 1
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần đầu của tác phẩm Truyện Kiều của đại thi
hào Nguyễn Du. Bằng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học cổ điển
cùng với ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã khắc họa nên hình ảnh của Thúy Kiều và
Thúy Vân sống động và chân thực, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Mẫu 2
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc. Với tuyệt phẩm Truyện Kiều, ông đã để lại
cho hậu thế những áng văn chương bất hủ về câu chuyện đời bất hạnh của nàng
Thúy Kiều. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều là một phần thuộc đoạn đầu của tác phẩm.
Thông qua đoạn trích tác giả đã cho người đọc cảm nhận rất rõ nét về vẻ đẹp ngoại
hình cũng như tính cách của 2 chị em Thúy Kiều. Mẫu 3
Trong bài thơ Kính gửi Cụ Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu viết:
Tiếng thơ ai động đất trời,
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày...
Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện Kiều là kiệt tác của nền thi ca
cổ dân tộc sáng ngời tinh thần nhân đạo, về phương diện nghệ thuật, áng thơ này là
mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, tả tình, tự sự v.v... đem lại
cho nhân dân ta nhiều thú vị văn chương. Đoạn thơ giới thiệu Chị em Thúy Kiều là
một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều. Mẫu 4
Tìm đến thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Truyện
Kiều của thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. 24 câu lục bát đã
miêu tả sắc, tài và đức hạnh chị em Thúy Kiều, Thúy Vân - hai tuyệt thế giai nhân -
với tất cả tấm lòng quý mến và trân trọng của nhà thơ thiên tài dân tộc.
4. Phân tích chị em Thúy Kiều học sinh giỏi
Nguyễn Du (1765 - 1820) quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông là đại thi hào
của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Một trong những tác phẩm thành công về
chữ Nôm của ông là “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi là “Truyện Kiều”. Truyên
không những có nội dung sâu sắc mà còn rất thành công về nghệ thuật. Tiêu biểu
cho nghệ thuật khắc họa nhân vật là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”. Đoạn trích đã
đề cao trân trọng vẻ đẹp của con người đặc biệt là người phụ nữ thông qua việc
miêu tả tài và sắc của chị em Thúy Kiều. Đây là đoạn trích thể hiện sâu sắc cảm
hứng nhân vật của Nguyễn Du.
Bốn dòng thơ đầu tác giả giới thiệu chung về vị thứ và vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười”
Bằng cách giới thiệu hai “ả tố nga” vừa ngắn gọn vừa giản dị hết sức ấn tượng đầy
đủ. Trong gia đình họ Vương có hai cô con gái đầu lòng đẹp như “Hằng Nga”. Và
câu thơ “‘Mai cốt cách, tuyết tinh thần” bằng việc sử dụng bút phát ước lệ tượng
trưng thông qua hai hình ảnh “mai”, “tuyết”, tác giả gợi lên trước mắt chúng ta vẻ
đẹp của hai thiếu nữ với dáng người mảnh dẻ, duyên dáng như cây mai một loài
hoa đẹp và cao quý, tâm hồn của họ trong trắng như tuyết, cả hai đều đẹp hoàn
thiện, hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”, mỗi người mang một nét đẹp riêng "Mỗi
người mỗi vẻ", đúng là cách nhìn đầy ngợi ca trân trọng của tác giả.
Đến với bốn câu thơ tiếp theo, tác giả ngợi về vẻ đẹp của Thúy Vân.
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Câu thơ đầu “Vân xem trang trọng khác vời” đã khái quát đặc điểm của nhân vật.
Hai chữ “trang trọng” gợi vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thúy Vân, có thể nói có bao
nhiêu cái đẹp của tạo vật, thiên nhiên đều được Nguyễn Du mượn để tạo nên chân
dung của Thúy Vân. Đó là “trăng, hoa, tuyết, ngọc, mây” - bằng bút pháp ước lệ, thư
pháp liệt kê, vẻ đẹp của Vân được tác giả cụ thể hóa bằng khuôn mặt, đôi mày, mái
tóc, làn da, nụ cười, giọng nói. Cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ làm nổi bật vẻ đẹp
của đối tượng được miêu tả: “đầy đặn”, “nở nang” và “đoan trang”. Những biện pháp
tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa đều nhằm thể hiện vẻ đẹp phúc hậu mà quý phái của
người thiếu nữ. Một Thúy Vân với gương mặt đầy đặn dịu nhẹ như trăng rằm, lông
mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong như
ngọc, mái tóc mềm mượt hơn mây, làn da trắng hơn tuyết. Vẻ đẹp ấy làm cho thiên
nhiên ngưỡng mộ “mây thua”, “tuyết nhường”. Hai chữ “thua” và “nhường” biểu hiện
sự hài lòng không ghen ghét, điều này dự báo nàng sẽ có một cuộc sống bình lặng,
suôn sẻ không gặp sóng gió.
Nếu tả Thúy Vân với bốn câu thơ thì sang Thúy Kiều Nguyễn Du dành cho nàng
mười hai câu thơ. Nếu Vân được miêu tả với vẻ đẹp hoàn hảo thì Thúy Kiều còn
vượt lên trên cái hoàn hảo đó, nếu Vân Nguyễn Du chỉ nói đến sắc thì Kiều còn đẹp
cả sắc lẫn tài, đó là vẻ đẹp của tuyệt thế giai nhân sắc sảo mặn mà.
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Ở đây, Nguyễn Du rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đòn bẩy. Miêu tả
Vân trước để làm nền cho vẻ đẹp của Kiều. Chỉ bằng một câu thơ với các từ “càng”,
“hơn”, tác giả giúp người đọc hình dung rõ vẻ đẹp vượt trội của Kiều. Nàng không
những tuyệt đỉnh về nhan sắc mà còn sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Khi miêu tả Thúy Kiều, tác giả vẫn sử dụng bút pháp ước lệ thông qua các hình
tượng thiên nhiên “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa ghen”, “liễu hờn”. Chỉ có điều Nguyễn
Du không liệt kê nhiều chi tiết như Vân à chỉ tập trung ở đôi mắt. Hình ảnh ước lệ
“thu thủy” gợi tả đôi mắt Kiều đẹp trong như nước mùa thu, “xuân sơn” gợi lên đôi
lông mày thanh tú trên khuôn mặt trẻ trung, đôi mắt ấy của Kiều chính là cửa sổ tâm
hồn, thể hiện sự sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Sắc của Kiều làm cho
người ta ngưỡng mộ say mê đến lỗi có thể “mất nước, mất thành”, con thiên nhiên
thì ganh ghét, đố kỵ “hoa ghen”, “liễu hờn”.
Sắc đã vậy còn tài, tình của Kiều thì sao? Miêu tả Kiều tác giả dành một phần để nói
về nhan sắc, còn dành đến hai phần để nói về tài năng. Đây chính là dụng ý nghệ
thuật của Nguyễn Du. Ông muốn nhấn mạnh sắc đẹp của Kiều thì không có bút
pháp nào tả nổi. Về sắc đẹp của Kiều là số một còn về tài thì trong thiên hạ may ra có người thứ hai:
“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”
Kiều thông minh bẩm sinh, cái tài do trời phú. Tài năng của nàng đạt tới mức hoàn
thiện theo quan niệm thẩm mỹ gồm cả" cầm, kỳ, thi. họa"
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương”
Đặc biệt tài đàn của nàng là nổi trội hơn cả - là sở trường, tiếng đàn của nàng thật
hay, hay đến mức có thể ăn đứt bất cứ nghệ sĩ tài ba nào trong thiên hạ. Kiều không
chỉ giỏi đánh đàn mà còn giỏi sáng tác nhạc, đến mức có thể soạn cho mình một
bản nhạc về nhan đề " bạc mệnh" . Mỗi khi nàng gảy bản đàn đó đều khiến cho lòng
người âu sầu, ảo não người nghe chau mày rơi lệ. Cung đàn “bạc mệnh” chính là
sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm.
Như vậy vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp cả sắc, tài và tình, một vẻ đẹp vượt qua
ngoài khuôn khổ khiến cho tạo hóa ghen ghét đố kỵ.
“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Từ việc khắc họa bức chân dung Thúy Kiều tác giả dự báo về số phận éo le, đau
khổ, một tương lai chìm nổi sẽ đến với nàng. Mặc dù tài sắc của Thúy Kiều, Thúy
Vân khác nhau dự báo về tương lai cuộc sống khác nhau, nhưng đức hạnh của hai
nàng đều đáng trân trọng, điều này thể hiện qua bốn câu thơ cuối:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Mặc dù đã đến tuổi cập kê nhưng “hai ả tố nga’ đã và đang sống cuộc đời nề nếp,
gia giáo, cuộc sống của các thiếu nữ phong khuê không hề có tình yêu thiếu đúng đắn.
Như vậy với hai tư câu thơ trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những
đoạn thơ mẫu mực về nghệ thuật tả người. Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, thủ
pháp đòn bẩy, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ. Tác giả đã khắc họa
chân dung hai người thiếu nữ với tất cả sắc, tài, tình, mệnh. Đằng sau bức chân
dung chị em Thúy Kiều là tấm lòng ngợi ca trân trọng của tác giả - đó là một biểu
hiện của tinh thần nhân văn trong Truyện Kiều, qua đây ta hiểu trân trọng thêm vẻ
đẹp của con người đặc biệt là người phụ nữ.
5. Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều ngắn gọn
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn luôn
nhìn đời bằng con mắt “nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”. Nhắc đến
ông chúng ta không thể bỏ qua kiệt tác “Truyện Kiều” trong đó để lại ấn tượng sâu
sắc trong lòng người đọc là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” miêu tả vẻ đẹp của hai
chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.
Ở bốn câu thơ đầu, Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp chung của hai chị em:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Bằng cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ mang ý nghĩa ước
lệ tượng trưng, nhà thơ đã giúp người đọc hình dung được vẻ đẹp của hai chị em
với “ả tố nga”, “Mai cốt cách tuyết tinh thần”, “mười phân vẹn mười”. Nguyễn Du gọi
Thúy Kiều với Thúy Vân là “ả tố nga” tức là người con gái đẹp. Đặc biệt bằng việc
mượn hình ảnh thiên nhiên mai và tuyết còn cho thấy hai chị em Thúy Kiều hiện lên
đều có cốt cách ngay thẳng thanh cao lại vô cùng dịu dàng và mỗi người một vẻ đẹp
khác nhau không ai kém ai cả.
Bốn câu thơ tiếp theo được tác giả dùng để miêu tả vẻ đẹp của cô em Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Thúy Vân hiện lên là một người con gái vô cùng duyên dáng với khuôn mặt “đầy
đặn” tròn trịa với “nét ngài nở nang”. Mỗi khi nàng cười là toát lên vẻ đoan trang đầy
phúc hậu, khiến cho “mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Thiên nhiên cũng
phải ghen tị với làn da mái tóc của nàng, phải chịu thua trước vẻ đẹp của người con
gái này. Như vậy bằng việc miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã phần nào
gợi ra số phận đầy yên bình êm đềm của người con gái này, luôn được vạn vật nhường nhịn chịu thua.
Nếu như miêu tả Thúy Vân, tác giả chỉ sử dụng bốn câu thơ thì đến khi nói về vẻ
đẹp của Thúy Kiều, nhà thơ lại phải dùng đến tận mười sáu câu thơ.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Tác giả sử dụng bốn câu thơ để nói về nhan sắc của nàng Kiều. Nếu Thúy Vân toát
lên vẻ đẹp phúc hậu thì Kiều lại “sắc sảo mặn mà” hơn hẳn. Nàng có đôi mắt tuyệt
đẹp, trong như làn nước mùa thu với đôi lông mày đẹp và thanh thoát như dãy núi
mùa xuân. Hai vẻ đẹp này kết hợp với nhau tạo nên vẻ đẹp có môt không hai, khiến
cho ngay cả thiên nhiên cũng phải ghen ghét đố kị với vẻ đẹp của nàng “hoa ghen
liễu hờn”. Điều này dự đoán một tương lai đầy những sóng gió trắc trở của Kiều.
Kiều không chỉ có nhan sắc mà còn có tài năng đặc biệt là tài đánh đàn:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Nhà thơ đã cho nàng Kiều trở thành một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn với biết bao
tài năng cầm kì thi họa. Đặc biệt là tài đánh đàn của nàng là độc nhất đến nỗi “ăn
đứt hồ cầm một chương”. Thế nhưng tiếng đàn của nàng tuy hay nhưng lại có chút
gì đó sầu não đầy bạc mệnh như chính cuộc đời của nàng vậy.
Như vậy, bằng tài năng nghệ thuật của mình, tác giả Nguyễn Du đã giúp chị em hình
dung về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều với mỗi người một vẻ đẹp khác nhau.
Thúy Vân thì toát lên vẻ đoan trang phúc hậu trong khi Thúy Kiều lại tài sắc vẹn
toàn. Đồng thời qua việc miêu tả vẻ đẹp của hai chị em, nhà thơ cũng dự báo trước
số phận mà hai người con gái này sắp phải trải qua đặc biệt là số phận bấp bênh
mà Kiều sắp phải trải qua.
6. Phân tích vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều
Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều” trích trong “Đoạn
trường tân thanh” tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những
vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai
chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.
Với ngòi bút của một kỳ tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai nàng giai nhân tuyệt thế:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân”
Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình Vương
viên ngoại) đều là những ả tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp của hai nàng
là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:
“Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình
thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười
nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất
của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều mang vẻ đẹp lí
tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.
Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng
cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời,”
Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Vẻ
đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:
“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn
da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng
trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa,
giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh
hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét
kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ
đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên
nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như thế,
Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Qua bức
chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính
bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.
Tả Vân thật kỹ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ
thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của
Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái
mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái tóc
như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc tả bởi đôi
mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:
“Làn thu thủy nét xuân sơn,”
Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn thu
thủy - làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn
mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:
“Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh”
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên
khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua, nhường
mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kỵ hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của Vân là những
gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp của nước non, của
không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm cho nghiêng nước, đổ thành:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành,”
Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai
nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những
phẩm chất bên trong cao quý là tài và tình rất đặc biệt:
“Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”
Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng
đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là
cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề
riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở
mức độ tuyệt đối: “vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi”. Không những giỏi ca hát,
chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên “Bạc
mệnh”. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nguyễn Du
cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của
Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung
hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình
và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn
để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm
hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của
định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn mỹ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia
khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn “Bạc mệnh” nàng tự sáng tác như dự
báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi
sẽ sóng gió, nổi chìm, truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức
chân dung Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận.
Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở
ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo
nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai
cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em
Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu
mực của hai chị em Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”
Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc - tài - tình mà còn có đức hạnh. Sống
phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê - tới tuổi búi tóc, cài
trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy
trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt
tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao
hơn đức hạnh của hai nàng.
Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy
Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mỹ lệ nhất. Hai bức tranh mỹ nhân bằng thơ
đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế
của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
7. Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Mẫu 1
Có ý kiến cho rằng: “Truyện Kiều là một kiệt tác hàng trăm năm nay đã được lưu
truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với người đọc”. Thật vậy bằng tài và
tâm của mình, Nguyễn Du đã tạo nên một kiệt tác để đời. Trong đó có đoạn trích “chị
em Thúy Kiều” tiêu biểu cho cái tài khắc họa, miêu tả nhân vật.
Là một đoạn trích khắc họa rõ nét hai chị em Thúy Kiều, không chỉ vậy, qua những
nét khắc họa đó còn thể hiện tính cách và số phận của hai chị em. Mở đầu đoạn
trích với bốn câu giới thiệu hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Hai chị em xuất hiện, được tác giả gọi là “tố nga” tức chỉ một người con gái đẹp ở
thời xưa. Thúy Kiều và Thúy Vân, hai người con gái có vóc dáng thanh mảnh như
cây mai và có lòng trắng trong như tuyết đầu mùa. Hai người con gái với những nét
đẹp khác nhau nhưng đều hoàn hảo và vẹn toàn. Dường như , hai chị em được coi
là chuẩn mực của cái đẹp đương thời.
Sau khi tác giả giới thiệu về hai người con gái xinh đẹp nết na, đại thi hào đi vào
khắc họa từng nhân vật. Trong đoạn trích Thúy Vân đẹp ngỡ ngàng:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vân với vẻ đẹp đoan trang của thiếu nữ thời xưa. Mặt đầy đặn, tròn như trăng rằm,
lông mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, làn da trắng
mịn như tuyết, tóc bồng bềnh mượt như mây. Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp so
sánh, sử dụng các hình ảnh thiên nhiên như: “trăng, con ngài, hoa, mây, tuyết” làm
cho vẻ đẹp của Vân hiện lên sống động chân thật với tất cả những nét đẹp tự nhiên.
Ta cảm nhận được qua những nét khắc họa của tác giả, Vân là một người con gái
đoan trang, phúc hậu, thùy mị, nết na. Đặc biệt vẻ đẹp đó tạo sự hài hòa với thiên
nhiên đất trời: “mây thua”, “tuyết nhường” biểu thị thái độ nhường nhịn chấp nhận
của thiên nhiên trước vẻ đẹp của nàng. Nhìn vào vẻ đẹp của Thúy Vân, cho ta một
dự cảm về một tương lai số phận bình yên tốt đẹp sẽ đến với nàng.
Nếu Thúy Vân với những nét đẹp phúc hậu cao quý thì vẻ đẹp của Thúy Kiều càng
vượt trội cả sắc lẫn tài qua mười hai câu đặc tả Kiều với bốn câu khắc họa chân dung:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Trong xã hội cũ, người ta luôn quan niệm rằng thiên nhiên là chuẩn mực của cái
đẹp, con người thường được so sánh với thiên nhiên, hoặc hiện lên qua các hình