Trình bày lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về tích lũy tư bản (vốn) và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu

Trình bày lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về tích lũy tư bản (vốn) và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45740153
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Viện Đào Tạo Tiên Tiến, Chất Lượng Cao Và Pohe
…….***……
BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Đề tài: “Trình bày lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về tích lũy
tư bản (vốn) và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam”
Họ và tên: Nguyễn Văn Minh Hiếu
Mã sinh viên: 11222612
Lớp tín chỉ : LLNL1106(222)CLC_26
Số thứ tự: 16
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hiếu
Hà Nội, tháng 3 năm 2023
MỤC LỤC
lOMoARcPSD| 45740153
1
LỜI CẢM ƠN
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. TÁI SẢN XUẤT ...................................................................................................................................... 3
1. Khái niệm tái sản xuất ..............................................................................................................3
2. Tái sản xuất giản đơn ...............................................................................................................3
3. Tái sản xuất mở rộng ................................................................................................................4
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN ............................................................................................. 4
1. Khái niệm và nguồn gốc ...........................................................................................................4
1.1. Khái niệm ..........................................................................................................................4
1.2. Nguồn gốc .........................................................................................................................6
2. Thực chất và động cơ của ch lũy tư bản ................................................................................7
2.1. Thực chất ..........................................................................................................................7
2.2. Động cơ .............................................................................................................................7
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô của ch lũy tư bản ...................................................8
3.1. Trình độ khai thác sức lao động ........................................................................................9
3.2. Nâng cao năng suất lao động ...........................................................................................9
3.3. Sử dụng hiệu quả máy móc ..............................................................................................9
3.4. Đại lượng tư bản ứng trước ...........................................................................................10
4. Quy luật chung của ch lũy tư bản chủ nghĩa .......................................................................10
4.1. Quá trình ch lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản .........................10
4.2. Quá trình ch lũy tư bản là quá trình ch tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng ........11
4.3. Quá trình ch lũy tư bản làm không ngừng làm tăng chêch lệch giữa thu nhập của nhà
bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương đối ....................11
III. LIÊN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM ...................................................................................................... 12
1. Thực trạng ch lũy vốn tại Việt Nam .....................................................................................13
2. Những giải pháp tăng cường ch lũy vốn Việt Nam ..........................................................14
2.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ ch luỹ - êu dùng ...................................................14
2.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn ....................................................................................14
2.3. Tăng cường ch luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài ..15
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
lOMoARcPSD| 45740153
2
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn Viện Đào tạo Tiên tiến, Chất lượng cao
và POHETrường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tạo điều kiện thuận lợi cho em thực
hiện đề tài tiểu luận này!
Em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn Kinh tế chính trị Mác -
Lênin - Nguyễn Thị thanh Hiếu đã ân cần chỉ bảo, dạy dỗ chúng em trong suốt thời
gian qua. Những kiến thức mà cô đã truyền tải góp phần rất lớn vào bài tiểu luận này!
Em xin gửi lời cảm ơn tới những anh, chị và những cá nhân đã luôn quan tâm giúp
đỡ, cổ vũ tinh thần và tạo động lực để em hoàn thành bài tiểu luận này!
Bài tiểu luận đã giúp em rất nhiều trong việc nâng cao khả năng diễn giải và phát
triển tư duy. Dù vậy, đây là bài tiểu luận đầu tay, nên những sai sót là không thể tránh
khỏi. Em rất mong sẽ nhận được sự thông cảm, góp ý và giúp đỡ từ cô! Chúc cô và gia
đình hạnh phúc, bình an!
Hà Nội, ngày 24 tháng 3 năm 2023
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập, phát triển năng động nhất trong lịch sử,
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị, nâng cao vị thế của đất nước
trên trường quốc tế. Đây là những thành tựu rất đáng tự hào mà mỗi chúng ta đều cảm
nhận được, là kết quả của sự lựa chọn đúng đắn, vận dụng sáng tạo con đường và phương
thức phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là nguyên tắc cơ bản của phát
triển kinh tế Việt Nam. Với xuất phát điểm thấp, tiềm lực kinh tế thấp do chiến tranh tàn
phá, chúng ta phải đối mặt với thực trạng trình độ công nghệ thấp, năng suất lao động
thấp.
Trong các mô hình kinh tế hiện đại, vốn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế. Nhà kinh tế học hiện đại Samuelson lập luận rằng một trong những đặc
điểm quan trọng nhất của kinh tế học hiện đại là "kỹ thuật công nghiệp tiên tiến, hiện đại
dựa trên việc sử dụng vốn lớn." Vốn là nền tảng tạo việc làm, sản xuất công nghệ tiên
tiến, nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, góp phần thúc
đẩy ngành sản xuất phát triển theo chiều sâu. Mô hình sử dụng vốn có tác động đáng kể
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia.
Để duy trì tốc độ phát triển kinh tế tăng trưởng cao và bền vững, thách thức lớn nhất
là phương thức cấp vốn, có thể huy động từ tích lũy trong nước hoặc tín dụng nước ngoài.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng tích lũy và huy động vốn trong nước có ý nghĩa
lOMoARcPSD| 45740153
3
cực kỳ quan trọng để đảm bảo tính bền vững của nền kinh tế, bởi nền kinh tế không nên
phụ thuộc quá mức vào các nguồn vốn từ bên ngoài.
Bài tiểu luận “Tích lũy tư bản và vận dụng lý luận về tích lũy tư bản vào thực tiễn
Việt Nam” dưới đây sẽ đề cập đến những lý luận chung về tích lũy tư bản và cách áp
dụng lý luận này vào thực tế ở Việt Nam với nhận thức sâu sắc về vai trò của việc tích lũy
vốn trong việc phát triển kinh tế đất nước.. Em rất mong nhận được sự đánh giá và hướng
dẫn của cô để bài làm được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn cô!
NỘI DUNG
Nói đến tích lũy ta thấy nó gắn liền với tái sản xuất mở rộng. Nói đúng ra, tích lũy
tư bản chẳng qua là tái sản xuất với quy mô ngày càng mở rộng.
I. TÁI SẢN XUẤT
1. Khái niệm tái sản xuất
Tái sản xuất là một quá trình sản xuất liên tục lặp đi lặp lại đổi mới. C. Mác: “Dù
cho hình thái xã hội của quá trình sản xuất là như thế nào chăng nữa, thì bao giờ quá trình
đó cũng phải nh chất liên tục, hay cứ từng chu kỳ một, phải không ngừng trải qua cùng
những giai đoạn ấy. hội không thể ngừng tiêu dùng, thì hội ng không thể ngừng
sản xuất. vậy, xét trong mối liên hệ không ngừng trong tiến trình của nó, mọi quá
trình sản xuất xã hội đồng thời cũng là quá trình sản xuất".
(Trích: C.Mác bộ "Tư bản", quyển I, tập 3, tr.8).
2. Tái sản xuất giản đơn
Khái niệm: Tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa là sự lặp đi lặp lại quá trình sản
xuất theo cùng một quy mô. Toàn bộ giá trị thặng dư đã bị nhà bản tiêu dùng lợi ích
cá nhân.
"Nếu như thu nhập đó chỉ được dùng làm quỹ tiêu dùng cho nhà tư bản hay nếu
cũng được tiêu dùng theo từng chu kỳ giống nngười ta đã kiếm được nó, thì trong những
điều kiện khác không thay đổi, sẽ chỉ diễn ra tái sản xuất giản đơn thôi. Và mặc tái
sản xuất này chỉ sự lặp lại quá trình sản xuất với quy không thay đổi, nhưng sự lặp
đi lặp lại giản đơn ấy, hay tính chất liên tục ấy, cũng đem lại cho quá trình những nét mới
hay nói cho đúng hơn, nó xóa bỏ những nét có vẻ như là đặc trưng của quá trình đó khi chỉ
là một hành vi cá biệt".
(Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, tr:9-10).
lOMoARcPSD| 45740153
4
Quá trình sản xuất bắt đầu bằng việc mua sức lao động trong một khoảng thời gian,
và sự khởi đầu này thường được lặp lại khi đạt đến một giai đoạn sản xuất cụ thể đồng thời
với thời điểm kết thúc giai đoạn mua sức lao động.
Quá trình tái sản xuất bản chủ nghĩa quá trình sản xuất lại các tài nguyên sản
xuất và tiêu dùng dưới dạng bản, trong đó lao động được thuê làm quan hệ sản xuất
bóc lột giữa giai cấp tư bản và công nhân được duy trì dưới hình thức giá trị thặng dư.
"Những người công nhân thì chỉ được trả công sau khi sức lao động của người đó
đã phát huy tác dụng đã thực hiện được giá trị của bản thân nó, cũng như giá trị thặng
dư năm trong các hàng hóa. Như thế người công nhân đã sản xuất ra cả số giá trị thặng
chúng ta tạm thời coi như quỹ tiêu dùng của nhà bản, lẫn cái quỹ dùng để trả
công cho chính mình, tức bản khả biến, trước khi bản khả biến trở về tay anh ta
dưới dạng tiền công, anh ta chỉ việc làm chứng o anh ta còn không ngừng tái sản
xuất ra tư bản khả biến ấy".
(Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C21, tr:9-10).
3. Tái sản xuất mở rộng
Tái sản xuất mở rộng trong tư bản chủ nghĩa là quá trình gia tăng quy mô sản xuất,
với việc đầu tư một lượng tư bản lớn hơn vào hoạt động sản xuất.
"Là một kẻ cuồng tín việc làm tăng thêm giá trị, nhà bản thẳng tay cưỡng bức
loài người phải sản xuất để sản xuất, do đó hắn cưỡng bức hphải phát triển những lực
lượng sản xuất xã hội và tạo ra những điều kiện sản xuất vật chất, mà chỉ một mình những
điều kiện này mới thể hình thành cái sở hiện thực của một hình thái hội nguyên
tắc cơ bản là mọi cá nhân đều được phát triển đầy đủ và tự do".
(Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.55).
"Sự phát triển của nền sản xuất bản chủ nghĩa làm cho sự tăng thêm không ngừng
của số bản bỏ vào một xí nghiệp công nghiệp trở thành một sự tất yếu và cạnh tranh làm
cho những quy luật bên trong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành những
quy luật bên ngoài có tính chất cưỡng chế đối với nhà tư bản cá biệt. Cạnh tranh buộc nhà
tư bản không ngừng mở rộng, tư bản để giữ được tư bản, và hắn chỉ có thể mở rộng tư bản
của mình bằng cách tích luỹ ngày càng nhiều hơn mà thôi".
(Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyền I, tập 3, C22, tr.55).
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN
1. Khái niệm và nguồn gốc
1.1. Khái niệm
Tích lũy tư bản, theo quan điểm chính trị kinh tế Mác-Lenin, đề cập đến việc
chuyển đổi một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản. Tuy nhiên, trong các lý luận
lOMoARcPSD| 45740153
5
kinh tế học khác, định nghĩa này có thể được mô tả đơn giản hơn là sự hình thành tư bản,
qua việc gia tăng lượng vốn trong hình thức tư bản cố định và lưu kho của cả chính phủ
và tư nhân.
Thực chất, tích lũy tư bản bắt nguồn từ việc sử dụng giá trị thặng dư để tạo ra tư
bản. Điều này dẫn đến việc lao động của công nhân bị tư bản chiếm đoạt, khiến cho tư
bản trở nên mạnh mẽ hơn và ngày càng tăng cường vị thế quyết định của nó trong xã hội.
Ví dụ 1: Giả sử có một công ty sản xuất đồ điện tử với quy mô tư bản năm đầu là 500
triệu đồng (400 triệu đồng cho vốn cố định (C) và 100 triệu đồng cho lương công nhân
(V), và giá trị thặng dư (m) là 100 triệu đồng. Công ty quyết định phân bổ giá trị thặng
này thành 70 triệu đồng dùng để tích luỹ (m1) và 30 triệu đồng dành cho tiêu dùng cá
nhân của chủ sở hữu công ty (m2).
Với tỷ lệ C/V là 4/1, công ty quyết định sử dụng 70 triệu đồng lợi nhuận tích lu
(m1) để đầu tư vào vốn cố định (C1) và 17,5 triệu đồng lợi nhuận (m1) để đầu tư vào
lương công nhân (V1). Kết luận:
Quy mô tư bản bất biến (C) của công ty là 400 triệu đồng trong năm thứ nhất và
tăng lên thành 470 triệu đồng trong năm thứ hai sau khi tích luỹ lợi nhuận m1 để
đầu tư vào vốn cố định (C1).
Quy mô tư bản khả biến (V) của công ty là 100 triệu đồng trong năm thứ nhất và
tăng lên thành 117,5 triệu đồng trong năm thứ hai sau khi tích luỹ lợi nhuận m1 để
đầu tư vào lương công nhân (V1).
Giá trị thặng dư (m) được tích luỹ và sử dụng để đầu tư vào việc mở rộng sản
xuất, đồng thời phân bổ giữa vốn cố định (C1) và lương công nhân (V1) theo tỷ lệ
C/V đã định trước.
Ví dụ 2: Giả sử có một nhà máy sản xuất giày dép với quy mô tư bản năm thứ nhất
là 1000 đô la (C + V), trong đó vốn cố định (C) chiếm 800 đô la (80% tổng chi phí) và
lương công nhân (V) chiếm 200 đô la (20% tổng chi phí). Tổng giá trị hàng hoá được sản
xuất trong năm đầu tiên là 1200 đô la.
Để tái sản xuất mở rộng, nhà máy quyết định tích luỹ 10% lợi nhuận (m) để đầu tư
vào việc mở rộng sản xuất. Tỷ lệ tích luỹ là 10%, tức là 10% lợi nhuận được dành cho
tích luỹ và 90% để tiêu dùng cho cá nhân của chủ sở hữu nhà máy.
Giả sử lợi nhuận đạt được trong năm đầu tiên là 200 đô la, trong đó 20 đô la được
dành cho tích luỹ (m1) và 180 đô la dành cho tiêu dùng cho nhân của chủ sở hữu n
máy (m2).
Với tỷ lệ C/V là 4/1, tức là vốn cố định (C) chiếm 4 lần lương công nhân (V), nhà
máy quyết định sử dụng 20 đô la lợi nhuận tích luỹ (m1) để đầu tư vào vốn cố định (C1)
và 5 đô la lợi nhuận (m1) để đầu tư vào lương công nhân (V1). Kết luận:
lOMoARcPSD| 45740153
6
Quy mô tư bản bất biến (C) của nhà máy là 800 đô la trong năm thứ nhất và tăng
lên thành 820 đô la trong năm thứ hai sau khi tích luỹ lợi nhuận m1 để đầu tư vào
vốn cố định (C1).
Quy mô tư bản khả biến (V) của nhà máy là 200 đô la trong năm thứ nhất và tăng
lên thành 205 đô la trong năm thứ hai sau khi tích luỹ lợi nhuận m1 để đầu tư vào
lương công nhân (V1).
Giá trị thặng dư (m) được tích luỹ và sử dụng để đầu tư vào việc mở rộng sản
xuất, đồng thời phân bổ giữa vốn cố định (C1) và lương công nhân (V1) theo tỷ lệ
C/V đã định trước.
Vậy, tích luỹ tư bản là quá trình biến một phần giá trị thặng dư (m) trong quá trình
sản xuất được phân bổ và sử dụng để đầu tư vào vốn cố định (C) và lương công nhân (V),
làm cho quy mô tư bản bất biến (C) và quy mô tư bản khả biến (V) tăng lên. Tích luỹ
bản chủ nghĩa thực chất là quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư, tức là sử dụng giá trị
thặng dư để đầu tư vào việc mở rộng sản xuất, đồng thời phân bổ giữa vốn cố định (C) và
lương công nhân (V) theo tỷ lệ đã định trước.
Cần nhận thức sự khác biệt giữa tích luỹ tư bản chủ nghĩa và tích luỹ nguyên thủy
tư bản chủ nghĩa.
Tích luỹ nguyên thủy tư bản chủ nghĩa thực chất là quá trình sử dụng bạo lực hoặc
các phương thức tước đoạt, tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất để tích luỹ
phi kinh tế, không phụ thuộc vào quy trình sản xuất chủ nghĩa hiện đại.
Trong khi đó, tích luỹ tư bản chủ nghĩa là quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư, tức
là sử dụng giá trị thặng dư để đầu tư vào việc mở rộng sản xuất, là quá trình tích
luỹ kinh tế dựa trên quy trình sản xuất chủ nghĩa hiện đại.
1.2. Nguồn gốc
Thứ nhất, tích luỹ tư bản là quá trình giúp giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ trở
thành một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Câu nói của
CMác "tư bản chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích lũy" đặc trưng cho quan
điểm này. Trong quá trình tái sản xuất, lãi (m) được tích lũy vào vốn, và khi vốn càng lớn
thì lãi càng gia tăng, tạo điều kiện cho quá trình tích luỹ vốn diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Do đó, người công nhân trở thành phương tiện để bóc lột chính mình.
Thứ hai, thực hiện quá trình tích lũy đã dẫn đến sự biến đổi của quyền sở hữu
trong nền kinh tế hàng hóa, từ quyền sở hữu chung của cộng đồng trở thành quyền sở hữu
độc quyền của tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa giản đơn, nguyên tắc ngang giá
trong sự trao đổi giữa người sản xuất hàng hóa không dẫn đến chiếm đoạt lao động không
công của người khác. Tuy nhiên, trong hệ thống kinh tế dựa trên chủ nghĩa tư bản, vai trò
của nhà tư bản không chỉ giới hạn trong việc chiếm đoạt một phần lao động của công
nhân, mà còn là chủ sở hữu hợp pháp của lao động không công, tức là những giá trị mà
lOMoARcPSD| 45740153
7
công nhân tạo ra ngoài giờ làm việc chính thức. Tuy vậy, điều này không vi phạm quy
luật giá trị.
Nguồn gốc của tư bản khả biến (v) là do công nhân tạo ra thông qua sức lao động
của họ, và công nhân ứng trước sức lao động này cho nhà tư bản chứ không phải ngược
lại, tức nhà tư bản ứng trước tiền công cho công nhân.
Nguồn gốc của tư bản ứng trước là do tích luỹ giá trị thặng dư (m). Sau nhiều chu
kỳ sản xuất, nhà tư bản đã tiêu dùng hết một lượng lớn hơn nhiều tư bản ứng trước.
Công nhân dựa vào sự hỗ trợ của nhà tư bản trong cả quá trình sản xuất và tiêu
dùng
Về mặt sản xuất, công nhân bị nhà bản quản để tạo ra giá trị thặng dư, được
phân chia thành hai phần là giá trị sản phẩm (y) và giá trị thặng dư (m). Do đó, thu
nhập của ng nhân phụ thuộc vào cách nhà bản phân chia giá trị thặng này.
Nếu cung (sản lượng) lớn hơn cầu (nhu cầu), dẫn đến mức tiền công (tiền lương)
không đủ để tiêu dùng, tiền công thực tế sẽ giảm.
Về mặt tiêu dùng, công nhân phụ thuộc vào nhà bản thương nghiệp. Tiền công
danh nghĩa chỉ là phần chuyển đổi từ giá trị thặng dư, trong khi công nhân sử dụng
tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất sức lao động tiếp tục làm việc để thu nhập. Do
đó, việc tiêu dùng của công nhân nhằm phục vụ cho sản xuất của nhà tư bản.
2. Thực chất và động cơ của ch lũy tư bản
2.1. Thực chất
Dưới chủ nghĩa tư bản, để đạt được mục tiêu tái sản xuất và mở rộng, nhà tư bản
không thể hoàn toàn sử dụng giá trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân. Thay vào đó, họ phải
dành một phần để đầu tư lại vào sản xuất, nhằm tăng quy mô đầu tư so với năm trước.
Phần giá trị thặng dư này được gọi là tư bản phụ thêm, là một phần của giá trị
thặng dư được tích luỹ để đầu tư vào mở rộng sản xuất.
Do đó, thực chất của việc tích luỹ tư bản chính là quá trình biến đổi giá trị thặng
dư thành tư bản, bởi vì giá trị thặng dư đã chứa đựng những yếu tố vật chất cần thiết cho
việc phát triển tư bản mới.
2.2. Động cơ
Quy luật giá trị thặng dư – quy luật kinh tế là động cơ cơ bản thúc đẩy quá trình
tích luỹ tư bản trong chủ nghĩa tư bản.
Mục đích chính của việc theo đuổi giá trị thặng dư, quy luật kinh tế bản của
chủ nghĩa bản, yêu cầu sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng để phục vụ
cho lợi ích của nhà bản. Để làm được điều này, sản xuất bản chủ nghĩa cần
phải phát triển cả theo chiều rộng và chiều sâu, đồng thời tích luỹ tư bản.
lOMoARcPSD| 45740153
8
Cạnh tranh đạt được lợi nhuận điểm đúng của cạnh tranh mục tiêu của
các nhà bản. Để đạt được điều này, họ cần phải tích luỹ bản. Nếu không tích
luỹ, không có sự đổi mới kỹ thuật để phát triển sản xuất.
Phát triển sản xuất: Để đạt được sự phát triển bền vững, các nhà tư bản cần tích lu
bản để đầu vào mở rộng sản xuất, tăng sản lượng đa dạng hóa dòng sản
phẩm. Tích luỹ bản giúp tạo ra nguồn vốn cần thiết để đầu vào các hoạt động
nghiên cứu và phát triển, cải tiến công nghệ, tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới, từ đó
thúc đẩy phát triển sản xuất.
Tối ưu hóa lợi ích: Tích luỹ bản cũng giúp các nhà bản tối ưu hóa lợi ích của
họ trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Việc tích luỹ tư bản giúp tăng cường khả
năng đàm phán với lao động, đối tác kinh doanh, nguồn cung cấp và thị trường tiêu
thụ, từ đó đẩy mạnh quan hệ đối tác và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Tận dụng cơ hội đầu tư: Tích luỹ tư bản giúp các nhà tư bản tận dụng cơ hội đầu
trong môi trường kinh tế chủ nghĩa tư bản. Điều này có thể bao gồm đầu tư vào các
nguồn lực, dây chuyền sản xuất, sở hạ tầng, đầu nước ngoài hoặc đầu vào
các công ty con hoặc công ty liên kết để mở rộng hoạt động kinh doanh tăng
cường khả năng cạnh tranh.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô của ch lũy tư bản
Sự tích luỹ tư bản phụ đạt quy mô nào sẽ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng
dư được tạo ra và tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu nhập.
Nếu nhà tư bản sử dụng khối lượng giá trị thặng dư vào việc tiêu dùng cá nhân
nhiều, thì khối lượng giá trị thặng dư dành cho tích luỹ sẽ giảm đi. Kết quả là quy mô của
tích luỹ tư bản của nhà tư bản đó sẽ giảm xuống. Tuy nhiên, nếu nhà tư bản giảm việc
tiêu dùng cá nhân, khối lượng tích luỹ sẽ tăng lên. Tích luỹ của chế độ tư bản chủ nghĩa
nhằm thu được càng nhiều giá trị thặng dư, chẳng hạn, thông qua việc mở rộng sản xuất,
gia tăng khả năng bóc lột công nhân để có thêm giá trị thặng dư. Khi đó, nhà tư bản càng
có vốn để mở rộng sản xuất, quy mô bóc lột càng tăng lên để đối phó với tình trạng cạnh
tranh gay gắt trong xã hội tư bản, và họ cũng phải tích luỹ thêm để mở rộng sản xuất với
quy mô lớn hơn nhằm giành được lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Nếu tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư đã được định trước, thì quy mô của tích luỹ tư
bản sẽ phụ thuộc vào đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư. Do đó, những nhân tố quyết
định quy mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định quy mô của khối lượng g
trị thặng dư. Nếu giá trị thặng dư càng lớn, thì quy mô tích luỹ tư bản sẽ càng cao, và
ngược lại.
Có 4 nhân tố quyết định quy mô của khối lượng giá trị thặng dư:
lOMoARcPSD| 45740153
9
3.1. Trình độ khai thác sức lao động
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ giữa giá trị thặng dư và giá trị cần thiết để duy trì
tồn tại và phát triển của lao động xã hội. Tăng cao tỷ suất giá trị thặng dư là một yếu tố
quan trọng trong việc nâng cao quy mô của tích lũy tư bản.
Khi tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên, có một số hiệu ứng tích cực đến quy mô của tích
lũy tư bản:
Tăng cao tỷ suất giá trị thặng dư đồng nghĩa với việc giá trị thặng dư tăng lên so
với giá trị cần thiết để duy trì hoạt động của xã hội. Điều này đồng nghĩa với việc
có nhiều giá trị thặng dư hơn được dành cho tích luỹ tư bản.
Giá trị thặng dư được tích luỹ thêm vào vốn tư bản, góp phần tăng quy mô của tích
lũy tư bản. Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì giá trị tư bản tích luỹ càng nhiều,
từ đó đẩy mạnh quy mô của tích lũy tư bản.
3.2. Nâng cao năng suất lao động
Năng suất lao động là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quy mô
của tích lũy tư bản. Khi năng suất lao động xã hội tăng lên, tức là mỗi đơn vị lao động sản
xuất được nhiều hơn, giá cả của tư liệu sản xuất và tiêu dùng giảm xuống. Sự giảm này
hai hệ quả đối với tích lũy tư bản.
Trước hết, với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích lũy
bản có thể tăng lên. Điều này có nghĩa là nhà tư bản có thể tích luỹ nhiều tư bản hơn mà
không phải giảm tiêu dùng của mình, thậm chí có thể tăng tiêu dùng. Điều này giúp nâng
cao quy mô của tích lũy tư bản.
Thứ hai, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích lũy có thể chuyển hóa
thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn trước. Điều
này đồng nghĩa với việc có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư
bản mới, làm tăng quy mô của tích lũy.
Vì vậy, nâng cao năng suất lao động xã hội sẽ cung cấp thêm nguồn lực vật chất để
tích lũy tư bản, từ đó làm tăng quy mô của tích lũy. Nếu năng suất lao động cao, thì lao
động trước đây được sử dụng nhiều hơn, lại được tái hiện dưới hình thái có ích mới, được
sử dụng làm chức năng của tư bản ngày càng nhiều, từ đó cũng làm tăng quy mô của tích
lũy tư bản.
3.3. Sử dụng hiệu quả máy móc
Sử dụng hiệu quả máy móc trong quá trình sản xuất cũng là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến quy mô của tích lũy tư bản. Việc đầu tư vào công nghệ, máy móc hiện đại
giúp nâng cao năng suất lao động, giảm bớt thời gian và công sức lao động cần thiết cho
mỗi đơn vị sản phẩm. Khi đạt được sự hiệu quả cao trong việc sử dụng máy móc, giá trị
thặng dư được tạo ra sẽ lớn hơn, từ đó làm tăng khối lượng tư bản tích luỹ.
lOMoARcPSD| 45740153
10
Ngoài ra, sử dụng máy móc hiệu quả còn giúp giảm bớt lãng phí và nguy cơ hư
hỏng, nâng cao độ tin cậy và tuổi thọ của các thiết bị, từ đó giúp tăng tính bền vững của
quy mô tích lũy tư bản. Việc ứng dụng công nghệ mới, tiến bộ trong tổ chức sản xuất và
quản lý cũng đồng thời giúp cải thiện chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trên thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho tích lũy tư bản.
3.4. Đại lượng tư bản ứng trước
Đại lượng tư bản ứng trước là số lượng tư bản đã tích luỹ từ quá khứ và được sử
dụng lại trong quá trình sản xuất. Việc sử dụng hiệu quả đại lượng tư bản ứng trước cũng
đóng vai trò quan trọng trong quyết định quy mô của tích lũy tư bản.
Nếu đại lượng tư bản ứng trước lớn, tức là có nhiều tư bản được tích luỹ từ quá
khứ, được sử dụng lại trong quá trình sản xuất, thì quy mô của tích lũy tư bản sẽ tăng lên.
Điều này có nghĩa là nguồn tư bản cho sản xuất là đủ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, từ
đó giúp tăng năng suất lao động và giảm giá cả tư liệu sản xuất. Quy mô tích lũy tư bản
càng lớn thì cơ sở vật chất cho quá trình sản xuất càng được nâng cao, giúp tăng năng
suất lao động và nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư.
Tuy nhiên, để sử dụng hiệu quả đại lượng tư bản ứng trước, cần đảm bảo rằng
công nghệ sản xuất hiện đại, quy trình sản xuất được tối ưu hóa và quản lý sản xuất được
cải tiến. Nếu công nghệ sản xuất lạc hậu, quy trình sản xuất không hiệu quả hoặc quản lý
sản xuất kém, thì sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng đại lượng tư bản ứng trước và ảnh hưởng
đến quy mô của tích lũy tư bản.
4. Quy luật chung của ch lũy tư bản chủ nghĩa
4.1. Quá trình ch lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản
Sản xuất luôn phải kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, gọi chung là cấu
tạo kỹ thuật.
Cấu tạo kỹ thuật của tư bản được xác định bởi tỷ lệ giữa khối lượng tư liệu sản xuất
khối lượng lao động cần thiết để sử dụng liệu sản xuất đó. Cấu tạo kỹ thuật
này sẽ được quyết định bởi trình độ lực lượng sản xuất.
Khối lượng TLSX = SL máy móc cho CN sử dụng = 20 máy
Khối lượng TLLD SL công nhân 10
Cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ giữa giá trị của tư bản cố định (bất biến) và giá trị
của tư bản biến đổi (khả biến).
Để khắc phục nhược điểm này, người ta phải xét cấu tạo hữu của bản, bao gồm
sự biến động của giá ctheo tlệ không giống nhau, thể phản ánh sai lệch cấu
tạo kỹ thuật của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản được xác định bởi cấu tạo
kỹ thuật quy định và phản ánh sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật đó.
lOMoARcPSD| 45740153
11
Ví dụ: Cơ cấu giá trị của tư bản: 60c + 30v + 10m
Cấu tạo hữu cơ: C/V = 60/30 = 2/1
Cấu tạo kỹ thuật: 60c - Khối lượng tư liệu sản xuất là 60
30v - Số lượng lao động sử dụng là 30
10m - Giá trị thêm vào là 10
4.2. Quá trình ch lũy tư bản là quá trình ch tụ và tập trung tư bản ngày càng
tăng
Quy mô tư bản cá biệt tăng lên theo hai cách: tích tụ và tập trung tư bản.
- Tích tụ tư bản là sự tăng thêm của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá giá
trịthặng dư của doanh nghiệp cụ thể và là kết quả tất yếu của tích luỹ.
- Tập trung tư bản là quá trình tăng quy mô của tư bản cá biệt thông qua việc
hợpnhất các tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt lớn hơn, có thể
xảy ra tự nguyện hoặc cưỡng bức.
- Tích tụ và tập trung tư bản có mối liên hệ chặt chẽ và đẩy mạnh lẫn nhau
dướitác động của cạnh tranh.
So sánh:
+ Tích tụ và tập trung tư bản cũng giống như phương tiện làm tăng tư bản cá nhân.
+ Khác biệt: Tích tụ làm tăng mức độ vốn cá nhân, vốn xã hội. Tập trung vốn làm
tăng quy mô vốn cá nhân, nhưng không làm tăng quy mô vốn xã hội.
Tích tụ và tập trung tư bản dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất, tập trung sản xuất
ở một mức độ nào đó sẽ hình thành độc quyền. Đặc biệt, tập trung vốn đóng một vai trò
rất quan trọng trong việc thành lập các công ty lớn và có thể đảm bảo cho các chương
trình phát triển đòi hỏi đầu tư vốn lớn.
4.3. Quá trình ch lũy tư bản làm không ngừng làm tăng chêch lệch giữa thu nhập
của nhà tư bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương
đối.
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, khoảng cách giữa thu nhập của các nhà tư bản
và tiền công của người lao động làm thuê rất lớn, điều này đã được CMác quan sát và ông
gọi đó là sự bần cùng hóa của người lao động.
Điều này đồng thời diễn ra song song với sự gia tăng quy mô sản xuất và sự thay
đổi cấu trúc của tư bản, với xu hướng giảm tương đối của tư bản khả biến so với tư bản
bất biến, gây nguy cơ thừa nhân khẩu. Do đó, quá trình tích lũy tư bản có hai mặt, một
mặt là tích lũy giàu sang cho giai cấp tư sản, và mặt khác là tích lũy bần cùng cho giai
cấp công nhân làm thuê.
Bần cùng hóa của giai cấp công nhân làm thuê có hai dạng, là bần cùng hóa tương
đối và bần cùng hóa tuyệt đối.
lOMoARcPSD| 45740153
12
Bần cùng hóa tương đối hiện tượng mức tiền công của người lao động không tăng
theo tốc độ tương xứng với sự gia tăng về ng suất lao động tăng trưởng kinh
tế. Trái lại, lợi nhuận tài sản của các nhà tư bản ngày càng tăng lên, dẫn đến sự
chênh lệch ngày càng lớn giữa thu nhập của họ và thu nhập của người lao động làm
thuê. Điều này p phần vào sự gia tăng bần cùng hóa tương đối của người lao động,
khi họ không thể đạt được mức sống tốt n làm việc chăm chỉ và đóng góp
vào sản xuất.
Bần cùng hóa tuyệt đối hiện tượng người lao động làm thuê đang rơi vào hoàn
cảnh sống cực kỳ khó khăn, thiếu thốn về cơ bản như chất ăn, chỗ ở, giáo dục
chăm sóc sức khỏe. Mức tiền công của họ không đủ để đáp ứng các chi phí sống cơ
bản, dẫn đến sự suy giảm đáng kể về chất lượng cuộc sống mức sống tổng thể.
Điều này đặc biệt đáng lo ngại trong bối cảnh sự gia tăng của bản khả biến, nơi
công nghệ và tự động hóa ngày càng thay thế lao động công nhân, dẫn đến nguy cơ
thừa nhân khẩu và mất việc làm cho những người lao động làm thuê.
Sự bần cùng hóa của người lao động làm thuê không chỉ gây ra sự bất bình đẳng
và mất cân bằng trong xã hội, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, giáo dục và cơ hội phát
triển của họ và gia đình của họ. Nó có thể dẫn đến tình trạng thất nghiệp, đói nghèo, chất
ợng giáo dục kém, và sức khỏe yếu, gây khó khăn trong việc thoát khỏi vòng bần cùng
và đạt được cuộc sống tốt đẹp hơn.
Trong tổng thể, quá trình tích lũy tư bản trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không
chỉ làm tăng chênh lệch giữa thu nhập của nhà tư bản và thu nhập của người lao động làm
thuê, mà còn gây ra sự bần cùng hóa của người lao động làm thuê, cả về mặt tương đối
tuyệt đối. Sự bất cân bằng trong phân bố tài nguyên và thu nhập trong xã hội đồng nghĩa
với việc các đặc quyền và lợi ích kinh tế được tập trung trong tay một số nhóm nhỏ, trong
khi người lao động làm thuê đang phải đối mặt với sự suy giảm chất lượng cuộc sống.
III. LIÊN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế trong
hơn 20 năm đổi mới gần đây, với tốc độ tăng trưởng đáng kể, sản xuất phát triển và đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai,
việc tích luỹ và huy động vốn trong nước là yếu tố quan trọng. Các chuyên gia quốc tế
cho rằng để Việt Nam phát triển nhanh chóng và bền vững, cần nỗ lực huy động tích luỹ
trong nước, tăng cường hiệu quả của đầu tư nước ngoài và đạt hệ số ICOR (Tỷ lệ đầu tư
cần thiết để tăng 1 đơn vị GDP) ở mức thấp, ít nhất là trên 8% mỗi năm. Điều này sẽ giúp
tăng thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam lên gấp 4-5 lần trong vòng một thế hệ.
Việt Nam có thể lựa chọn các phương án tăng trưởng dựa trên mức tích luỹ trong nước và
đầu tư trên GDP cùng với hiệu suất sử dụng vốn. Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp
lOMoARcPSD| 45740153
13
hóa và hiện đại hóa nền kinh tế, Việt Nam cần huy động tối đa các nguồn vốn, bao gồm
cả nguồn tài lực, kinh nghiệm quản lý và quan hệ đối ngoại. Chúng ta sẽ khảo sát thực
trạng và giải pháp tích lũy vốn ở Việt Nam ngày nay.
1. Thực trạng ch lũy vốn tại Việt Nam
Thực trạng tích lũy tư bản tại Việt Nam trong những năm gần đây vẫn đang găp
nhiều khó khăn và thách thức.
Thứ nhất, tỷ lệ đầu tư công và đầu tư nước ngoài: Tỷ lệ đầu tư công chiếm tỷ trọng
lớn trong đầu tư tổng thể của Việt Nam, trong khi đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), vẫn chiếm đa phần trong tổng số vốn đầu tư. Theo số liệu của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong năm
2020 đạt khoảng 28,53 tỷ USD, giảm 25% so với năm 2019. Đây là dấu hiệu cho thấy sự
giảm sút của đầu tư nước ngoài vào nước này, có thể ảnh hưởng đến tích lũy tư bản của
các doanh nghiệp trong nước.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng ảnh
hưởng đến tích lũy tư bản của doanh nghiệp. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, tốc độ
tăng trưởng GDP thực của Việt Nam trong năm 2020 đạt 2,9%, giảm thấp nhất trong 10
năm qua. Điều này có thể ảnh hưởng đến năng lực tích lũy tư bản của doanh nghiệp, đồng
thời làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh và đầu tư vào đổi mới công nghệ.
Thứ ba, những thách thức về môi trường kinh doanh: Môi trường kinh doanh chưa
hoàn thiện vẫn là một thách thức lớn đối với tích lũy tư bản của doanh nghiệp tư nhân tại
Việt Nam. Theo chỉ số Doing Business của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam xếp thứ 70
trong tổng số 190 nước năm 2020. Điều này cho thấy rào cản và khó khăn trong các thủ
tục hành chính, hệ thống pháp lý, và điều kiện đầu vào của doanh nghiệp tại Việt Nam,
gây ảnh hưởng đến năng lực tích lũy tư bản của doanh nghiệp.
Thứ tư, chất lượng nguồn nhân lực: Chất lượng nguồn nhân lực cũng là một yếu tố
quan trọng đối với tích lũy tư bản tại Việt Nam. Mặc dù Việt Nam có nguồn lao động dồi
dào, nhưng chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn hạn chế, đặc biệt là trong lĩnh vực công
nghệ cao. Việc thiếu hụt nguồn nhân lực có chuyên môn và kỹ năng cần thiết để đáp ứng
yêu cầu của kinh tế hiện đại đồng nghĩa với việc doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc
tích lũy tư bản và đầu tư vào nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thứ năm, khả năng đổi mới công nghệ: Tích lũy tư bản không chỉ đơn thuần là
tích luỹ vốn, mà còn là khả năng đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt
Nam vẫn đang đứng ở vị trí thấp trong các chỉ số đổi mới công nghệ, chỉ chiếm vị trí thứ
42 trong bảng xếp hạng chỉ số đổi mới toàn cầu của Chỉ số Đổi mới Toàn cầu năm 2020.
Điều này cho thấy tính cạnh tranh và khả năng đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp
tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, gây ảnh hưởng đến tích lũy tư bản.
lOMoARcPSD| 45740153
14
2. Những giải pháp tăng cường ch lũy vốn Việt Nam
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đặt mục tiêu nâng cao cuộc sống vật chất và tinh thần
của người dân, và trong hoàn cảnh hiện nay khi chuyển từ sản xuất nhỏ lên CNXH, chúng
ta cần phải huy động toàn bộ nguồn lực từ mọi người, mọi ngành và mọi cấp để thúc đẩy
sản xuất phát triển. Đồng thời, việc tiết kiệm tài nguyên và tích luỹ vốn từ nội bộ nền
kinh tế quốc gia là điều cần thiết trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế sản
xuất lớn theo tư tưởng XHCN.
2.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ ch luỹ - êu dùng
Vì mục đích của xã hội XHCN là liên tục mở rộng quá trình tái sản xuất, tăng
cường sản phẩm xã hội và nâng cao mức sống của người lao động, chúng ta cần phải xác
định tỷ lệ hợp lý giữa quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng. Tuy nhiên, tỷ lệ này phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế xã hội, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hiệu
quả của kỹ thuật mới, sử dụng hợp lý các nguồn vật tư, lao động và các yếu tố khác.
Tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng các tài sản hiện có
một cách hiệu quả, đồng thời đảm bảo đủ quỹ tích luỹ để phát triển sản xuất với tốc độ
cao và ổn định, trong khi vẫn đáp ứng đúng mức tiêu dùng cần thiết. Tuy nhiên, tỷ lệ này
không phải là cố định mà thay đổi tuỳ thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế trong từng thời
kỳ nhất định.
Vấn đề phân phối tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng là trung tâm của xã hội chủ
nghĩa, nó thể hiện mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và cải thiện đời sống, giữa lợi ích
lâu dài và lợi ích ngay lập tức, giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng đồng. Việc
phân chia tỷ lệ này không phải là cố định mà thay đổi dựa trên nguyên tắc của từng giai
đoạn phát triển kinh tế cụ thể.
Đồng thời, chúng ta cần khuyến khích mọi người dân tiết kiệm và tích luỹ. Việc
này không chỉ liên quan đến khía cạnh kinh tế mà còn phản ánh đường lối chính sách của
Đảng trong từng thời kỳ nhất định. Qua đó, chúng ta có thể đạt được một sự cân bằng hợp
giữa tích luỹ và tiêu dùng, đồng thời đảm bảo phát triển bền vững và cải thiện chất
lượng cuộc sống của người dân.
2.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vn
Để tận dụng tối đa nguồn vốn, việc xác định rõ các đối tượng được cấp vốn và
phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý trong các ngành là rất quan trọng để đạt được hiệu
quả sử dụng vốn cao hơn. Đối với doanh nghiệp nhà nước, chính phủ không nên cấp vốn
toàn bộ mà thay vào đó nên tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp. Điều này sẽ đẩy mạnh
trách nhiệm của doanh nghiệp đối với vốn của mình và tạo điều kiện cho các chủ doanh
nghiệp phát huy tối đa năng lực quản lý của họ, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Tuy nhiên, hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn cũng phụ thuộc nhiều vào yếu tố
con người. Vì vậy, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ năng lực và trách
lOMoARcPSD| 45740153
15
nhiệm cao. Đồng thời, nhà nước cần xem xét lại mô hình tổ chức quản lý, đặc biệt là đội
ngũ cán bộ, và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ phát huy tối đa năng lực của mình.
Điều này càng cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt của nguồn vốn FDI trong khu
vực và trên thế giới. Thiết lập một cơ chế tổ chức gọn nhẹ, không chồng chéo sẽ tạo điều
kiện cạnh tranh mạnh mẽ hơn.
Với việc điều chỉnh tổ chức và quản lý, đồng thời thúc đẩy cổ phần hoá, chúng ta
có thể đạt được sự tận dụng hiệu quả nguồn vốn và nâng cao khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, đồng thời đảm bảo lợi
ích của cả nhân dân và toàn xã hội.
2.3. Tăng cường ch luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư
ớc ngoài
Trong việc tích luỹ vốn trong nước, nhiều giải pháp đã được đưa ra, tuy nhiên, giải
pháp hàng đầu và quan trọng nhất vẫn là sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước.
Nguồn vốn này đóng vai trò then chốt trong việc đáp ứng các nhu cầu chi của nhà nước,
bao gồm cả chi thường xuyên, chi cho đầu tư phát triển và chi cho phát triển công nghiệp.
Do đó, việc nâng cao hiệu quả của việc tích luỹ, tích tụ và tập trung vốn thông qua ngân
sách nhà nước là cực kỳ cấp bách và mang lại ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn.
Một biện pháp để tăng cường tích luỹ vốn trong nước là thông qua sự hỗ trợ của
các tổ chức tín dụng và ngân hàng, đây là những cách có hiệu quả tương đối cao vì có thể
hấp dẫn được các nguồn vốn đang đọng lại trong dân. Để thực hiện tốt hơn các hoạt động
của mình, ngành ngân hàng cần tiến hành cải tiến phương thức phục vụ khách hàng, mở
rộng các hình thức tiết kiệm thông qua bưu điện, cải thiện các thủ tục đảm bảo tính an
toàn và bí mật cho tiền gửi của khách hàng. Đồng thời, chính phủ cũng cần đưa ra các
biện pháp nâng cao lãi suất nhằm thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đang đọng lại trong
dân. Đặc biệt, hệ thống ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các quỹ tín dụng nhân dân
để tích tụ và tập trung vốn một cách thuận tiện. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể huy
động vốn thông qua các công ty bảo hiểm, công ty sổ xố kiến thiết, sự tài trợ của các
doanh nghiệp, các quỹ từ thiện, quỹ hỗ trợ,...
Ngoài ra, việc tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài
nguyên quốc gia và từ những tài sản công còn không được sử dụng đến là một mục tiêu
và biện pháp cơ bản để tăng thêm nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển. Cần
nghiên cứu lại các quy định liên quan đến đất đai và quyền sử dụng đất, đồng thời đạt
được sự cân bằng hài hoà với các tổ chức thị trường liên quan. Trong thời gian tới, cần
tìm cách khai thác cao nhất hiệu quả nhất nguồn vốn từ tài sản công, bao gồm cả việc huy
động nguồn vốn từ cả hiện vật và tiền bạc trở thành nguồn thu trực tiếp của ngân sách
Nhà nước, đây là cơ sở ban đầu cần thiết để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Một cách tiếp cận mới đang được áp dụng tại quốc gia chúng ta là thu hút vốn
thông qua thị trường chứng khoán, một hình thức tích luỹ và tập trung vốn có hiệu quả
lOMoARcPSD| 45740153
16
cao đã được các nước phát triển ứng dụng. Tuy nhiên, để phát triển thị trường chứng
khoán, chúng ta cần thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
nhà nước, đồng thời phải phát triển hệ thống ngân hàng thương mại. Thị trường chứng
khoán là một hình thức của thị trường vốn, và hoạt động hiệu quả của thị trường chứng
khoán sẽ đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp, đóng vai
trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế trong bối cảnh hiện nay khi nền kinh tế
mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Để thu hút vốn đầu tư trực tiếp, đặc biệt vốn
từ các nước phát triển, chúng ta cần thực hiện một chiến lược toàn diện và đồng bộ, trong
đó cải thiện môi trường đầu tư là một yếu tố quan trọng.
Để thực hiện chiến lược này, cần có các biện pháp hỗ trợ từ chính phủ, trong đó
việc sửa đổi và bổ sung bộ luật đầu tư nước ngoài để phù hợp với tình hình mới và đảm
bảo quyền lợi của các nhà đầu tư là điều cần thiết. Một môi trường đầu tư thích ứng với
điều kiện cạnh tranh mới sẽ tạo ra sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư quốc tế và khuyến
khích họ đầu tư vào nền kinh tế nước ta. Điều này có thể bao gồm đơn giản hóa thủ tục
đầu tư, giảm bớt các rào cản, cải thiện khả năng tiếp cận đến nguồn lực và dịch vụ hỗ tr
cho các nhà đầu tư, đồng thời đảm bảo tính minh bạch, công bằng và đúng pháp luật
trong quá trình đầu tư.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác xây dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước, để có khả năng cạnh tranh và hấp dẫn đầu tư từ các nhà đầu
tư quốc tế. Điều này có thể đạt được thông qua việc cải cách cơ chế quản lý, nâng cao
chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ, đào tạo
và phát triển nhân lực chất lượng cao, và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát
triển và mở rộng hoạt động kinh doanh.
lOMoARcPSD| 45740153
17
KẾT LUẬN
Việc tích luỹ và vận dụng tư bản là điều rất cần thiết trong quá trình phát triển của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đất nước ta đang trải qua. Đây là giai đoạn phát
triển mạnh mẽ và năng động nhất từ trước đến nay, tạo ra áp lực về tăng quy mô vốn cho
nền kinh tế. Để đạt được thành công trong quá trình chuyển từ nền kinh tế truyền thống
sang hướng đi của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đất nước cần phải có nguồn
vốn đủ lớn.
Theo đánh giá của các nhà đầu tư tài chính quốc tế tại Diễn đàn Đầu tư Việt Nam
năm 2006, thị trường vốn của Việt Nam đầy hứa hẹn với nhiều cơ hội đầu tư. Nguyên
nhân chính là do nguồn tích luỹ vốn trong dân cao, cùng với việc các công ty Nhà nước
tham gia tiến trình cổ phần hóa, tạo ra nhiều hàng hóa mới cho thị trường trái phiếu và cổ
phiếu. Ngoài ra, với quy mô dân số đông và trẻ, Việt Nam có tiềm năng tiêu dùng lớn,
điều này đồng nghĩa với sự sôi động của thị trường vốn. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở
đây là phải có các giải pháp thích hợp để huy động và sử dụng nguồn vốn này một cách
hiệu quả nhất.
Sự phát triển bền vững và liên tục của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh xu thế
toàn cầu hóa đang tạo ra nhiều cơ hội và áp lực. Để đạt được sự phát triển này, mỗi người
dân, mỗi doanh nghiệp cần không chỉ biết làm giàu cho mình mà còn phải biết làm giàu
cho toàn xã hội, góp phần vào sự phát triển của cộng đồng. Quy luật cạnh tranh đã buộc
mỗi doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng vốn đầu tư để phát triển. Việc tích luỹ vốn
để tái sản xuất và mở rộng là con đường duy nhất để mở rộng vốn đầu tư của doanh
nghiệp. Đồng thời, việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, như FDI (đầu tư trực tiếp nước
ngoài) và ODA (viện trợ phát triển), cũng sẽ có tác động hỗ trợ lớn cho sự phát triển của
nền kinh tế Việt Nam. Chính sách mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN của Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn của hướng đi này. Việc thu hút
vốn đầu tư từ nước ngoài và khuyến khích tích luỹ vốn trong cộng đồng dân cư cũng
đồng hành với mục tiêu của Việt Nam là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, và văn minh. Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong hướng đi này sẽ đóng góp
vào thành công của cả nền kinh tế và xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mac-Lênin.
2. Kinh tế học của P. A. Samuelson.
3. Tư bản-Quyển 1-Tập 3/ K. Marx.
4. Báo cáo diễn đàn đầu tư Việt năm 2006.
5. Thời báo kinh tế Việt năm 2005-2006.
lOMoARcPSD| 45740153
18
6. Tích tụ và tập trung vốn trong nước /Trần Xuân Kiên.
7. Văn kiện Đại hội IX, X của Đảng.
| 1/19

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740153
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Viện Đào Tạo Tiên Tiến, Chất Lượng Cao Và Pohe …….***……
BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Đề tài: “Trình bày lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về tích lũy
tư bản (vốn) và liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam” Họ và tên: Nguyễn Văn Minh Hiếu Mã sinh viên: 11222612 Lớp tín chỉ : LLNL1106(222)CLC_26 Số thứ tự: 16
Giảng viên hướng dẫn:
PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Hiếu
Hà Nội, tháng 3 năm 2023 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 45740153 LỜI CẢM ƠN LỜI MỞ ĐẦU NỘI DUNG
I. TÁI SẢN XUẤT ...................................................................................................................................... 3
1. Khái niệm tái sản xuất ..............................................................................................................3
2. Tái sản xuất giản đơn ...............................................................................................................3
3. Tái sản xuất mở rộng ................................................................................................................4
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN ............................................................................................. 4
1. Khái niệm và nguồn gốc ...........................................................................................................4
1.1. Khái niệm ..........................................................................................................................4
1.2. Nguồn gốc .........................................................................................................................6
2. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản ................................................................................7
2.1. Thực chất ..........................................................................................................................7
2.2. Động cơ .............................................................................................................................7
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô của tích lũy tư bản ...................................................8
3.1. Trình độ khai thác sức lao động ........................................................................................9
3.2. Nâng cao năng suất lao động ...........................................................................................9
3.3. Sử dụng hiệu quả máy móc ..............................................................................................9
3.4. Đại lượng tư bản ứng trước ...........................................................................................10
4. Quy luật chung của tích lũy tư bản chủ nghĩa .......................................................................10
4.1. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản .........................10
4.2. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng ........11
4.3. Quá trình tích lũy tư bản làm không ngừng làm tăng chêch lệch giữa thu nhập của nhà
tư bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương đối ....................11
III. LIÊN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM ...................................................................................................... 12
1. Thực trạng tích lũy vốn tại Việt Nam .....................................................................................13
2. Những giải pháp tăng cường tích lũy vốn ở Việt Nam ..........................................................14
2.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích luỹ - tiêu dùng ...................................................14
2.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn ....................................................................................14
2.3. Tăng cường tích luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài ..15 KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 lOMoAR cPSD| 45740153 LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn Viện Đào tạo Tiên tiến, Chất lượng cao
và POHETrường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tạo điều kiện thuận lợi cho em thực
hiện đề tài tiểu luận này!
Em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn Kinh tế chính trị Mác -
Lênin - cô Nguyễn Thị thanh Hiếu đã ân cần chỉ bảo, dạy dỗ chúng em trong suốt thời
gian qua. Những kiến thức mà cô đã truyền tải góp phần rất lớn vào bài tiểu luận này!
Em xin gửi lời cảm ơn tới những anh, chị và những cá nhân đã luôn quan tâm giúp
đỡ, cổ vũ tinh thần và tạo động lực để em hoàn thành bài tiểu luận này!
Bài tiểu luận đã giúp em rất nhiều trong việc nâng cao khả năng diễn giải và phát
triển tư duy. Dù vậy, đây là bài tiểu luận đầu tay, nên những sai sót là không thể tránh
khỏi. Em rất mong sẽ nhận được sự thông cảm, góp ý và giúp đỡ từ cô! Chúc cô và gia
đình hạnh phúc, bình an!
Hà Nội, ngày 24 tháng 3 năm 2023 LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập, phát triển năng động nhất trong lịch sử,
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị, nâng cao vị thế của đất nước
trên trường quốc tế. Đây là những thành tựu rất đáng tự hào mà mỗi chúng ta đều cảm
nhận được, là kết quả của sự lựa chọn đúng đắn, vận dụng sáng tạo con đường và phương
thức phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là nguyên tắc cơ bản của phát
triển kinh tế Việt Nam. Với xuất phát điểm thấp, tiềm lực kinh tế thấp do chiến tranh tàn
phá, chúng ta phải đối mặt với thực trạng trình độ công nghệ thấp, năng suất lao động thấp.
Trong các mô hình kinh tế hiện đại, vốn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế. Nhà kinh tế học hiện đại Samuelson lập luận rằng một trong những đặc
điểm quan trọng nhất của kinh tế học hiện đại là "kỹ thuật công nghiệp tiên tiến, hiện đại
dựa trên việc sử dụng vốn lớn." Vốn là nền tảng tạo việc làm, sản xuất công nghệ tiên
tiến, nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, góp phần thúc
đẩy ngành sản xuất phát triển theo chiều sâu. Mô hình sử dụng vốn có tác động đáng kể
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia.
Để duy trì tốc độ phát triển kinh tế tăng trưởng cao và bền vững, thách thức lớn nhất
là phương thức cấp vốn, có thể huy động từ tích lũy trong nước hoặc tín dụng nước ngoài.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng tích lũy và huy động vốn trong nước có ý nghĩa 2 lOMoAR cPSD| 45740153
cực kỳ quan trọng để đảm bảo tính bền vững của nền kinh tế, bởi nền kinh tế không nên
phụ thuộc quá mức vào các nguồn vốn từ bên ngoài.
Bài tiểu luận “Tích lũy tư bản và vận dụng lý luận về tích lũy tư bản vào thực tiễn
Việt Nam” dưới đây sẽ đề cập đến những lý luận chung về tích lũy tư bản và cách áp
dụng lý luận này vào thực tế ở Việt Nam với nhận thức sâu sắc về vai trò của việc tích lũy
vốn trong việc phát triển kinh tế đất nước.. Em rất mong nhận được sự đánh giá và hướng
dẫn của cô để bài làm được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn cô! NỘI DUNG
Nói đến tích lũy ta thấy nó gắn liền với tái sản xuất mở rộng. Nói đúng ra, tích lũy
tư bản chẳng qua là tái sản xuất với quy mô ngày càng mở rộng. I. TÁI SẢN XUẤT
1. Khái niệm tái sản xuất

Tái sản xuất là một quá trình sản xuất liên tục lặp đi lặp lại và đổi mới. C. Mác: “Dù
cho hình thái xã hội của quá trình sản xuất là như thế nào chăng nữa, thì bao giờ quá trình
đó cũng phải có tính chất liên tục, hay cứ từng chu kỳ một, phải không ngừng trải qua cùng
những giai đoạn ấy. Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, thì xã hội cũng không thể ngừng
sản xuất. Vì vậy, xét trong mối liên hệ không ngừng và trong tiến trình của nó, mọi quá
trình sản xuất xã hội đồng thời cũng là quá trình sản xuất".
(Trích: C.Mác bộ "Tư bản", quyển I, tập 3, tr.8).
2. Tái sản xuất giản đơn
Khái niệm: Tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa là sự lặp đi lặp lại quá trình sản
xuất theo cùng một quy mô. Toàn bộ giá trị thặng dư đã bị nhà tư bản tiêu dùng vì lợi ích cá nhân.
"Nếu như thu nhập đó chỉ được dùng làm quỹ tiêu dùng cho nhà tư bản hay nếu nó
cũng được tiêu dùng theo từng chu kỳ giống như người ta đã kiếm được nó, thì trong những
điều kiện khác không thay đổi, sẽ chỉ diễn ra có tái sản xuất giản đơn thôi. Và mặc dù tái
sản xuất này chỉ là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô không thay đổi, nhưng sự lặp
đi lặp lại giản đơn ấy, hay tính chất liên tục ấy, cũng đem lại cho quá trình những nét mới
hay nói cho đúng hơn, nó xóa bỏ những nét có vẻ như là đặc trưng của quá trình đó khi chỉ
là một hành vi cá biệt".
(Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, tr:9-10). 3 lOMoAR cPSD| 45740153
Quá trình sản xuất bắt đầu bằng việc mua sức lao động trong một khoảng thời gian,
và sự khởi đầu này thường được lặp lại khi đạt đến một giai đoạn sản xuất cụ thể đồng thời
với thời điểm kết thúc giai đoạn mua sức lao động.
Quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất lại các tài nguyên sản
xuất và tiêu dùng dưới dạng tư bản, trong đó lao động được thuê làm và quan hệ sản xuất
bóc lột giữa giai cấp tư bản và công nhân được duy trì dưới hình thức giá trị thặng dư.
"Những người công nhân thì chỉ được trả công sau khi sức lao động của người đó
đã phát huy tác dụng và đã thực hiện được giá trị của bản thân nó, cũng như giá trị thặng
dư năm ở trong các hàng hóa. Như thế là người công nhân đã sản xuất ra cả số giá trị thặng
dư mà chúng ta tạm thời coi như là quỹ tiêu dùng của nhà tư bản, lẫn cái quỹ dùng để trả
công cho chính mình, tức là tư bản khả biến, trước khi tư bản khả biến trở về tay anh ta
dưới dạng tiền công, và anh ta chỉ có việc làm chứng nào anh ta còn không ngừng tái sản
xuất ra tư bản khả biến ấy".
(Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C21, tr:9-10).
3. Tái sản xuất mở rộng
Tái sản xuất mở rộng trong tư bản chủ nghĩa là quá trình gia tăng quy mô sản xuất,
với việc đầu tư một lượng tư bản lớn hơn vào hoạt động sản xuất.
"Là một kẻ cuồng tín việc làm tăng thêm giá trị, nhà tư bản thẳng tay cưỡng bức
loài người phải sản xuất để sản xuất, do đó hắn cưỡng bức họ phải phát triển những lực
lượng sản xuất xã hội và tạo ra những điều kiện sản xuất vật chất, mà chỉ một mình những
điều kiện này mới có thể hình thành cái cơ sở hiện thực của một hình thái xã hội mà nguyên
tắc cơ bản là mọi cá nhân đều được phát triển đầy đủ và tự do".
(Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyển I, tập 3, C22, tr.55).
"Sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho sự tăng thêm không ngừng
của số tư bản bỏ vào một xí nghiệp công nghiệp trở thành một sự tất yếu và cạnh tranh làm
cho những quy luật bên trong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành những
quy luật bên ngoài có tính chất cưỡng chế đối với nhà tư bản cá biệt. Cạnh tranh buộc nhà
tư bản không ngừng mở rộng, tư bản để giữ được tư bản, và hắn chỉ có thể mở rộng tư bản
của mình bằng cách tích luỹ ngày càng nhiều hơn mà thôi".
(Trích: C.Mác bộ"Tư bản", quyền I, tập 3, C22, tr.55).
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN
1. Khái niệm và nguồn gốc 1.1. Khái niệm

Tích lũy tư bản, theo quan điểm chính trị kinh tế Mác-Lenin, đề cập đến việc
chuyển đổi một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản. Tuy nhiên, trong các lý luận 4 lOMoAR cPSD| 45740153
kinh tế học khác, định nghĩa này có thể được mô tả đơn giản hơn là sự hình thành tư bản,
qua việc gia tăng lượng vốn trong hình thức tư bản cố định và lưu kho của cả chính phủ và tư nhân.
Thực chất, tích lũy tư bản bắt nguồn từ việc sử dụng giá trị thặng dư để tạo ra tư
bản. Điều này dẫn đến việc lao động của công nhân bị tư bản chiếm đoạt, khiến cho tư
bản trở nên mạnh mẽ hơn và ngày càng tăng cường vị thế quyết định của nó trong xã hội.
Ví dụ 1: Giả sử có một công ty sản xuất đồ điện tử với quy mô tư bản năm đầu là 500
triệu đồng (400 triệu đồng cho vốn cố định (C) và 100 triệu đồng cho lương công nhân
(V), và giá trị thặng dư (m) là 100 triệu đồng. Công ty quyết định phân bổ giá trị thặng dư
này thành 70 triệu đồng dùng để tích luỹ (m1) và 30 triệu đồng dành cho tiêu dùng cá
nhân của chủ sở hữu công ty (m2).
Với tỷ lệ C/V là 4/1, công ty quyết định sử dụng 70 triệu đồng lợi nhuận tích luỹ
(m1) để đầu tư vào vốn cố định (C1) và 17,5 triệu đồng lợi nhuận (m1) để đầu tư vào
lương công nhân (V1). Kết luận:
• Quy mô tư bản bất biến (C) của công ty là 400 triệu đồng trong năm thứ nhất và
tăng lên thành 470 triệu đồng trong năm thứ hai sau khi tích luỹ lợi nhuận m1 để
đầu tư vào vốn cố định (C1).
• Quy mô tư bản khả biến (V) của công ty là 100 triệu đồng trong năm thứ nhất và
tăng lên thành 117,5 triệu đồng trong năm thứ hai sau khi tích luỹ lợi nhuận m1 để
đầu tư vào lương công nhân (V1).
• Giá trị thặng dư (m) được tích luỹ và sử dụng để đầu tư vào việc mở rộng sản
xuất, đồng thời phân bổ giữa vốn cố định (C1) và lương công nhân (V1) theo tỷ lệ C/V đã định trước.
Ví dụ 2: Giả sử có một nhà máy sản xuất giày dép với quy mô tư bản năm thứ nhất
là 1000 đô la (C + V), trong đó vốn cố định (C) chiếm 800 đô la (80% tổng chi phí) và
lương công nhân (V) chiếm 200 đô la (20% tổng chi phí). Tổng giá trị hàng hoá được sản
xuất trong năm đầu tiên là 1200 đô la.
Để tái sản xuất mở rộng, nhà máy quyết định tích luỹ 10% lợi nhuận (m) để đầu tư
vào việc mở rộng sản xuất. Tỷ lệ tích luỹ là 10%, tức là 10% lợi nhuận được dành cho
tích luỹ và 90% để tiêu dùng cho cá nhân của chủ sở hữu nhà máy.
Giả sử lợi nhuận đạt được trong năm đầu tiên là 200 đô la, trong đó 20 đô la được
dành cho tích luỹ (m1) và 180 đô la dành cho tiêu dùng cho cá nhân của chủ sở hữu nhà máy (m2).
Với tỷ lệ C/V là 4/1, tức là vốn cố định (C) chiếm 4 lần lương công nhân (V), nhà
máy quyết định sử dụng 20 đô la lợi nhuận tích luỹ (m1) để đầu tư vào vốn cố định (C1)
và 5 đô la lợi nhuận (m1) để đầu tư vào lương công nhân (V1). Kết luận: 5 lOMoAR cPSD| 45740153
• Quy mô tư bản bất biến (C) của nhà máy là 800 đô la trong năm thứ nhất và tăng
lên thành 820 đô la trong năm thứ hai sau khi tích luỹ lợi nhuận m1 để đầu tư vào vốn cố định (C1).
• Quy mô tư bản khả biến (V) của nhà máy là 200 đô la trong năm thứ nhất và tăng
lên thành 205 đô la trong năm thứ hai sau khi tích luỹ lợi nhuận m1 để đầu tư vào lương công nhân (V1).
• Giá trị thặng dư (m) được tích luỹ và sử dụng để đầu tư vào việc mở rộng sản
xuất, đồng thời phân bổ giữa vốn cố định (C1) và lương công nhân (V1) theo tỷ lệ C/V đã định trước.
Vậy, tích luỹ tư bản là quá trình biến một phần giá trị thặng dư (m) trong quá trình
sản xuất được phân bổ và sử dụng để đầu tư vào vốn cố định (C) và lương công nhân (V),
làm cho quy mô tư bản bất biến (C) và quy mô tư bản khả biến (V) tăng lên. Tích luỹ tư
bản chủ nghĩa thực chất là quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư, tức là sử dụng giá trị
thặng dư để đầu tư vào việc mở rộng sản xuất, đồng thời phân bổ giữa vốn cố định (C) và
lương công nhân (V) theo tỷ lệ đã định trước.
Cần nhận thức sự khác biệt giữa tích luỹ tư bản chủ nghĩa và tích luỹ nguyên thủy tư bản chủ nghĩa.
• Tích luỹ nguyên thủy tư bản chủ nghĩa thực chất là quá trình sử dụng bạo lực hoặc
các phương thức tước đoạt, tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất để tích luỹ
phi kinh tế, không phụ thuộc vào quy trình sản xuất chủ nghĩa hiện đại.
• Trong khi đó, tích luỹ tư bản chủ nghĩa là quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư, tức
là sử dụng giá trị thặng dư để đầu tư vào việc mở rộng sản xuất, là quá trình tích
luỹ kinh tế dựa trên quy trình sản xuất chủ nghĩa hiện đại. 1.2. Nguồn gốc
Thứ nhất, tích luỹ tư bản là quá trình giúp giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ trở
thành một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Câu nói của
CMác "tư bản chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích lũy" đặc trưng cho quan
điểm này. Trong quá trình tái sản xuất, lãi (m) được tích lũy vào vốn, và khi vốn càng lớn
thì lãi càng gia tăng, tạo điều kiện cho quá trình tích luỹ vốn diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Do đó, người công nhân trở thành phương tiện để bóc lột chính mình.
Thứ hai, thực hiện quá trình tích lũy đã dẫn đến sự biến đổi của quyền sở hữu
trong nền kinh tế hàng hóa, từ quyền sở hữu chung của cộng đồng trở thành quyền sở hữu
độc quyền của tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa giản đơn, nguyên tắc ngang giá
trong sự trao đổi giữa người sản xuất hàng hóa không dẫn đến chiếm đoạt lao động không
công của người khác. Tuy nhiên, trong hệ thống kinh tế dựa trên chủ nghĩa tư bản, vai trò
của nhà tư bản không chỉ giới hạn trong việc chiếm đoạt một phần lao động của công
nhân, mà còn là chủ sở hữu hợp pháp của lao động không công, tức là những giá trị mà 6 lOMoAR cPSD| 45740153
công nhân tạo ra ngoài giờ làm việc chính thức. Tuy vậy, điều này không vi phạm quy luật giá trị.
Nguồn gốc của tư bản khả biến (v) là do công nhân tạo ra thông qua sức lao động
của họ, và công nhân ứng trước sức lao động này cho nhà tư bản chứ không phải ngược
lại, tức nhà tư bản ứng trước tiền công cho công nhân.
Nguồn gốc của tư bản ứng trước là do tích luỹ giá trị thặng dư (m). Sau nhiều chu
kỳ sản xuất, nhà tư bản đã tiêu dùng hết một lượng lớn hơn nhiều tư bản ứng trước.
Công nhân dựa vào sự hỗ trợ của nhà tư bản trong cả quá trình sản xuất và tiêu dùng
• Về mặt sản xuất, công nhân bị nhà tư bản quản lý để tạo ra giá trị thặng dư, được
phân chia thành hai phần là giá trị sản phẩm (y) và giá trị thặng dư (m). Do đó, thu
nhập của công nhân phụ thuộc vào cách nhà tư bản phân chia giá trị thặng dư này.
Nếu cung (sản lượng) lớn hơn cầu (nhu cầu), dẫn đến mức tiền công (tiền lương)
không đủ để tiêu dùng, tiền công thực tế sẽ giảm.
• Về mặt tiêu dùng, công nhân phụ thuộc vào nhà tư bản thương nghiệp. Tiền công
danh nghĩa chỉ là phần chuyển đổi từ giá trị thặng dư, trong khi công nhân sử dụng
tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất sức lao động và tiếp tục làm việc để có thu nhập. Do
đó, việc tiêu dùng của công nhân nhằm phục vụ cho sản xuất của nhà tư bản.
2. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản 2.1. Thực chất
Dưới chủ nghĩa tư bản, để đạt được mục tiêu tái sản xuất và mở rộng, nhà tư bản
không thể hoàn toàn sử dụng giá trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân. Thay vào đó, họ phải
dành một phần để đầu tư lại vào sản xuất, nhằm tăng quy mô đầu tư so với năm trước.
Phần giá trị thặng dư này được gọi là tư bản phụ thêm, là một phần của giá trị
thặng dư được tích luỹ để đầu tư vào mở rộng sản xuất.
Do đó, thực chất của việc tích luỹ tư bản chính là quá trình biến đổi giá trị thặng
dư thành tư bản, bởi vì giá trị thặng dư đã chứa đựng những yếu tố vật chất cần thiết cho
việc phát triển tư bản mới. 2.2. Động cơ
Quy luật giá trị thặng dư – quy luật kinh tế là động cơ cơ bản thúc đẩy quá trình
tích luỹ tư bản trong chủ nghĩa tư bản.
• Mục đích chính của việc theo đuổi giá trị thặng dư, là quy luật kinh tế cơ bản của
chủ nghĩa tư bản, yêu cầu sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư để phục vụ
cho lợi ích của nhà tư bản. Để làm được điều này, sản xuất tư bản chủ nghĩa cần
phải phát triển cả theo chiều rộng và chiều sâu, đồng thời tích luỹ tư bản. 7 lOMoAR cPSD| 45740153
• Cạnh tranh và đạt được lợi nhuận là điểm đúng của cạnh tranh và là mục tiêu của
các nhà tư bản. Để đạt được điều này, họ cần phải tích luỹ tư bản. Nếu không tích
luỹ, không có sự đổi mới kỹ thuật để phát triển sản xuất.
• Phát triển sản xuất: Để đạt được sự phát triển bền vững, các nhà tư bản cần tích luỹ
tư bản để đầu tư vào mở rộng sản xuất, tăng sản lượng và đa dạng hóa dòng sản
phẩm. Tích luỹ tư bản giúp tạo ra nguồn vốn cần thiết để đầu tư vào các hoạt động
nghiên cứu và phát triển, cải tiến công nghệ, tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới, từ đó
thúc đẩy phát triển sản xuất.
• Tối ưu hóa lợi ích: Tích luỹ tư bản cũng giúp các nhà tư bản tối ưu hóa lợi ích của
họ trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Việc tích luỹ tư bản giúp tăng cường khả
năng đàm phán với lao động, đối tác kinh doanh, nguồn cung cấp và thị trường tiêu
thụ, từ đó đẩy mạnh quan hệ đối tác và mở rộng thị trường tiêu thụ.
• Tận dụng cơ hội đầu tư: Tích luỹ tư bản giúp các nhà tư bản tận dụng cơ hội đầu tư
trong môi trường kinh tế chủ nghĩa tư bản. Điều này có thể bao gồm đầu tư vào các
nguồn lực, dây chuyền sản xuất, cơ sở hạ tầng, đầu tư nước ngoài hoặc đầu tư vào
các công ty con hoặc công ty liên kết để mở rộng hoạt động kinh doanh và tăng
cường khả năng cạnh tranh.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô của tích lũy tư bản
Sự tích luỹ tư bản phụ đạt quy mô nào sẽ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng
dư được tạo ra và tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu nhập.
Nếu nhà tư bản sử dụng khối lượng giá trị thặng dư vào việc tiêu dùng cá nhân
nhiều, thì khối lượng giá trị thặng dư dành cho tích luỹ sẽ giảm đi. Kết quả là quy mô của
tích luỹ tư bản của nhà tư bản đó sẽ giảm xuống. Tuy nhiên, nếu nhà tư bản giảm việc
tiêu dùng cá nhân, khối lượng tích luỹ sẽ tăng lên. Tích luỹ của chế độ tư bản chủ nghĩa
nhằm thu được càng nhiều giá trị thặng dư, chẳng hạn, thông qua việc mở rộng sản xuất,
gia tăng khả năng bóc lột công nhân để có thêm giá trị thặng dư. Khi đó, nhà tư bản càng
có vốn để mở rộng sản xuất, quy mô bóc lột càng tăng lên để đối phó với tình trạng cạnh
tranh gay gắt trong xã hội tư bản, và họ cũng phải tích luỹ thêm để mở rộng sản xuất với
quy mô lớn hơn nhằm giành được lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Nếu tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư đã được định trước, thì quy mô của tích luỹ tư
bản sẽ phụ thuộc vào đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư. Do đó, những nhân tố quyết
định quy mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định quy mô của khối lượng giá
trị thặng dư. Nếu giá trị thặng dư càng lớn, thì quy mô tích luỹ tư bản sẽ càng cao, và ngược lại.
Có 4 nhân tố quyết định quy mô của khối lượng giá trị thặng dư: 8 lOMoAR cPSD| 45740153
3.1. Trình độ khai thác sức lao động
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ giữa giá trị thặng dư và giá trị cần thiết để duy trì
tồn tại và phát triển của lao động xã hội. Tăng cao tỷ suất giá trị thặng dư là một yếu tố
quan trọng trong việc nâng cao quy mô của tích lũy tư bản.
Khi tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên, có một số hiệu ứng tích cực đến quy mô của tích lũy tư bản:
• Tăng cao tỷ suất giá trị thặng dư đồng nghĩa với việc giá trị thặng dư tăng lên so
với giá trị cần thiết để duy trì hoạt động của xã hội. Điều này đồng nghĩa với việc
có nhiều giá trị thặng dư hơn được dành cho tích luỹ tư bản.
• Giá trị thặng dư được tích luỹ thêm vào vốn tư bản, góp phần tăng quy mô của tích
lũy tư bản. Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì giá trị tư bản tích luỹ càng nhiều,
từ đó đẩy mạnh quy mô của tích lũy tư bản.
3.2. Nâng cao năng suất lao động
Năng suất lao động là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quy mô
của tích lũy tư bản. Khi năng suất lao động xã hội tăng lên, tức là mỗi đơn vị lao động sản
xuất được nhiều hơn, giá cả của tư liệu sản xuất và tiêu dùng giảm xuống. Sự giảm này có
hai hệ quả đối với tích lũy tư bản.
Trước hết, với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích lũy tư
bản có thể tăng lên. Điều này có nghĩa là nhà tư bản có thể tích luỹ nhiều tư bản hơn mà
không phải giảm tiêu dùng của mình, thậm chí có thể tăng tiêu dùng. Điều này giúp nâng
cao quy mô của tích lũy tư bản.
Thứ hai, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích lũy có thể chuyển hóa
thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn trước. Điều
này đồng nghĩa với việc có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư
bản mới, làm tăng quy mô của tích lũy.
Vì vậy, nâng cao năng suất lao động xã hội sẽ cung cấp thêm nguồn lực vật chất để
tích lũy tư bản, từ đó làm tăng quy mô của tích lũy. Nếu năng suất lao động cao, thì lao
động trước đây được sử dụng nhiều hơn, lại được tái hiện dưới hình thái có ích mới, được
sử dụng làm chức năng của tư bản ngày càng nhiều, từ đó cũng làm tăng quy mô của tích lũy tư bản.
3.3. Sử dụng hiệu quả máy móc
Sử dụng hiệu quả máy móc trong quá trình sản xuất cũng là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến quy mô của tích lũy tư bản. Việc đầu tư vào công nghệ, máy móc hiện đại
giúp nâng cao năng suất lao động, giảm bớt thời gian và công sức lao động cần thiết cho
mỗi đơn vị sản phẩm. Khi đạt được sự hiệu quả cao trong việc sử dụng máy móc, giá trị
thặng dư được tạo ra sẽ lớn hơn, từ đó làm tăng khối lượng tư bản tích luỹ. 9 lOMoAR cPSD| 45740153
Ngoài ra, sử dụng máy móc hiệu quả còn giúp giảm bớt lãng phí và nguy cơ hư
hỏng, nâng cao độ tin cậy và tuổi thọ của các thiết bị, từ đó giúp tăng tính bền vững của
quy mô tích lũy tư bản. Việc ứng dụng công nghệ mới, tiến bộ trong tổ chức sản xuất và
quản lý cũng đồng thời giúp cải thiện chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trên thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho tích lũy tư bản.
3.4. Đại lượng tư bản ứng trước
Đại lượng tư bản ứng trước là số lượng tư bản đã tích luỹ từ quá khứ và được sử
dụng lại trong quá trình sản xuất. Việc sử dụng hiệu quả đại lượng tư bản ứng trước cũng
đóng vai trò quan trọng trong quyết định quy mô của tích lũy tư bản.
Nếu đại lượng tư bản ứng trước lớn, tức là có nhiều tư bản được tích luỹ từ quá
khứ, được sử dụng lại trong quá trình sản xuất, thì quy mô của tích lũy tư bản sẽ tăng lên.
Điều này có nghĩa là nguồn tư bản cho sản xuất là đủ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, từ
đó giúp tăng năng suất lao động và giảm giá cả tư liệu sản xuất. Quy mô tích lũy tư bản
càng lớn thì cơ sở vật chất cho quá trình sản xuất càng được nâng cao, giúp tăng năng
suất lao động và nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư.
Tuy nhiên, để sử dụng hiệu quả đại lượng tư bản ứng trước, cần đảm bảo rằng
công nghệ sản xuất hiện đại, quy trình sản xuất được tối ưu hóa và quản lý sản xuất được
cải tiến. Nếu công nghệ sản xuất lạc hậu, quy trình sản xuất không hiệu quả hoặc quản lý
sản xuất kém, thì sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng đại lượng tư bản ứng trước và ảnh hưởng
đến quy mô của tích lũy tư bản.
4. Quy luật chung của tích lũy tư bản chủ nghĩa
4.1. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản

Sản xuất luôn phải kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, gọi chung là cấu tạo kỹ thuật.
• Cấu tạo kỹ thuật của tư bản được xác định bởi tỷ lệ giữa khối lượng tư liệu sản xuất
và khối lượng lao động cần thiết để sử dụng tư liệu sản xuất đó. Cấu tạo kỹ thuật
này sẽ được quyết định bởi trình độ lực lượng sản xuất.
Khối lượng TLSX = SL máy móc cho CN sử dụng = 20 máy
Khối lượng TLLD SL công nhân 10
• Cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ giữa giá trị của tư bản cố định (bất biến) và giá trị
của tư bản biến đổi (khả biến).
• Để khắc phục nhược điểm này, người ta phải xét cấu tạo hữu cơ của tư bản, bao gồm
sự biến động của giá cả theo tỷ lệ không giống nhau, có thể phản ánh sai lệch cấu
tạo kỹ thuật của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản được xác định bởi cấu tạo
kỹ thuật quy định và phản ánh sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật đó. 10 lOMoAR cPSD| 45740153
Ví dụ: Cơ cấu giá trị của tư bản: 60c + 30v + 10m
Cấu tạo hữu cơ: C/V = 60/30 = 2/1
Cấu tạo kỹ thuật: 60c - Khối lượng tư liệu sản xuất là 60
30v - Số lượng lao động sử dụng là 30
10m - Giá trị thêm vào là 10
4.2. Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng
Quy mô tư bản cá biệt tăng lên theo hai cách: tích tụ và tập trung tư bản. -
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá giá
trịthặng dư của doanh nghiệp cụ thể và là kết quả tất yếu của tích luỹ. -
Tập trung tư bản là quá trình tăng quy mô của tư bản cá biệt thông qua việc
hợpnhất các tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt lớn hơn, có thể
xảy ra tự nguyện hoặc cưỡng bức. -
Tích tụ và tập trung tư bản có mối liên hệ chặt chẽ và đẩy mạnh lẫn nhau
dướitác động của cạnh tranh. So sánh:
+ Tích tụ và tập trung tư bản cũng giống như phương tiện làm tăng tư bản cá nhân.
+ Khác biệt: Tích tụ làm tăng mức độ vốn cá nhân, vốn xã hội. Tập trung vốn làm
tăng quy mô vốn cá nhân, nhưng không làm tăng quy mô vốn xã hội.
Tích tụ và tập trung tư bản dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất, tập trung sản xuất
ở một mức độ nào đó sẽ hình thành độc quyền. Đặc biệt, tập trung vốn đóng một vai trò
rất quan trọng trong việc thành lập các công ty lớn và có thể đảm bảo cho các chương
trình phát triển đòi hỏi đầu tư vốn lớn.
4.3. Quá trình tích lũy tư bản làm không ngừng làm tăng chêch lệch giữa thu nhập
của nhà tư bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương đối.
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, khoảng cách giữa thu nhập của các nhà tư bản
và tiền công của người lao động làm thuê rất lớn, điều này đã được CMác quan sát và ông
gọi đó là sự bần cùng hóa của người lao động.
Điều này đồng thời diễn ra song song với sự gia tăng quy mô sản xuất và sự thay
đổi cấu trúc của tư bản, với xu hướng giảm tương đối của tư bản khả biến so với tư bản
bất biến, gây nguy cơ thừa nhân khẩu. Do đó, quá trình tích lũy tư bản có hai mặt, một
mặt là tích lũy giàu sang cho giai cấp tư sản, và mặt khác là tích lũy bần cùng cho giai cấp công nhân làm thuê.
Bần cùng hóa của giai cấp công nhân làm thuê có hai dạng, là bần cùng hóa tương
đối và bần cùng hóa tuyệt đối. 11 lOMoAR cPSD| 45740153
• Bần cùng hóa tương đối là hiện tượng mức tiền công của người lao động không tăng
theo tốc độ tương xứng với sự gia tăng về năng suất lao động và tăng trưởng kinh
tế. Trái lại, lợi nhuận và tài sản của các nhà tư bản ngày càng tăng lên, dẫn đến sự
chênh lệch ngày càng lớn giữa thu nhập của họ và thu nhập của người lao động làm
thuê. Điều này góp phần vào sự gia tăng bần cùng hóa tương đối của người lao động,
khi họ không thể đạt được mức sống tốt hơn dù có làm việc chăm chỉ và đóng góp vào sản xuất.
• Bần cùng hóa tuyệt đối là hiện tượng người lao động làm thuê đang rơi vào hoàn
cảnh sống cực kỳ khó khăn, thiếu thốn về cơ bản như chất ăn, chỗ ở, giáo dục và
chăm sóc sức khỏe. Mức tiền công của họ không đủ để đáp ứng các chi phí sống cơ
bản, dẫn đến sự suy giảm đáng kể về chất lượng cuộc sống và mức sống tổng thể.
Điều này đặc biệt đáng lo ngại trong bối cảnh sự gia tăng của tư bản khả biến, nơi
công nghệ và tự động hóa ngày càng thay thế lao động công nhân, dẫn đến nguy cơ
thừa nhân khẩu và mất việc làm cho những người lao động làm thuê.
Sự bần cùng hóa của người lao động làm thuê không chỉ gây ra sự bất bình đẳng
và mất cân bằng trong xã hội, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, giáo dục và cơ hội phát
triển của họ và gia đình của họ. Nó có thể dẫn đến tình trạng thất nghiệp, đói nghèo, chất
lượng giáo dục kém, và sức khỏe yếu, gây khó khăn trong việc thoát khỏi vòng bần cùng
và đạt được cuộc sống tốt đẹp hơn.
Trong tổng thể, quá trình tích lũy tư bản trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không
chỉ làm tăng chênh lệch giữa thu nhập của nhà tư bản và thu nhập của người lao động làm
thuê, mà còn gây ra sự bần cùng hóa của người lao động làm thuê, cả về mặt tương đối và
tuyệt đối. Sự bất cân bằng trong phân bố tài nguyên và thu nhập trong xã hội đồng nghĩa
với việc các đặc quyền và lợi ích kinh tế được tập trung trong tay một số nhóm nhỏ, trong
khi người lao động làm thuê đang phải đối mặt với sự suy giảm chất lượng cuộc sống.
III. LIÊN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế trong
hơn 20 năm đổi mới gần đây, với tốc độ tăng trưởng đáng kể, sản xuất phát triển và đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai,
việc tích luỹ và huy động vốn trong nước là yếu tố quan trọng. Các chuyên gia quốc tế
cho rằng để Việt Nam phát triển nhanh chóng và bền vững, cần nỗ lực huy động tích luỹ
trong nước, tăng cường hiệu quả của đầu tư nước ngoài và đạt hệ số ICOR (Tỷ lệ đầu tư
cần thiết để tăng 1 đơn vị GDP) ở mức thấp, ít nhất là trên 8% mỗi năm. Điều này sẽ giúp
tăng thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam lên gấp 4-5 lần trong vòng một thế hệ.
Việt Nam có thể lựa chọn các phương án tăng trưởng dựa trên mức tích luỹ trong nước và
đầu tư trên GDP cùng với hiệu suất sử dụng vốn. Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp 12 lOMoAR cPSD| 45740153
hóa và hiện đại hóa nền kinh tế, Việt Nam cần huy động tối đa các nguồn vốn, bao gồm
cả nguồn tài lực, kinh nghiệm quản lý và quan hệ đối ngoại. Chúng ta sẽ khảo sát thực
trạng và giải pháp tích lũy vốn ở Việt Nam ngày nay.
1. Thực trạng tích lũy vốn tại Việt Nam
Thực trạng tích lũy tư bản tại Việt Nam trong những năm gần đây vẫn đang găp
nhiều khó khăn và thách thức.
Thứ nhất, tỷ lệ đầu tư công và đầu tư nước ngoài: Tỷ lệ đầu tư công chiếm tỷ trọng
lớn trong đầu tư tổng thể của Việt Nam, trong khi đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI), vẫn chiếm đa phần trong tổng số vốn đầu tư. Theo số liệu của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong năm
2020 đạt khoảng 28,53 tỷ USD, giảm 25% so với năm 2019. Đây là dấu hiệu cho thấy sự
giảm sút của đầu tư nước ngoài vào nước này, có thể ảnh hưởng đến tích lũy tư bản của
các doanh nghiệp trong nước.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng ảnh
hưởng đến tích lũy tư bản của doanh nghiệp. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, tốc độ
tăng trưởng GDP thực của Việt Nam trong năm 2020 đạt 2,9%, giảm thấp nhất trong 10
năm qua. Điều này có thể ảnh hưởng đến năng lực tích lũy tư bản của doanh nghiệp, đồng
thời làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh và đầu tư vào đổi mới công nghệ.
Thứ ba, những thách thức về môi trường kinh doanh: Môi trường kinh doanh chưa
hoàn thiện vẫn là một thách thức lớn đối với tích lũy tư bản của doanh nghiệp tư nhân tại
Việt Nam. Theo chỉ số Doing Business của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam xếp thứ 70
trong tổng số 190 nước năm 2020. Điều này cho thấy rào cản và khó khăn trong các thủ
tục hành chính, hệ thống pháp lý, và điều kiện đầu vào của doanh nghiệp tại Việt Nam,
gây ảnh hưởng đến năng lực tích lũy tư bản của doanh nghiệp.
Thứ tư, chất lượng nguồn nhân lực: Chất lượng nguồn nhân lực cũng là một yếu tố
quan trọng đối với tích lũy tư bản tại Việt Nam. Mặc dù Việt Nam có nguồn lao động dồi
dào, nhưng chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn hạn chế, đặc biệt là trong lĩnh vực công
nghệ cao. Việc thiếu hụt nguồn nhân lực có chuyên môn và kỹ năng cần thiết để đáp ứng
yêu cầu của kinh tế hiện đại đồng nghĩa với việc doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc
tích lũy tư bản và đầu tư vào nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thứ năm, khả năng đổi mới công nghệ: Tích lũy tư bản không chỉ đơn thuần là
tích luỹ vốn, mà còn là khả năng đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt
Nam vẫn đang đứng ở vị trí thấp trong các chỉ số đổi mới công nghệ, chỉ chiếm vị trí thứ
42 trong bảng xếp hạng chỉ số đổi mới toàn cầu của Chỉ số Đổi mới Toàn cầu năm 2020.
Điều này cho thấy tính cạnh tranh và khả năng đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp
tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, gây ảnh hưởng đến tích lũy tư bản. 13 lOMoAR cPSD| 45740153
2. Những giải pháp tăng cường tích lũy vốn ở Việt Nam
Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đặt mục tiêu nâng cao cuộc sống vật chất và tinh thần
của người dân, và trong hoàn cảnh hiện nay khi chuyển từ sản xuất nhỏ lên CNXH, chúng
ta cần phải huy động toàn bộ nguồn lực từ mọi người, mọi ngành và mọi cấp để thúc đẩy
sản xuất phát triển. Đồng thời, việc tiết kiệm tài nguyên và tích luỹ vốn từ nội bộ nền
kinh tế quốc gia là điều cần thiết trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế sản
xuất lớn theo tư tưởng XHCN.
2.1. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích luỹ - tiêu dùng
Vì mục đích của xã hội XHCN là liên tục mở rộng quá trình tái sản xuất, tăng
cường sản phẩm xã hội và nâng cao mức sống của người lao động, chúng ta cần phải xác
định tỷ lệ hợp lý giữa quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng. Tuy nhiên, tỷ lệ này phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế xã hội, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hiệu
quả của kỹ thuật mới, sử dụng hợp lý các nguồn vật tư, lao động và các yếu tố khác.
Tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng các tài sản hiện có
một cách hiệu quả, đồng thời đảm bảo đủ quỹ tích luỹ để phát triển sản xuất với tốc độ
cao và ổn định, trong khi vẫn đáp ứng đúng mức tiêu dùng cần thiết. Tuy nhiên, tỷ lệ này
không phải là cố định mà thay đổi tuỳ thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.
Vấn đề phân phối tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng là trung tâm của xã hội chủ
nghĩa, nó thể hiện mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và cải thiện đời sống, giữa lợi ích
lâu dài và lợi ích ngay lập tức, giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng đồng. Việc
phân chia tỷ lệ này không phải là cố định mà thay đổi dựa trên nguyên tắc của từng giai
đoạn phát triển kinh tế cụ thể.
Đồng thời, chúng ta cần khuyến khích mọi người dân tiết kiệm và tích luỹ. Việc
này không chỉ liên quan đến khía cạnh kinh tế mà còn phản ánh đường lối chính sách của
Đảng trong từng thời kỳ nhất định. Qua đó, chúng ta có thể đạt được một sự cân bằng hợp
lý giữa tích luỹ và tiêu dùng, đồng thời đảm bảo phát triển bền vững và cải thiện chất
lượng cuộc sống của người dân.
2.2. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn
Để tận dụng tối đa nguồn vốn, việc xác định rõ các đối tượng được cấp vốn và
phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý trong các ngành là rất quan trọng để đạt được hiệu
quả sử dụng vốn cao hơn. Đối với doanh nghiệp nhà nước, chính phủ không nên cấp vốn
toàn bộ mà thay vào đó nên tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp. Điều này sẽ đẩy mạnh
trách nhiệm của doanh nghiệp đối với vốn của mình và tạo điều kiện cho các chủ doanh
nghiệp phát huy tối đa năng lực quản lý của họ, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Tuy nhiên, hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn cũng phụ thuộc nhiều vào yếu tố
con người. Vì vậy, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ năng lực và trách 14 lOMoAR cPSD| 45740153
nhiệm cao. Đồng thời, nhà nước cần xem xét lại mô hình tổ chức quản lý, đặc biệt là đội
ngũ cán bộ, và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ phát huy tối đa năng lực của mình.
Điều này càng cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt của nguồn vốn FDI trong khu
vực và trên thế giới. Thiết lập một cơ chế tổ chức gọn nhẹ, không chồng chéo sẽ tạo điều
kiện cạnh tranh mạnh mẽ hơn.
Với việc điều chỉnh tổ chức và quản lý, đồng thời thúc đẩy cổ phần hoá, chúng ta
có thể đạt được sự tận dụng hiệu quả nguồn vốn và nâng cao khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, đồng thời đảm bảo lợi
ích của cả nhân dân và toàn xã hội.
2.3. Tăng cường tích luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Trong việc tích luỹ vốn trong nước, nhiều giải pháp đã được đưa ra, tuy nhiên, giải
pháp hàng đầu và quan trọng nhất vẫn là sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước.
Nguồn vốn này đóng vai trò then chốt trong việc đáp ứng các nhu cầu chi của nhà nước,
bao gồm cả chi thường xuyên, chi cho đầu tư phát triển và chi cho phát triển công nghiệp.
Do đó, việc nâng cao hiệu quả của việc tích luỹ, tích tụ và tập trung vốn thông qua ngân
sách nhà nước là cực kỳ cấp bách và mang lại ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn.
Một biện pháp để tăng cường tích luỹ vốn trong nước là thông qua sự hỗ trợ của
các tổ chức tín dụng và ngân hàng, đây là những cách có hiệu quả tương đối cao vì có thể
hấp dẫn được các nguồn vốn đang đọng lại trong dân. Để thực hiện tốt hơn các hoạt động
của mình, ngành ngân hàng cần tiến hành cải tiến phương thức phục vụ khách hàng, mở
rộng các hình thức tiết kiệm thông qua bưu điện, cải thiện các thủ tục đảm bảo tính an
toàn và bí mật cho tiền gửi của khách hàng. Đồng thời, chính phủ cũng cần đưa ra các
biện pháp nâng cao lãi suất nhằm thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đang đọng lại trong
dân. Đặc biệt, hệ thống ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các quỹ tín dụng nhân dân
để tích tụ và tập trung vốn một cách thuận tiện. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể huy
động vốn thông qua các công ty bảo hiểm, công ty sổ xố kiến thiết, sự tài trợ của các
doanh nghiệp, các quỹ từ thiện, quỹ hỗ trợ,...
Ngoài ra, việc tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong nước từ các nguồn tài
nguyên quốc gia và từ những tài sản công còn không được sử dụng đến là một mục tiêu
và biện pháp cơ bản để tăng thêm nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển. Cần
nghiên cứu lại các quy định liên quan đến đất đai và quyền sử dụng đất, đồng thời đạt
được sự cân bằng hài hoà với các tổ chức thị trường liên quan. Trong thời gian tới, cần
tìm cách khai thác cao nhất hiệu quả nhất nguồn vốn từ tài sản công, bao gồm cả việc huy
động nguồn vốn từ cả hiện vật và tiền bạc trở thành nguồn thu trực tiếp của ngân sách
Nhà nước, đây là cơ sở ban đầu cần thiết để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Một cách tiếp cận mới đang được áp dụng tại quốc gia chúng ta là thu hút vốn
thông qua thị trường chứng khoán, một hình thức tích luỹ và tập trung vốn có hiệu quả 15 lOMoAR cPSD| 45740153
cao đã được các nước phát triển ứng dụng. Tuy nhiên, để phát triển thị trường chứng
khoán, chúng ta cần thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
nhà nước, đồng thời phải phát triển hệ thống ngân hàng thương mại. Thị trường chứng
khoán là một hình thức của thị trường vốn, và hoạt động hiệu quả của thị trường chứng
khoán sẽ đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp, đóng vai
trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế trong bối cảnh hiện nay khi nền kinh tế
mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Để thu hút vốn đầu tư trực tiếp, đặc biệt là vốn
từ các nước phát triển, chúng ta cần thực hiện một chiến lược toàn diện và đồng bộ, trong
đó cải thiện môi trường đầu tư là một yếu tố quan trọng.
Để thực hiện chiến lược này, cần có các biện pháp hỗ trợ từ chính phủ, trong đó
việc sửa đổi và bổ sung bộ luật đầu tư nước ngoài để phù hợp với tình hình mới và đảm
bảo quyền lợi của các nhà đầu tư là điều cần thiết. Một môi trường đầu tư thích ứng với
điều kiện cạnh tranh mới sẽ tạo ra sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư quốc tế và khuyến
khích họ đầu tư vào nền kinh tế nước ta. Điều này có thể bao gồm đơn giản hóa thủ tục
đầu tư, giảm bớt các rào cản, cải thiện khả năng tiếp cận đến nguồn lực và dịch vụ hỗ trợ
cho các nhà đầu tư, đồng thời đảm bảo tính minh bạch, công bằng và đúng pháp luật trong quá trình đầu tư.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác xây dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước, để có khả năng cạnh tranh và hấp dẫn đầu tư từ các nhà đầu
tư quốc tế. Điều này có thể đạt được thông qua việc cải cách cơ chế quản lý, nâng cao
chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ, đào tạo
và phát triển nhân lực chất lượng cao, và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát
triển và mở rộng hoạt động kinh doanh. 16 lOMoAR cPSD| 45740153 KẾT LUẬN
Việc tích luỹ và vận dụng tư bản là điều rất cần thiết trong quá trình phát triển của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đất nước ta đang trải qua. Đây là giai đoạn phát
triển mạnh mẽ và năng động nhất từ trước đến nay, tạo ra áp lực về tăng quy mô vốn cho
nền kinh tế. Để đạt được thành công trong quá trình chuyển từ nền kinh tế truyền thống
sang hướng đi của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đất nước cần phải có nguồn vốn đủ lớn.
Theo đánh giá của các nhà đầu tư tài chính quốc tế tại Diễn đàn Đầu tư Việt Nam
năm 2006, thị trường vốn của Việt Nam đầy hứa hẹn với nhiều cơ hội đầu tư. Nguyên
nhân chính là do nguồn tích luỹ vốn trong dân cao, cùng với việc các công ty Nhà nước
tham gia tiến trình cổ phần hóa, tạo ra nhiều hàng hóa mới cho thị trường trái phiếu và cổ
phiếu. Ngoài ra, với quy mô dân số đông và trẻ, Việt Nam có tiềm năng tiêu dùng lớn,
điều này đồng nghĩa với sự sôi động của thị trường vốn. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở
đây là phải có các giải pháp thích hợp để huy động và sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả nhất.
Sự phát triển bền vững và liên tục của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh xu thế
toàn cầu hóa đang tạo ra nhiều cơ hội và áp lực. Để đạt được sự phát triển này, mỗi người
dân, mỗi doanh nghiệp cần không chỉ biết làm giàu cho mình mà còn phải biết làm giàu
cho toàn xã hội, góp phần vào sự phát triển của cộng đồng. Quy luật cạnh tranh đã buộc
mỗi doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng vốn đầu tư để phát triển. Việc tích luỹ vốn
để tái sản xuất và mở rộng là con đường duy nhất để mở rộng vốn đầu tư của doanh
nghiệp. Đồng thời, việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, như FDI (đầu tư trực tiếp nước
ngoài) và ODA (viện trợ phát triển), cũng sẽ có tác động hỗ trợ lớn cho sự phát triển của
nền kinh tế Việt Nam. Chính sách mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN của Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn của hướng đi này. Việc thu hút
vốn đầu tư từ nước ngoài và khuyến khích tích luỹ vốn trong cộng đồng dân cư cũng
đồng hành với mục tiêu của Việt Nam là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, và văn minh. Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong hướng đi này sẽ đóng góp
vào thành công của cả nền kinh tế và xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mac-Lênin.
2. Kinh tế học của P. A. Samuelson.
3. Tư bản-Quyển 1-Tập 3/ K. Marx.
4. Báo cáo diễn đàn đầu tư Việt năm 2006.
5. Thời báo kinh tế Việt năm 2005-2006. 17 lOMoAR cPSD| 45740153
6. Tích tụ và tập trung vốn trong nước /Trần Xuân Kiên.
7. Văn kiện Đại hội IX, X của Đảng. … 18