Triết 2 - Bài tập lớn Kinh tế chính trị| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Lời nói đầu
I. Khái niệm khủng hoảng kinh
tế………………………………………….....
II. Bản chất, nguyên nhân và hậu quả của khủng hoảng kinh tế trong chủ
nghĩa tư
bản……………………………………...............................................
1. Bản
chất………………………………………………………….....
2. Nguyên
nhân………………………………………………………..
3. Hậu
quả……………………………………………………………..
III. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh
tế…………………………………….
IV. Những giải pháp ứng phó với khủng hoảng kinh tế……...........................
V. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam……………………………………………..
VI. Kết luận………………………………………………………………….
VII. Tài liệu tham khảo………………………………………………………
1
2
3
3
4
5
8
11
12
16
16
16
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2008, thế giới vừa trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế chưa từng có
trong lịch sử và hậu quả của nó vẫn còn kéo dài cho đến tận ngày nay.Cuộc khủng
hoảng bắt đầu từ Mỹ và không lâu sau lan rộng ra khắp thế giới.Không ai có thể tưởng
tượng được nền kinh tế số 1 thế giới lại suy sụp nhanh đến vậy và những hậu quả to lớn
mà nó ảnh hưởng đến thế giới trong đó có Việt Nam. Chính việc này đã cho em nguồn
cảm hứng để chọn đề tài “khủng hoảng kinh tế”.
Bài viết được chia thành 5 phần chính : khủng hoảng kinh tế là gì; bản chất,
nguyên nhân, hậu quả; tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế; những giải pháp ứng phó
và liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.
1
I. KHÁI NIỆM KHỦNG HOẢNG KINH T
Khủng hoảng kinh tế là những hiện tượng kinh tế bất ổn định kéo dài mà không
điều chỉnh được của quá trình tái sản xuất trong nền kinh tế gây ra những chấn động và
hậu quả kinh tế xã hội trong quy mô rộng hoặc hẹp nó có thể diễn ra trong mọi lĩnh vực
của nền sản xuất xã hội: tiền tệ khủng hoảng dầu mỏ khủng hoảng bất động sản.
Khi khủng hoảng nổ ra hàng hóa không tiêu thụ được sản xuất bị thu hẹp nhiều
doanh nghiệp bị vỡ nợ phá sản người dân thất nghiệp sức mua giảm thị trường rối loạn.
Khủng hoảng vào năm 1825 được coi là thảm họa tài chính toàn thế giới đầu tiên.
Sau khi cuô ec diễu hành giành đô ec lâ ep đã lan đến Mỹ Latin, châu Âu đã nhâ ep thêm vốn
tư bản cho lục địa đó, dẫn đến xuất khgu và các món nợ quốc gia của những nước cô eng
hòa mới này tăng lên. Số vàng và bạc kiếm được ở Mỹ đã chuyển về cho nước Anh. Sự
đầu cơ đông đảo vào các kim loại qúy hiếm đã làm cạn kiê et các ngân hàng nước Anh và
dẫn đến phá sản thị trường vốn. Khủng hoảng đã lan ra phần lớn lãnh thổ Tây Âu và Mỹ
Latin.
Khủng hoảng trong thị trường chứng khoán năm 1836-1837 đã bao phủ những
quốc gia Anh, Đức và Hà Lan, gắn bó với những vốn đầu tư vô căn cứ được góp vào sự
phát triển của những đường xe lửa. Và kết qủa là toàn bôe e thống ngân hàng những
nước đó bị tổn thương nghiêm trọng.
Vào năm 1857 mô et trong những khủng hoảng có quy mô lớn nhất thế kỷ 19 bùng
nổ. Những công ty đường xe lửa bị phá sản hoàn toàn dẫn đến sự sụp đổ của hê e thống
ngân hàng quốc gia nhiều nước, rồi đến sự sâ ep đổ của hê e thống ngân hàng toàn châu Âu.
Lý do khủng hoảng tiền tê e năm 1861 ở Mỹ là cuôec nô ei chiến giữa miền Nam và
miền Bắc. Nhà nước đã không thể thanh toán được văn tự nợ sau khi vay ngân hàng.
Khủng hoảng đã xuất hiê en và kéo dài đến cuối cuôec chiến tranh.
2
Vào năm 1914 khủng hoảng tài chính tiếp theo bùng lên. Nhà nước Mỹ và phần
lớn những nước châu Âu đã bán tống bán tháo ngân phiếu nhiều quốc gia khác để cung
cấp cho những hoạt đô eng quân sự của nước mình.
Thời kỳ giữa hai cuô ec chiến tranh thế giới hoàn toàn là khủng hoảng kinh tế. Thời
kỳ Đình T e năm 1920-1922 và giai đoạn Đình Đốn Vĩ Đại năm 1929-1933 đã tác đôeng
đến đời sống mọi giới con người. Mùng 4 tháng 10 năm 1929 (“Thứ năm đen”), ở thị
trường chứng khoán Niu-Yoóc, giá chứng khoán giảm đi 60-70%.
Cùng lúc đó, nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng của Mỹ đã sụp đổ nhanh
chóng. Đến cuối tháng, những người giữ cổ phiếu bị mất hơn 15 tỷ đô-la, còn đến cuối
năm giá chứng khoán sụt xuống 40 tỷ đô-la – số tiền khổng lồ vào thời điểm đó. Ngay
tiếp sau đó, khủng hoảng bùng lên cả ở châu Âu. Vào năm 1933, ở những nước phát
triển có tới hơn 30 triê eu người chính thức không có viê ec làm.
Khủng hoảng năm 1957-1958 lan tràn ra Mỹ, Canada và những nước Tây Âu. Sản
xuất công nghiê ep thế giới giảm đi 4%. Kinh tế Mỹ vào năm 1973-1974 bị thu hẹp lại và
giống như trong thời kỳ Đình Đốn Vĩ Đại. Khủng hoảng bao trùm toàn bôe châu Âu. Ở
Anh giá chứng khoán giảm đi 56%. Tình hình còn trầm trọng thêm vì khủng hoảng dầu
mỏ kèm theo, giá mô et thùng dầu tăng từ 3 lên thành 12 đô-la.
Ngày 19 tháng 10 năm 1987 được ghi nhớ ở lịch sử Mỹ là “Thứ hai đen tối”.
Trong vòng mô et ngày, chỉ số quỹ Dow Jones Industrial sụt đi 22,6%. Tiếp theo thị
trường Canada và Úc bị sụt giảm, còn sở giao dịch Hồng Kông nghỉ viê ec trong vòng
et tuần.
Vào năm 1994-1995, khủng hoảng nổ ra ở Mêhicô, hai năm sau thị trường quỹ
của châu Á sụp đổ. Các chuyên gia kết luâ en rằng khủng hoảng ở châu Á làm GDP thế
giới giảm 2 ngàn tỷ đô-la. Mô et năm sau Nga đã phải tuyên bố lạm phát và chấp nhâ en
buông xuôi, vì món nợ nhà nước quá lớn. Thị giá đồng Rúp sụt giảm, còn những người
đầu tư quay lưng lại với kinh tế Nga.
Khủng hoảng năm 2008 là khủng hoảng đầu tiên đối với chúng ta, nó tác động
đến nhiều mặt sản xuất trong nền kinh tế của Việt Nam như bất động sản, ngân hàng,
lạm phát,....
Từ những điểm mốc trong lịch sử người ta tính ra được khủng hoảng kinh tế
trong chủ nghĩa tư bản mang tính chu kì, cứ khoảng từ 8 đến 12 năm, nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa lại phải qua một cuộc khủng hoảng.
II. BẢN CHẤT, NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA KHỦNG
HOẢNG KINH TẾ TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1. Bản chất
3
Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự phát triển chức năng làm phương tiện thanh
toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng khủng hoảng kinh tế. Trong chủ nghĩa tư bản
khi nền sản xuất đã xã hội hoá cao độ, khủng hoảng kinh tế trở thành hiện thực. Hình
thức đầu tiên và phổ biến của khủng hoảng kinh tế trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
là khủng hoảng sản xuất "thừa". Khi khủng hoảng nổ ra hàng hoá không tiêu thụ được,
sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị
trường bị rối loạn. Tình trạng thừa hàng hoá không phải là so với nhu cầu của xã hội, mà
là "thừa" so với sức mua có hạn của quần chúng lao động.
2. Nguyên nhân
Nguyên nhân bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là
mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này
biểu hiện ra thành ba mâu thuẫn sau:
+ Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa
học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội: Thời kì đầu con người
chỉ sản xuất ra một lượng hàng hóa đủ để thỏa mãn cho nhu cầu của bản thân, sản xuất
để trao đổi chưa phát triển, vì vậy mà trao đổi hạn chế, thị trường hạn chế, phương thức
sản xuất ổn định, sự đóng cửa có tính chất địa phương đối với thế giới bên ngoài, sự
thống nhất có tính chất địa phương ở trong nước, phường hội ở thành thị. Nhưng cùng
với sự mở rộng của sản xuất hàng hóa và nhất là cùng với sự xuất hiện của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa thì những quy luật trước đó bị phá hủy. Trong từng xí nghiệp,
lao động của công nhân được tổ chức và phục tùng ý chí duy nhất của nhà tư bản. Còn
trong xã hội, do dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, trạng thái
vô chính phủ bao trùm tất cả. Các nhà tư bản tiến hành sản xuất mà không nắm được
nhu cầu của xã hội, quan hệ giữa cung và cầu bị rối loạn, quan hệ tỉ lệ giữa các ngành
sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng đến một mức độ nào đó thì nổ ra khủng hoảng kinh
tế.
+ Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư bản với sức
mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hoá: Để theo đuổi lợi nhuận siêu
ngạch, các nhà tư bản phải ra sức mở rộng sản xuất, cải tiến kĩ thuật, cạnh tranh gay gắt.
Lao động thủ công của nhiều người sẽ bị thay thế bằng một vài người sử dụng máy móc.
Hậu quả là có một bộ phận không nhỏ người công nhân bị thất nghiệp. Quá trình đó
c†ng là quá trình bần cùng hoá nhân dân lao động, làm giảm bớt một cách tương đối sức
mua của quần chúng, làm cho sức mua lạc hậu so với sự phát triển của sản xuất. Cung
và cầu trong xã hội mất cân đối nghiêm trọng, dẫn đến khủng hoảng thừa hàng hóa trên
thị trường. Giá trị thặng dư mà các nhà tư bản kiếm được từ việc nâng cao công nghệ
sản xuất chỉ là lý thuyết vì hàng hóa của họ không tiêu thụ được, quy trình tiền- hàng-
4
tiền’ bị gián đoạn, giá trị thặng dư chỉ là một thứ hão huyền nhìn thấy được mà không
thể sở hữu, có được nó.
+Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê: Đặc điểm
của chủ nghĩa tư bản là hai yếu tố của sản xuất tách rời nhau: tư liệu sản xuất tách rời
người trực tiếp sản xuất. Sự tách rời đó biểu hiện rˆ nhất trong khủng hoảng kinh tế.
Trong khi tư liệu sản xuất bị xếp lại, han rỉ, mục nát thì người lao động lại không có
việc làm. Một khi tư liệu sản xuất và sức lao động không kết hợp được với nhau thì
guồng máy sản xuất tư bản chủ nghĩa tất nhiên bị tê liệt.
Có thể thấy 3 mâu thuẫn trên liên hệ với nhau một cách có quy luật, chúng cùng
thúc đgy nhau tạo nên khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản.
3. Hậu quả
a) Phá hoại lực lượng sản xuất và làm rối loạn lĩnh vực lưu thông .
- Phá hoại lực lượng sản xuất: phá hủy các tư liệu sản xuất, hàng hóa tiêu dùng.
Khủng hoảng năm 1929-1933 một dụ nét mỗi lần nhắc lại người ta còn
thấy sợ: 13 vạn công ty phá sản, sản lượng thép sụt 76%, sản lượng sắt sụt 79,4%, sản
lưọng ôtô sụt 80%. Phá huỷ một khối lượng khổng lồ các các phương tiện sản xuất
hàng hoá tiêu dùng. Năm 1931, ởngười ta đã phá huỷ nhữngcao có thể sản xuất
ra 1 triệu tấn thép trong một năm, đánh dắm 124 tàu biển (trọng tải khoảng 1 triệu tấn),
phá bỏ ¼ tổng diện tích trồng bông, giết không sử dụng 6,4 triệu con lợn. Còn
Braxin năm 1933: 22 triệu bao cà phê bị liệng xuống biển và ở Xâylan gần 100 triệu kg
chè bị đốt …
- Sản xuất công nghiệp: sản xuất công nghiệp của thế giới trung bình giảm 38 % ,
riêng Mĩ giảm 46%, Đức chịu tốc độ âm 47%, riêng ở Mĩ đã có 13 vạn công ty bị
phá sản.
- Tài chính: hàng nghìn nhà băng bị đóng cửa. Riêng ở10 vạn công ngân hàng
phá sản chiếm 40% tổng số ngân hàng của thế giới.
5
- Nông nghiệp: Hàng triệu ha cây trồng đã bị phá. Riêng ở Mĩ có 75% nông trại đã
bị phá sản, người ta đã giết hàng triệu con gia súc đổ xuống biển hàng trăm
triệu lít sữa.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế đã đgy nền kinh tế tư bản bước vào tình trạng tiêu điều
và gây nên những hậu quả cực kì nghiêm trọng:
Hàng chục triệu công nhân bị thất nghiệp. Ở Mỹ, năm 1929 có 3% thất nghiệp
trong tổng số người lao động, đến năm 1933 đã lên tới 25%. Hàng triệu nông
dân bị phá sản, đời sống của những người lao động hết sức cùng cực. Số người
việc làm thì bị giới chủ tăng ngày làm việc, giờ làm bị giảm lương. Hệ
quả của điều đó là sự phản kháng của họ và làm bùng nổ phong trào đấu tranh
của quần chúng nhân dân.
Từ năm 1929 - 1932: trong 15 nước bản đã tới 18 nghìn cuộc bãi công
của công nhân với sự tham gia của 8,5 triệu người.
Khủng hoảng kinh tế đã đe dọa nền thống trị của chủ nghĩa tư bản ở các nước
vậy đòi hỏi các nước phải tìm con đường để giải quyết hậu quả của khủng
hoảng kinh tế.
Đối với các nước có nhiều thuộc địa như Anh, Pháp, Mĩ thì tìm cách đưa hàng
sang các nước thuộc địa hoặc rút vốn đầu tư ở các thuộc địa.
Đối với các nước ít thuộc địa như Đức, Nhật thì tìm cách phát xít hóa bộ
máy chính quyền, tăng cường chạy đua v† trang gây lại Chiến tranh thế giới (ở
Đức năm 1933, Hít-le lên cầm quyền thiết lập chế độ phát xít. Nhật năm
1936 chính quyền phát xít c†ng được thiết lập). Sự ra đời của trục phát xít
Ber-lin - Rôma-Tôkyô đã làm cho mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc ngày càng
gay gắt làm bùng nổ nguy cơ của cuộc đại chiến thế giới thứ hai.
- Làm rối lọan lĩnh vực lưu thông: hàng hóa dư thừa, phải phá hủy trong khi nhu
cầu không được đáp ứng, lạm phát.
6
Cùng với viêc phá huỷ như vậy, cuộc sống của người lao động c†ng ngày càng khó
khăn. Sau 7 năm tính từ cuộc khủng hoảng 1929-1933, mà tỉ lệ thất nghiệp của Mĩ vẫn ở
mức 14,6%, mấy năm kế tiếp tuy có giảm nhưng vẫn còn ở mức rất cao.
Mặt khác khủng hoảng kinh tế đã gây ra nạn lạm phát. Khủng hoảng 1974-1975
khủng hoảng 1980-1982 làm cho khu vực Tây Âu phải đối đầu với tỉ lệ lạm phát
mức 2 con số. Tỉ lệ lạm phát ở Tây Đức tuy tháp nhất nhưng c†ng là từ 2,6 ( năm 1960)
lên 6,5% 9 (từ năm 1974-1975 ) Pháp từ 4,1 lên 12,7 , Anh từ 4 lên 20,1 ,Italia 3,9 lên
18.
b) Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản là điều kiện để dẫn tới độc quyền
.
Trong thời kỳ khủng hỏang, cùng với sự phá sản của các nhà tư bản nhỏ là sự lớn
mạnh của các công ty khổng lồ. Việc phá sản việc sát nhập của các liên doanh, tập
đoàn, công ty đã làm cho qúa trình tập trung tư bản ngày càng cao.
Truớc khủng hoảng 1929-1933, Mĩ chỉ49 xí nghiệp có quy mô từ một vạn người trở
lên thì sau khủng hoảng con số này lên tới 343. C†ng Mĩ, đầu thế kỉ 20 chỉ một
công ty số vốn 1 tỷ USD thì đến đầu 1950 là 2 công ty; năm 1974 có 24 trong số 49
công ty quốc tế có số vốn 5 tỷ .
Lợi nhuận của 500 tổ chức siêu độc quyền của Mĩ năm 1972 là 27,8 tỷ USD, năm
1973 là 38,7 tỷ USD còn năm 1974 là năm khủng hoảng thì đã lên tới 43,6 tỷ USD . Tỷ
suất lợi nhuận của 12 công ty “toàn cầu” của tăng từ 11% năm 1970 sau khủng
hoảng là 41% ( năm 1975).
c) Cùng với quá trình tích tụ và tập trung tư bảnviệc gia tăng khoảng cách giàu
nghèo ngày càng lớn và làm mâu thuẫn giữa tư bản và người lao động ngày càng
gay gắt.
7
Khi liệu sản xuất tập trung hầu hết vào tay các ông chủbản thì việc bóc lột
bần cùng hoá công nhân càng diễn ra ráo riết hơn, mạnh mẽ hơn. Lợi dụng thất nghiệp
do nhiều nhà máy đóng cửa, các ông chủ bản hạ thấp tiền luơng nguời công nhân,
tăng cuờng độ làm việc…. Sự tập trung liệu sản xuất vào tay bản càng cao nên
càng tăng thêm sự đối lập lợi ích, sự chênh lệch trong xã hội ngày càng lớn, mâu thuẫn
giữa nhà tư bản và nguời lao động ngày càng gay gắt.
Quan hệ sản xuất, vẫn quan hệ chiếm hữu liệu sản xuất. Khi khủng hoảng xảy
ra, đông đảo quần chúng nhân dân lao động càng điêu đứng, họ càng có ý thức đấu tranh
để thoát khỏi nghèo khổ đó việc tiêu diệt chế độ bản . Còn giai cấp bản
nhà nước bản thì lại bất lực trước những tai hoạ do mình tạo ra. vậy khủng
hoảng làm cho đấu tranh giai cấp diễn ra mạnh mẽ hơn.
III. TÍNH CHU KỲ CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mang
tính chu kỳ. Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau.
Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi hưng
thịnh.
Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. giai đoạn này, hàng
hoá ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân
thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. bản mất khả năng thanh toán các khoản
nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu
thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.
– Tiêu điều: đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếp tục
đi xuống nhưng c†ng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa được đem
bán hạ giá, bản để rỗi nhiều không nơi đầu tư. Trong giai đoạn này, để thoát
khỏi tình trạng bế tắc, các nhà bản còn trả lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách
hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản cố
định làm cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình hình hạ giá. Việc đổi mới tư bản cố định
làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi
chung của nền kinh tế.
8
Phục hồi; giai đoạn các nghiệp được khôi phục mở rộng sản xuất. Công
nhân lại được thu hút vào làm việc; mức sản xuất đạt đến quy c†, vật giá tăng lên,
lợi nhuận của tư bản do đó c†ng tăng lên.
Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất chu kỳ trước
đã đạt được. Nhu cầu khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, nghiệp được mở rộng
xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất
lại vượt quá sức mua của hội. Do đó, lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng
kinh tế mới.
Khủng hoảng kinh tế không chỉ diễn ra trong công nghiệp trong cả nông
nghiệp. Nhưng khủng hoảng trong nông nghiệp thường kéo dài hơn khủng hoảng trong
công nghiệp. Sở dĩ như vậy là do chế độ độc quyền tư hữu vì ruộng đất đã cản trở việc
đổi mới tư bản cố định để thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác, trong nông nghiệp vẫn còn
một bộ phận không nhỏ những người tiểu nông, điều kiện sống duy nhất của họ là tạo ra
nông phgm hàng hóa trên đất canh tác của mình. Vì vậy, họ phải duy trì sản xuất ngay cả
trong thời kỳ khủng hoảng.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, do tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước
tư bản độc quyền nên chu kỳ khủng hoảng ở các nước tư bản sau chiến tranh đã có
những thay đổi sâu sắc, thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
- Thứ nhất, khủng hoảng kinh tế không gay gắt. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai,
khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã làm rung chuyển thế giới tư bản chủ nghĩa, sản xuất
công nghiệp ở các nước tư bản phát triển trong thời gian này đã bị kéo thụt lùi lại hàng
chục năm, chỉ tương đương với sản lượng công nghiệp những năm cuối thế kỷ XIX: Mỹ
giảm 55,6%, Anh giảm 32,2%. Pháp giảm 34,7%. Đức giám 43,5%,... Khủng hoảng
kinh tế 1929-1933 cho đến nay vẫn được coi là vực thẳm trong lịch sử phát triển kinh tế
của chủ nghĩa tư bản. Nhưng từ sau chiến tranh, khủng hoảng kinh tế ở các nước đều
không dữ dội như trước chiến tranh, sản xuất công nghiệp chỉ giảm tương đối nhẹ (mức
giảm cao nhất c†ng chỉ là 21 %, còn thấp nhất có cuộc khủng hoảng chỉ giảm 1,4%).
- Thứ hai, vật giá leo thang trong khủng hoảng. Trước chiến tranh, khi “khủng hoảng
thừa” nổ ra vật giá giảm sút rất nhanh và do đó tỷ suất lợi nhuận c†ng giảm xuống.
Trong cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933, vật giá ở Mỹ giảm 23,6%, Anh giảm
15,7%, Đức giảm 23,4%, Nhật giảm 26,4%. Sau chiến tranh, khi khủng hoảng kinh tế
nổ ra vật giá chỉ giảm nhẹ, sang đến thập kỷ 60 của thế kỷ XX vật giá lại tăng lên và đặc
biệt là sang thập kỷ 70 ngay trong thời kỳ khủng hoảng vật giá leo thang mạnh, tốc độ
tăng giá tái mức hai con số ở nhiều nước. Đây là hiện tượng chưa hề có trong lịch sử
phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kỳ trước chiến tranh.
- Thứ ba, sự xuất hiện của các cuộc khủng hoảng trung gian, khủng hoảng cơ cấu.
9
+ Khủng hoảng trung gian là cuộc khủng hoảng nhẹ xảy ra giữa hai cuộc khủng hoảng
lớn. Ví dụ: ở Mỹ trong khoảng thời gian từ cuộc khủng hoảng 1948-1949 đến cuộc
khủng hoảng 1957-1958 có một cuộc khủng hoảng trung gian là khủng hoảng 1953-
1954:từ cuộc khủng hoảng 1957-1958 đến khủng hoảng 1969-1970 có một cuộc khủng
hoảng trung gian là khủng hoảng 1960-1961.
Trong cuộc khủng hoảng trung gian 1953 – 1954, đầu tư của Mỹ giảm nhẹ khoảng
3,2%, nguyên nhân là do chiến tranh Triều Tiên chấm dứt, chính phủ Mỹ cắt giảm chi
tiêu quân sự.
Cuộc khủng hoảng trung gian 1960-1961 xảy ra khi nền kinh tế Mỹ vẫn chưa khắc phục
được toàn bộ hậu quả của khủng hoảng 1957-1958, trước cuộc khủng hoảng này đầu tư
vẫn chưa trở lại mức năm 1957. Đầu tư giảm nhẹ chỉ khoảng 4,8%.
+ Khủng hoảng cơ cấu là cuộc khủng hoảng xảy ra trong từng ngành, từng lĩnh vực
riêng biệt, như: khủng hoảng năng lượng, nguyên liệu, khủng hoảng dầu mỏ, khủng
hoảng tiền tệ.
Khủng hoảng dầu mỏ thế hiện ở chỗ các nước sản xuất dầu mỏ hạn chế xuất khgu dầu,
giảm bớt cung ứng, đgy giá dầu lên cao làm chao đảo kinh tế ở các nước nhập khgu dầu
mỏ. Khủng hoảng dầu mỏ lần 1 vào năm 1973- 1974 giá dầu tăng 287%, từ 3,01 USD/
thùng lên 11,65 USĐ/thùng. Khủng hoảng dầu mỏ lần 2 vào năm 1979-1980 giá dầu
tăng 223% từ 12,7 USD thùng lên 41 USD/thùng.
Trong những năm gần đây, giá dầu trên thế giới diễn biến rất bất thường. Tháng 7 -
2008, giá dầu thế giới leo lên mức kỷ lục 147 USD/thùng sau đó giảm dần và chạm đáy
ở ngưỡng 32 USD/thùng do tác động từ sự suy giảm nhu cầu thế giới mà cuộc khủng
hoảng toàn cầu gây ra.
Khủng hoảng tiền tệ được dùng để chỉ hiện tượng giá trị đối ngoại của đơn vị tiền tệ
quốc gia bị suy giảm (nói cách khác là mất giá so với ngoại tệ) một cách nghiêm trọng
và nhanh chóng. Chính phủ trở nên vô cùng khó khăn khi kiểm soát tỷ giá hối đoái và
khi ngân hàng trung ương cố gắng can thiệp tỷ giá để bảo vệ giá trị tiền tệ thì dự trữ
ngoại hối của quốc gia bị mất đi ở quy mô lớn.
Đã có một số mô hình khủng hoảng tiền tệ được nghiên cứu, một trong số đó là những
nhà đầu cơ tấn công vào tiền tệ của một quốc gia và khi họ có nhiều tiền hơn ngân hàng
trung ương của quốc gia đó thì khủng hoảng tiền tệ sẽ xảy ra.
Kể cả những nền kinh tế lớn như Mỹ c†ng phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng tiền tệ
trong bối cảnh thế giới hiện nay. Từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây, đồng
đôla Mỹ đã trải qua hai thời kỳ nghiêng ngửa kịch liệt. Lần đầu vào cuối những năm 70,
tỷ giá hối đoái đôla Mỹ tụt xuống thấp điểm nhất trong lịch sử, lần thứ hai xảy ra vào
10
năm 1985-1987 đồng đôla Mỹ sụt giá kéo dài trong 2 năm. Đồng đôla Mỹ mất giá đã hạ
thấp dự trữ đôla Mỹ của các nước, khiến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế lâm vào
tình trạng hỗn loạn, không ổn định.
Nhìn vào diễn biến lịch sử thì từ năm 1970, chu kỳ tăng, giảm giá của đôla Mỹ là từ 5-7
năm cho mỗi một quá trình. Theo quy luật đó thì sau khi đôla Mỹ lên giá tới mức kỷ lục
vào năm 2001 (chỉ số đôla Mỹ lúc đó đạt gần 122 điểm), đôla Mỹ bắt đầu giảm giá so
với các loại tiền tệ mạnh khác của thế giới vào đầu năm 2002. Từ thời điểm đó đến nay,
đôla Mỹ đã mất giá được trên 10 năm (chỉ số đôla Mỹ thấp nhất tháng 4-2008 gần 69
điểm). Tuy nhiên, ngoài sự giảm giả mang tính chu kỳ, sự giảm giá của đồng đôla Mỹ
còn có nguyên nhân là do bị cạnh tranh bởi đồng Euro và một số đồng tiền mạnh khác.
Mặc khác, cuộc khủng hoảng năm 2008 bắt đầu từ Mỹ cho đến nay vẫn chưa có dấu
hiệu phục hồi. Vì vậy, diễn biến tỷ giá của đồng đôla Mỹ trên thị trường tiền tệ thế giới
chắc chắn còn phức tạp
.
- Thứ tư, dấu hiệu để nhận biết tiêu điều và phồn thịnh không rˆ ràng.
Đây c†ng kết quả tất yếu của sự xuất hiện các cuộc khủng hoảng trung gian, khủng
hoảng cơ cấu. Các cuộc khủng hoảng này đã làm giảm biên độ dao động của chu kỳ tái
sản xuất, vậy rất khó phân định ranh giới giữa tiêu điều phục hồi c†ng như ranh
giới giữa phồn thịnh và khủng hoảng. Có khi nền kinh tế chỉ xuất hiện sự suy thoái nhẹ
sau đó lại thoát ra rất nhanh và kinh tế lại tăng trưởng trở lại.
V. NHỮNG GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ VỚI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
Trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động
ngược trở lại lực lượng sản xuất, khi nó phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất thì
nó sẽ giúp cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, khi nó không phù hợp thì nó biến
thành trở ngại lực lượng sản xuất. Trong quá trình sản xuất con người không ngừng tiếp
thu thêm kinh nghiệm sản xuất, không ngừng cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật. Lực
lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nào đó vượt ra ngoài khổ của quan hệ sản
xuất cho nên quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất lượng sản xuất
Quan hệ cung cầu là quan hệ giữa người bán và người mua, những người sản xuất
và những người tiêu dùng là những quan hệ có vai trò quan trọng trong kinh tế hàng
hóa. Không phải chỉ ở giá cả ảnh hưởng tới cung cầu, mà ảnh hưởng tới việc xác định
giá cả trên trường thị. Khi cung lớn hơn cầu, người bán phải giảm giá cả, giá cả có thể
thấp hơn giá trị.
Giữa cung và cầu về hàng hóa phải có sự thích ứng cần thiết khách quan về hình
thái hiện vật và hình thái giá trị. Do đó, quan hệ cung cầu điều tiết được sự chênh lệch
giữa giá cả thị trường và giá trị thị trường. Sự lên xuống của giá cả trường lại điều tiết
quan hệ cung cầu, làm cho nền sản xuất có được những tỷ lệ tương đối. Trước khi đạt
11
tới sự tương đối thì xã hội lãng phí nhiều sức lực và của cải. Vì vậy xã hội đòi hỏi phải
có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng, một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế
thị trường.
Các nhà tư vấn tìm kiếm lối thoát bằng cách giảm bớt chi phí sản xuất ra có bán
hàng hóa với giá vẫn thu được lợi nhuận. Họ ra sức tăng cường bóc lột công nhân, lợi
dụng tình hình thất nghiệp để hạ thấp tiền lương, kéo dài ngày lao động nâng cao cường
độ lao động. Biện pháp quan trọng là áp dụng kỹ thuật để cải tiến bằng cách đổi mới
hàng loạt máy móc thiết bị.
V. LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến cơ cấu hàng xuất khẩu
của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khgu năm 2008 của các loại hàng hoá đều tăng so với năm 2007,
chủ yếu do giá trên thị trường thế giới tăng. Tuy nhiên cơ cấu hàng xuất khgu của năm
2008 về cơ bản không khác nhiều so với những năm trước, do cuộc khủng hoảng bùng
nổ vào những tháng cuối năm, còn các đơn hàng thường được thực hiện từ trước. Trong
cơ cấu xuất khgu Việt nam, dầu thô luôn chiếm vị trí dẫn đầu về giá trị xuất khgu. Khi
nền kinh tế thế giới suy giảm kéo theo sự suy giảm nhanh chóng về nhu cầu xăng dầu,
giá dầu thô đã giảm nhanh chóng. Ngoài dầu thô, các mặt hàng xuất khgu chủ lực của
Việt Nam là những ngành hàng thâm dụng lao động, đặc biệt là nông sản và thủy sản.
Một đặc điểm chính của thị trường nông sản (và thủy sản) và c†ng là thách thức lớn
nhất cho xuất khgu Việt Nam là tính biến động cao của giá cả.
12
Bảng 5.1 Cơ cấu các mặt hàng xuất khgu từ năm 2008 – 2010 (%)
2008 2009 2010
Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản 37,0 29,4 27,2
Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
39,8 42,8 46,0
Hàng nông lâm thủy sản
22,6 23,2 22,8
Vàng phi tiền tệ
0,6 4,6 4,0
Nguồn : Tổng hợp từ Niên giám thống kê năm 2009( NXB Thống kê) và website của tổng cục thống
Ngoài tác động trực tiếp của khủng hoảng kinh tế dẫn tới nhu cầu sụt giảm, một
số mặt hàng xuất khgu chủ lực gặp khó khăn do phải đối mặt với những rào cản thương
mại mới do các nước đưa ra để hạn chế nhập khgu trong tình hình nền kinh tế của họ
đang gặp khó khăn. Một điều dễ nhận thấy là các hành vi bảo hộ ngày càng tinh vi, nhất
là tại các thị trường xuất khgu lớn của Việt Nam.
Năm 2009, khi thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã bắt đầu chịu tác động
mạnh khủng hoảng, thì có thể nhận thấy rˆ nhất về sự giảm sút xuất khgu của Việt
Nam. Đầu tiên vẫn phải kể đến dầu thô, măt hàng xuất khgu chủ lực của Việt Nam đã
có sự giảm sút đáng kể trong tỷ trọng các mặt hàng xuất khgu của Việt Nam do cả hai
nguyên nhân là giảm lượng xuất khgu và giảm giá xuất khgu. Bức tranh tương tự về
xuất khgu dầu c†ng được tái hiện lại trong năm 2010 do chính sách của nhà nước dành
một phần lượng dầu thô khai thác cho nhà máy lọc dầu trong nước.
Thứ hai là mặt hàng dệt may. Có thể nhận thấy rằng ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế đến xuất khgu hàng dệt may là không lớn, một phần do dệt may thuộc nhóm các
mặt hàng phục vụ tiêu dùng mang tính thiết yếu. Đây là mặt hàng có cầu ít nhạy cảm
đối với thu nhập người tiêu dùng, do đó khi thu nhập của người tiêu dùng thay đổi,
lượng cầu về mặt hàng này thay đổi không đáng kể. Thậm chí có thể thấy rằng, tỷ trọng
13
của mặt hàng này trong tổng kim ngạch xuất khgu tăng nhẹ, do khủng hoảng thế giới
làm người dân các nước cắt giảm
14
chi tiêu, nên những mặt hàng giá rẻ của Việt Nam chiếm ưu thế trên thị trường
thế giới.
Tương tự như hàng dệt may, thì mặt hàng da giày c†ng không bị ảnh hưởng quá
nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Thay vì những ảnh hưởng do nhu cầu
giảm, thì việc giảm tỷ trọng trong tổng kim ngạch của mặt hàng này chủ yếu là do
những tác động tiêu cực của các hàng rào kĩ thuật như thuế chống bán phá giá.
Về mặt hàng thủy sản, các bạn hàng lớn trong ngành thủy sản của Việt Nam là EU,
Nhật Bản, Hoa Kỳ và Hàn Quốc. Năm 2008, tổng kim ngạch xuất khgu hàng thủy sản
của Việt Nam tăng 18% so với năm 2007, đạt 4,5 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất khgu
thủy sản năm 2009 đạt 4,207 tỷ USD, giảm 6,7% so với năm 2008. Năm 2009, kim
ngạch mặt hàng này đạt 5,01 tỷ USD. Tỷ trọng của mặt hàng này có xu hướng giảm do
tác động của khủng hoảng thế giới tuy nhiên lượng giảm không nhiều vì đây là mặt
hàng có cầu ít co giãn theo thu nhập, do đó ít chịu ảnh hưởng của suy thoái kih tế.
Bên cạnh đó, gạo nổi lên như một điểm sáng trong bức tranh xuất khgu của nước nhà
khi tỷ trọng tăng mạnh do ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng lương thực.
15
Bảng 5.2 Tỷ trọng các mặt hàng xuất khgu chủ yếu của Việt Nam
2008 2009 2010
Thủy sản 7,25% 7,43% 6,99%
Gạo 4,61% 4,70% 4,47%
Dầu thô 16,61% 10,97% 6,92%
Cao su 2,54% 2,12% 3,33%
Gỗ và sản phgm gỗ 4,42% 4,51% 4,79%
Dệt, may 14,48% 15,91% 15,64%
Giày dép 7,47% 7,10% 7,15%
Điện tử, máy tính 4,30% 4,90% 5,01%
Nguồn:Tổng hợp từ Niên giám thống kê 2009 và website của Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn/
Điểm nổi bật về cơ cấu xuất khgu của Việt Nam sau khủng hoảng là sự giảm về tỷ
trọng của nhóm hàng công nghiệp và khoáng sản đặc biệt là dầu thô và than đá và có sự
tăng lên rˆ rệt của nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Một điểm c†ng rất
đáng lưu ý nữa trong xuất khgu của Việt Nam là trước năm 2008, Việt Nam xuất khgu
rất hạn chế vàng trang sức sang Thụy Sỹ, nơi thống trị ngành công nghiệp luyện kim
vàng toàn thế giới, biến các loại trang sức, từ nhẫn tới cột nến thành vàng thỏi tiêu
chugn quốc tế. Nhưng điều đó đã thay đổi trong 2 năm 2009-2010, khi Việt Nam trở
thành nguồn nhập khgu vàng lớn nhất của Thụy Sỹ, phần lớn trong số đó được chuyển
tới nung chảy tại các nhà máy tinh chế hàng đầu. Năm 2009, theo cơ quan Hải quan
Thụy Sỹ, Việt Nam xuất khgu 54 tấn, thu về khoảng 2 tỷ USD, từ mức 3,2 tấn trong
năm 2008. Số liệu này không bao gồm vàng thỏi, loại thường được coi như "vàng tiền
tệ". Năm 2010, Việt Nam đã xuất khgu gần 61 tấn kim loại quý - chủ yếu là vàng sản
phgm - tới Thụy Sỹ, thu về 2,8 tỷ US
16
VI. KẾT LUẬN
Khủng hoảng kinh tế chu kì trong chủ nghĩa tư bản là điều không thể tránh
khỏi. Tuy chủ nghĩa tư bản đã có được nhiều kinh nghiệm rút ra từ các cuộc
khủng hoảng trước đó nên ngày nay các cuộc khủng hoảng thường được khắc
phục trong thời gian ngắn và mức độ thiệt hại được khống chế nhưng khủng
hoảng giống như một loại virus đang từng bước chuyển biến để chống lại thuốc
kháng sinh. Bằng chứng chính là cuộc khủng hoảng 2008 đã làm cho nhiều nước
trên thế giới phải điêu đứng. Ít ai có thể ngờ rằng nền kinh tế số một thế giới là
Mỹ lại có thể sụp đổ nhanh đến thế và hậu quả to lớn mà thế giới phải gánh chịu.
Việt Nam c†ng chịu rất nhiều ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng 2008. Tuy nhiên
do Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân nên việc
quản lý kinh tế xã hội đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Nhà nước ta đã làm
công tác quản lý rất tốt vì vậy việc ngăn chặn và khắc phục những hậu quả của
khủng hoảng có nhiều thuận lợi. Hiện nay nền kinh tế của nước ta đang khởi sắc
và có những dấu hiệu đầy khả quan trong một tương lai gần.
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Học tập 24h(2017), Các chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa
tư bản:
https://hoctap24h.vn/cac-chu-ky-cua-khung-hoang-kinh-te-trong-chu-
nghia-tu-ban
- Lý luận chính trị (2018), Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản nhìn từ lý
luận của C.Mác và thực tiễn thế giới ngày nay:
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2744-
khung-hoang-cua-chu-nghia-tu-ban-nhin-tu-ly-luan-cua-cmac-va-thuc-
tien-the-gioi-ngay-nay.html
- Tuyên giáo (2018), Sức sống của học thuyết Mác, nền tảng lý luận của con
đường phát triển Việt Nam:
http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/suc-song-cua-hoc-thuyet-mac-nen-
tang-ly-luan-cua-con-duong-phat-trien-viet-nam-115727
- Khoa lý luận chính trị, Đại học Duy Tân (2015), Khủng hoảng kinh tế
trong chủ nghĩa tư bản:
https://kmacle.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail/vn/106/893/quan-diem-
cua-chu-nghia-maclenin-ve-khung-hoang-kinh-te-trong-cntb
- Giáo trình “Kinh tế chính trị Mác Lênin”, Đại học Kinh tế Quốc dân
(2019)
- Sách “Kinh tế các nước công nghiệp chủ yếu sau chiến tranh thế giới lần
thứ 2”
1
- Binance Academy (2021), cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008:
https://academy.binance.com/vi/articles/the-2008-financial-crisis-
explained
- Argoinfo (2012), Khủng hoảng toàn cầu ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam,
thực trạng và giải pháp:
http://agro.gov.vn/vn/tID22923_Khung-hoang-toan-cau-anh-huong-kinh-
te-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.html
2
| 1/20

Preview text:

Lời nói đầu 1
I. Khái niệm khủng hoảng kinh 2
tế………………………………………….....
II. Bản chất, nguyên nhân và hậu quả của khủng hoảng kinh tế trong chủ 3 nghĩa tư 3
bản……………………………………............................................... 4 1. Bản 5
chất…………………………………………………………..... 8 2. Nguyên 11
nhân……………………………………………………….. 12 3. Hậu 16
quả…………………………………………………………….. 16
III. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh 16
tế…………………………………….
IV. Những giải pháp ứng phó với khủng hoảng kinh tế……...........................
V. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam……………………………………………..
VI. Kết luận………………………………………………………………….
VII. Tài liệu tham khảo……………………………………………………… LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2008, thế giới vừa trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế chưa từng có
trong lịch sử và hậu quả của nó vẫn còn kéo dài cho đến tận ngày nay.Cuộc khủng
hoảng bắt đầu từ Mỹ và không lâu sau lan rộng ra khắp thế giới.Không ai có thể tưởng
tượng được nền kinh tế số 1 thế giới lại suy sụp nhanh đến vậy và những hậu quả to lớn
mà nó ảnh hưởng đến thế giới trong đó có Việt Nam. Chính việc này đã cho em nguồn
cảm hứng để chọn đề tài “khủng hoảng kinh tế”.
Bài viết được chia thành 5 phần chính : khủng hoảng kinh tế là gì; bản chất,
nguyên nhân, hậu quả; tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế; những giải pháp ứng phó
và liên hệ thực tiễn ở Việt Nam. 1
I. KHÁI NIỆM KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
Khủng hoảng kinh tế là những hiện tượng kinh tế bất ổn định kéo dài mà không
điều chỉnh được của quá trình tái sản xuất trong nền kinh tế gây ra những chấn động và
hậu quả kinh tế xã hội trong quy mô rộng hoặc hẹp nó có thể diễn ra trong mọi lĩnh vực
của nền sản xuất xã hội: tiền tệ khủng hoảng dầu mỏ khủng hoảng bất động sản.
Khi khủng hoảng nổ ra hàng hóa không tiêu thụ được sản xuất bị thu hẹp nhiều
doanh nghiệp bị vỡ nợ phá sản người dân thất nghiệp sức mua giảm thị trường rối loạn.
Khủng hoảng vào năm 1825 được coi là thảm họa tài chính toàn thế giới đầu tiên. Sau khi cuô e c diễu hành giành đô e c lâ e
p đã lan đến Mỹ Latin, châu Âu đã nhâ e p thêm vốn
tư bản cho lục địa đó, dẫn đến xuất khgu và các món nợ quốc gia của những nước cô e ng
hòa mới này tăng lên. Số vàng và bạc kiếm được ở Mỹ đã chuyển về cho nước Anh. Sự
đầu cơ đông đảo vào các kim loại qúy hiếm đã làm cạn kiê e
t các ngân hàng nước Anh và
dẫn đến phá sản thị trường vốn. Khủng hoảng đã lan ra phần lớn lãnh thổ Tây Âu và Mỹ Latin.
Khủng hoảng trong thị trường chứng khoán năm 1836-1837 đã bao phủ những
quốc gia Anh, Đức và Hà Lan, gắn bó với những vốn đầu tư vô căn cứ được góp vào sự
phát triển của những đường xe lửa. Và kết qủa là toàn bô e hê e thống ngân hàng những
nước đó bị tổn thương nghiêm trọng. Vào năm 1857 mô e
t trong những khủng hoảng có quy mô lớn nhất thế kỷ 19 bùng
nổ. Những công ty đường xe lửa bị phá sản hoàn toàn dẫn đến sự sụp đổ của hê e thống
ngân hàng quốc gia nhiều nước, rồi đến sự sâ e p đổ của hê e
thống ngân hàng toàn châu Âu.
Lý do khủng hoảng tiền tê e
năm 1861 ở Mỹ là cuô ec nô e
i chiến giữa miền Nam và
miền Bắc. Nhà nước đã không thể thanh toán được văn tự nợ sau khi vay ngân hàng.
Khủng hoảng đã xuất hiê e
n và kéo dài đến cuối cuô e c chiến tranh. 2
Vào năm 1914 khủng hoảng tài chính tiếp theo bùng lên. Nhà nước Mỹ và phần
lớn những nước châu Âu đã bán tống bán tháo ngân phiếu nhiều quốc gia khác để cung
cấp cho những hoạt đô eng quân sự của nước mình. Thời kỳ giữa hai cuô e
c chiến tranh thế giới hoàn toàn là khủng hoảng kinh tế. Thời kỳ Đình Trê e
năm 1920-1922 và giai đoạn Đình Đốn Vĩ Đại năm 1929-1933 đã tác đô e ng
đến đời sống mọi giới con người. Mùng 4 tháng 10 năm 1929 (“Thứ năm đen”), ở thị
trường chứng khoán Niu-Yoóc, giá chứng khoán giảm đi 60-70%.
Cùng lúc đó, nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng của Mỹ đã sụp đổ nhanh
chóng. Đến cuối tháng, những người giữ cổ phiếu bị mất hơn 15 tỷ đô-la, còn đến cuối
năm giá chứng khoán sụt xuống 40 tỷ đô-la – số tiền khổng lồ vào thời điểm đó. Ngay
tiếp sau đó, khủng hoảng bùng lên cả ở châu Âu. Vào năm 1933, ở những nước phát
triển có tới hơn 30 triê e
u người chính thức không có viê e c làm.
Khủng hoảng năm 1957-1958 lan tràn ra Mỹ, Canada và những nước Tây Âu. Sản xuất công nghiê e
p thế giới giảm đi 4%. Kinh tế Mỹ vào năm 1973-1974 bị thu hẹp lại và
giống như trong thời kỳ Đình Đốn Vĩ Đại. Khủng hoảng bao trùm toàn bô e châu Âu. Ở
Anh giá chứng khoán giảm đi 56%. Tình hình còn trầm trọng thêm vì khủng hoảng dầu mỏ kèm theo, giá mô e
t thùng dầu tăng từ 3 lên thành 12 đô-la.
Ngày 19 tháng 10 năm 1987 được ghi nhớ ở lịch sử Mỹ là “Thứ hai đen tối”.
Trong vòng mô et ngày, chỉ số quỹ Dow Jones Industrial sụt đi 22,6%. Tiếp theo thị
trường Canada và Úc bị sụt giảm, còn sở giao dịch Hồng Kông nghỉ viê e c trong vòng mô e t tuần.
Vào năm 1994-1995, khủng hoảng nổ ra ở Mêhicô, hai năm sau thị trường quỹ
của châu Á sụp đổ. Các chuyên gia kết luâ e
n rằng khủng hoảng ở châu Á làm GDP thế
giới giảm 2 ngàn tỷ đô-la. Mô e
t năm sau Nga đã phải tuyên bố lạm phát và chấp nhâ e n
buông xuôi, vì món nợ nhà nước quá lớn. Thị giá đồng Rúp sụt giảm, còn những người
đầu tư quay lưng lại với kinh tế Nga.
Khủng hoảng năm 2008 là khủng hoảng đầu tiên đối với chúng ta, nó tác động
đến nhiều mặt sản xuất trong nền kinh tế của Việt Nam như bất động sản, ngân hàng, lạm phát,....
Từ những điểm mốc trong lịch sử người ta tính ra được khủng hoảng kinh tế
trong chủ nghĩa tư bản mang tính chu kì, cứ khoảng từ 8 đến 12 năm, nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa lại phải qua một cuộc khủng hoảng.
II. BẢN CHẤT, NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA KHỦNG
HOẢNG KINH TẾ TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1. Bản chất 3
Trong sản xuất hàng hoá giản đơn, sự phát triển chức năng làm phương tiện thanh
toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng khủng hoảng kinh tế. Trong chủ nghĩa tư bản
khi nền sản xuất đã xã hội hoá cao độ, khủng hoảng kinh tế trở thành hiện thực. Hình
thức đầu tiên và phổ biến của khủng hoảng kinh tế trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
là khủng hoảng sản xuất "thừa". Khi khủng hoảng nổ ra hàng hoá không tiêu thụ được,
sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị
trường bị rối loạn. Tình trạng thừa hàng hoá không phải là so với nhu cầu của xã hội, mà
là "thừa" so với sức mua có hạn của quần chúng lao động. 2. Nguyên nhân
Nguyên nhân bắt nguồn từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là
mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này
biểu hiện ra thành ba mâu thuẫn sau:
+ Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa
học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội: Thời kì đầu con người
chỉ sản xuất ra một lượng hàng hóa đủ để thỏa mãn cho nhu cầu của bản thân, sản xuất
để trao đổi chưa phát triển, vì vậy mà trao đổi hạn chế, thị trường hạn chế, phương thức
sản xuất ổn định, sự đóng cửa có tính chất địa phương đối với thế giới bên ngoài, sự
thống nhất có tính chất địa phương ở trong nước, phường hội ở thành thị. Nhưng cùng
với sự mở rộng của sản xuất hàng hóa và nhất là cùng với sự xuất hiện của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa thì những quy luật trước đó bị phá hủy. Trong từng xí nghiệp,
lao động của công nhân được tổ chức và phục tùng ý chí duy nhất của nhà tư bản. Còn
trong xã hội, do dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, trạng thái
vô chính phủ bao trùm tất cả. Các nhà tư bản tiến hành sản xuất mà không nắm được
nhu cầu của xã hội, quan hệ giữa cung và cầu bị rối loạn, quan hệ tỉ lệ giữa các ngành
sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng đến một mức độ nào đó thì nổ ra khủng hoảng kinh tế.
+ Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư bản với sức
mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hoá: Để theo đuổi lợi nhuận siêu
ngạch, các nhà tư bản phải ra sức mở rộng sản xuất, cải tiến kĩ thuật, cạnh tranh gay gắt.
Lao động thủ công của nhiều người sẽ bị thay thế bằng một vài người sử dụng máy móc.
Hậu quả là có một bộ phận không nhỏ người công nhân bị thất nghiệp. Quá trình đó
c†ng là quá trình bần cùng hoá nhân dân lao động, làm giảm bớt một cách tương đối sức
mua của quần chúng, làm cho sức mua lạc hậu so với sự phát triển của sản xuất. Cung
và cầu trong xã hội mất cân đối nghiêm trọng, dẫn đến khủng hoảng thừa hàng hóa trên
thị trường. Giá trị thặng dư mà các nhà tư bản kiếm được từ việc nâng cao công nghệ
sản xuất chỉ là lý thuyết vì hàng hóa của họ không tiêu thụ được, quy trình tiền- hàng- 4
tiền’ bị gián đoạn, giá trị thặng dư chỉ là một thứ hão huyền nhìn thấy được mà không
thể sở hữu, có được nó.
+Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê: Đặc điểm
của chủ nghĩa tư bản là hai yếu tố của sản xuất tách rời nhau: tư liệu sản xuất tách rời
người trực tiếp sản xuất. Sự tách rời đó biểu hiện rˆ nhất trong khủng hoảng kinh tế.
Trong khi tư liệu sản xuất bị xếp lại, han rỉ, mục nát thì người lao động lại không có
việc làm. Một khi tư liệu sản xuất và sức lao động không kết hợp được với nhau thì
guồng máy sản xuất tư bản chủ nghĩa tất nhiên bị tê liệt.
Có thể thấy 3 mâu thuẫn trên liên hệ với nhau một cách có quy luật, chúng cùng
thúc đgy nhau tạo nên khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản. 3. Hậu quả
a) Phá hoại lực lượng sản xuất và làm rối loạn lĩnh vực lưu thông .
- Phá hoại lực lượng sản xuất: phá hủy các tư liệu sản xuất, hàng hóa tiêu dùng.
Khủng hoảng năm 1929-1933 là một ví dụ rˆ nét mà mỗi lần nhắc lại người ta còn
thấy sợ: 13 vạn công ty phá sản, sản lượng thép sụt 76%, sản lượng sắt sụt 79,4%, sản
lưọng ôtô sụt 80%. Phá huỷ một khối lượng khổng lồ các các phương tiện sản xuất và
hàng hoá tiêu dùng. Năm 1931, ở Mĩ người ta đã phá huỷ những lò cao có thể sản xuất
ra 1 triệu tấn thép trong một năm, đánh dắm 124 tàu biển (trọng tải khoảng 1 triệu tấn),
phá bỏ ¼ tổng diện tích trồng bông, giết và không sử dụng 6,4 triệu con lợn. Còn ở
Braxin năm 1933: 22 triệu bao cà phê bị liệng xuống biển và ở Xâylan gần 100 triệu kg chè bị đốt …
- Sản xuất công nghiệp: sản xuất công nghiệp của thế giới trung bình giảm 38 % ,
riêng Mĩ giảm 46%, Đức chịu tốc độ âm 47%, riêng ở Mĩ đã có 13 vạn công ty bị phá sản.
- Tài chính: hàng nghìn nhà băng bị đóng cửa. Riêng ở Mĩ 10 vạn công ngân hàng
phá sản chiếm 40% tổng số ngân hàng của thế giới. 5
- Nông nghiệp: Hàng triệu ha cây trồng đã bị phá. Riêng ở Mĩ có 75% nông trại đã
bị phá sản, người ta đã giết hàng triệu con gia súc và đổ xuống biển hàng trăm triệu lít sữa.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế đã đgy nền kinh tế tư bản bước vào tình trạng tiêu điều
và gây nên những hậu quả cực kì nghiêm trọng:
Hàng chục triệu công nhân bị thất nghiệp. Ở Mỹ, năm 1929 có 3% thất nghiệp
trong tổng số người lao động, đến năm 1933 đã lên tới 25%. Hàng triệu nông
dân bị phá sản, đời sống của những người lao động hết sức cùng cực. Số người
có việc làm thì bị giới chủ tăng ngày làm việc, giờ làm và bị giảm lương. Hệ
quả của điều đó là sự phản kháng của họ và làm bùng nổ phong trào đấu tranh
của quần chúng nhân dân.
Từ năm 1929 - 1932: trong 15 nước tư bản đã có tới 18 nghìn cuộc bãi công
của công nhân với sự tham gia của 8,5 triệu người.
Khủng hoảng kinh tế đã đe dọa nền thống trị của chủ nghĩa tư bản ở các nước
vì vậy đòi hỏi các nước phải tìm con đường để giải quyết hậu quả của khủng hoảng kinh tế.
Đối với các nước có nhiều thuộc địa như Anh, Pháp, Mĩ thì tìm cách đưa hàng
sang các nước thuộc địa hoặc rút vốn đầu tư ở các thuộc địa.
Đối với các nước có ít thuộc địa như Đức, Nhật thì tìm cách phát xít hóa bộ
máy chính quyền, tăng cường chạy đua v† trang gây lại Chiến tranh thế giới (ở
Đức năm 1933, Hít-le lên cầm quyền thiết lập chế độ phát xít. Ở Nhật năm
1936 chính quyền phát xít c†ng được thiết lập). Sự ra đời của trục phát xít
Ber-lin - Rôma-Tôkyô đã làm cho mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc ngày càng
gay gắt làm bùng nổ nguy cơ của cuộc đại chiến thế giới thứ hai.
- Làm rối lọan lĩnh vực lưu thông: hàng hóa dư thừa, phải phá hủy trong khi nhu
cầu không được đáp ứng, lạm phát. 6
Cùng với viêc phá huỷ như vậy, cuộc sống của người lao động c†ng ngày càng khó
khăn. Sau 7 năm tính từ cuộc khủng hoảng 1929-1933, mà tỉ lệ thất nghiệp của Mĩ vẫn ở
mức 14,6%, mấy năm kế tiếp tuy có giảm nhưng vẫn còn ở mức rất cao.
Mặt khác khủng hoảng kinh tế đã gây ra nạn lạm phát. Khủng hoảng 1974-1975
và khủng hoảng 1980-1982 làm cho khu vực Tây Âu phải đối đầu với tỉ lệ lạm phát ở
mức 2 con số. Tỉ lệ lạm phát ở Tây Đức tuy tháp nhất nhưng c†ng là từ 2,6 ( năm 1960)
lên 6,5% 9 (từ năm 1974-1975 ) Pháp từ 4,1 lên 12,7 , Anh từ 4 lên 20,1 ,Italia 3,9 lên 18.
b) Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản là điều kiện để dẫn tới độc quyền .
Trong thời kỳ khủng hỏang, cùng với sự phá sản của các nhà tư bản nhỏ là sự lớn
mạnh của các công ty khổng lồ. Việc phá sản và việc sát nhập của các liên doanh, tập
đoàn, công ty đã làm cho qúa trình tập trung tư bản ngày càng cao.
Truớc khủng hoảng 1929-1933, Mĩ chỉ có 49 xí nghiệp có quy mô từ một vạn người trở
lên thì sau khủng hoảng con số này lên tới 343. C†ng ở Mĩ, đầu thế kỉ 20 chỉ có một
công ty có số vốn 1 tỷ USD thì đến đầu 1950 là 2 công ty; năm 1974 có 24 trong số 49
công ty quốc tế có số vốn 5 tỷ .
Lợi nhuận của 500 tổ chức siêu độc quyền của Mĩ năm 1972 là 27,8 tỷ USD, năm
1973 là 38,7 tỷ USD còn năm 1974 là năm khủng hoảng thì đã lên tới 43,6 tỷ USD . Tỷ
suất lợi nhuận của 12 công ty “toàn cầu” của Mĩ tăng từ 11% năm 1970 sau khủng hoảng là 41% ( năm 1975).
c) Cùng với quá trình tích tụ và tập trung tư bản là việc gia tăng khoảng cách giàu
nghèo ngày càng lớn và làm mâu thuẫn giữa tư bản và người lao động ngày càng gay gắt. 7
Khi tư liệu sản xuất tập trung hầu hết vào tay các ông chủ tư bản thì việc bóc lột và
bần cùng hoá công nhân càng diễn ra ráo riết hơn, mạnh mẽ hơn. Lợi dụng thất nghiệp
do nhiều nhà máy đóng cửa, các ông chủ tư bản hạ thấp tiền luơng nguời công nhân,
tăng cuờng độ làm việc…. Sự tập trung tư liệu sản xuất vào tay tư bản càng cao nên
càng tăng thêm sự đối lập lợi ích, sự chênh lệch trong xã hội ngày càng lớn, mâu thuẫn
giữa nhà tư bản và nguời lao động ngày càng gay gắt.
Quan hệ sản xuất, vẫn là quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất. Khi khủng hoảng xảy
ra, đông đảo quần chúng nhân dân lao động càng điêu đứng, họ càng có ý thức đấu tranh
để thoát khỏi nghèo khổ và đó là việc tiêu diệt chế độ tư bản . Còn giai cấp tư bản và
nhà nước tư bản thì lại bất lực trước những tai hoạ mà do mình tạo ra. Vì vậy khủng
hoảng làm cho đấu tranh giai cấp diễn ra mạnh mẽ hơn.
III. TÍNH CHU KỲ CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mang
tính chu kỳ. Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau.
Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
– Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn này, hàng
hoá ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân
thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản
nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu
thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.
– Tiêu điều: đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếp tục
đi xuống nhưng c†ng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa được đem
bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có nơi đầu tư. Trong giai đoạn này, để thoát
khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn trả lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách
hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản cố
định làm cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình hình hạ giá. Việc đổi mới tư bản cố định
làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế. 8
– Phục hồi; là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất. Công
nhân lại được thu hút vào làm việc; mức sản xuất đạt đến quy mô c†, vật giá tăng lên,
lợi nhuận của tư bản do đó c†ng tăng lên.
– Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kỳ trước
đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được mở rộng và
xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất
lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó, lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.
Khủng hoảng kinh tế không chỉ diễn ra trong công nghiệp mà trong cả nông
nghiệp. Nhưng khủng hoảng trong nông nghiệp thường kéo dài hơn khủng hoảng trong
công nghiệp. Sở dĩ như vậy là do chế độ độc quyền tư hữu vì ruộng đất đã cản trở việc
đổi mới tư bản cố định để thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác, trong nông nghiệp vẫn còn
một bộ phận không nhỏ những người tiểu nông, điều kiện sống duy nhất của họ là tạo ra
nông phgm hàng hóa trên đất canh tác của mình. Vì vậy, họ phải duy trì sản xuất ngay cả
trong thời kỳ khủng hoảng.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, do tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước
tư bản độc quyền nên chu kỳ khủng hoảng ở các nước tư bản sau chiến tranh đã có
những thay đổi sâu sắc, thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
- Thứ nhất, khủng hoảng kinh tế không gay gắt. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai,
khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã làm rung chuyển thế giới tư bản chủ nghĩa, sản xuất
công nghiệp ở các nước tư bản phát triển trong thời gian này đã bị kéo thụt lùi lại hàng
chục năm, chỉ tương đương với sản lượng công nghiệp những năm cuối thế kỷ XIX: Mỹ
giảm 55,6%, Anh giảm 32,2%. Pháp giảm 34,7%. Đức giám 43,5%,... Khủng hoảng
kinh tế 1929-1933 cho đến nay vẫn được coi là vực thẳm trong lịch sử phát triển kinh tế
của chủ nghĩa tư bản. Nhưng từ sau chiến tranh, khủng hoảng kinh tế ở các nước đều
không dữ dội như trước chiến tranh, sản xuất công nghiệp chỉ giảm tương đối nhẹ (mức
giảm cao nhất c†ng chỉ là 21 %, còn thấp nhất có cuộc khủng hoảng chỉ giảm 1,4%).
- Thứ hai, vật giá leo thang trong khủng hoảng. Trước chiến tranh, khi “khủng hoảng
thừa” nổ ra vật giá giảm sút rất nhanh và do đó tỷ suất lợi nhuận c†ng giảm xuống.
Trong cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933, vật giá ở Mỹ giảm 23,6%, Anh giảm
15,7%, Đức giảm 23,4%, Nhật giảm 26,4%. Sau chiến tranh, khi khủng hoảng kinh tế
nổ ra vật giá chỉ giảm nhẹ, sang đến thập kỷ 60 của thế kỷ XX vật giá lại tăng lên và đặc
biệt là sang thập kỷ 70 ngay trong thời kỳ khủng hoảng vật giá leo thang mạnh, tốc độ
tăng giá tái mức hai con số ở nhiều nước. Đây là hiện tượng chưa hề có trong lịch sử
phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kỳ trước chiến tranh.
- Thứ ba, sự xuất hiện của các cuộc khủng hoảng trung gian, khủng hoảng cơ cấu. 9
+ Khủng hoảng trung gian là cuộc khủng hoảng nhẹ xảy ra giữa hai cuộc khủng hoảng
lớn. Ví dụ: ở Mỹ trong khoảng thời gian từ cuộc khủng hoảng 1948-1949 đến cuộc
khủng hoảng 1957-1958 có một cuộc khủng hoảng trung gian là khủng hoảng 1953-
1954:từ cuộc khủng hoảng 1957-1958 đến khủng hoảng 1969-1970 có một cuộc khủng
hoảng trung gian là khủng hoảng 1960-1961.
Trong cuộc khủng hoảng trung gian 1953 – 1954, đầu tư của Mỹ giảm nhẹ khoảng
3,2%, nguyên nhân là do chiến tranh Triều Tiên chấm dứt, chính phủ Mỹ cắt giảm chi tiêu quân sự.
Cuộc khủng hoảng trung gian 1960-1961 xảy ra khi nền kinh tế Mỹ vẫn chưa khắc phục
được toàn bộ hậu quả của khủng hoảng 1957-1958, trước cuộc khủng hoảng này đầu tư
vẫn chưa trở lại mức năm 1957. Đầu tư giảm nhẹ chỉ khoảng 4,8%.
+ Khủng hoảng cơ cấu là cuộc khủng hoảng xảy ra trong từng ngành, từng lĩnh vực
riêng biệt, như: khủng hoảng năng lượng, nguyên liệu, khủng hoảng dầu mỏ, khủng hoảng tiền tệ.
Khủng hoảng dầu mỏ thế hiện ở chỗ các nước sản xuất dầu mỏ hạn chế xuất khgu dầu,
giảm bớt cung ứng, đgy giá dầu lên cao làm chao đảo kinh tế ở các nước nhập khgu dầu
mỏ. Khủng hoảng dầu mỏ lần 1 vào năm 1973- 1974 giá dầu tăng 287%, từ 3,01 USD/
thùng lên 11,65 USĐ/thùng. Khủng hoảng dầu mỏ lần 2 vào năm 1979-1980 giá dầu
tăng 223% từ 12,7 USD thùng lên 41 USD/thùng.
Trong những năm gần đây, giá dầu trên thế giới diễn biến rất bất thường. Tháng 7 -
2008, giá dầu thế giới leo lên mức kỷ lục 147 USD/thùng sau đó giảm dần và chạm đáy
ở ngưỡng 32 USD/thùng do tác động từ sự suy giảm nhu cầu thế giới mà cuộc khủng hoảng toàn cầu gây ra.
Khủng hoảng tiền tệ được dùng để chỉ hiện tượng giá trị đối ngoại của đơn vị tiền tệ
quốc gia bị suy giảm (nói cách khác là mất giá so với ngoại tệ) một cách nghiêm trọng
và nhanh chóng. Chính phủ trở nên vô cùng khó khăn khi kiểm soát tỷ giá hối đoái và
khi ngân hàng trung ương cố gắng can thiệp tỷ giá để bảo vệ giá trị tiền tệ thì dự trữ
ngoại hối của quốc gia bị mất đi ở quy mô lớn.
Đã có một số mô hình khủng hoảng tiền tệ được nghiên cứu, một trong số đó là những
nhà đầu cơ tấn công vào tiền tệ của một quốc gia và khi họ có nhiều tiền hơn ngân hàng
trung ương của quốc gia đó thì khủng hoảng tiền tệ sẽ xảy ra.
Kể cả những nền kinh tế lớn như Mỹ c†ng phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng tiền tệ
trong bối cảnh thế giới hiện nay. Từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây, đồng
đôla Mỹ đã trải qua hai thời kỳ nghiêng ngửa kịch liệt. Lần đầu vào cuối những năm 70,
tỷ giá hối đoái đôla Mỹ tụt xuống thấp điểm nhất trong lịch sử, lần thứ hai xảy ra vào 10
năm 1985-1987 đồng đôla Mỹ sụt giá kéo dài trong 2 năm. Đồng đôla Mỹ mất giá đã hạ
thấp dự trữ đôla Mỹ của các nước, khiến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế lâm vào
tình trạng hỗn loạn, không ổn định.
Nhìn vào diễn biến lịch sử thì từ năm 1970, chu kỳ tăng, giảm giá của đôla Mỹ là từ 5-7
năm cho mỗi một quá trình. Theo quy luật đó thì sau khi đôla Mỹ lên giá tới mức kỷ lục
vào năm 2001 (chỉ số đôla Mỹ lúc đó đạt gần 122 điểm), đôla Mỹ bắt đầu giảm giá so
với các loại tiền tệ mạnh khác của thế giới vào đầu năm 2002. Từ thời điểm đó đến nay,
đôla Mỹ đã mất giá được trên 10 năm (chỉ số đôla Mỹ thấp nhất tháng 4-2008 gần 69
điểm). Tuy nhiên, ngoài sự giảm giả mang tính chu kỳ, sự giảm giá của đồng đôla Mỹ
còn có nguyên nhân là do bị cạnh tranh bởi đồng Euro và một số đồng tiền mạnh khác.
Mặc khác, cuộc khủng hoảng năm 2008 bắt đầu từ Mỹ cho đến nay vẫn chưa có dấu
hiệu phục hồi. Vì vậy, diễn biến tỷ giá của đồng đôla Mỹ trên thị trường tiền tệ thế giới
chắc chắn còn phức tạp.
- Thứ tư, dấu hiệu để nhận biết tiêu điều và phồn thịnh không rˆ ràng.
Đây c†ng là kết quả tất yếu của sự xuất hiện các cuộc khủng hoảng trung gian, khủng
hoảng cơ cấu. Các cuộc khủng hoảng này đã làm giảm biên độ dao động của chu kỳ tái
sản xuất, vì vậy rất khó phân định ranh giới giữa tiêu điều và phục hồi c†ng như ranh
giới giữa phồn thịnh và khủng hoảng. Có khi nền kinh tế chỉ xuất hiện sự suy thoái nhẹ
sau đó lại thoát ra rất nhanh và kinh tế lại tăng trưởng trở lại.
V. NHỮNG GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ VỚI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
Trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động
ngược trở lại lực lượng sản xuất, khi nó phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất thì
nó sẽ giúp cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, khi nó không phù hợp thì nó biến
thành trở ngại lực lượng sản xuất. Trong quá trình sản xuất con người không ngừng tiếp
thu thêm kinh nghiệm sản xuất, không ngừng cải tiến công cụ, cải tiến kỹ thuật. Lực
lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nào đó vượt ra ngoài khổ của quan hệ sản
xuất cho nên quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất lượng sản xuất
Quan hệ cung cầu là quan hệ giữa người bán và người mua, những người sản xuất
và những người tiêu dùng là những quan hệ có vai trò quan trọng trong kinh tế hàng
hóa. Không phải chỉ ở giá cả ảnh hưởng tới cung cầu, mà ảnh hưởng tới việc xác định
giá cả trên trường thị. Khi cung lớn hơn cầu, người bán phải giảm giá cả, giá cả có thể thấp hơn giá trị.
Giữa cung và cầu về hàng hóa phải có sự thích ứng cần thiết khách quan về hình
thái hiện vật và hình thái giá trị. Do đó, quan hệ cung cầu điều tiết được sự chênh lệch
giữa giá cả thị trường và giá trị thị trường. Sự lên xuống của giá cả trường lại điều tiết
quan hệ cung cầu, làm cho nền sản xuất có được những tỷ lệ tương đối. Trước khi đạt 11
tới sự tương đối thì xã hội lãng phí nhiều sức lực và của cải. Vì vậy xã hội đòi hỏi phải
có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng, một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế thị trường.
Các nhà tư vấn tìm kiếm lối thoát bằng cách giảm bớt chi phí sản xuất ra có bán
hàng hóa với giá vẫn thu được lợi nhuận. Họ ra sức tăng cường bóc lột công nhân, lợi
dụng tình hình thất nghiệp để hạ thấp tiền lương, kéo dài ngày lao động nâng cao cường
độ lao động. Biện pháp quan trọng là áp dụng kỹ thuật để cải tiến bằng cách đổi mới
hàng loạt máy móc thiết bị.
V. LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 đến cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Kim ngạch xuất khgu năm 2008 của các loại hàng hoá đều tăng so với năm 2007,
chủ yếu do giá trên thị trường thế giới tăng. Tuy nhiên cơ cấu hàng xuất khgu của năm
2008 về cơ bản không khác nhiều so với những năm trước, do cuộc khủng hoảng bùng
nổ vào những tháng cuối năm, còn các đơn hàng thường được thực hiện từ trước. Trong
cơ cấu xuất khgu Việt nam, dầu thô luôn chiếm vị trí dẫn đầu về giá trị xuất khgu. Khi
nền kinh tế thế giới suy giảm kéo theo sự suy giảm nhanh chóng về nhu cầu xăng dầu,
giá dầu thô đã giảm nhanh chóng. Ngoài dầu thô, các mặt hàng xuất khgu chủ lực của
Việt Nam là những ngành hàng thâm dụng lao động, đặc biệt là nông sản và thủy sản.
Một đặc điểm chính của thị trường nông sản (và thủy sản) và c†ng là thách thức lớn
nhất cho xuất khgu Việt Nam là tính biến động cao của giá cả. 12
Bảng 5.1 Cơ cấu các mặt hàng xuất khgu từ năm 2008 – 2010 (%) 2008 2009 2010
Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản 37,0 29,4 27,2
Hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp 39,8 42,8 46,0 Hàng nông lâm thủy sản 22,6 23,2 22,8 Vàng phi tiền tệ 0,6 4,6 4,0
Nguồn : Tổng hợp từ Niên giám thống kê năm 2009( NXB Thống kê) và website của tổng cục thống kê
Ngoài tác động trực tiếp của khủng hoảng kinh tế dẫn tới nhu cầu sụt giảm, một
số mặt hàng xuất khgu chủ lực gặp khó khăn do phải đối mặt với những rào cản thương
mại mới do các nước đưa ra để hạn chế nhập khgu trong tình hình nền kinh tế của họ
đang gặp khó khăn. Một điều dễ nhận thấy là các hành vi bảo hộ ngày càng tinh vi, nhất
là tại các thị trường xuất khgu lớn của Việt Nam.
Năm 2009, khi thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã bắt đầu chịu tác động
mạnh khủng hoảng, thì có thể nhận thấy rˆ nhất về sự giảm sút xuất khgu của Việt
Nam. Đầu tiên vẫn phải kể đến dầu thô, măt hàng xuất khgu chủ lực của Việt Nam đã
có sự giảm sút đáng kể trong tỷ trọng các mặt hàng xuất khgu của Việt Nam do cả hai
nguyên nhân là giảm lượng xuất khgu và giảm giá xuất khgu. Bức tranh tương tự về
xuất khgu dầu c†ng được tái hiện lại trong năm 2010 do chính sách của nhà nước dành
một phần lượng dầu thô khai thác cho nhà máy lọc dầu trong nước.
Thứ hai là mặt hàng dệt may. Có thể nhận thấy rằng ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế đến xuất khgu hàng dệt may là không lớn, một phần do dệt may thuộc nhóm các
mặt hàng phục vụ tiêu dùng mang tính thiết yếu. Đây là mặt hàng có cầu ít nhạy cảm
đối với thu nhập người tiêu dùng, do đó khi thu nhập của người tiêu dùng thay đổi,
lượng cầu về mặt hàng này thay đổi không đáng kể. Thậm chí có thể thấy rằng, tỷ trọng 13
của mặt hàng này trong tổng kim ngạch xuất khgu tăng nhẹ, do khủng hoảng thế giới
làm người dân các nước cắt giảm 14
chi tiêu, nên những mặt hàng giá rẻ của Việt Nam chiếm ưu thế trên thị trường thế giới.
Tương tự như hàng dệt may, thì mặt hàng da giày c†ng không bị ảnh hưởng quá
nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Thay vì những ảnh hưởng do nhu cầu
giảm, thì việc giảm tỷ trọng trong tổng kim ngạch của mặt hàng này chủ yếu là do
những tác động tiêu cực của các hàng rào kĩ thuật như thuế chống bán phá giá.
Về mặt hàng thủy sản, các bạn hàng lớn trong ngành thủy sản của Việt Nam là EU,
Nhật Bản, Hoa Kỳ và Hàn Quốc. Năm 2008, tổng kim ngạch xuất khgu hàng thủy sản
của Việt Nam tăng 18% so với năm 2007, đạt 4,5 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất khgu
thủy sản năm 2009 đạt 4,207 tỷ USD, giảm 6,7% so với năm 2008. Năm 2009, kim
ngạch mặt hàng này đạt 5,01 tỷ USD. Tỷ trọng của mặt hàng này có xu hướng giảm do
tác động của khủng hoảng thế giới tuy nhiên lượng giảm không nhiều vì đây là mặt
hàng có cầu ít co giãn theo thu nhập, do đó ít chịu ảnh hưởng của suy thoái kih tế.
Bên cạnh đó, gạo nổi lên như một điểm sáng trong bức tranh xuất khgu của nước nhà
khi tỷ trọng tăng mạnh do ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng lương thực. 15
Bảng 5.2 Tỷ trọng các mặt hàng xuất khgu chủ yếu của Việt Nam 2008 2009 2010 Thủy sản 7,25% 7,43% 6,99% Gạo 4,61% 4,70% 4,47% Dầu thô 16,61% 10,97% 6,92% Cao su 2,54% 2,12% 3,33% Gỗ và sản phgm gỗ 4,42% 4,51% 4,79% Dệt, may 14,48% 15,91% 15,64% Giày dép 7,47% 7,10% 7,15% Điện tử, máy tính 4,30% 4,90% 5,01%
Nguồn:Tổng hợp từ Niên giám thống kê 2009 và website của Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn/
Điểm nổi bật về cơ cấu xuất khgu của Việt Nam sau khủng hoảng là sự giảm về tỷ
trọng của nhóm hàng công nghiệp và khoáng sản đặc biệt là dầu thô và than đá và có sự
tăng lên rˆ rệt của nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Một điểm c†ng rất
đáng lưu ý nữa trong xuất khgu của Việt Nam là trước năm 2008, Việt Nam xuất khgu
rất hạn chế vàng trang sức sang Thụy Sỹ, nơi thống trị ngành công nghiệp luyện kim
vàng toàn thế giới, biến các loại trang sức, từ nhẫn tới cột nến thành vàng thỏi tiêu
chugn quốc tế. Nhưng điều đó đã thay đổi trong 2 năm 2009-2010, khi Việt Nam trở
thành nguồn nhập khgu vàng lớn nhất của Thụy Sỹ, phần lớn trong số đó được chuyển
tới nung chảy tại các nhà máy tinh chế hàng đầu. Năm 2009, theo cơ quan Hải quan
Thụy Sỹ, Việt Nam xuất khgu 54 tấn, thu về khoảng 2 tỷ USD, từ mức 3,2 tấn trong
năm 2008. Số liệu này không bao gồm vàng thỏi, loại thường được coi như "vàng tiền
tệ". Năm 2010, Việt Nam đã xuất khgu gần 61 tấn kim loại quý - chủ yếu là vàng sản
phgm - tới Thụy Sỹ, thu về 2,8 tỷ US 16 VI. KẾT LUẬN
Khủng hoảng kinh tế chu kì trong chủ nghĩa tư bản là điều không thể tránh
khỏi. Tuy chủ nghĩa tư bản đã có được nhiều kinh nghiệm rút ra từ các cuộc
khủng hoảng trước đó nên ngày nay các cuộc khủng hoảng thường được khắc
phục trong thời gian ngắn và mức độ thiệt hại được khống chế nhưng khủng
hoảng giống như một loại virus đang từng bước chuyển biến để chống lại thuốc
kháng sinh. Bằng chứng chính là cuộc khủng hoảng 2008 đã làm cho nhiều nước
trên thế giới phải điêu đứng. Ít ai có thể ngờ rằng nền kinh tế số một thế giới là
Mỹ lại có thể sụp đổ nhanh đến thế và hậu quả to lớn mà thế giới phải gánh chịu.
Việt Nam c†ng chịu rất nhiều ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng 2008. Tuy nhiên
do Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân nên việc
quản lý kinh tế xã hội đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Nhà nước ta đã làm
công tác quản lý rất tốt vì vậy việc ngăn chặn và khắc phục những hậu quả của
khủng hoảng có nhiều thuận lợi. Hiện nay nền kinh tế của nước ta đang khởi sắc
và có những dấu hiệu đầy khả quan trong một tương lai gần.
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Học tập 24h(2017), Các chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản:
https://hoctap24h.vn/cac-chu-ky-cua-khung-hoang-kinh-te-trong-chu- nghia-tu-ban
- Lý luận chính trị (2018), Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản nhìn từ lý
luận của C.Mác và thực tiễn thế giới ngày nay:
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2744-
khung-hoang-cua-chu-nghia-tu-ban-nhin-tu-ly-luan-cua-cmac-va-thuc- tien-the-gioi-ngay-nay.html
- Tuyên giáo (2018), Sức sống của học thuyết Mác, nền tảng lý luận của con
đường phát triển Việt Nam:
http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/suc-song-cua-hoc-thuyet-mac-nen-
tang-ly-luan-cua-con-duong-phat-trien-viet-nam-115727
- Khoa lý luận chính trị, Đại học Duy Tân (2015), Khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản:
https://kmacle.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail/vn/106/893/quan-diem-
cua-chu-nghia-maclenin-ve-khung-hoang-kinh-te-trong-cntb
- Giáo trình “Kinh tế chính trị Mác Lênin”, Đại học Kinh tế Quốc dân (2019)
- Sách “Kinh tế các nước công nghiệp chủ yếu sau chiến tranh thế giới lần thứ 2” 1
- Binance Academy (2021), cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008:
https://academy.binance.com/vi/articles/the-2008-financial-crisis- explained
- Argoinfo (2012), Khủng hoảng toàn cầu ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam,
thực trạng và giải pháp:
http://agro.gov.vn/vn/tID22923_Khung-hoang-toan-cau-anh-huong-kinh-
te-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.html 2