-
Thông tin
-
Quiz
Triết ôn thi tự luận - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác -Lênin (THML01) 1.1 K tài liệu
Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Triết ôn thi tự luận - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01) 1.1 K tài liệu
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng 3.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:

















Tài liệu khác của Đại học Tôn Đức Thắng
Preview text:
1. Phân tích quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về vật chất và ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Nêu ý nghĩa phương pháp luận :
-Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
-Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là một phạm trù song song với phạm trù vật chất. Theo
đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cái biến và sáng tạo. Ý
thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
-Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức không hoàn toàn thụ
động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
a) Vật chất quyết định ý thức
-Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật
chất là cái có trước, là tính thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con
người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai. Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người
và thế giới khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
-Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện
thực khách quan. Nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con
người.Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu
sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
-Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện
thực khách quan, tức là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó.
Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
-Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn
liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo. Vật chất luôn vận
động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức
cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là có ăn uống đầy đủ thì mới có sức để đi theo
đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời sống vật chất phảiđược đáp ứng thì chúng ta mới hướng tới
đời sống tinh thần. Điều này đã chứng minh cho quan niệm vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất:
-Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong
đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, không lệ thuộc máy móc vào vật chất
mà tác động trở lại thế giới vật chất.
-Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ
hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
-Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó có thể quyết định
làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay
làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện tượng khách quan để con người xác định
mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện
thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
-Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà
tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
-Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy định của những
tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
Ví dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội VI, Đảng ta chuyển nền kinh tế tự
cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất nước như hôm nay. Điều này cho thấy ý thức đã
phản ánh được thực tiễn và đưa ra mục tiêu, phương hướng để tác động lại vật chất, tạo sự phát triển cho vật chất
c ) Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
-Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận thức, hành động, chủ
trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề
vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm
điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
-Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người, chống tư tưởng,
thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sángtạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi
trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu
dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
-Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích
tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan d ) Vận dụng :
-Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của tôi phải xuất phát từ thực tế khách
quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến học tập, cuộc sống của mình
để tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ví dụ: Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời khóa biểu, những yếu tố
thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học đầy đủ và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra.
Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm của dịch bệnh để
thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quy tắc 5K, ở yên tại nhà để bảo vệ sức khỏe bản
thân, gia đình và cộng đồng
.-Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động, sáng tạo của
ý thức. Tôi phải chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân mình, bồi dưỡng những kỹ năng cần
thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào người khác mà phải tự phát huy tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ.
Ví dụ: Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình của ngày hôm đó để đánh dấu những chỗ
mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi thường xuyên tích cực phát biểu và thảo luận để hiểu rõ hơn bài học.
Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tàiliệu để luyện tập thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải
thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào của các tổ chức xã
hội.Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất của mình qua việc đọc
sách, tập yoga, tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
-Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động, bảo thủ,không chủ quan trước mọi tình huống.
Ví dụ: Khi tham gia thảo luận nhóm, tôi sẽ lắng nghe và tiếp thu những điều hay mà các thành viên góp ý
cho mình để hoàn thành công việc theo kế hoạch. Hay khi đăng ký học phần, tôi không chủ quan vào năng
lực của mình mà đăng ký quá nhiều môn tránh cho bản thân không kham nổi.Trong cuộc sống, trước khi
đánh giá một người nào đó, tôi phải tiếp xúc với người đó và lắng nghe những đánh giá của những người
xung quanh về người đó, không thể chủ quan “trông mặt mà bắt hình dong”, không thể chỉ dựa vào cảm xúc
cá nhân mà đánh giá người đó.
2. Phân tích nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến (Cơ sở lý luận của quan điểm). Nêu ý nghĩa pp luận * Định nghĩa :
Quan điểm siêu hình cho rằng: Các sự vật, sự việc, hiện tượng tồn tại tách rời cô lập nhau, cái này bên
cạnh cái kia, giữa chúng không có sự phụ thuộc liên hệ lẫn nhau. Nếu có liên hệ thì chỉ là sự hời hợt bề ngoài.
Quan điểm duy vật biện chứng và là quan điểm được thừa nhận về cách giải thích về mối liên hệ phổ
biến, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới. Thế giới này là một
chỉnh thể thống nhất. các sự vật hiện tượng trên thế giới này liên hệ tác động, chuyển hóa nhau. *Tính chất :
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tính khách quan, tínhphổ biến và tính đa dạng,
phong phú là những tính chất cơ bản của mối liên hệ
- Tính khách quan: Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng của thế giới đều là cái vốn có, nó tồntại độc lập
không phụ thuộc vào ý thức con người. Tức là con người chỉ có thểnhận thức và vận dụng các mối liên hệ
đó chứ không được quyết định.Ví dụ: Sự phụ thuộc của các loài sinh vật vào môi trường, khi môi
trườngthay đổi, sinh vật cũng tự thay đổi để thích ứng: các loài sinh vật biến nhiệt thayđổi nhiệt độ cơ thể để
phù hợp với nhiệt độ môi trường sống. Điều này khôngphụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người mà là
điều vốn có trong tự nhiên.
- Tính phổ biến: Tính phổ biến thể hiện ở chỗ, bất kỳ ở đâu, trong tự nhiên, xã hội và tưduy đều có vô
vàn mối liên hệ đa dạng, chúng giữ những vai trò, vị trí khác nhautrong sự vận động, chuyển hoá của các sự
vật, hiện tượng. Mối liên hệ qua lại,quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện
tượng tựnhiên, xã hội, tư duy, mà còn diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình củamỗi sự vật, hiện
tượng.Ví dụ: Mối liên hệ giữa cây cối và mặt trời là qua hình thức quang hợp,khi cây hấp thụ ánh sáng mặt
trời để thực hiện quá trình “hô hấp” và sinhtrưởng. Đồng thời, cùng lúc ấy, trong chính bản thân cái cây
cũng có tác độngqua lại và chuyển hoá lẫn nhau của các bộ phận như lá, rễ, …
- Tính đa dạng, phong phú: Sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời
giankhác nhau thì mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thànhnhiều loại: mối liên hệ
chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bên trong, mốiliên hệ bên ngoài, mối liên hệ trực tiếp, mối liên hệ
gián tiếp, … Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật,
hiệntượng.Ví dụ: Các loài vật đều có mối liên hệ với nước nhưng ở các mức độ khác nhau: cá không thể
sống thiếu nước và rời khỏi môi trường nước chúng sẽ chết;với loài chim thú, nước cũng rất quan trọng để
uống nhưng không cấp thiết đến từng giây phút như cá; với loài người, nước không chỉ để uống mà còn để
nấu ăn, làm thuỷ điện, …
Việc phân loại này chỉ mang tính tương đối, bởi vìcác mối liên hệ của các đối tượng rất phức tạp, không
thể tách chúng khỏi tất cảcác mối liên hệ khác. Mọi liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ thể trong sự biếnđổi
và phát triển cụ thể của chúng.
*Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến 1. Quan điểm toàn diện:
Từ nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của phép duy vật biện chứng, rút ranguyên tắc toàn diện trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyêntắc này yêu cầu:
+ Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trongchỉnh thể thống nhất của các mặt, các
bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính và cácmối liên hệ của đối tượng đó.
+ Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu củađối tượng đó và nhận thức chúng
trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, chỉ có nhưvậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại
khách quan với nhiềuthuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng
+ Thứ ba, cần xem xét đối tượng trong mối liên hệ với đối tượng khác vàmôi trường xung quanh, kể cả các
mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.Đồng thời, cần xem xét đối tượng trong không gian, thời gian
nhất định, nghĩa làphải nghiên cứu quá trình vận động của đối tượng trong quá khứ, hiện tại vàphán đoán tương lai của nó.
+ Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấymặt này mà không thấy mặt khác;
hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xét trànlan, dàn đều, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi
vào thuật nguỵbiện (cố ý đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản hoặc ngược lại)và chủ nghĩa
chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngượcnhau vào một mối liên hệ phổ biến).Như vậy,
khi xem xét các đối tượng, ta phải nghiên cứu chúng trong mốiquan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận,
yếu tố, giữa các mặt của đối tượngvà trong sự tác động qua lại giữa đối tượng đó với các đối tượng khác.
Chỉ nhưvậy mới có thể nhận thức đúng đắn, chính xác về sự vật, hiện tượng và xử lí hiệu quả các vấn đề
trong cuộc sống. Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểmphiến diện, chiết trung, nguỵ biện trong nhận thức và thực tiễn.
2. Quan điểm lịch sử - cụ thể :
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật cònrút ra nguyên tắc lịch sử - cụ thể
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyêntắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong những mối
liên hệ cụ thể, cótính đến lịch sử hình thành, tồn tại, dự báo xu hướng phát triển của sự vật, hiệntượng. Cơ sở
lý luận của nguyên tắc này là không gian, thời gian với vận độngcủa vật chất, là quan niệm chân lý, là cụ thể
và chính nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
3. Phân tích nội dung nguyên lý về sự phát triển : * Phát triển là gì?
– Theo quan niệm biện chứng sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn
ra dần dần, nhảy vọt đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ, không phải lúc nào sự phát triển cũng diễn
ra theo đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước lùi tạm thời. Theo quan điểm biện
chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá
trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kì sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ
cao hơn. Quan điểm biện chứng cũng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật
– Theo quan điểm siêu hình phát triển chỉ là sự tăng lên, giảm thuần túy về lượng, không có sự thay đổi
gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo
một vòng khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo quan
điểm siêu hình xem sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có bước quanh có, phức tạp.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là
quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện
tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
* Nguyên lý về sự phát triển theo Triết học Mác – Lenin:
-Tính khách quan của sự phát triển: Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát
triển một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của con
người có nhận thức được hay không, có mong muốn hay không.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là sự thống nhất
và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không có con người nhưng nó vẫn phát triển.
-Tính phổ biến của sự phát triển
Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực khách quan đến
những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy. Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào
là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.
+ Trong tự nhiên: Tăng cường khả năng thích nghi cơ thể trước sự biến đổi của môi trường Ví dụ: Người
ở Miền Nam ra công tác làm việc ở Bắc thời gian đầu với khí hậu thay đổi họ sẽ khó chịu nhưng dần họ quen và thích nghi.
+ Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến tới mức độ ngày càng cao
trong sự nghiệp giải phóng con người. Ví dụ: Mức sống của dân cư xã hội sau lúc nào cũng cao hơn so với xã hội trước.
+ Trong tư duy: Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn với tự nhiên và xã hội. Ví
dụ: Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây
-Tính kế thừa của sự phát triển
Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều những bộ phận, đặc
điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, không
tích hợp của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại phát triển thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như vậy.
Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Quá trình này
diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.
-Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển
Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác nhau.
Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng quy định sự phong phú của phát
triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau tác động vào các sự vật,
hiện tượng cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau. Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả
năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn…
Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày càng lớn của con người.
Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn hơn.
* Ý nghĩa phương pháp luận.
Thứ nhất: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.
– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà còn phải
nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải
làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một
nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất
đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Thứ hai: Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng đầy mâu
thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước thụt lùi tương
đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.
Thứ ba: Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó,
xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện
tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp, tìm cách thúc
đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời kiên quyết
loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Thứ tư: Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về chất. Do đó,
chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.
4. Phân tích nội dung quy luật lượng-chất:
I. Khái niệm về chất và lượng
Theo chủ nghĩa Mac – Lênin thì quy luật lượng chất là một trong ba quy luật cơ bản nhất của phép biện
chứng duy vật. Quy luật lượng chất tác động đến toàn bộ quá trình hình thành, chuyển hóa của các sự vật,
hiện tượng trong đời sống xã hội. Ph.Ăng-ghen đã khái quát quy luật này như sau: “Những thay đổi đơn
thuần về lượng đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”. Để hiểu rõ và
vận dụng một cách đúng đắn quy luật này chúng ta cần làm rõ các nội dung và phạm trù liên quan. Mọi sự
vật, hiện tượng trên Trái Đất đều là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt này thống nhất
hữu cơ với nhau. Trong đó:
•Chất: Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho sự vật là nó và phân biệt nó với cái khác. Ví dụ:
+ chất của đường là các tinh thể rắn, nhỏ có vị ngọt; chanh thì có vị chua;
+ bên cạnh những khác biệt về đặc điểm sinh học, cấu tạo hình thể con người còn khác động vật ở sự
biết tư duy, sáng tạo, biết sử dụng công cụ lao động và biết dùng lửa để nấu chín thức ăn. Chính sự khác biệt
đó tạo nên chất của con người. Đặc trưng của chất
+ Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do những thuộc tính, những yếu tố
cấu thành quy định. Thuộc tính ở đây có thể hiểu là “tính chất”, trạng thái: như tính đàn hồi, tính dẫn điện,
tính tan trong nước, tính chua, tính ngọt.
+ Là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính. Không phải là sự cộng lại hay xếp đặt một cách ngẫu nhiên
của các thuộc tính mà là sự liên hệ chặt chẽ, gắn bó, tác động, quy định lẫn nhau cùng tồn tại trong sự vật
hiện tượng. Các thuộc tính này chỉ thể hiện ra bên ngoài thông qua sự tác động với chinh nó hoặc sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ tính tan của đường chỉ được bộc lộ khi có tác động với nước.
Lưu ý: Vì mỗi sự vật có muôn vàn thuộc tính nên có vô vàn chất. Nhưng không phải thuộc tính nào cũng
biểu hiện chất của sự vật, chỉ thuộc tính cơ bản mới cấu thành chất của sự vật.
•Những thuộc tính cơ bản quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Sự phân chia thuộc
tính thành thuộc tính cơ bảnvà thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương đối, tùy theo từng
mối quan hệ. Đặt trong quan hệ này nó là thuộc tính cơ bản nhưng đặt trong quan hệ khác nó có thể trở
thành thuộc tính không cơ bản.
+ Chất biểu hiện trạng thái tương đối ổn định của sự vật. Khi sự vật, hiện tượng này chưa chuyển hóa
thành sự vật, hiện tượng khácthì chất của nó vẫn chưa thay đổi.
+ Chất còn được xác định bởi trật tự sắp xếp, phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật.
Ví dụ: học sinh được giáo dục như nhau nhưng tính cách từng người lại khác nhau. Một tập thể mạnh hay
yếu không chỉ phụ thuộc vào cá nhân mà còn sự liên kết giữa các cá nhân.
•Lượng: Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quyđịnh khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển.
Ví dụ: lượng của sinh viên thể hiện qua khối lượng kiến thức của 4năm đại học; số lượng sinh viên
của Học Viện Ngân Hàng, quyển sách 20 chương…
Đặc trưng của lượng
+ Lượng cũng mang tính khách quan như chất, là cái vốn có của sự vật. Lượng có thể được xác định
bằng những đơn vị đo lường cụ thể và chính xác như kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô
lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…
Ví dụ: vận tốc xe máy 40km/giờ; số tín chỉ của sinh viên ngành ngôn ngữ anh Học Viện Ngân Hàng là 135 tín chỉ…
+ Lượng thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể với con số chính xác nhưng cũng
có lượng biểu thị dưới dạng khái quát, phải dùng tới khả năng trừu tượng hóa để nhận thức.
Ví dụ: Tình yêu thương của cha mẹ dành cho con; Trình độ nhận thức của con người, phẩm chất đạo đức của
một công dân, tinh thần trách nhiệm của học sinh…
+ Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng không ổn định mà thường xuyên biến
đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật.
Lưu ý: Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối, trong mối quan hệ này là lượng nhưng
trong mối quan hệ khác lại là chất.Ví dụ: Trong mối quan hệ giữa người sinh viên năm thứ nhất với người
học sinh năm thứ hai là nói đến chất của sinh viên năm thứ nhất với năm thứ hai. Trong mối quan hệ với cả
khoá học thì năm thứ nhất với năm thứ hai lại là lượng.
Ví dụ: Tình yêu thương của cha mẹ dành cho con; Trình độ nhận thức của con người, phẩm chất đạo đức của
một công dân, tinh thần trách nhiệm của học sinh…
+ Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng không ổn định mà thường
xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật.
Lưu ý: Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối, trong mối quan hệ này là lượng nhưng
trong mối quan hệ khác lại là chất.
Ví dụ: Trong mối quan hệ giữa người sinh viên năm thứ nhất với người học sinh năm thứ hai là nói đến chất
của sinh viên năm thứ nhất với năm thứ hai. Trong mối quan hệ với cả khoá học thì năm thứ nhất với năm thứ hai lại là lượng.
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
•Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất:
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Khi sự vật vận động và phát triển, chất và
lượng của nó cũng vận động, biến đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập với nhau mà
có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ngay lập tức làm thay
đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong giới hạn nhất định mà không làm thay
đổi căn bản chất của sự vật đó. .
Giới hạn đó chính là “độ”
+ Độ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới hạn mà trong
đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, sự vật chưa biến thành cái khác.
Ví dụ: - quá trình học tập của sinh viên đại học 4 năm từ 2021-2025, 2025- 2029, ... Thì các đoạn thời gian
này chính là độ. Trong khoảng độ, lượng kiến thức không ngừng tăng lên tuy nhiên vẫn chưa thể biến đổi
chất sinh viên thành một cử nhân đã tốt nghiệp.- độ tuổi trung bình của người Việt Nam là 73 tuổi vậy
khoảng thời gian từ 0 đến 73 năm là độ của con người về mặt tuổi.
+Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút.
+ Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm
thay đổi về chất của sự vật.Ví dụ : Các giới hạn 0 tuổi (khi sinh ra), 73 tuổi; các kỳ thi, các kỳ kiểm tra chính là các điểm nút.
+ Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về
lượng trước đó gây nên. Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi
đầu của một giai đoạn phát triển mới.Ví dụ: từ học sinh tiểu học thực hiện bước nhảy thành học sinh trung
học; từ cử nhân thực hiện bước nhảy lên thạc sĩ…
Có 4 hình thức bước nhảy:
Bước nhảy đột biến: Là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh chóng ở tất cả các bộ phận cấu thành sự vật.
Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian dài.
Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất cả các mặt các bộ phận các yếu tố cấu thành nên sự vật.
Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật.
Sự thay đổi về chất tác động trở lại sự thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút. Khi chất mới ra đời lại có
sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương
diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.Ví
dụ: Sau khi đã tốt nghiệp đại học sinh viên học lên thạc sĩ, khi đó lượng kiến thức, kĩ năng cần học cũng
nhiều hơn, cần nhiều thời gian tự nghiên cứu, tìm tòi để thu nạp được nhiều hiểu biết hơn.
•Từ đó có thể thấy với bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và
lượng. Sự thay đổi dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy. Chất mới
ra đời sẽ tác động trở lại với lượng dẫn đến sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo
thành cách thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy
Ý nghĩa pp luận (sgk 244)
Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan. Khi bước chân vào đại học, một bộ phận
sinh viên tự mãnvới những gì đạt được, không tiếp tục nỗ lực phấn đấu, bên cạnhđó là một số sinh viên có ý
thức rèn luyện, học tập để có được trình độ học thức cao nhất. Xét theo quan điểm của triết học, chất thay
đổi sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới có thể làm thay đổi kết cấu quy mô, trình độ, người điệu
của sự vật.Khi đỗ đại học, chúng ta được tiếp cận ngững tri thức cao hơn, nhiệm vụ của chúng ta là tiếp tục
học tập, trau dồi thêm nhiều kiến thức (tích lũy về lượng) đóng góp cho xã hội, tránh tinh thần thỏa mãn với
những gì đã đạt được.
5. Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn : 1. Khái niệm
a. Đối lập, mặt đối lập là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc
tính, những khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã
hội và tư duy; chính những mặt đối lập này nằm trong sự liên hệ tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
b. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nươngtựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn
tại của mặt này là tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia; chúng luôn tác động qua lại và đấu tranh lẫn nhau theo
xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau gữa các mặt đối lập.
2. Nội dung quy luật Trong mỗi sự vật hiện tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt, những
khuynh hướng đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và
nhường chỗ cho sự ra đời của cái mới.
3. Phân tích nội dung quy luật
a. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và mang tính phổ biến, là nguồn gốc của sự vận động và phát triển
Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình phủ nhận mâu thuẫn bên trong của sự vật hiện tượng, chỉ
thừa nhận có sự đối kháng, sự xung đột bên ngoài giữa các sự vật hiện tượng với nhau, nhưng không cho đó
là có tính quy luật.Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại
mâu thuẫn bên trong; mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất giữa các mặt, các thuộc tính, các
khuynh hướng đối lập nhau, những mặt đối lập nhau nhưng lại ràng buộc nhau nên nó tạo thành mâu
thuẫn.Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà còn là hiện tượng phổ biến; mâu thuẫn tồn tại
khách quan trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người; tồn tại phổ biến chẳng những ở mọi sự vật
hiện tượng mà còn phổ biến trong suốt quá trình vận động và phát triển của chúng; mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác lại được hình thành.
b. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là 2 mặt đối lập liên hệ nhau, ràng buộc nhau
và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại và phát triển. (ví dụ: đồng hóa và dị hóa,
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa)
Khái niện “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn còn đồng nghĩa với khái niệm “đồng nhất”, đó là sự thừa
nhận những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau trong tất cả các hiện tượng, các quá trình của tự
nhiên, xã hội và tư duy; song “đồng nhất” còn có ý nghĩa khác, đó là sự chuyễn hóa lẫn nhau giữa các
mặt đối lập; và như vậy sự “đồng nhất” là không tách rời với sự khác nhau và đối lập, (ví dụ liên hệ:
một vật vừa là nó vừa không phải là nó; quan điểm này hoàn toàn đối lập với quan điểm siêu hình, phiến
diện, xem sự vật mang tính đồng nhất thuần túy không có đối lập, không có sự chuyển hóa.Trong một mâu
thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không thể tách rời sự đấu tranh bài trừ nhau, phủ định nhau giữa
chúng; hình thức đấu tranh được thể hiện trong thế giới vật chất là rất đa dạng, từ thấp đến cao, từ đơn giản
tới phức tạp (ví dụ: trong thế giới tự nhiên chỉ là những tác động ảnh hưởng lẫn nhau, trong xã hội đó là
những xung đột gay gắt, quyết liệt bằng bạo lực cách mạng mới có thể giải quyết căn bản các mâu thuẫn)
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn với những đặc điểm
riêng của nó; khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác nhau của 2 mặt có khuynh
hướng trái ngược nhau; trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau đó biến thành sự đối lập, khi
2 mặt đối lập xung đột nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi sẽ chuyễn hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được
giải quyết; kết quả là sự thống nhất giữa 2 mặt đối lập cũ bị phá hũy, sự thống nhất của 2 mặt đối lập mới
được hình thành cùng mới mâu thuẫn mới.
Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời tươngđối, nghĩa là nó
tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật hiện tượng;
còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự
chuyển hóa về chất của các sự vật hiện tượng, làm cho vật chất luôn vận động và phát triển.
2. Các loại mâu thuẫn mâu thuẫn trong tự nhiên, xã hội và tư duy tồn tại rất đa dạng; tính đa dạng được quy
định bởi đặc điểm của các mặt đối lập, điều kiện thực hiện sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập, bởi trình
độtổ chức của hệ thống mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập, người ta phân loại thành mâu thuẫn bên trong và mâu
thuẫn bên ngoài; trong đó, mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối
lập của cùng một sự vật hiện tượng; mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ với sự
vật, hiện tượng khác (ví dụ: đồng hóa-dị hóa: bên trong; cơ thể-môi trường: bên ngoài); cách phân loại
này chỉ mang tính tương đối, các mâu thuẫn tác động lẫn nhau và mâu thuẫn bên trong giữ vai trò quyết
định trực tiếp đến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng (ví dụ: chính sách đối nội-đối ngoại).
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật hiện tượng, người ta phânloại thành
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự
vật hiện tượng, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật hiện tượng, nó tồn tại trong suốt quá
trình tồn tại của sự vật hiện tượng; mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện
nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển một mặt nào đó của sự vật (liên hệ: mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa).
Căn cứ vào vai trò mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu; mâu thuẫn
chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật hiện tượng, giải
quyết nó tạo điều kiện giải quyết các mâu thuẫn thứ yếu;phân biệt mâu thuẫn chủ yếu với mâu thuẫn thứ yếu
chỉ mang tính tương đối, trong cùng một sự vật trong điều kiện này là mâu thuẫn thứ yếu, trong điều
kiện khác lại là mâu thuẫn chủ yếu.
Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập trong xã hội, người ta phân chia thành mâu thuẫn đối kháng và
mâu thuẫn không đối kháng; mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người,
những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau (ví dụ); mâu thuẫn không đối kháng là mâu
thuẫn giữa những lựclượng, những khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích những mang tính cục bộ,
tạm thời (ví dụ: mâu thuẫn trong các bộ phận công nhân, giữa thành thị-nông thôn). Phân biệt được các
loại mâu thuẫn trên sẽ góp phần xác định chính xác phương pháp giải quyết phù hợp: bằng bạo lực cách
mạng hay bằng giáo dục thuyết phục.
6. Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định:
Nội dung quy luật phủ định của phủ định:
Quy luật phủ định của phủ định là quy luật nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ
định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển
trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước,
lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính
chất tiến lên không phải theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc.
Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định:
1. Định nghĩa về phủ định biện chứng:
Phủ định là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng khác trong quá trình vận động và phát
triển. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt
vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là phủ định. Phủ định là tất yếu trong quá
trình vận động và phát triển của sự vật. Không có phủ định, sự vật không phát triển được. Ví dụ:
+ Trong quá trình phát triển của các phương tiện giao thông, xe máy là sự phủ định đối với xe đạp. Xê ô tô
là sự phủ định đối với xe máy.
+ Trong sự phát triển của gia đình, con giỏi hơn cha tức là con đã phủ định cha. Ông cha ta thường hay nói
“con hơn cha là nhà có phúc” là ý như vậy.
– Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới
sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất; sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự
vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động, phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết
quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên
tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng. Ví dụ:
+ Trong ngành sản xuất điện thoại thông minh, iPhone 11 là sự phủ định đối với iPhone X.
+ Khi gieo trồng, cây lúa là sự phủ định biện chứng đối với hạt thóc.
+ Trong chăn nuôi, con gà đạp trứng ra đời là sự phủ định biện chứng đối với quả trứng.
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng:
Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa. 2.1. Tính khách quan:
– Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự
vật. Nguyên nhân đó chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật.
– Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển. Vì thế, phủ định biện chứng là một tất yếu
khách quan trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức phủ
định riêng tùy thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng.
– Phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí chủ quan của con người. Con người chỉ có thể tác
động mà cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
Ví dụ:Hạt giống khi ta đem gieo xuống đất và có đủ điều kiện về nước, ánh sáng, độ ẩm, không khí,… tất
yếu sẽ nảy mầm thành cây con, do sự tác động chính của các yếu tố bên trong chính hạt giống( đó là lá
mầm, thân mầm, chồi mầm,..), đó chính là cái vốn có của hạt giống đó, làm cho hạt giống đó nảy mầm thành
cây con. Khi đó, cây con sẽ là cái phủ định của hạt giống. 2.2. Tính kế thừa:
– Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ.
– Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra đời là sự phát triển
tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải
tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực.
– Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định những mặt tốt, tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực.
Có thể nói, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó những giai đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt
tích cực được tạo ra ở giải đoạn trước và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực.
Phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết giữa cái cũ và cái
mới, sự vật cũ với sự vật mới, quá khứ và hiện tại. Phủ định biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển. Ví dụ:
Chiếc điện thoại đầu tiên năm1973, với tính năng nghe gọi được và đồng thời có thể mang bên người, tuy
nhiên chiếc điện thoại này khá to, nặng tầm 1kg và đắt đỏ bấy giờ nên rất ít người sử dụng. Đến hiện tại rất
nhiều chiếc điện thoại di độngmới đã ra đời, có sự cải tiễn rõ rệt, trở nên gọn, nhẹ hơn rất nhiều và vẫn
không mất đi tính năng nghe gọi mà chiếc điện thoại đầu tiên có được, thêm vào đó là nhiều tính năng mới
phát triển hơn như có thế nhắn tin, giải trí, kết nối với mọi người qua Internet,…
– Tuy vậy, cũng cần lưu ý là, những nhân tố tích cực của sự vật cũ được giữ lại vẫn phải được cải tạo, phải
được biến đổi cho phù hợp với điều kiện mới.
3. Phủ định của phủ định: Hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển:
– Sự vật ra đời và tồn tại đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật ấy, những nhân tố
mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ. Khi đó, sự phủ định biện chứng lần 1 diễn ra: Sự vật ban đầu
không còn nữa mà bị thay thế bằng sự vật mới, trong đó những nhân tố tích cực của sự vật ban đầu được giữ
lại. Tuy nhiên, sau một thời gian, sự vật mới ra đời ở trên lại bị phủ định bằng sự vật mới khác. Đó là sự phủ
định lần 2. Cứ thế tiếp tục, tùy vào sự vật sẽ có phủ định lần 3, lần 4…, lần n.
Sau 2 hoặc nhiều lần phủ định, sẽ có một sự vật mới dường như lặp lại (rất giống) với sự vật ban đầu, song
không phải là sự trùng lặp hoàn toàn với sự vật ban đầu đó, mà ở nấc thang cao hơn; nó được bổ sung những
nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực đối với sự phát triển tiếp tục của nó.
Sau 2 hoặc nhiều lần phủ định dẫn đến sự xuất hiện sự vật mới mà dường như lặp lại sự vật ban đầu thì ta có
một chu kỳ phát triển. Ở đây có sự phủ định của phủ định. Ví dụ:
+ Một quả trứng là sự khẳng định ban đầu (trong điều kiện được ấp) => Phủ định lần 1 tạo ra gà mái con =>
Phủ định lần 2 (gà mái con lớn lên) sinh ra nhiều quả trứng.
+ Một hạt thóc là sự khẳng định ban đầu (được gieo trồng) => Phủ định lần 1 tạo ra cây lúa => Phủ định lần
2, cây lúa sinh ra nhiều hạt thóc.
Ở 2 ví dụ trên ta có một chu kỳ phát triển: Từ một quả trứng ban đầu đến nhiều quả trứng mới. Từ một hạt
thóc ban đầu đến nhiều hạt thóc mới. Từ một đến nhiều tức là có sự phát triển lên nấc thang cao hơn. Đó là
kết quả phủ định của phủ định.
– Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là sự thống nhất giữa loại bỏ, kế thừa
và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới.
Như thế, những lần phủ định biện chứng nối tiếp nhau sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng, như việc sẽ
ngày càng có nhiều quả trứng hơn, ngày càng có nhiều hạt thóc hơn.
– Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn.
Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập trong bản thân sự vật. Các mặt đối
lập ở đây là mặt khẳng định và mặt phủ định.
Phủ định lần 1 sẽ làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (như quả trứng ban đầu đối lập với gà
mái con; gà mái con là vật trung gian). Sau một hoặc nhiều lần phủ định tiếp theo sẽ ra đời một sự vật mới
đối lập với cái trung gian (nhiều quả trứng sinh ra đối lập với gà mái con).
Mà đối lập với cái trung gian nghĩa là dường như tương đồng với sự vật ban đầu, dường như quay trở lại
thời điểm xuất phát (như việc một quả trứng sinh ra nhiều quả trứng, một hạt thóc sinh ra nhiều hạt thóc).
Như thế ta thấy, đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định
chính là sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn.
– Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát
của một chu kỳ phát triển tiếp theo. Cứ thế, các chu kỳ phát triển cứ nối tiếp nhau tạo thành sự phát triển, sự
tiến lên vô cùng tận của thế giới, nhưng không phải theo đường thẳng mà theo hình xoáy ốc.
– Sở dĩ nói “theo hình xoáy ốc” vì “hình xoáy ốc” đã biểu đạt được các đặc trưng của quá trình phát triển
biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển.
Mỗi vòng mới của đường “xoáy ốc” thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay
lại cái đã qua, lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tân của sự phát triển, tính vô
tận của sự tiến lên từ thấp lên cao.
III. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định làm sáng tỏ chiều hướng vận động, phát triển của các sự vật và có ý nghĩa
phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1. Cái mới nhất định sẽ xuất hiện từ cái cũ nhưng ta không được phủ sạch cãi cũ.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, ta cần lưu ý rằng cái mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ
nhất định sẽ chiến thắng cái lạc hậu. Cái mới ra đời từ cái cũ, kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Do
đó, ta cần chống thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.
2. Chúng ta phải chủ động phát hiện, bồi dưỡng, thúc đẩy cái mới.
Trong thực tiễn, ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát triển của cái
mới. Mặc dù cái mới lúc đầu còn yếu ớt, ít ỏi, ta phải ra sức ủng hộ, bồi dưỡng, phát huy cái mới, tạo điều
kiện cho cái mới chiến thắng cái cũ.
Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc, gạn đục khơi trong, giữ lấy những gì còn tích
cực, có giá trị từ cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều kiện mới. Chúng ta phải chống thái độ
“hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận, đánh giá quá khứ.
3. Phải khắc phục thái độ bảo thủ, loại bỏ những hủ tục trong xã hội.
Trong khi chống thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn quá khứ, chúng ta cũng phải khắc phục thái độ
bảo thủ, khư khư giữ lại những cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử.
Chúng ta phải nhận thức rõ những cái lỗi thời, ví dụ như những hủ tục cũ trong việc cưới xin, tang lễ, hội
hè…, quan niệm “có nếp có tẻ” trong việc sinh con… sẽ gây ra nhiều tốn kém và nhiễu nhương.
7. Phân tích vai trò của thực tiễn với nhận thức :
1. Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử -xã hội của cng nhằm cải biến tự nhiên, xã hội.
Vd: xây dựng nên toà nhà cao, ở xứ nóng trồng dc cây ôn đới do cng biết tạo k gian,..
Biểu hiện bởi 3 hình thức:
Sản xuất vật chất: là hd đầu tiên và căn bản nhất giúp cng hoàn thiện bản tính sinh học và xã hội.
Hoạt động chính trị xã hội: nhằm biến đổi các qh xh mà đỉnh cao nhất là biến đổi các hình thái kt-xh
Thực nghiệm khoa học: là qtrinh mô phỏng hiện thực khách quan trong phòng thí nghiệm để hìnhthành
chân lý ( dùng chuột bạch thí nghiệm thuốc, mô hình máy bay thử nghiệm, đưa khỉ vào thí nghiệm,…)
qtrong vì nó ứng dụng trong thực tiễn thông qua thực nghiệm trước.
Trong đó, SXVC đóng vai trò cơ sở, nền tảng, quan trọng, quyết định các hình thức thực tiễn còn lại.
2. Nhận thức là 1 quá trình phản ứng tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người trên
cơ sở thực tiễn nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan.
3. Vai trò của thực tiễn dv nhận thức:
Thực tiễn là cơ sở (điểm xuất phát) của nhận thức:
-Thông qua sự tác động của cng dv thế giới, cng ( chủ thể nhận thức ) sẽ phát hiện ra được những mặt, thuộc
tính của svht, qua đó giúp cng hiểu được svht ngày càng sâu sắc hơn, từ đó cng có dc những tri thứcvề svht,
nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới mọi tri thức của ng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
-Nhờ có hd thực tiễn, các giác quan của cng ngày càng hoàn thiện hơn, năng lực tư duy logic của cng ngày
càng phát triển, cng tạo ra được các công cụ, phương tiện để giúp cng nối dài giác quan chứng minh thực
tiễn là cơ sở của nhận thức
Thực tiễn cung cấp tài liệu, vật hiệu cho nhận thức của con nguời
VD: Sự ra đời của chủ nghĩa Mac-Lenin bắt nguồn từ thực tiễn mà cụ thể là điều kiện phát triển kinh tế-xã
hội của CNTB, cùng với đó là sự trưởng thành và phát triển của phong trào công nhân trên cơ sở phát triển của CNTB.
Do đó, nếu XA RỜI THỰC TIỄN, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiệnthực nuôi
dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Cũng vì thế, chủ thể nhận thứcKHÔNG THỂ có được
những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới nến nó xa rời thực tiễn.Vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thựctiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn, dừa trên cơ sở thực tiễn,đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết
thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn
đến sai lầm của bệnh chủ quan,duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò
của thực tiễn sẽ rơivào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa
thựctiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luậnmà
không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lýluận suông, ngược
lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất địnhsẽ biến thành thực tiễn mù quáng.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Mục đích của nhận thức không phải chỉ để nhận thức mà còn giúp con người hoạt động thực tiễn nhằmcải
biến thế giới. Nhấn mạnh vai trò này, Lenin cho rằng: “ Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phảilà quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
-Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lựchoạt động để
đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Thực tiễnluôn vận động, phát triển
nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Thựctiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết.
-Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu
biết của con người mới có ý nghĩa. Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức
đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
VD: mục đích bác sĩ, nhà nghiên cứu k ngừng tìm kiếm để tìm ra pp, thuốc vacxin là để chữa trị, phòng
chống dịch bệnh covid 19 ( thực tiễn ).
Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác,
nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên.
Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện, từ đó giúp con người nhận
thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
Trong hd thực tiễn, cng gặp nhiều khó khăn, thất bại, điều đó buộc cng phải giải đáp những câu hỏi do thực
tiễn đặt ra TT thúc đẩy nhận thức, lý luận,.. phát triển.
VD: Do nhu cầu đi lại ngta phát minh ra phương tiện (xe, máy bay
,…) phục vụ thuận tiện hơn cho
cng.Hoạt động LDSX vất vả của nông dân chế tạo ra nhiều loại máy móc khác nhau ( máy cày ,..) giải
phóng sức lao dộng, tăng cao năng suất lao dộng THỰC TIỄN LÀ ĐỘNG LỰC, THÔI THÚC TT LÍ
LUẬN CẦN GIẢI QUYẾT.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí, kiểm tra tính chân lí của qtrinh nhận thức
+ THỰC TIỄN LÀ TIÊU CHUẨN DUY NHẤT CỦA CHÂN LÝ
+ CHÂN LÝ CÓ TÍNH CỤ THỂ, CÓ ĐẶC TÍNH GẮN LIỀN VÀ PHÙ HỢP GIỮANỘI DUNG PHẢN
ÁNH VỚI MỘT ĐỐI TƯỢNG NHẤT ĐỊNH CÙNG CÁC ĐIỀUKIỆN, HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỤ
THỂ+ TIÊU CHUẨN THỰC TIỄN VỪA MANG TÍNH TUYỆT ĐỐI VỪA MANG TÍNHTƯƠNG ĐỐI.-
Thực tiễn là thước đo giá trị của tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời, TT k ngừng bổ sung, điều
chỉnh, phát triển và hoàn thiện NT. Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn
thiện, từ đó giúp con người nhậnthức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.-Mác đã từng khẳng định: “Vấn đề
tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là
vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lý”.VD: Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước chứng minh đường lối cm miền nam do Đảng đề ra hoàn toàn đúng đắn.
8. Phân tích con đường biện chung của quá trình nhận thức : (sgk 274)
Theo triết học Mác – Lênin, nhận thức không phải là sự phản ánh thụ động, giản đơn, mà là một quá trình biện chứng.
Theo Lênin: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
Theo đó, con đường biện chứng của quá trình nhận thức gồm hai khâu sau:
+ Nhận thức cảm tính bao gồm: Cảm giác; Tri giác; Biểu tượng
+ Nhận thức lý tính bao gồm: Khái niệm; Phán đoán; Suy luận Cụ thể như sau:
– Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là những tri thức do các giác quan mang lại. Nét đặc trưng cơ
bản ở giai đoạn này là nhận thức được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với thực tiễn thông qua các nấc
thang cảm giác, tri giác, biểu tượng. Các thành phần của nhận thức cảm thức như sau:
+ Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên các giác quan của con
người. Cảm giác phản ánh từng mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng. Nguồn
gốc và nội dung của cảm giác là thế giới khách quan, còn bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan về thế giới đó.
+ Tri giác là sự tổng hợp của nhiều cảm giác riêng biệt vào một mối liên hệ thống nhất tạo nên một hình ảnh
tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng.
+ Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự
tham gia của các yếu tố phân tích, trừu tượng và khả năng ghi nhận thông tin của não người. Đây là nấc
thang cao và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính; là hình ảnh cảm tính tương đối hoàn chỉnh về
sự vật, hiện tượng được lưu lại trong não người và do tác động nào đó được tái hiện lại khi sự vật, hiện
tượng không còn nằm trong tầm cảm tính. Trong biểu tượng đã có những phản ánh gián tiếp về sự vật, hiện
tượng và với biểu tượng, con người đã có thể hình dung được sự khác nhau và mâu thuẫn nhưng chưa nắm
được sự chuyển hóa từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác. – Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính bắt nguồn từ trực quan sinh động và từ những lý luận truyền lại. Nhận thức lý tính phản
ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận thức. Các thành phần của nhận thức lý tính bao gồm:
+ Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Khái niệm vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ
quan khi phản ánh cả một tập hợp những thuộc tính cơ bản có tính bản chất và chung nhất của sự vật, hiện
tượng nhờ sự tổng hợp, khái quát biện chứng những thông tin đã thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông
qua hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức
+ Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc
điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng; là hình thức phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan vào ý thức của con người tạo nên vai trò của phán đoán là hình thức biểu hiện
và diễn đạt các quy luật khách quan
+ Suy luận (suy lý) là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới theo
phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề (suy luận là quá trình đi từ những
phán đoán tiên đề đến một phán đoán mới). Suy luận có vai trò quan trọng trong tư duy trừu tượng, bởi nó
thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái đã biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết.
*Mối qh giữa cảm tính và lý tính : (sách)
Phân tích MQH cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến trúc thượng tầng (KTTT), ý nghĩa. Khái niệm: CSHT (tr305)
Ví dụ: Trong xã hội phong kiến ngoài quan hệ sản xuất phong kiến chiếm địa vị thống trị, nó còn có quan hệ
sản xuất tàn dư của xã hội chiếm hữu nô lệ, mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chính 3
yếu tố đó cấu thành nên cơ sở hạ tầng phong kiến. KTTT (tr306) Ví dụ: Nội dung MQH
MQH biện chứng giữa CSHT và KTTT là 1 quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển lịch sử xã
hội. CSHT và KTTT là 2 mặt cơ bản của xã hội gắn bó hữu cơ, có quan hệ biện chứng, trong đó CSHT
quyết định KTTT, còn KTTT tác động trở lại đối với CSHT.
Vai trò quyết định của CSHT với KTTT (tr308)
-Tất cả những hiện tượng … do CSHT quyết định
Ví dụ: Trước đây, vào khoảng từ 2000-4000 năm tcn, trên thế giới có xuất hiện hình thái kinh tế chiếm hữu
nô lệ: quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, đất đai và các tư liệu sản xuất khác hầu hết thuộc sở hữu tư nhân
của các chủ nô, kể cả nô lệ, từ đó hình thành nên kiểu nhà nước chủ nô. Cơ sở kinh tế xã hội (hay CSHT)
của nhà nước chủ nô là nhân tố quyết định bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước (hay KTTT)
cũng như quá trình tồn tại, phát triển của nhà nước chủ nô. Nô lệ có địa vị vô cùng thấp kém, họ bị coi là tài
sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt đối đối với nô lệ, khai thác bóc lột sức lao động, đánh
đập, đem bán, tặngcho, bỏ đói hay giết chết.
-CSHT không chỉ sản sinh … hình thái KT-XH khác.
Ví dụ: Diễn ra ngay trong bản thân các hình cái KT-XH: Thời bao cấp, VN ta có nền kinh tế nhà nước chỉ
huy, tức là các thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ. Tuy nhiên dần dần cho tới hiện nay, VN đang phát triển
kinh tế theo nền kt thị trường, có sự tham gia của rất nhiều doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp được
tạo điều kiện để phát triển. Sự thay đổi này diễn ra ngay trong hình thái KT-XH XHCN
Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT: (hong thấy zí dụ)
Vận dụng: Trước đổi mới (1986): đề cao thái quá vai trò của KTTT, chính trị là thống soái, Nhà nước, cơ
quan quản lí can thiệp thô bạo vào kinh tế bằng những mệnh lệnh chủ quan; vi phạm các quy luật kinh tế
khách quan => khủng hoảng kinh tế, xã hội.
Từ 1986 đến nay: Thực hiện đổi mới toàn diện (kinh tế, chính trị, vănhóa, xã hội), lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, từng bước đổi mới vềchính trị, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế; giải quyết tốt MQH giữa
đổi mới - ổn định – phát triển, giữ vững định hướng xãhội chủ nghĩa
Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị tác động mạnh mẽ qua lại với kinh tế
Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay: Về CSHT:
-Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trọng tâm.
-Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở hữu và bước đi thích hợp
làm cho QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
-Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, quan hệ kinh tế với nước ngoài ôi
với xoá đói giảm nghèo. Về KTTT:
-Nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng.
-Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, phát triển văn hóa tiến bộ mang đậm bản sắc dân tộc, giải quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.
-Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao cảnhgiác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi
âm mưu phá hoại nền kinh tế vàlật đổ chế độ.
Phân tích MQH giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
1. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội -Tồn tại xã hội … Ví dụ:
Thời tiền sử là thời đại VN được tính từ khi con người bắt đầu có mặt trên lành thổ VN cho tới khoảng thế kỉ
I TCN. Thời tiền sử là các bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ
song đã có những bước tiến lớn trong kỉ thuật chế tác, đã có nhiều hình loại ổn định nhằm phục vụ đời sống.
Thời kì này con người nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương,
sừng, tre gỗ… Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thuận lợi cho đời sống con người cộng với sự đa dạng phong
phú của các loài quán động thực vật phương Nam nên nguồn tài nguyên rất phong phú
-Ý thức xã hội: toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, những tâm tư, tình cảm, những tập tục truyền thống…
của XH phản ánh lại tồn tại XH ở từng giai đoạnphát triển lịch sử nhất định.
+ Ý thức xã hội thông thường + Ý thức lý luận
2. Về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
+ Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy.
+ Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đãthay đổi thì sớm hay muộn thì
ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
VD: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn làm
chung, hưởng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã,
quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con
người biến đổi căn bản; nảy sinh và phát triển, tư tưởng tư hữu, ăn bám, bóc lột, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô ra đời.
- Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội:
+ Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
+ Vai trò tiên phong vượt trước của tri thức khoa học, bộ phận này trong ý thứcxã hội có khả năng nắm bắt
các quy luật vận động khách quan, từ đó đưa ra đượcnhững dự báo, tiên đoán về sự phát triển của XH, nên
có thể đi trước một bướcso với tồn tại xã hội.
+ Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có thể làm cho nó có một trình độ phát triển cao hơn so với tồn tại xã hội
VD: - Khoa học phát triển nhanh chóng nhưng ý thức con người chưa phát triển, còn nhiều phong tục tập
quán lạc hậu như hủ tục ma chay, trọng nam khinh nữ.
-Tư tưởng lấy “Dân làm gốc”, Hồ Chí Minh: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong
Phân tích quy luật qhsx phù hợp với tốc độ phát triển TLSX
1. Lực lượng sản xuất là gì ?- Lực lượng sản xuất là quan hệ giữa người lao động với tư liệu sản xuất,
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo
nhu cầu nhất định của con người và xã hội..
- Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động sống” với “lao động vật hoá” tạo ra sức sản xuất, là
toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kì nhất định
- Khái niệm “lực lượng sản xuất” nói lên năng lực thực tiễn cơ bản nhất – năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.
- Về mặt kết cấu, lực lượng sản xuất gồm hai thành tố là Người lao động và Tư liệu sản xuất:
+ Người lao động : Là con người có trí thức,kinh nghiệm, sức khỏe, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo
nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu
dùng mọi của cải, vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Do tầm quan
trọng củanhân tố con người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng
đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, người lao động”.
+ Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động
Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dùng tưliệu lao động tác động lên,
nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người. Đối tượng lao động bao gồm 2 loại :
có sẵn trong tự nhiên và đã qua chế biến.
Ví dụ: - Nước, đất đai, cát sỏi, không khí, gió, ánh sáng, quặng sắt, vàng, than đá,..., có sẵn trong tự nhiên.-
Đã qua chế biến: Vải, sợi chỉ, tấm kính, sợi, thanh nhôm, đồng, giấy, gạch trong xây dựng,...2
-Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối
tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người.
Tư liệu lao động bao gồm : phương tiện lao động và công cụ lao động
-Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con người sử
dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất.
Ví dụ: Tàu thuyền, xe ô tô tải, máy bay, dùng để chuyên chở hàng hóa,...o
-Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng
lao động nhằm biến đổi chúng , tạo ra của cải vật chấtphục vụ cho nhu cầu của con người và xã hội. Ví dụ:
cày, cuốc, dệt, máy gặt lúa, xe tải…
- Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động
Quan hệ sản xuất là gì?
- Quan hệ sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ các mốiquan hệ kinh tế - vật chất
giữa con người với con người trong quá trình sản xuất vật chất, , giữ vai trò xuyên suốt trong quan hệ xã hội
vì quan hệ sản xuất là quan hệ đầu tiên, quyết định những quan hệ khác
- Quan hệ sản xuất là sự thống nhất giữa 3 quan hệ ( 3 mặt) : quan hệ về sở hữu đốivới tư liệu sản xuất, quan
hệ về tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động xã hội...Quan hệ sản xuất là một
hình thức xã hội của sản xuất; giữa 3 mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống
mangtính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất
- Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào
ý muốn chủ quan, tuỳ tiện của lực lượng sản xuất ở mộtgiai đoạn lịch sử nhất định. C.Mác đã viết :” Trông
sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên, Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp
vớinhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được,
người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên là quan hệ sản xuất”
- Trong quan hệ sản xuất, quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định bản chất và tính chất của
quan hệ sản xuất. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của quan hệ sản
xuất, luôn có vai trò quyết định các quan hệ khác bởi vì, lực lượng xã hội nào nắm được phương tiện vật
chất chủ yếu của quá trình sản xuất sẽ quyết định việc quản lý quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm. Ví
dụ: Trong quá trình khai thác mỏ than, nếu mỗi người chỉ làm việc một cách tách biệt, không có sự phối hợp
giữa các công nhân, những người công nhân lại không nghe chỉ đạo của quản lý…, tức là không tồn tại mối
quan hệ giữa những con người với nhau (“quan hệ sản xuất”), thì tập thể đó không thể khai thác than hiệu quả.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
-Mối quan hệ biên chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời
nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. C.Mác đã từng viết: “ Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của
mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan
hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật
chất của họ.” Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển sản xuất, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Tính quyết định của lực
lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được thể hiện trên2 mặt thống nhất với nhau : lực lượng sản xuất
nào thì quan hệ sản xuất đó và cũngdo đó mà khi lực lượng sản xuất thay đổi thì cũng tất yếu đòi hỏi phải có
những thay đổi nhất định đối với quan hệ sản xuất.
+ Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ mâu thuẫn biện chứng, tức là mối quan hệ
thống nhất của 2 mặt đối lập. Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là đi từ sự thống nhất đến mâu thuẫn và một khi mâu thuẫn được giải quyết thì tái thiết lập sự thống
nhất mới; quá trình này lặp đi lặp lại trong lịch sử tạo ra quá trình vận động phát triển của phương thức sản xuất.
-Tác động của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất là:
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp
với nó. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính cách mạng, thường xuyên vận động và
phát triển; quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất,có tính ổn định tương đối. Lực lượng
sản xuất vận động, phát triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất trở thành
“xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vậy nên đòi hỏi quan hệ sản xuất phải thay đổi
để phùhợp với lực lượng sản xuất.
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp
trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ
sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản
xuất mới ra đời thay thế
+ Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới tronglịch sử, quyết định nội
dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Như vậy, tác động của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất là
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất là nội dung thường xuyên biến đổi (động) và quan hệ sản xuất là hình
thức xã hội lại tương đối ổn định ( tĩnh). Bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, con người phát hiện và giải
quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao hơn.
Ví dụ: - Cách mạng tư sản ở Anh (1642 – 1651), ở Pháp (1789 – 1799) đã xóa bỏ phương thức sản xuất
phong kiến và thay bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Cách mạng vô sản năm 1917 ở Nga đã đưa phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên xuất hiện trên thực tế..
.-Bên cạnh đó, quan hệ sản xuất lại tác động trở lại lực lượng sản xuất như sau
+ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng cótính độc lập tương đối và
tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
diễn ra theo hai hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc tiêu cực,
kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không phù hợp.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp thì khi đó quan hê sản xuất sẽ là “hình thức phát triển” của lực lượng sản
xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển đúng hướng: quy mô sản xuất được mở rộng;
những thành tựu khoa học và công nghệ được áp dụng nhanh chóng; người lao động nhiệt tình, hăng hái sản
xuất, lợi ích của người lao động được đảm bảo và thúc đẩu lực lượng sảnxuất phát triển. Sự phù hợp bao
gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất; giữa các yếu tố cấu thành quan hệ
sản xuất; giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Sự phù hợp bao gồm cả việc sử dụng và kếthợp giữa
người lao động và tư liệu sản xuất; tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và
hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần lao động.
Nếu quan hệ sản xuất “đi sau” hoặc “vượt trước” trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đều là không
phù hợp. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên
sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định.
-Ví Dụ:- Sau chiến thắng năm 1975, Việt Nam từng bước đi vào thời kì đổi mới đất nước , thực hiện cơ chế
quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Khi xác lập quan hệ sản xuất chúng ta tuyệt đối
hóa vai trò của công hữu làmcho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại giản đơn giữa hai hình thức toàn dân và tập
thể, kỳ thị, nóng vội xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận các hình thức sở
hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, trong khi nó đang tạo điều kiện
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất
Sự phù hợp không có nghĩa là đồng nhất tuyệt đối mà chỉ mang tính chất tương đối, trong đó chứa đựng cả
sự khác biệt. Sự phù hợp diễn ra trong sự vận động và phát triển, là một quá trình thường xuyên nảy sinh
mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn. Trạng thái vận động mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình độ cao hơn.
C.Mác đã khẳng định:” Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của
xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn
phát triển Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội.