Trình bày phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Trình bày phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

Môn:

Lịch sử Đảng 92 tài liệu

Trường:

Đại học Sư Phạm Hà Nội 2.1 K tài liệu

Thông tin:
34 trang 8 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Trình bày phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Trình bày phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

304 152 lượt tải Tải xuống
ÔN TẬP MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(năm học 2022 – 2023)
1. Trình bày phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tại sao trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam phải chú trọng nhận thức theo quan điểm khách quan,
toàn diện và lịch sử cụ thể?
1. Phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng
Dựa trên phương pháp luận khoa học marxist, đặc biệt nắm vững chủ
nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét nhận thức
lịch sử một cách khách quan, trung thực và đúng quy luật.
Cùng với chủ nghĩa Marx Lenin, tưởng Hồ Chí Minh nền tảng
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng HCM dẫn dắt sự nghiệp
cách mạng của Đảng dân tộc. tưởng HCM duy, phong cách khoa học
của Người sở định hướng về phương pháp nghiên cứu, học tập Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam phải
chú trọng nhận thức theo quan điểm khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể, vì:
Quan điểm khách quan trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử ĐCSVN thể
hiện:
+ Lịch sử một hiện thực đã diễn ra trong quá khứ, tồn tại độc lập khách
quan, là đối tượng nghiên cứu của sử học
+ Khoa học Lịch sử khả năng nhận thức được lịch sử nhưng không phải
là nhận thức trực quan, tuyệt đối mà là quá trình tiệm cận với lịch sử, chân lí trong
sử học mang tính chất tương đối.
+ Nhà sử học, chủ thể của nhận thức lịch sử, luôn để lại dấu ấn chủ quan
trong tất cả các khâu của hoạt động nhận thức. Nhà sử học luôn thuộc về một giai
cấp nhất định và do đó luôn mang quan điểm giai cấp để khôi phục sự kiện và giải
thích lịch sử. Trong thời hiện đại, nhà sử học dựa trên lập trường của giai cấp
sản để giải lịch sử thì khả năng thiết lập được sự phù hợp giữa cái chủ quan
của người nghiên cứu với cái khách quan của hiện thực lịch sử. Lập trường giai
cấp chính là tính đảng trong sử học marxist và ở đây tính đảng và tính khoa học có
sự thống nhất.
+ Trong quá trình nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, để
đảm bảo tính khách quan, chúng ta cần dựa vào vào nguồn sử liệu về Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nguồn sử liệu ấy cần được xử lí, xác minh một cách khoa học.
Như vậy, quan điểm khách quan sẽ giúp nhà nghiên cứu, người học tập nhìn
nhận các vấn đề thuộc về môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam một cách chân
thực, chính xác.
- Quan điểm toàn diện:
Khoa học Lịch sử Đảng “một hệ thống tri thức về quá trình hoạt động đa
dạng và phong phú của Đảng trong mối quan hệ mật thiết với tiến trình lịch sử của
dân tộc và thời đại”, nghiên cứu “tổ chức và hoạt động của Đảng và các phong trào
cách mạng của quần chúng diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Các tri thức của khoa học Lịch sử Đảng mối quan hệ mật thiết, biện
chứng với nhau, vì vậy, nhận thức toàn diện giúp nghiên cứu, người học nhìn nhận
đối tượng một cách đầy đủ, khoa học và hiểu được bản chất của vấn đề.
Quan điểm lịch sử cụ thể xem xét các sự kiện, hiện tượng lịch sử những
thời điểm nhất định, cụ thể trong quá khứ. Các sự kiện, hiện tượng lịch sử đều xảy
ra ở một thời giankhông gian cụ thể nào đó. Chúng ta thể không hiểu được
bản chất, thậm chí hiểu sai các sự kiện lịch sử nếu chúng ta không biết được thời
điểm xuất hiện của chúng. Quan điểm này giúp nhà nghiên cứu, người học không
hiện đại hoá lịch sử và hiểu chính xác hơn về lịch sử.
2. Trình bày chính sách cai trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam cuối
TK XIX đầu TK XX và những tác động của nó đến xã hội Việt Nam lúc đó?
1. Chính sách cai trị của Pháp đối với Việt Nam cuối TK XIX − đầu TK XX
Sau quá trình điều tra thám sát lâu dài, thâm nhập kiên trì của các giáo sĩ và
thương nhân Pháp, ngày 01/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại
Đà Nẵng từng bước thôn tính Việt Nam. Trước hành động xâm lược của Pháp,
triều đình nhà Nguyễn từng bước thoả hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) đến
ngày 06/6/1884 với Hiệp ước Patenotre đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, Việt
Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo
dưới gót sắt của kẻ thủ hung ác”.
Đồng thời với việc dùng vũ lực đàn áp đẫm máu đối với các phong trào yêu
nước của nhân dân VN, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền
thuộc địa, bên cạnh đó vẫn duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai.
Chính sách cai trị của chính quyền thuộc địa thể hiện ở các phương diện sau:
Về chính trị
+ Thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn
kết cộng đồng quốc gia dân tộc: chia lãnh thổ VN thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau nằm trong Liên bang Đông Dương
thuộc Pháp (thành lập 17/10/1887 theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp)
+ Thực dân Pháp triệt để thực hiện chính sách “dùng người Việt trị người
Việt”, ra đạo luật về tổ chức quân đội thuộc địa bao gồm vừa binh lính Pháp, vừa
binh lính người bản xứ. Trực tiếp điều khiển quân đội Đông Dương là viên tổng
chỉ huy người Pháp. Ngoài quân đội chính quy còn có đội lính khố xanh chuyên để
đàn áp các cuộc khởi nghĩa, hoặc canh giữ các nhà tù, phục vụ các đạo quan
binh. Ngoài ra, cả ba xứ còn có tổ chức đội thân binh dưới quyền của bọn Việt gian
phản động làm nhiệm vụ đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân.
− Về kinh tế
+ Từ năm 1897, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành khai thác
thuộc địa. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất bắt đầu từ 1897 - 1914, cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai bắt đầu từ 1919 - 1929. Chính quyền thuộc địa âm mưu
biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu thụ hàng
hoá ế thừa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vét tài nguyên, bóc lột sức lao
động rẻ mạt của người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khoá nặng nề.
− Về văn hoá – xã hội
Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều
hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hoá, duy trì tệ nạn
hội vốn của chế độ phong kiến tạo nên nhiều tệ nạn hội mới, dùng rượu
cồn thuốc phiện để đầu độc thanh niên Việt Nam, ra sức tuyên truyền tưởng
“khai hoá văn minh”…
2. Tác động của các chính sách cai trị của thực dân Pháp đến xã hội VN
– Làm thay đổi tính chất xã hội Việt Nam: từ xã hội phong kiến sang xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, đặc trưng là: đế quốc – phong kiến kết hợp với nhau để
thống trị, bóc lột nhân dân. Đế quốc dựa vào phong kiến phản động để duy trì ách
thống trị, phong kiến phản động dựa vào thế lực đế quốc để bóc lột nhân dân.
Làm phân hoá các giai cấp xuất hiện các giai cấp, tầng lớp hội mới
trong hội VN. Các giai cấp, tầng lớp này địa vị kinh tế khác nhau do đó
cũng có thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc.
Giai cấp địa chủ bị phân hoá, khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp.
Một bộ phận câu kết với thực dân Pháp và làm tay sai đắc lực cho Pháp trong việc
ra sức đàn áp phong trào yêu nước và bóc lột nông dân (thường là đại địa chủ); một
bộ phận khác (thường trung tiểu địa chủ) nêu cao tinh thần dân tộc khởi
xướng và lãnh đạo các phong trào chống Pháp và bảo vệ chế độ phong kiến; một số
trở thành lãnh đạo phong trào nông dân chống thực dân Pháp phong kiến phản
động; một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản.
Giai cấp nông dân thành phần đông đảo nhất trong hội Việt Nam
(khoảng hơn 90% dân số). Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, nông dân bị đế
quốc, phong kiến bản bóc lột nặng nề. Nông dân bị bần cùng hoá bởi chính
sách chiếm đoạt ruộng đất để lập đồn điền của thực dân Pháp, bởi nạn sưu cao,
thuế nặng của nhà nước phong kiến – thực dân, bởi địa và cho vay nặng lãi của
địa chủ phong kiến. Xã họi tồn tại nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn nông dân – địa chủ
phong kiến, mâu thuẫn nông dân thực dân Pháp. Chịu áp bức bóc lột nặng nề,
nông dân mọi nơi không ngừng vùng dậy chống lại ách thống trị của thực dân
phong kiến. Đây lực lượng hùng hậu, tinh thần đấu tranh kiên cường bất
khuất khao khát giành lại ruộng đất cho dân cày, khi lực lượng tiên phong
lãnh đạo, giai cấp nông dân sẵn sàng vùng dậy làm cách mạng lật đổ thực dân
phong kiến.
Giai cấp công nhân ra đời từ trong quá trình thực dân Pháp thực hiện cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Ngoài những đặc điểm của giai cấp công nhân
quốc tế, giai cấp công nhân VN những đặc điểm riêng: ra đời trước giai cấp
sản dân tộc, kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc; bị ba tầng áp bức: đế quốc,
phong kiến, tư bản; phần lớn xuất thân từ nông dân, là cơ sở khách quan, thuận lợi
cho công nhân nông dân liên minh chặt chẽ trong quá trình đấu tranh cách
mạng. Do vậy, tuy lực lượng công nhân Việt Nam còn nhỏ bé, nhưng đã sớm vươn
lên tiếp nhận tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh chóng phát triển từ “tự phát”
đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp tư sản VN xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân. Một bộ phận
gắn liền lợi ích với tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính
quyền thực dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư
sản dân tộc, họ bị thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm, bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế.
Vì vậy, phần lớn tư sản VN có tinh thần dân tộc nhưng không có khả năng tập hợp
các giai tầng để tiến hành CM.
Tầng lớp tiểu sản (tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên,...) bị đế quốc, bản
chèn ép, khinh miệt, do đó có tinh thần dân tộc, yêu nước và rất nhạy cảm về chính
trị và thời cuộc. Tuy nhiên, do địa vị kinh tế bấp bênh, thái độ hay dao động, thiếu
kiên định, do đó họ không thể lãnh đạo cách mạng.
Tầng lớp phu phong kiến bị phân hoá càng ngày càng sâu sắc. Một bộ
phận vẫn giữ cốt cách phong kiến, một bộ phận chuyển sang tư tưởng sản hoặc
tưởng sản. Một số người trong tầng lớp này khởi xướng các phong trào yêu
nước có ảnh hưởng lớn.
+ Làm thay đổi mâu thuẫn bản trong hội Việt Nam: Ngoài mẫu thuẫn
vốn của hội Việt Nam trước đây mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
phong kiến, đến lúc này đã xuất hiện mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với thực dân Pháp chính quyền tay sai. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất
ngày càng trở nên gay gắt mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai.
3.Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam?
Vai trò của NAQ đối với sự thành lập ĐCSVN thể hiện ở các hoạt động quan
trọng sau:
* : Cuối TK XIX đầu TK XX, tiếp tục truyền thống yêu nước,Hoàn cảnh
bất khuất kiên cường chống ngoại , các xâm phong trào chống thực dân Pháp theo
ngọn cờ phong kiến, ngọn cờ dân chủ sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra
quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Tuy nhiên, các phong trào cứu nước từ lập trường
Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu sản đều lần lượt . Yêu cầu đặt rathất bại
lúc này là phải có một tổ chức lãnh đạo với đường lối CM đúng đắn.
* Sự lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Ái Quốc. Sinh ra
và lớn lên tại Nam Đàn – Nghệ An, vùng đất có truyền thống bất khuất, kiên cường
chống áp bức bất công, trước cảnh nước mất, đồng bào bị đoạ đày đau khổ bởi
chính sách thuộc địa của thực dân Pháp chế độ phong kiến tay sai, Nguyễn Ái
Quốc mang trong mình tinh thần yêu nước, thương dân sâu sắc.
Ngày 05/6/1911, Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua hạn chế của những phu
yêu nước đương thời, quyết chí đi , cứusang phương Tây tìm con đường cứu nước
dân theo duy mới. Khi , Người CMT10 Nga (1917) thành công từ Anh trở lại
Pháp và tham gia các hoạt động chính trị.
Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng hội Pháp, một chính đảng tiến bộ
nhất lúc đó Pháp. Ngày 18/6/ , Nguyễn Tất Thành lấy tên Nguyễn Ái1919
Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp tới Hội nghị Vecxaigửi
bản Yêu sách của nhân dân An Nam nhưng không được đáp ứng. Tuy nhiên sự
kiện đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và NAQ càng hiểu rõ hơn bản
chất của đế quốc, thực dân.
Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Sơ thảo chỉ
rõ, phong trào giải phóng dân tộccác nước phương Đôngkẻ thù là chủ nghĩa
tư bản phương Tây, do đó, về khách quan, nó là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới, vì vậy độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những luận điểm của
V.I. Lenin về vấn đề dân tộc thuộc địa đã giải đáp những vấn đề bản chỉ
dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. luận của
Lenin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các
dân tộc thuộc địa sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia
nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12/1920).
Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, tuyên bố
thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một
trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Phápngười cộng sản đầu tiên
của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường
chính trị của Nguyễn Ái Quốc muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không
con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”.
* Quá trình tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức
- Về tư tưởng, chính trị
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, trở thành người
cộng sản, NAQ tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối
cách mạng sản, đồng thời nhằmtích cực truyền CN Marx Lenin về VN
chuẩn bị tiền đề về ởng, chính trị tổ chức cho sự ra đời của chính đảng
cộng sản ở VN.
Vừa nghiên cứu luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào
cộng sảncông nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, qua nhiều bài
báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân,..., NAQ đã tích cực tố cáo tội
ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các thuộc địa, đồng thời tiến hành
tuyên truyền tưởng Marx Lenin, xây dựng mối quan hệ gắn giữa những
người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Khi sang hoạt động ở Liên Xô tham dự và trình bày các tham luận tại đại hội
của các tổ chức mang tính quốc tế: Đại hội Quốc tế nông dân, Quốc tế thanh niên,
Quốc tế phụ nữ,... Người đã chỉ rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc, đồng thời tuyên truyềntưởng của Lenin soi sáng con đường
cách mạng, con đường phát triển của cách mạng thuộc địa.
Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản, Người đã trình bày
bản báo cáo quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Bản báo cáo đã làm sáng rõ
phát triển một số luận điểm của Lenin về bản chất của chủ nghĩa thực dân, về
nhiệm vụ của các đảng cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức
bóc lột và giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Năm 1925, cuốn sách Bản án chế độ
thực dân Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Paris, đã tố cáo, kết tội chế độ bóc lột,
cai trị của thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các dân
tộc bị áp bức nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng. Đây sự chuẩn bị quan
trọng về tư tưởng, lí luận cho quá trình thành lập Đảng.
Đường lối cách mạng được phác thảo nét nhất nội dung các bài giảng
của Nguyễn Ái Quốc cho Hội VN CM Thanh niên, được tập hợp, in trong cuốn
Đường cách mệnh. Tác phẩm xác định con đường, mục tiểu, lực lượng
phương pháp đấu tranh của cách mạng Việt Nam, thể hiện tưởng nổi bật của vị
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin
vào điều kiện Việt Nam.
Trong đó, trước hết, Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các
dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa cộng sản. Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa một bộ phận của cách mạng sản thế giới; giữa cách mạng giải
phóng dân tộc các nước thuộc địa với cách mạng sản“chính quốc” mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở
nước thuộc địa không phụ thuộc, thậm chí thể thành công trước, góp phần
tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Người chỉ rõ: nước nông nghiệp lạc hậu,
nông dânlực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng
nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh
công nông làm động lực cách mạng. Do vậy, Người xác định rằng, cách mạng
việc của toàn dân.
Về đảng cộng sản, Người khẳng định: “Trước hết phải đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức
sản giai cấp mọi nơi. Đảng vững cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Phong trào “ do Kỳ bộ Bắc Kỳ góp phần truyền bá tưởng sản hoá”
sản, nhiệm vụ chính trị, rèn luyện cán bộ và phát triển tổ chức của công nhân.
Về tổ chức:
Tháng 11/1924, Người rời Liên về Quảng Châu (Trung Quốc) nơi
rất đông người Việt Nam yêu nước hoạt động để xúc tiến các công việc tổ chức
thành lập chính đảng marxist.
Tháng 02/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm
xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt Cộng sản đoàn. Hội đã công bố
chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mạng dân tộc rồi sau đó làm
cách mạng thế giới. Tổng bộquan lãnh đạo cao nhất giữa hai kì đại hội. Trụ
sở đặt tại Quảng Châu.
Hội xuất bản tờ báo Thanh niên tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội -
truyên truyền chủ nghĩa Marx Lenin phương hướng phát triển của cuộc vận
động giải phóng dân tộc Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn đưa một số
thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về luận chính trị.
Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển phong
trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản.
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải chính đảng cộng sản,
nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm lập trường của giai cấp công
nhân tổ chức tiền thân dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản Việt Nam.
Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Marx – Lenin vào trong nước và cũng
sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp
vô sản ở Việt Nam. Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc nhận được tin tình hình Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên “bị tan rã, những người cộng sản chia thành nhiều phái,...” khi đang hoạt động
ở Xiêm (Thái Lan). Trước tình hình đó, Người đã rời Xiêm về Hồng Kông (Trung
Quốc), chủ động “triệu tập các đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam)”
để tiến hành hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Hội nghị thành lập Đảng được tiến hành từ ngày 06/01/1930 đến ngày
07/02/1930 ở nhiều địa điểm khác nhau tại Hồng Kông (Trung Quốc). Thành phần
dự Hội nghị gồm đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng An Nam Cộng sản
đảng, dưới sự của lãnh tụ .chủ trì Nguyễn Ái Quốc
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của NAQ, tổ chức hợp nhất 3 tổ
chức CS, lấy tên Đảng CS VN, thông qua Cương lĩnh chính trị các văn kiện
quan trọng do lãnh tụ NAQ soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược
vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng CSVN.
Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng CSVN tổ chức ra để
lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ
nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc . Sau khi vạch rõ bản chất, tội áccó giá trị như một Đại hội Đảng
của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, Người chỉ sứ mệnh của Đảng
Cộng sản Việt Nam “để lãnh đạo toàn thể anh chị em bị áp bức chúng ta làm
cách mạng”.
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng VN cần phải thống nhất các
tổ chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín
chính trị phương thức hợp nhất phù hợp, NAQ đã kịp thời triệu tập chủ trì
hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp
nhất dù “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho
cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.
4.Chứng minh: sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam một tất yếu
khách quan?
* Về mặt thực tiễn
– Hoàn cảnh quốc tế
+ Cuối TK XIX, CN bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc.
+ ýThắng lợi của CMT10 Nga 1917 cùng với chủ nghĩa Mac Lenin
nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các nước tư bản. Nó
còn tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc các thuộc địa, cổ
mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân.
Đồng thời là minh chứng ràng cho việc muốn giành thắng lợi, CM phải một
tổ chức đứng đầu để tập hợp lực lượng, phải có đường lối cách mạng đúng đắn.
+ , trởQuốc tế Cộng sản, do Lenin đứng đầu, được thành lập tháng 3/1919
thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng sản thế
giới. Quốc tế Cộng sản đã tiến hành nhiều hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng
sản thúc đẩy phong trào đấu tranh khu vực này đi theo khuynh hướng
sản. Nó thúc đẩy phong trào công nhân và nhân dân thế giới, là động lực thúc đẩy
sự ra đời nhiều đảng cộng sản các nước: Đảng Cộng sản Đức, (1918); Đảng
Cộng sản Mỹ (1919); Đảng Cộng sản Pháp (1920),...
– Tình hình cách mạng Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
+ 1858, Pháp xâm lược Việt Nam, đến năm 1884, Pháp thống trị được hoàn
toàn VN, VN trở thành thuộc địa của Pháp.
+ Cuối TK XIX đầu TK XX, nhiều phong trào chống thực dân Pháp theo
khuynh hướng khác nhau (phong kiến, dân chủ dản, tiểu sản) diễn ra quyết
liệt, liên tục và rộng khắp nhưng đều thất bại. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm
vào về đường lối cứu nước, khủng hoảng, bế tắc thiếu một tổ chức đủ mạnh để tập
hợp lực lượng, giáo dục quần chúng.
– Thực tiễn cách mạng Việt Nam năm 1929
Cuối năm 1928, những hoạt động của ảnhHội VN ch mạng Thanh niên
hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự của chuyển biến phong trào công nhân, phong trào
yêu nước Việt Nam những năm 1928, 1929 theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Năm 1929, với sự ra đời của 3 tổ chức CS: Đông Dương Cộng sản đảng,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, An Nam Cộng sản đảng, đã khẳng định bước
tiến về chất của phong trào công nhân phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch
sử Việt Nam.
Tuy nhiên, sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở ba miền với đường lối giống
nhau, đều ủng hộ kêu gọi sự thừa nhận của Quốc tế CS, đều tự nhận đảng
cách mạng chân chính, vì vậy đã dẫn đến việc phân tán về lực lượng và thiếu thống
nhất về tổ chức trên cả nước. Trước tình hình đó, NAQ đã trở về TQ tổ chức hội
nghị hợp nhất 3 tổ chức CS ( Hội nghị thành lập Đảng) , từ ngày 06/01/1930 đến
ngày 07/02/1930. Hội nghị thống nhất thành lập một tổ chức CS chung, lấy tên
Đảng CSVN, thông qua Cương lĩnh chính trị và các văn kiện quan trọng do lãnh tụ
NAQ soạn thảo. ĐCSVN trở thành chính đảng duy nhất tổ chức lãnh đạo quần
chúng đấu tranh chống đế quốc theo khuynh hướng vô sản.
* Về mặt lí luận
Đảng Cộng sản VN ra đời theo đúng quy luật khách quan, là sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Marx – Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở VN.
5.Tại sao sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 lại đánh
dấu bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh?
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ý nghĩa quyết định trong sự
phát triển của dân tộc VN, sự lãnh đạo của Đảng trở thành nhân tố hàng đầu quyết
định đưa cách mạng VN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng ra đời đã
đánh dấu bước phát triển về chất trong tư tưởng HCM.
Vào những năm cuối TK XIX đầu TK XX, tiếp tục truyền thống yêu nước,
bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo
ngọn cờ phong kiến, dân chủ sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt,
liên tục rộng khắp. với nhiều cách thức tiến hành khác nhau, song đều thất
bại. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước.
Nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cần phải một tổ chức cách mạng tiên phong,
đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc. Trước yêu cầu lịch sử đó,
NAQ tiến hành hợp nhất 3 tổ chức CS thành một chính đảng duy nhất Đảng
CSVN. Đảng ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên do NAQ soạn thảo đã phản
ánh tư tưởng HCM về đường lối CM VN hình thành về cơ bản.
Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: “chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”.
– Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam:
+ Về phương diện chính trị, Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước
mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn phong
kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
+ Về phương diện hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự
do tổ chức; b) Nam nữ bình quyền,...; c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”.
+ Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc
trái; thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lí; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của
công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo;...
Về lực lượng cách mạng: Cương lĩnh xác định lực lượng bản của cách
mạng công nhân, nông dân, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời
Cương lĩnh chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước
để tập trung chống đế quốctay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình”, nhưng đồng thời “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu sản, trí
thức, trung nông,… để kéo họ đi vào phe sản giai cấp. Còn đối với bọn phú
nông, trung, tiểu địa chủ bản chưa mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: Cương lĩnh khẳng
định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng để giải phóng dân
tộc, chứ không thể là con đường cải lương thoả hiệp.
Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế: Cương lĩnh phát triển quan điểm
về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính
quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định: “Đảng đội tiên
phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng với các ND chiến lược sách
lược vừa CM vừa khoa học đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội
VN, phù hợp với xu hướng thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình
phát triển của CMVN.
+ Từ đây, thông qua đường lối của Đảng, tưởng HCM chính thức đã đi
vào thực tiễn CMVN.
| 1/34

Preview text:

ÔN TẬP MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(năm học 2022 – 2023)
1. Trình bày phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tại sao trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam phải chú trọng nhận thức theo quan điểm khách quan,
toàn diện và lịch sử cụ thể?

1. Phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng
Dựa trên phương pháp luận khoa học marxist, đặc biệt là nắm vững chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét và nhận thức
lịch sử một cách khách quan, trung thực và đúng quy luật.
Cùng với chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng HCM dẫn dắt sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc. Tư tưởng HCM và tư duy, phong cách khoa học
của Người là cơ sở và định hướng về phương pháp nghiên cứu, học tập Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam phải
chú trọng nhận thức theo quan điểm khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể, vì:
Quan điểm khách quan trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử ĐCSVN thể hiện:
+ Lịch sử là một hiện thực đã diễn ra trong quá khứ, tồn tại độc lập khách
quan, là đối tượng nghiên cứu của sử học
+ Khoa học Lịch sử có khả năng nhận thức được lịch sử nhưng không phải
là nhận thức trực quan, tuyệt đối mà là quá trình tiệm cận với lịch sử, chân lí trong
sử học mang tính chất tương đối.
+ Nhà sử học, chủ thể của nhận thức lịch sử, luôn để lại dấu ấn chủ quan
trong tất cả các khâu của hoạt động nhận thức. Nhà sử học luôn thuộc về một giai
cấp nhất định và do đó luôn mang quan điểm giai cấp để khôi phục sự kiện và giải
thích lịch sử. Trong thời hiện đại, nhà sử học dựa trên lập trường của giai cấp vô
sản để lí giải lịch sử thì có khả năng thiết lập được sự phù hợp giữa cái chủ quan
của người nghiên cứu với cái khách quan của hiện thực lịch sử. Lập trường giai
cấp chính là tính đảng trong sử học marxist và ở đây tính đảng và tính khoa học có sự thống nhất.
+ Trong quá trình nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, để
đảm bảo tính khách quan, chúng ta cần dựa vào vào nguồn sử liệu về Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nguồn sử liệu ấy cần được xử lí, xác minh một cách khoa học.
Như vậy, quan điểm khách quan sẽ giúp nhà nghiên cứu, người học tập nhìn
nhận các vấn đề thuộc về môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam một cách chân thực, chính xác. - Quan điểm toàn diện:
Khoa học Lịch sử Đảng là “một hệ thống tri thức về quá trình hoạt động đa
dạng và phong phú của Đảng trong mối quan hệ mật thiết với tiến trình lịch sử của
dân tộc và thời đại”, nghiên cứu “tổ chức và hoạt động của Đảng và các phong trào
cách mạng của quần chúng diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Các tri thức của khoa học Lịch sử Đảng có mối quan hệ mật thiết, biện
chứng với nhau, vì vậy, nhận thức toàn diện giúp nghiên cứu, người học nhìn nhận
đối tượng một cách đầy đủ, khoa học và hiểu được bản chất của vấn đề.
Quan điểm lịch sử cụ thể xem xét các sự kiện, hiện tượng lịch sử ở những
thời điểm nhất định, cụ thể trong quá khứ. Các sự kiện, hiện tượng lịch sử đều xảy
ra ở một thời gian và không gian cụ thể nào đó. Chúng ta có thể không hiểu được
bản chất, thậm chí hiểu sai các sự kiện lịch sử nếu chúng ta không biết được thời
điểm xuất hiện của chúng. Quan điểm này giúp nhà nghiên cứu, người học không
hiện đại hoá lịch sử và hiểu chính xác hơn về lịch sử.
2. Trình bày chính sách cai trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam cuối
TK XIX đầu TK XX và những tác động của nó đến xã hội Việt Nam lúc đó?
1. Chính sách cai trị của Pháp đối với V
iệt Nam cuối TK XIX − đầu TK XX
Sau quá trình điều tra thám sát lâu dài, thâm nhập kiên trì của các giáo sĩ và
thương nhân Pháp, ngày 01/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại
Đà Nẵng và từng bước thôn tính Việt Nam. Trước hành động xâm lược của Pháp,
triều đình nhà Nguyễn từng bước thoả hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) và đến
ngày 06/6/1884 với Hiệp ước Patenotre đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, Việt
Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo
dưới gót sắt của kẻ thủ hung ác”.
Đồng thời với việc dùng vũ lực đàn áp đẫm máu đối với các phong trào yêu
nước của nhân dân VN, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền
thuộc địa, bên cạnh đó vẫn duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai.
Chính sách cai trị của chính quyền thuộc địa thể hiện ở các phương diện sau: Về chính trị
+ Thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn
kết cộng đồng quốc gia dân tộc: chia lãnh thổ VN thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau nằm trong Liên bang Đông Dương
thuộc Pháp (thành lập 17/10/1887 theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp)
+ Thực dân Pháp triệt để thực hiện chính sách “dùng người Việt trị người
Việt”, ra đạo luật về tổ chức quân đội thuộc địa bao gồm vừa binh lính Pháp, vừa
binh lính người bản xứ. Trực tiếp điều khiển quân đội ở Đông Dương là viên tổng
chỉ huy người Pháp. Ngoài quân đội chính quy còn có đội lính khố xanh chuyên để
đàn áp các cuộc khởi nghĩa, hoặc canh giữ các nhà tù, phục vụ ở các đạo quan
binh. Ngoài ra, cả ba xứ còn có tổ chức đội thân binh dưới quyền của bọn Việt gian
phản động làm nhiệm vụ đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân. − Về kinh tế
+ Từ năm 1897, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành khai thác
thuộc địa. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất bắt đầu từ 1897 - 1914, cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai bắt đầu từ 1919 - 1929. Chính quyền thuộc địa âm mưu
biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu thụ hàng
hoá ế thừa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao
động rẻ mạt của người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khoá nặng nề.
− Về văn hoá – xã hội
Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều
hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hoá, duy trì tệ nạn xã
hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng rượu
cồn và thuốc phiện để đầu độc thanh niên Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hoá văn minh”…
2. Tác động của các chính sách cai trị của thực dân Pháp đến xã hội VN
– Làm thay đổi tính chất xã hội Việt Nam: từ xã hội phong kiến sang xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, đặc trưng là: đế quốc – phong kiến kết hợp với nhau để
thống trị, bóc lột nhân dân. Đế quốc dựa vào phong kiến phản động để duy trì ách
thống trị, phong kiến phản động dựa vào thế lực đế quốc để bóc lột nhân dân.
– Làm phân hoá các giai cấp và xuất hiện các giai cấp, tầng lớp xã hội mới
trong xã hội VN. Các giai cấp, tầng lớp này có địa vị kinh tế khác nhau và do đó
cũng có thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc.
Giai cấp địa chủ bị phân hoá, khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp.
Một bộ phận câu kết với thực dân Pháp và làm tay sai đắc lực cho Pháp trong việc
ra sức đàn áp phong trào yêu nước và bóc lột nông dân (thường là đại địa chủ); một
bộ phận khác (thường là trung và tiểu địa chủ) nêu cao tinh thần dân tộc khởi
xướng và lãnh đạo các phong trào chống Pháp và bảo vệ chế độ phong kiến; một số
trở thành lãnh đạo phong trào nông dân chống thực dân Pháp và phong kiến phản
động; một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản.
Giai cấp nông dân là thành phần đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam
(khoảng hơn 90% dân số). Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, nông dân bị đế
quốc, phong kiến và tư bản bóc lột nặng nề. Nông dân bị bần cùng hoá bởi chính
sách chiếm đoạt ruộng đất để lập đồn điền của thực dân Pháp, bởi nạn sưu cao,
thuế nặng của nhà nước phong kiến – thực dân, bởi địa tô và cho vay nặng lãi của
địa chủ phong kiến. Xã họi tồn tại nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn nông dân – địa chủ
phong kiến, mâu thuẫn nông dân – thực dân Pháp. Chịu áp bức bóc lột nặng nề,
nông dân ở mọi nơi không ngừng vùng dậy chống lại ách thống trị của thực dân
phong kiến. Đây là lực lượng hùng hậu, có tinh thần đấu tranh kiên cường bất
khuất và khao khát giành lại ruộng đất cho dân cày, khi có lực lượng tiên phong
lãnh đạo, giai cấp nông dân sẵn sàng vùng dậy làm cách mạng lật đổ thực dân phong kiến.
Giai cấp công nhân ra đời từ trong quá trình thực dân Pháp thực hiện cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Ngoài những đặc điểm của giai cấp công nhân
quốc tế, giai cấp công nhân VN có những đặc điểm riêng: ra đời trước giai cấp tư
sản dân tộc, kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc; bị ba tầng áp bức: đế quốc,
phong kiến, tư bản; phần lớn xuất thân từ nông dân, là cơ sở khách quan, thuận lợi
cho công nhân và nông dân liên minh chặt chẽ trong quá trình đấu tranh cách
mạng. Do vậy, tuy lực lượng công nhân Việt Nam còn nhỏ bé, nhưng đã sớm vươn
lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh chóng phát triển từ “tự phát”
đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp tư sản VN xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân. Một bộ phận
gắn liền lợi ích với tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính
quyền thực dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư
sản dân tộc, họ bị thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm, bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế.
Vì vậy, phần lớn tư sản VN có tinh thần dân tộc nhưng không có khả năng tập hợp
các giai tầng để tiến hành CM.
Tầng lớp tiểu tư sản (tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên,...) bị đế quốc, tư bản
chèn ép, khinh miệt, do đó có tinh thần dân tộc, yêu nước và rất nhạy cảm về chính
trị và thời cuộc. Tuy nhiên, do địa vị kinh tế bấp bênh, thái độ hay dao động, thiếu
kiên định, do đó họ không thể lãnh đạo cách mạng.
Tầng lớp sĩ phu phong kiến bị phân hoá càng ngày càng sâu sắc. Một bộ
phận vẫn giữ cốt cách phong kiến, một bộ phận chuyển sang tư tưởng tư sản hoặc
tư tưởng vô sản. Một số người trong tầng lớp này khởi xướng các phong trào yêu
nước có ảnh hưởng lớn.
+ Làm thay đổi mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: Ngoài mẫu thuẫn
vốn có của xã hội Việt Nam trước đây là mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ
phong kiến, đến lúc này đã xuất hiện mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với thực dân Pháp và chính quyền tay sai. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất và
ngày càng trở nên gay gắt là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai.
3.Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam? V
ai trò của NAQ đối với sự thành lập ĐCSVN thể hiện ở các hoạt động quan trọng sau:
* Hoàn cảnh: Cuối TK XIX – đầu TK XX, tiếp tục truyền thống yêu nước,
bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo
ngọn cờ phong kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra
quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Tuy nhiên, các phong trào cứu nước từ lập trường
Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản đều lần lượt thất bại. Yêu cầu đặt ra
lúc này là phải có một tổ chức lãnh đạo với đường lối CM đúng đắn.
* Sự lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Ái Quốc. Sinh ra
và lớn lên tại Nam Đàn – Nghệ An, vùng đất có truyền thống bất khuất, kiên cường
chống áp bức bất công, trước cảnh nước mất, đồng bào bị đoạ đày đau khổ bởi
chính sách thuộc địa của thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai, Nguyễn Ái
Quốc mang trong mình tinh thần yêu nước, thương dân sâu sắc.
Ngày 05/6/1911, Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua hạn chế của những sĩ phu
yêu nước đương thời, quyết chí đi sang phương Tây tìm con đường cứu nước, cứu
dân theo tư duy mới. Khi CMT10 Nga (1917) thành công, Người từ Anh trở lại
Pháp và tham gia các hoạt động chính trị.
Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ
nhất lúc đó ở Pháp. Ngày 18/6/ ,
1919 Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái
Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Vecxai
bản Yêu sách của nhân dân An Nam nhưng không được đáp ứng. Tuy nhiên sự
kiện đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và NAQ càng hiểu rõ hơn bản
chất của đế quốc, thực dân.
Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Sơ thảo chỉ
rõ, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông có kẻ thù là chủ nghĩa
tư bản phương Tây, do đó, về khách quan, nó là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới, vì vậy độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những luận điểm của
V.I. Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ
dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lí luận của
Lenin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các
dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia
nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12/1920).
Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, tuyên bố
thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một
trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên
của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường
chính trị của Nguyễn Ái Quốc “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có
con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”.
* Quá trình tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức
- Về tư tưởng, chính trị
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, trở thành người
cộng sản, NAQ tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối
cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền bá CN Marx – Lenin về VN nhằm
chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng cộng sản ở VN.
Vừa nghiên cứu lí luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, qua nhiều bài
báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân,..., NAQ đã tích cực tố cáo tội
ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các thuộc địa, đồng thời tiến hành
tuyên truyền tư tưởng Marx – Lenin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những
người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Khi sang hoạt động ở Liên Xô tham dự và trình bày các tham luận tại đại hội
của các tổ chức mang tính quốc tế: Đại hội Quốc tế nông dân, Quốc tế thanh niên,
Quốc tế phụ nữ,... Người đã chỉ rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc, đồng thời tuyên truyền tư tưởng của Lenin soi sáng con đường
cách mạng, con đường phát triển của cách mạng thuộc địa.
Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản, Người đã trình bày
bản báo cáo quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Bản báo cáo đã làm sáng rõ
và phát triển một số luận điểm của Lenin về bản chất của chủ nghĩa thực dân, về
nhiệm vụ của các đảng cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức
bóc lột và giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Năm 1925, cuốn sách Bản án chế độ
thực dân Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Paris, đã tố cáo, kết tội chế độ bóc lột,
cai trị của thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các dân
tộc bị áp bức nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng. Đây là sự chuẩn bị quan
trọng về tư tưởng, lí luận cho quá trình thành lập Đảng.
Đường lối cách mạng được phác thảo rõ nét nhất ở nội dung các bài giảng
của Nguyễn Ái Quốc cho Hội VN CM Thanh niên, được tập hợp, in trong cuốn
Đường cách mệnh. Tác phẩm xác định rõ con đường, mục tiểu, lực lượng và
phương pháp đấu tranh của cách mạng Việt Nam, thể hiện tư tưởng nổi bật của vị
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin
vào điều kiện Việt Nam.
Trong đó, trước hết, Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các
dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa cộng sản. Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở
nước thuộc địa không phụ thuộc, thậm chí là có thể thành công trước, góp phần
tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Người chỉ rõ: ở nước nông nghiệp lạc hậu,
nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng
nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh
công nông làm động lực cách mạng. Do vậy, Người xác định rằng, cách mạng là việc của toàn dân.
Về đảng cộng sản, Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.
Phong trào “Vô sản hoá” do
Kỳ bộ Bắc Kỳ góp phần truyền bá tư tưởng vô
sản, nhiệm vụ chính trị, rèn luyện cán bộ và phát triển tổ chức của công nhân. Về tổ chức:
Tháng 11/1924, Người rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) – nơi có
rất đông người Việt Nam yêu nước hoạt động – để xúc tiến các công việc tổ chức
thành lập chính đảng marxist.
Tháng 02/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm
xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố
chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mạng dân tộc rồi sau đó làm
cách mạng thế giới. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kì đại hội. Trụ
sở đặt tại Quảng Châu.
Hội xuất bản tờ báo Thanh niên tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội -
truyên truyền chủ nghĩa Marx – Lenin và phương hướng phát triển của cuộc vận
động giải phóng dân tộc Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số
thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị.
Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển phong
trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản.
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản,
nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm lập trường của giai cấp công
nhân là tổ chức tiền thân dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Marx – Lenin vào trong nước và cũng
là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp
vô sản ở Việt Nam. Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc nhận được tin tình hình Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên “bị tan rã, những người cộng sản chia thành nhiều phái,...” khi đang hoạt động
ở Xiêm (Thái Lan). Trước tình hình đó, Người đã rời Xiêm về Hồng Kông (Trung
Quốc), chủ động “triệu tập các đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam)”
để tiến hành hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Hội nghị thành lập Đảng được tiến hành từ ngày 06/01/1930 đến ngày
07/02/1930 ở nhiều địa điểm khác nhau tại Hồng Kông (Trung Quốc). Thành phần
dự Hội nghị gồm đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản
đảng, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của NAQ, tổ chức hợp nhất 3 tổ
chức CS, lấy tên là Đảng CS VN, thông qua Cương lĩnh chính trị và các văn kiện
quan trọng do lãnh tụ NAQ soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược
vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng CSVN.
Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng CSVN tổ chức ra để
lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ
nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau khi vạch rõ bản chất, tội ác
của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, Người chỉ rõ sứ mệnh của Đảng
Cộng sản Việt Nam là “để lãnh đạo toàn thể anh chị em bị áp bức chúng ta làm cách mạng”.
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng VN cần phải thống nhất các
tổ chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín
chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp, NAQ đã kịp thời triệu tập và chủ trì
hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp
nhất dù “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho
cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.
4.Chứng minh: sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan? * Về mặt thực tiễn – Hoàn cảnh quốc tế
+ Cuối TK XIX, CN tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc.
+ Thắng lợi của CMT10 Nga 1917 cùng với chủ nghĩa Mac – Lenin có ý
nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các nước tư bản. Nó
còn có tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, cổ vũ
mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân.
Đồng thời là minh chứng rõ ràng cho việc muốn giành thắng lợi, CM phải có một
tổ chức đứng đầu để tập hợp lực lượng, phải có đường lối cách mạng đúng đắn.
+ Quốc tế Cộng sản, do Lenin đứng đầu, được thành lập tháng 3/1919, trở
thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế
giới. Quốc tế Cộng sản đã tiến hành nhiều hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng
vô sản và thúc đẩy phong trào đấu tranh ở khu vực này đi theo khuynh hướng vô
sản. Nó thúc đẩy phong trào công nhân và nhân dân thế giới, là động lực thúc đẩy
sự ra đời nhiều đảng cộng sản ở các nước: Đảng Cộng sản Đức, (1918); Đảng
Cộng sản Mỹ (1919); Đảng Cộng sản Pháp (1920),...
– Tình hình cách mạng Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
+ 1858, Pháp xâm lược Việt Nam, đến năm 1884, Pháp thống trị được hoàn
toàn VN, VN trở thành thuộc địa của Pháp.
+ Cuối TK XIX – đầu TK XX, nhiều phong trào chống thực dân Pháp theo
khuynh hướng khác nhau (phong kiến, dân chủ tư dản, tiểu tư sản) diễn ra quyết
liệt, liên tục và rộng khắp nhưng đều thất bại. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm
vào khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước, thiếu một tổ chức đủ mạnh để tập
hợp lực lượng, giáo dục quần chúng.
– Thực tiễn cách mạng Việt Nam năm 1929
Cuối năm 1928, những hoạt động của Hội VN Cách mạng Thanh niên ảnh
hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào
yêu nước Việt Nam những năm 1928, 1929 theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Năm 1929, với sự ra đời của 3 tổ chức CS: Đông Dương Cộng sản đảng,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, An Nam Cộng sản đảng, đã khẳng định bước
tiến về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở ba miền với đường lối giống
nhau, đều ủng hộ và kêu gọi sự thừa nhận của Quốc tế CS, đều tự nhận là đảng
cách mạng chân chính, vì vậy đã dẫn đến việc phân tán về lực lượng và thiếu thống
nhất về tổ chức trên cả nước. Trước tình hình đó, NAQ đã trở về TQ tổ chức hội
nghị hợp nhất 3 tổ chức CS ( Hội nghị thành lập Đảng) , từ ngày 06/01/1930 đến
ngày 07/02/1930. Hội nghị thống nhất thành lập một tổ chức CS chung, lấy tên là
Đảng CSVN, thông qua Cương lĩnh chính trị và các văn kiện quan trọng do lãnh tụ
NAQ soạn thảo. ĐCSVN trở thành chính đảng duy nhất tổ chức lãnh đạo quần
chúng đấu tranh chống đế quốc theo khuynh hướng vô sản. * Về mặt lí luận
Đảng Cộng sản VN ra đời theo đúng quy luật khách quan, là sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Marx – Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở VN.
5.Tại sao sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 lại đánh
dấu bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh?
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa quyết định trong sự
phát triển của dân tộc VN, sự lãnh đạo của Đảng trở thành nhân tố hàng đầu quyết
định đưa cách mạng VN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng ra đời đã
đánh dấu bước phát triển về chất trong tư tưởng HCM.
Vào những năm cuối TK XIX đầu TK XX, tiếp tục truyền thống yêu nước,
bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo
ngọn cờ phong kiến, dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt,
liên tục và rộng khắp. Dù với nhiều cách thức tiến hành khác nhau, song đều thất
bại. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.
Nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong,
có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc. Trước yêu cầu lịch sử đó,
NAQ tiến hành hợp nhất 3 tổ chức CS thành một chính đảng duy nhất – Đảng
CSVN. Đảng ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên do NAQ soạn thảo đã phản
ánh tư tưởng HCM về đường lối CM VN hình thành về cơ bản.
– Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: “chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
– Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam:
+ Về phương diện chính trị, Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước
mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
+ Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự
do tổ chức; b) Nam nữ bình quyền,...; c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”.
+ Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc
trái; thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lí; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của
công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo;...
Về lực lượng cách mạng: Cương lĩnh xác định lực lượng cơ bản của cách
mạng là công nhân, nông dân, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời
Cương lĩnh chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước
để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình”, nhưng đồng thời “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nông,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú
nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: Cương lĩnh khẳng
định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng để giải phóng dân
tộc, chứ không thể là con đường cải lương thoả hiệp.
Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế: Cương lĩnh phát triển quan điểm
về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính
quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
- Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định: “Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng với các ND chiến lược và sách
lược vừa CM vừa khoa học đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội
VN, phù hợp với xu hướng thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của CMVN.
+ Từ đây, thông qua đường lối của Đảng, tư tưởng HCM chính thức đã đi vào thực tiễn CMVN.