




Preview text:
lOMoARcPSD| 58854646
Nguồn gốc của nhà nước
– Thuyết thần quyền:
Cho rằng thượng đế chính là người sắp đặt trật tự xã hội, thượng đế đã sáng tạo ra nhà nước
nhằm bảo vệ trật tự chung, nhà nước là một sản phẩm của thượng đế.
– Thuyết gia trưởng:
Cho rằng nhà nước xuất hiện chính là kết quả sự phát triển của gia đình và quyền gia trưởng, thực
chất nhà nước chính là mô hình của một gia tộc mở rộng và quyền lực nhà nước chính là từ quyền
gia trưởng được nâng cao lên – hình thức tổ chức tự nhiên của xã hội loài người.
– Thuyết bạo lực:
Cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm đất, là việc sử
dụng bạo lực của thị tộc đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng đặt ra một hệ thống
cơ quan đặc biệt – nhà nước – để nô dịch kẻ chiến bại. – Thuyết tâm lý:
Cho rằng nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thủy luôn muốn phụ
thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ,…
– Thuyết khế ước xã hội:
Cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước xã hội được ký kết trước hết giữa
những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Chủ quyền nhà nước thuộc
về nhân dân, trong trường hợp nhà nước không giữ được vai trò của mình , các quyền tự nhiên
bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kế khế ước mới.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin nhà nước và pháp lu ậ t không phải là những hiện tượng vĩnh
cữu, bất biến. Nhà nước và pháp luật chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn
nhất định. Chúng luôn vận động, phát triển và sẽ tiêu vong khi những điêù kiện khách quan cho sự tồn taị
và phát triển của chúng không còn nữa. bản chất của nhà nước
Bản chất của Nhà nước là vấn đề có tính thời sự, được bàn luận nhiều, thậm chí nó còn là trung tâm của
mọi vấn đề chính trị và mọi tranh luận chính trị. Có nhiều cách giải thích về nguồn gốc của Nhà nước,
nhưng thông thường, khi xem xét bản chất Nhà nước người ta thường xem xét dưới 2 góc độ là tính giai
cấp và tính xã hội Bản chất của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam theo Hiến pháp 2013 là
nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cụ thể:
– Nhân dân là chủ thể tối cao acủa quyền lực nhà nước;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt
Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc bình
đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân; lOMoARcPSD| 58854646
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và pháp quyền.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Nhà nước CHXHCN Việt Nam nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là kiểu nhà
nước có bản chất hoàn toàn khác với kiểu nhà nước bóc lột và là kiểu nhà nước cao nhất trong lịch sử,
là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và vì nhân dân mà
nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”(Điều 2, Hiến pháp 1992).
Nhà nước bảo đảm cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội, đảm bảo
quyền ứng cử cũng như quyền bầu cử của nhân dân, thực sự có quyền lựa chọn những người đại biểu
xứng đáng của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước.
tính giai cấp của nhà nước
Thể hiện ở chỗ nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội để thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền,
củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất của nhà nước chỉ rõ nhà
nước đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục vụ lợi ích của giai cấp nào?
Trong xã hội bóc lột (xã hội chiếm hữu nô lê, xã hội phong kiến, xã hội tư sản) nhà nước đều có bản chất
chung là thiết chế bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột trên 3 mặt: Kinh tế, chính trị và tư tưởng.
Vì vậy, nhà nước tồn tại với hai tư cách:
Một là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Hai là tổ chức quyền lực công – tức là nhà nước vừa là người bảo vệ pháp luật vừa là người bảo đảm
các quyền của công dân được thực thi.
=> Nhà nước là cơ quan hay công cụ thống trị của giai cấp cầm quyền
đối với xã hội “Nhà nước theo đúng nghĩa của nó là bộ máy để trấn áp
đặc biệt giai cấp này đối với giai cấp khác”
tính xã hội của nhà nước
Tính xã hội của Nhà nước được thể hiện bên cạnh việc bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị, Nhà nước còn phải quan tâm đến việc bảo đảm,
bảo vệ, giải quyết lợi ích ở mức độ nhất định cho các tầng lớp, giai cấp
khác trong xã hội và các vấn đề chung của toàn xã hội tính xã hội là
một thuộc tính tất yếu khách quan của bất kỳ Nhà nước nào.
cấp khác, do vậy ngoài tư cách là công cụ duy trì sự thống trị, nhà nước còn là công cụ để bảo vệ
lợi ích chung của toàn xã hội.
Ví dụ: Nhà nước giải quyểt các vấn đề nảy sinh từ đời sống xã hội như: đói nghèo, bệnh tật,
chiến tranh, các vấn đề về môi trường, phòng chống thiên tai, địch hoạ, về dân tộc, tôn giáo và
các chính sách xã hội khác.v.v…
Bảo đảm trật tự chung- bảo đảm các giá trị chung của xã hội để tồn tại và phát triển
Như vậy, vai trò kinh tế - xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của Nhà nước. Tuy nhiên,
mức độ biểu hiện cụ thể và thực hiện vai trò đó không giống nhau giữa các nhà nước khác nhau.
Vai trò và phạm vi hoạt động của nhà nước phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cũng như đặc
điểm của mỗi nhà nước, song phải luôn tính đến hiệu quả hoạt động của nhà nước.
đặc trưng cơ bản của nhà nước
Một là, Nhà nước phân chia và quản lí dân cư theo đơn vị hành chính
lãnh thổ Nhà nước thiết lập quyền lực trên các đơn vị hành chính lãnh lOMoARcPSD| 58854646
thổi, quản lý cư dân theo đơn vị hành chính lãnh thổ mà không phụ
thuộc vào huyết thống, giới tính, tôn giáo,... Hai là, Nhà nước thiết
lập quyền lực công để quản lý xã hội và nắm quyền thống trị thông qua
việc thành lập bộ máy chuyên là nhiệm vụ quản lý Nhà nước và bộ
máy chuyên thực hiện cưỡng chế (quân đội, nhà tù, cản sát.v.v…) để
duy trì địa vị của giai cấp thống trị. Còn các tổ chức khác trong xã hội
không có quyền lực này như tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, phụ nữ,
đoàn thanh niên, Mặt trận Tổ Quốc,... Ba là, Nhà nước có chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi
lãnh thổ của mình.- Nhà nước tự quyết định về chính sách đối nội và
đối ngoại, không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài
Bốn là, Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện quản lý buộc các thành viên trong xã
hội phải tuân theo. Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế. Thông qua pháp luật, ý chí của Nhà nước trở thành ý chí của toàn xã hội,
buộc mọi cơ quan, tổ chức, phải tuân theo. Trong xã hội, chỉ có Nhà nước mới có
quyền ban hành luật và áp dụng pháp luật.
Năm là, Nhà nước quy định và thực hiện thu thuế dưới hình thức bắt
buộc. Để duy trì bộ máy Nhà nước. Bảo đảm cho sự phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Giải quyết các công việc chung của xã hội
ban hành pháp luật và thực hiện quản lý buộc các thành viên trong xã hội
phải tuân theo. Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế. Thông qua pháp luật, ý chí của Nhà nước
trở thành ý chí của toàn xã hội, buộc mọi cơ quan, tổ chức, phải tuân
theo. Trong xã hội, chỉ có Nhà nước mới có quyền ban hành luật và áp
dụng pháp luật. Năm là, Nhà nước quy định và thực hiện thu thuế dưới
hình thức bắt buộc. Để duy trì bộ máy Nhà nước. Bảo đảm cho sự phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Giải quyết các công việc chung của xã hội.
Qua năm đặc trương trên nhằm phân biệt Nhà nước với các tổ chức
chính trị, chính trị xã hội khác (Đảng phái chính trị, Đoàn thanh niên,
hiệp hội.v.v…), đồng thời cũng là để phân biệt với các tổ chức thị tộc
(trong xã hội công xã nguyên thuỷ). Qua đó cho thấy vai trò to lớn của
Nhà nước trong hệ thống chính trị mà các tổ chức khác không có
chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực Nhà nước, chức năng của
Nhà nước được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng đối nội của Nhà nước là sự thực hiện đường lối đối nội nhằm
duy trì trật tự xã hội thông qua các công cụ như: chính sách xã hội, luật
pháp, cơ qua truyền thông, văn hóa, giáo dục,... Chức năng đối
nội được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, y tế, giáo dục,...của mỗi quốc gia, dân tộc nhằm đáp ứng và giải
quyết những nhu cầu chung của toàn xã hội.
Chức năng đối nội của lOMoARcPSD| 58854646
Nhà nước thực hiện một cách thường xuyên thông qua lăng kính giai cấp
của giai cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại của Nhà nước là sự triển khai thực hiện chính
sách đối ngoại của giai cấp thống trị nhà giải quyết mối quan hệ với các
thể chế Nhà nước khác dưới danh nghĩa là quốc gia dân tộc, nhằm
bảo vệ lãnh thổ quốc gia, đáp ứng nhu cầu trao đổi kinh tế, văn hóa,
khoa học kĩ thuật, y tế, giáo dục,..của mình. Thực chất của chức năng này là
thực hiện lợi ích giữa các giai cấp thống trị trong các quốc gia khác nhau.
Mối quan hệ giữa hai chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước thể
hiện ở chỗ chúng thống nhất với nhau, trong đó chức năng đối nội quy
định chức năng đối ngoại; ngược lại chức năng đối ngoại có tác động
mạnh lên chức năng đối nội.
chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội
Căn cứ vào tính chất của quyền lực Nhà nước, chức năng của Nhà nước
được chia thành chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội.
Chức năng thống trị chính trị của Nhà nước là chức năng bảo bảo vệ và
thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị. Là công cụ thống trị giai cấp, Nhà
nước thường xuyên sử dụng bộ máy quyền lực để duy trì sự thống trị đó
thông qa hệ thống chính sách và pháp luật. Bộ máy quyền lực của Nhà
nước từ trung ương đến cở sở, nhân danh Nhà nước duy trì trật tự xã
hội, đàn áp mọi sự phản kháng của giai cấp bị trị, các lực lượng chống
đối nhằm bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp thống trị. Chức năng xã
hội của Nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích chung của
cộng đồng quốc gia, trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước
nhân danh xã hội làm nhiệm vụ quản lí Nhà nước về xã hội, điều hành
các công việc chung của xã hội như: thủy lợi, giao thông, y tế, giáo dục,
bảo vệ môi trường,...để duy trì sự ổn định trong của xã hội trong “ trật
tự ” theo quan điểm của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, theo Ph.Ăngghen,
Nhà nước là đại biểu chính thức của toàn xã hội chỉ trong chừng mực nó
là Nhà nước của bản thân giai cấp đại diện cho toàn xã hội trong thời đại tương ứng.
Mối quan hệ giữa hai chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội
của Nhà nước là mối quan hệ biện chứng. Chức năng chính trị quy
định tính chất, phạm vi, hiệu quả việc thực hiện chức năng xã hội.
Chức năng xã hội giữ vai trò là cơ sở cho việc thực hiện chức năng
chính trị; đảm bảo cho việc thực hiện chức năng chính trị có hiệu quả
kiểu và hình thức nhà nước
- Kiểu nhà nước: là tổng thể những dấu hiệu, đặc điểm cơ bản của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp
và những điều kiện tồn tại. phát triển nhà nước trong 1 hình thái kinh tế xã hội nhất định. - Cơ sở xác định kiểu nhà nước:
kiểu và hình thức nhà nước dựa trên sự đối kháng giai cấp
Một là, Nhà nước chủ nô hay
còn gọi là Nhà nước chiếm hữu nô lệ thực hiện sự chuyên chính của giai
cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ và tầng lớp tự do. Chủ nô là người sở
hữu toàn bộ đất đai, tư liệu sản xuất cộng với cả người sản xuất là nô lệ. lOMoARcPSD| 58854646
Hình thức cơ bản của Nhà nước chủ nô là Nhà nước quân chủ và Nhà nước cộng hoà
Hai là, Nhà nước phong kiến thực hiện sự chuyên chính của giai cấp
phong kiến đối với giai cấp nông dân và những người lao động khác.
Hình thức cơ bản của Nhà nước phong kiến phương Tây là Nhà nước
phong kiến phân quyền. Ở phương Đông, hình thức Nhà nước phổ biến
dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất là hình thức quân chủ
tập quyền ( quân chủ chuyên chế tập quyền ).
Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau,
nhưng nói chung, chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng
hoà và hình thức quân chủ lập hiến. V. I. Lenin đã phát biểu rằng:
“Những hình thức của Nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng
thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những Nhà nước ấy, vô
luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”
kiểu nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
kiểu Nhà nước chuyên chính vô sản là kiểu Nhà nước thích ứng với
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước
chuyên chính vô sản được xác lập khi cách mạng của giai cấp vô sản
và nhân dân lao động xoá bỏ Nhà nước của các giai cấp bóc lột và tự
tiêu vong khi xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản.
nước mang bản chất giai cấp vô sản; được xây dựng và hoàn thiện theo
mục tiêu xây dựng và quản lý kinh tế - xã hội; tổ chức nhân dân xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên cơ sở liên minh giai cấp công nông và tầng lớp trí
thức, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng giai cấp vô sản; là kiểu Nhà nước
có chức năng trấn áp và chức năng tổ chức xây dựng nền kinh tế mới, xã hội mới.
Nhà nước vô sản do vậy phải là chính quyền của nhân dân, là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Cũng do đó, chế độ dân chủ vô sản là
chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ này.