-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Trình bày quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu
Trình bày quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLNL1107)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ BÀI: Trình bày quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Họ và tên SV: Vũ Thị Mai Hà
Lớp tín chỉ: Tài chính DN CLC 61A Mã SV: 11191609
GVHD: Ths.NCS Nguyễn Văn Thuân HÀ NỘI, NĂM 2020 lOMoAR cPSD| 45740413
I. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH 1. Chủ nghĩa xã hội (Socialism) Khái niệm
- Là phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động
chống lại áp bức bất công, chống lại giai cấp thống trị.
- Là trào lưu tư tưởng , lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao
động khỏi áp bức, bóc lột, bất công.
- Là một khoa học – chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học về sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân.
- Là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
- Theo C.Mác, sự phát triển các hình thái KTXH là một quá trình lịch sử -
tự nhiên: Cộng sản nguyên thủy -> Chiếm hữu nô lệ -> Phong kiến -> Tư
bản chủ nghĩa -> Xã hội cộng sản chủ nghĩa.
- Theo C.Mác, hình thái kinh tế xã hội chia làm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn thấp của xã hội cộng sản hay còn gọi là giai đoạn đầu của xã
hội cộng sản: đặc trưng của giai đoạn này là làm theo năng lực hưởng
theo lao động, vẫn còn những dấu vết của xã hội cũ đề lại về mọi mặt như
kinh tế, chính trị, văn hóa
+ Giai đoạn cao hơn của xã hội cộng sản: lao động trở thành nhu cầu,
năng suất lao động cao, thực hiện nguyên tắc phân phối làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu...
- Cũng theo Mác, giữa xã hội TBCN và CSCN có một thời kỳ quá độ
(nhưng thời kì quá độ này lại nằm trong giai đoạn thấp).
- Theo quan điểm của Lê nin, HT KT-XH CSCN phát triển qua 3 giai đoạn:
+ Những cơn đau đẻ kéo dài: Thời kỳ quá độ
+ Giai đoạn đầu của xã hội CSCN: Xã hội chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 45740413
+ Giai đoạn cao của xã hội CSCN: xã hội cộng sản chủ nghĩa
*Quá độ chia làm 2 loại:
Quá độ trực tiếp: là quá độ từ nước TBCN phát triển đến CNXH
Quá độ gián tiếp: + là quá độ từ nước TBCN trung bình đến CNXH
+ là quá độ từ nước chưa qua trung bình đến CNXH
- Thời kì quá độ dài hay ngắn phụ thuộc vào điều kiện, tình hình, đặc điểm
của từng quốc gia nhưng nhất định nó là khoảng thời gian lâu dài, đau khổ, phức tạp.
2. Thời kì quá độ lên CNXH
2.1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH
- CNXH và CNTB khác nhau về bản chất, vì vậy cần có thời gian để xây dựng.
- CNXH được xây dựng trên nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển cao
(cao hơn CNTB) vì vậy cần có thời gian tổ chức và sắp xếp lại nền kinh tế.
- QHXH của CNXH không tự nảy sinh trong lòng CNTB, mà là kết quả
của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội cũ, do đó cần có thời gian để
phát triển những QHXH mới.
- Xây dựng CNXH là nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn và phức tạp (trên TG
chưa có tiền lệ), cần có thời gian để tìm tòi và xây dựng.
*Chú ý: Độ dài TKQĐ lên CNXH ở các nước là khác nhau.
2.2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH
KN: Là sự tồn tại đan xen những yếu tố của XH cũ và những nhân tố của XH
mới trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Trên lĩnh vực kinh tế:
+ Nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu.
+ Các thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa đấu tranh.
+ Thực hiện nhiều hình thức PP, PP theo lao động là chủ yếu. lOMoAR cPSD| 45740413
- Trên lĩnh vực chính trị:
+ Kết cấu giai cấp đa dạng phức tạp.
+ Các giai cấp, tầng lớp vừa đấu tranh vừa hợp tác với nhau.
+ Trong cùng một giai cấp, tầng lớp cũng có trình độ, ý thức khác nhau. - Trên lĩnh TT - VH
+ Nhiều tư tưởng khác nhau: TT XHCN, TT TS, tâm lý tiểu nông.
+ Các yếu tố văn hóa cũ và mới thường xuyên đấu tranh lẫn nhau.
+ Nguyên nhân là có sự khác nhau về giai cấp, tầng lớp.
3. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Một tất yếu lịch sử
Lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát
triển của thế giới suốt thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã
bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc, đồng thời chứng minh rằng,
nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách
quan, phù hợp với xu thế vận động tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch
sử cụ thể của Việt Nam.
Sau những biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80
đầu những năm 90 thế kỷ XX, một chiến dịch công kích, phê phán, xuyên
tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa Mác - Lênin được
dấy lên trên khắp thế giới bởi các thế lực thù địch với CNXH. Họ nhanh
chóng chớp lấy cơ hội “ngàn năm có một” này để tổng tấn công hòng
“chôn vùi vĩnh viễn” chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH.
Trong bối cảnh CNXH hiện thực lâm vào khủng hoảng, phong trào cách
mạng thế giới đứng trước những thử thách đầy cam go, những người
hoang mang, dao động về lý tưởng đã “khuyến cáo” Đảng Cộng sản Việt
Nam từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường đi lên CNXH mà Bác
Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Bởi theo họ, đến thành trì của
CNXH hùng mạnh như Liên bang Xô Viết mà còn không đứng vững, thì
một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam làm sao có thể đi
lên CNXH được(?). Một số người thậm chí cho rằng, giá như vào nửa đầu
thế kỷ XX, nếu lựa chọn đi con đường khác thì biết đâu nước ta vẫn giành lOMoAR cPSD| 45740413
được độc lập, kinh tế, văn hóa vẫn phát triển, lại tránh được mấy cuộc
kháng chiến gian khổ, hao tổn xương máu.v.v..
Một câu hỏi đặt ra: Có thật là như vậy?
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH
(bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai
đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát
triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay
gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp
nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”. Trong
xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên CNXH
là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức
tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một TKQĐ lâu dài
với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan
xen”. Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau:
Thứ nhất, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và
thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH). Song, không
phải HTKTXH này kết thúc hoàn toàn rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời.
Giữa HTKTXH cũ bị thay thế và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ
cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, đó là TKQĐ. Xây dựng xã hội cộng
sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là CNXH, một chế độ xã hội mới hoàn
toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại càng đòi hỏi phải trải
qua một TKQĐ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách, khó tránh khỏi những va
vấp, đổ vỡ tạm thời. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Thích ứng với thời kỳ ấy là một TKQĐ chính trị...”
Thứ hai, học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, loài người với tính
cách một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc
điểm lịch sử - cụ thể về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc
thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi phối, không phải
quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao lOMoAR cPSD| 45740413
theo một trình tự sơ đồ chung. Có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài
HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển của mình tùy thuộc điều kiện
lịch sử cụ thể đặc thù của từng nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan.
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày
nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt
Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều
đó được quy định bởi: 1)
Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ
cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra
cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta
có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của
thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất
nước. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất
- kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền
văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ
lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB
nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN mà sự lựa
chọn của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta là nước đã giành được
độc lập dân tộc, có chính quyền dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc
biệt là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của hơn 30 năm đổi
mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước
vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh
CNH, HĐH, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày càng
quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết,
quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta. 2)
Sự lựa chọn xu hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự
cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là:
chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng
hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công
nghệ hiện đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền
kinh tế TBCN, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ,
do tác động của quy luật giá trị thì sẽ hình thành CNTB, dẫn đến những
hậu quả như: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của lOMoAR cPSD| 45740413
Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ
bị mất; và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị
bóc lột và khó có thể thực hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải
phóng con người, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời đại
ngày nay không phải là thời đại của CNTB, mặc dù CNTB đang có sự
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo,
kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...” điều
chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng
CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội
thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử
thì CNTB không thể không bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn
hướng đi phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh công -
nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân
dân, tiến hành CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường
này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau
khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân
và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể
và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh
tế, của toàn xã hội...”.
Những thành tựu đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ sự lựa
chọn đó là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh
lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách
mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Và trong thực tiễn, CNXH
không những đã trở thành động lực tinh thần, mà còn là sức mạnh vật
chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo
những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” tiến trình phát
triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, dân tộc ta đã chọn con đường lOMoAR cPSD| 45740413
quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về
lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế.
Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là
trong lịch sử nước ta không có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản
nắm chính quyền và quan hệ sản xuất TBCN giữ địa vị thống trị trong
nền kinh tế quốc dân. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Con đường đi lên CNXH ở
nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng
thái xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và
HTKTXH mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều
thành phần kinh tế. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng cho
phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có thể “rút
ngắn” quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ
có nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên,
bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi
là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản
xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng
sáng tạo những tính quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của
nước ta chứng minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có
nhiều phong trào đấu tranh chống Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước,
bất khuất, song đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc
và thất bại về đường lối chiến lược. Và như vậy, tất cả các phương án
chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong
kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư
sản, tư sản, đều được lịch sử khảo nghiệm nhưng rốt cuộc đều thất bại.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta ra đời, nhanh chóng gương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và CNXH đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên. lOMoAR cPSD| 45740413
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước
đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; tiến
hành 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp và 20
năm hy sinh đầy xương máu chống đế quốc Mỹ. Với chiến thắng oanh
liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ
xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, có lúc Đảng ta đã phạm
sai lầm nghiêm trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhưng
với bản lĩnh khoa học, Đảng ta đã nhận thức rõ những sai lầm khuyết
điểm do nguyên nhân thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí,
vi phạm những quy luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng. Qua kiểm điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh
nghiêm sâu sắc, đồng thời, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, từng bước xác định rõ hơn con đường quá độ lên CNXH; quá trình
đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế, Đảng đã xác định rõ hơn
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và
đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường
xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, như Đại hội XII của Đảng đã
nhận định: “Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước
ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng
định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên
CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu
thế phát triển của lịch sử”. Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ
phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX,
thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải
phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu
thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp
ứng đúng khát vọng của nhân dân ta.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐCS VIỆT NAM VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
- Kế thừa những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng không
ngừng và thời kỳ quá độ lên CNXH; xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Thời kỳ quá độ “là thời kỳ dân
chủ mới”, tiến dần lên CNXH. Ở Việt Nam là hình thái quá độ gián tiếp
với: “Đặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đặc lOMoAR cPSD| 45740413
điểm này chi phối tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm
từng bước xóa bỏ triệt để các tàn tích của chế độ thực dân, phong kiến,
đồng thời từng bước gây dựng các mầm mống cho CNXH phát triển, đó là một tất yếu.
- Theo đó, quá độ lên CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp,
gian khổ và lâu dài chứ “không thể một sớm một chiều”. Bởi vì, “chúng
ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong
lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói
quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn năm... biến nước ta từ
một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp”. Tuy nhiên, muốn
“tiến lên chủ nghĩa xã hội” thì không phải “cứ ngồi mà chờ” là sẽ có được
chủ nghĩa xã hôi. Nếu nhân dân ta mọi người cố gắng, phấn khởi thi đua ̣
xây dựng, thì thời kỳ quá độ có thể rút ngắn hơn.
- Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH. Đảng Cộng Sản Việt Nam
khẳng định: Phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất; đồng
thời, Đảng phải “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều
kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Trong đó, “nhiệm vụ quan trọng nhất
của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã
hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh
tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
- Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng giữ vững lòng tin, quyết tâm
không mắc các bệnh quan liêu, xa dân, thoái hoá biến chất, làm mất lòng
tin của dân, suy giảm năng lực lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, phải chú
trọng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng trong
sạch, vững mạnh và hoạt động hiệu quả, thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Đảng Cộng Sản đã chỉ rõ nội dung nhiệm vụ cụ thể trong thời kỳ quá độ
lên CNXH rất toàn diện. Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng sản
xuất là vấn đề mấu chốt, tăng năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa, cùng với thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý
kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, ngành, vùng, lãnh thổ trong thời kỳ
quá độ. ĐCS rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Theo đó,
quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử
dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản xuất. lOMoAR cPSD| 45740413
- Trên lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát
huy vai trò lãnh đạo của Đảng; quan tâm củng cố mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn
kết dân tộc vì sự nghiệp xây dựng CNXH.
- Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học,
đại chúng và mấu chốt của văn hóa là xây dựng con người có đạo đức
cách mạng, con người mới xã hội chủ nghĩa với đức - tài gắn bó hữu cơ
với nhau, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, trung thành với sự nghiệp
cách mạng xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới. Về xã hội, thực hiện
sự phân phối theo lao động, thi hành chính sách xã hội vì toàn dân, bình đẳng.
- Mấu chốt của vấn đề xã hội là đảm bảo công bằng xã hội hướng vào phát
triển con người, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, vừa là mục tiêu, vừa là
động của sự phát triển xã hội.
- Về bước đi, biện pháp trong thời kỳ quá độ lên CNXH, ĐCS đã xác định
bước đi, cách làm phù hợp, ĐCS khẳng định: Chúng ta cũng phải có
phương pháp xây dựng CNXH của riêng mình, gắn với thực tiễn và lịch
sử của Việt Nam. Bước đi trong xây dựng XHCN ở nước ta là “phải làm
dần dần”, ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại, phải thực hiện “đi bước nào
vững chắc bước ấy”.
- Đảng cộng sản Việt Nam còn chỉ ra những biện pháp hết sức quan trọng
để xây dựng CNXH, đó là: Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết
hợp cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm chính; kết hợp thực hiện hai
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai chiến lược cách
mạng; xây dựng CNXH phải có kế hoạch, biện pháp và quyết tâm. Đặc
biệt, xác định biện pháp cơ bản, lâu dài quyết định nhất trong xây dựng
CNXH ở nước ta là phát huy sức mạnh toàn dân, đem của dân, tài dân,
sức dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm lợi cho dân.
III. GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG LUẬN ĐIỂM CẦN BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN HIỆN NAY
- Những nội dung quan điểm về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam của
Đảng Cộng Sản không chỉ là sự tiếp thu, kế thừa những giá trị trong hệ
thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ, mà còn được bổ lOMoAR cPSD| 45740413
sung, phát triển trong điều kiện lịch sử mới; qua đó, tiếp tục khẳng định
và làm sáng rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Có thể nói, thực tiễn hơn 30 năm đổi mới càng làm sáng tỏ lý luận về thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đó là những tiêu chí đánh giá đúng sự
kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về thời kỳ quá độ của Đảng ta, đồng thời là những cơ sở, điều kiện
đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng CNXH đi tới thành công.
- Đảng Cộng Sản Việt Nam nhấn mạnh, chính sách kinh tế của Đảng và
Chính phủ nhằm thực hiện 4 mục tiêu: Công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi,
công nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài, “Bốn chính sách ấy là mấu
chốt để phát triển kinh tế nước ta”.
- Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu nêu ra các quan niệm về thời kỳ quá
độ lên CNXH theo cách tiếp cận khác nhau, song đều có chung một cách
hiểu là thời kỳ độc lập tương đối, một xã hội mà ở đó các lĩnh vực cơ bản
chưa hoàn toàn là xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, trong xã hội của thời
kỳ quá độ lên CNXH, cái cũ và cái mới còn tồn tại đan xen, vừa chi phối
ảnh hưởng lẫn nhau, vừa đấu tranh với nhau để từng bước cho ra đời một
thực thể xã hội mới, đúng nghĩa là xã hội xã hội chủ nghĩa. Theo cách
hiểu như vậy là đã có sự bổ sung, phát triển quan niệm về thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Viêt Nam. Tuy nhiên, vấn đề này cần tiếp tục nghiên cứu, ̣
làm rõ và bổ sung trong tình hình hiện nay.
- Thứ nhất, nhận thức sâu sắc hơn những khó khăn còn tồn tại lâu dài trong
thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong thời kỳ quá độ, chúng ta dễ có những
nhận thức không toàn diện, lệch lạc: Một là, xem nhẹ, không tính đến đầy
đủ chiều hướng suy tàn, tiêu vong của hình thái kinh tế - xã hội cũ, từ đó
không thấy hết tính chất khó khăn, phức tạp của sự đan xen và đấu tranh
giữa cái cũ, lỗi thời, lạc hậu với những cái mới đang hình thành, có xu
hướng tiến bộ và phải trải qua một quá trình lâu dài, cái mới tiến bộ
khẳng định xu hướng phát triển hợp với điều kiện mới. Hai là, ngộ nhận
về thắng lợi, chỉ có phát triển đi lên của những nhân tố mới, nhất là khi nó
đang trong giai đoạn hình thành, đang phải trải qua những bước “quá độ”,
không thấy những khó khăn, thoái trào, thậm chí có thể thụt lùi tạm thời
để củng cố và phát triển các lĩnh vực đời sống xã hội.
- Thứ hai, nhận thức đúng đắn, cụ thể hơn về “con người mới xã hội chủ
nghĩa” trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Viêt Nam đang trong giai đoạn ̣
đầu của thời kỳ quá độ, con người Việt Nam, dù ở địa vị nào cũng còn lOMoAR cPSD| 45740413
mang dấu vết của thời kỳ quá độ. Vì thế, không thể đưa ra yêu cầu quá
cao đối với họ, nhưng những yếu tố vượt trước và với vai trò là chủ thể
của lịch sử, thì cần phải tạo lập những yêu cầu, tiêu chí phù hợp với sự
nghiệp đổi mới và thời đại. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng “muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hôi thì phải có con người mới xã hội chủ nghĩa”.̣
- Trên thực tế, với nhiều nước trên thế giới và cả ở khu vực Đông Nam Á,
con người và lao động Việt Nam hiện tại còn thấp về nhiều chỉ số: thể
chất, sức khỏe, tay nghề, trình độ đào tạo, khả năng hội nhập, ý thức pháp
luật.... Nguồn nhân lực chất lượng cao nước ta hiện nay đang thiếu hụt về
số lượng, hạn chế về chất lượng và bất cập về cơ cấu. Cơ cấu “dân số
vàng” nếu không được sử dụng, phát huy tốt sẽ là gánh nặng cho kinh tế
và xã hội. Vì thế, con người mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Viêt ̣
Nam cần phải được nhìn nhận một cách toàn diện, cụ thể hơn. Đó là
những con người đang trong quá trình hoàn thiện từng bước, từng mặt,
đáp ứng yêu cầu từng lĩnh vực, địa vị xã hội từng người. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm
2011) của Đảng khẳng định: “con người là trung tâm của chiến lược phát
triển, đồng thời là chủ thể của phát triển. Đảng và Nhà nước ta cũng đã có
nhiều chủ trương, chính sách về giáo dục đào tạo; chăm sóc sức khỏe;
phát triển văn hóa; phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất
lượng cao; phát triển khoa học công nghệ; xây dựng đội ngũ cán bộ...
nhằm hướng tới mục tiêu: “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
- Thứ ba, nhận thức bổ sung về thực hiện công bằng, bình đẳng trong thời
kỳ quá độ lên CNXH. Công bằng xã hội và bình đẳng xã hội là hai khái
niệm có nội hàm quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng không thể đồng nhất
là một. Trong CNXH, nhất là thời kỳ quá độ, bình đẳng xã hội hoàn toàn
là chưa thể thực hiện được; cái mà xã hội có thể đạt được là công bằng xã
hội. Tuy nhiên, dù có diễn đạt cụm từ “công bằng” hay “bình đẳng” một
cách độc lập, hoặc nối tiếp nhau, cũng đều thể hiện hàm ý, đó là sự ngang
nhau giữa người và người trên các phương diện của xã hội XHCN, hoặc
ngang nhau trong phân phối sản phẩm, đảm bảo sự tương xứng giữa cống
hiến và hưởng thụ, lao động và trả công, trách nhiệm, nghĩa vụ với quyền
lợi. Hồ Chí Minh chỉ ra “CNXH là bình đẳng”, “CNXH là công bằng, ai
làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm, không hưởng”. Tuy
nhiên, trong thời kỳ quá độ, những người thuộc nhóm xã hội yếu thế,
người không còn khả năng lao động, hay bị bệnh tật bẩm sinh, tai nạn
không thể lao động để nuôi sống bản thân, thì xã hội phải có trách nhiệm lOMoAR cPSD| 45740413
đảm bảo lợi ích thiết thân cho họ, đó mới là CNXH. Vì thế, “bình đẳng”
theo nghĩa “sự ngang nhau hoàn toàn” trên mọi phương diện trong thời
kỳ quá độ là chưa thể thực hiện được.
- Thứ tư, nhận thức bổ sung, phát triển luận điểm “dân chủ mới” trong thời
kỳ quá độ lên CNXH. Luận điểm “dân chủ mới” được Hồ Chí Minh sử
dụng 120 lần trong các tác phẩm của mình. Trong đó, nhiều lần Người sử
dụng các cụm từ: “thời kỳ dân chủ mới”, “tinh thần dân chủ mới”, “chế
độ dân chủ mới”, “nền nếp dân chủ mới”, “chúng ta phải thực hiện dân
chủ mới để chuẩn bị đi đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản”... Theo
đó, cần nhận thức sâu sắc hơn về “Dân chủ mới” trong thời kỳ quá độ với
tính cách là một chế độ chính trị - xã hôi đang được xây dựng theo những ̣
nguyên tắc và mục tiêu xã hội chủ nghĩa. “dân chủ mới” có sự ẩn chứa
những thuộc tính xã hội chủ nghĩa đang được hình thành, khẳng định,
trên cơ sở kế thừa những giá trị của “dân chủ cũ”, đồng thời từng bước
bồi đắp những giá trị dân chủ mới ưu việt, tạo tiền đề để đi đến CNXH.
- Hơn nữa, “dân chủ mới” cần được hiểu là dân chủ xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện quá độ lên CNXH, để tránh nhầm lẫn hoặc đánh tráo sang
những giá trị dân chủ mới của phương Tây, của chủ nghĩa tư bản hay chủ
nghĩa, học thuyết phi vô sản khác hiện nay.
Tóm lại, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Viêt Nam đã thể hiện những nội dung đặc sắc, trên cơ sở ̣
kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin
vào đặc điểm, tình hình xã hội Viêt Nam. Thực tiễn luôn vận động ̣
biến đổi và đang đặt ra nhiều vấn đề mới, những nội dung tư tưởng về
thời kỳ quá độ của Người vẫn giữ nguyên giá trị, cần tiếp tục bổ sung,
phát triển trong điều kiện mới.