Trọn bộ tài liệu ôn tập triết học | Học Viện Phụ Nữ Việt Nam
Trọn bộ tài liệu ôn tập triết học | Học Viện Phụ Nữ Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác-Lênin (DHCT13)
Trường: Học viện Phụ nữ Việt Nam
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ÔN TẬP TRIẾT HỌC
Câu 1.Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý thức?
-Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù được quyết định với phạm
trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và
có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ biện chức với vật chất.
Theo tâm lý học được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở con người. Ý
thức là sự phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu trong quá trình quan hệ qua
lại với thế giới khách quan.
Tóm lại, ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức, tri thức,
tình cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức.
Câu 2.Phân tích nội dung, ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin?
- Vật chất được phản ánh với hình thức tồn tại cụ thể của nó. Dùng để chỉ thực tại khách quan
phản ánh qua cảm giác. Khi đó, vật chất mang đến hình thức chứa đựng cụ thể và có dạng tồn
tại hữu hình. Từ khái niệm này, có thể thấy được với tính chất tồn tại được chứng minh. Từ đó,
đánh giá được đưa ra dễ dàng với các dạng tồn tại đó có được xác định là vật chất hay không.
-Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác ở con người. Con
người thông qua cảm giác để đánh giá về sự tồn tại của vật chất. Cũng như khẳng định được,
phân biệt được giữa vật chất và ý thức. Hai khái niệm này tách rời nhau, và mang đến các dạng
tồn tại khác hoàn toàn. Khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người.
Vật chất là cái được ý thức phản ánh bằng cảm giác thỏa mãn với khái niệm trên.
-Vật chất với tư cách là phạm trù triết học theo nghiên cứu. Là kết quả của sự khái quát hóa,
trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng. Khi đó,
hướng đến các giải thích cho sự tồn tại bên cạnh ý nghĩa trong xác định. Nên nó phản ánh cái
chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi. Vật chất có dạng tồn tại cố định hoặc
không, nhưng được đảm bảo cho cảm giác phản ánh.
- Sự vận động của vật chất:
+Còn tất cả những sự vật, những hiện tượng là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó
có quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa. Từ đó mà theo thời gian, một vật chất có thể
không giữ nguyên dạng tồn tại hay hình thức ban đầu. Tuy nhiên, vẫn đảm bảo được thể hiện
với cảm giác. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể
của vật chất. Cũng như không thể xác định vật chất với đặc điểm thể hiện của nó ở thời điểm
nhất định để mang đến các quy chụp.
Câu 3.Phân tích mối quan hê f
biê fn chứng giữa vâ ft chất và ý thức? Vận dụng trong quá
trình học tập của sinh viên?
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật
chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
a) Vật chất quyết định ý thức
-Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất.
Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan) và vật
chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
-Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý
thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú
và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
-Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật
chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ
sở để hình thành bản chất của ý thức.
-Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay
đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể chất
lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là có ăn uống đầy đủ thì mới có
sức để đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời sống vật chất phải được đáp ứng
thì chúng ta mới hướng tới đời sống tinh thần. Điều này đã chứng minh cho quan niệm vật chất
có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
-Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới vật
chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, không lệ
thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
-Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất
để phục vụ cho cuộc sống con người.
-Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó có
thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức
không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện
tượng khách quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động
của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
-Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại
ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
-Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy định
của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ
quan của các chủ thể hoạt động.
Ví dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội VI, Đảng ta chuyển
nền kinh tế tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất nước như hôm nay.
Điều này cho thấy ý thức đã phản ánh được thực tiễn và đưa ra mục tiêu, phương hướng để tác
động lại vật chất, tạo sự phát triển cho vật chất.
*Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
-Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận thức, hành
động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ
những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan
duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
-Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người,
chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo. Điều này
đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải tích cực học tập,
nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
-Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân
với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan. *Vận dụng:
-Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của tôi phải xuất phát từ
thực tế khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực tiễn ảnh hưởng đến
học tập, cuộc sống của mình để tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ví dụ: Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời khóa biểu,
những yếu tố thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học đầy đủ và
hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra.
Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm của
dịch bệnh để thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quy tắc 5K, ở yên tại nhà
để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và cộng đồng.
-Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động,
sáng tạo của ý thức. Tôi phải chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho bản thân mình, bồi
dưỡng những kỹ năng cần thiết cho bản thân, không quá phụ thuộc vào người khác mà phải tự
phát huy tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ.
Ví dụ: Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình của ngày hôm đó để đánh
dấu những chỗ mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi thường xuyên tích cực phát biểu và thảo
luận để hiểu rõ hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tài liệu để luyện tập thêm,
trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia các hoạt
động ngoại khóa, các phong trào của các tổ chức xã hội.
Không chỉ bồi dưỡng kiến thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất của mình qua
việc đọc sách, tập yoga, tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
-Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động, bảo thủ, không
chủ quan trước mọi tình huống.
Ví dụ: Khi tham gia thảo luận nhóm, tôi sẽ lắng nghe và tiếp thu những điều hay mà các
thành viên góp ý cho mình để hoàn thành công việc theo kế hoạch. Hay khi đăng ký học phần,
tôi không chủ quan vào năng lực của mình mà đăng ký quá nhiều môn tránh cho bản thân không kham nổi.
Trong cuộc sống, trước khi đánh giá một người nào đó, tôi phải tiếp xúc với người đó và lắng
nghe những đánh giá của những người xung quanh về người đó, không thể chủ quan “trông mặt
mà bắt hình dong”, không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân mà đánh giá người đó.
Câu 4.Phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy
vật? Vận dụng trong quá trình học tập của sinh viên? -Chủ nghĩa duy vâ f
t biê fn chứng là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương
pháp luận biện chứng. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những hạn chế của phép biện chứng
chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại.
Nó đã khái quát đúng đắn những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển của
thế giới. Phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học. Phép biện chứng duy vật được xây
dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ
biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, có hai nguyên lý cơ bản nhất, mô ft trong
số đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến; nguyên lý này khái quát mô ft trong những thuô f c tính
phổ biến của mọi sự vâ f
t hiê fn tượng, là thuô fc tính liên hê f, quan hê f lẫn nhau giữa chúng và nó
được xem là nô fi dung cơ bản nhất của phép biê fn chứng duy vâ ft.
-Trong phép biê fn chứng duy vâ ft, mối liên hê f là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự
tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một
sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Ví dụ: Trong tự nhiên tồn tại mối liên hệ giữa động
vật và thực vật, giữa thực vật và khí hậu… Mối liên hê f gồm các tính chất cơ bản như: tính
khách quan của các mối liên hê f, tính phổ biến của các mối liên hê f
, tính đa dạng, phong phú của mối liên hê f.
-Tính khách quan của các mối liên hệ: theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của
các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Sự quy định, tác động và chuyển hóa
lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc trong bản thân chúng là cái vốn có của nó, tồn tại đô f c
lâ fp không phụ thuộc vào ý chí con người; con người chỉ có khả năng nhận thức và vâ fn dụng
các mối liên hê f đó trong hoạt đô fng thực tiễn của mình.
-Tính phổ biến của mối liên hệ: phép biện chứng duy vật khẳng định không có bất cứ sự vật,
hiện tượng hay quá trình nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối với các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác mà trái lại chúng tồn tại trong sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác
động, chuyển hóa lẫn nhau. Không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc
hệ thống, bao gồm các yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ
một tồn tại nào cũng là một hệ thống mở tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác
và làm biến đổi lẫn nhau.
-Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định
mối liên hệ còn có tính phong phú, đa dạng. Tính chất này được biểu hiện ở chỗ: các sự vật,
hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai
trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mă f
t khác, cùng một mối liên hệ nhất định
của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong
quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có tính chất và vai trò khác nhau. Do đó,
không thể đồng nhất tính chất, vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi
sự vật, hiê fn tượng trong những điều kiê fn xác định.
-Mối liên hê f phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hê f của các sự vâ f t, hiê fn tượng
của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hê f tồn tại ở nhiều sự vâ ft, hiê fn tượng của
thế giới. Trong đó, những mối liên hê f phổ biến nhất là những mối liên hê f ở mọi sự vâ ft, hiê fn
tượng của thế giới, đó là mối liên hệ giữa các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ
định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng…
-Trên thực tế, mối liên hê f biểu hiê fn rất phong phú, đa dạng; cùng mô ft sự vâ ft, hiê fn tượng có
nhiều mối liên hê f khác nhau chi phối. Đồng thời, có mô ft mối liên hê f nào đó có thể chi phối
được nhiều sự vâ ft, hiê fn tượng. Bên cạnh mối liên hê f phổ biến, căn cứ vào tính chất, đặc trưng
của từng mối liên hệ, có thể phân loại thành các mối liên hệ sau: mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hê f
trực tiếp và gián tiếp, mối liên hê f chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ cơ bản và
không cơ bản, mối liên hệ cụ thể, mối liên hệ chung… Mỗi loại mối liên hệ nêu ra trên đây có
vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật; chẳng hạn, mối liên hệ bên trong
là sự tác động qua lại, sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các
mặt trong một sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ này giữa vai trò quyết định đối với sự tồn tại và
phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Còn mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau, không giữ vai tò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng. Nó thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mới có thể tác động đối với
sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
=>Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể.
-Điển hình như từ tính khách quan và tính phổ biến của các mối liên hê f đã cho thấy trong hoạt
đô fng nhâ fn thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diê fn. Quan điểm toàn diê f n đòi hỏi
trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối
quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật, hiê f n
tượng và sự tác động qua lại giữ sự vật, hiê fn tượng đó với các sự vật, hiê fn tượng khác. Trên cơ
sở đó mới có nhận thức đúng về sự vâ ft, hiê fn tượng và xử lý có hiê fu quả các vấn đề của đời
sống thực tiễn. Như vâ fy, quan điểm toàn diê fn đối lâ fp với quan điểm phiến diê fn, siêu hình trong nhâ f
n thức và thực tiễn. V.I.Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vâ ft, cần phải nhìn bao
quát và nghiên cứu tất cả các mă f
t, tất cả các mối liên hê f và “quan hê f giao tiếp” của sự vâ ft đó”.
-Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ cho thấy trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn thì đồng thời phải kết hợp quan điểm toàn diện với quan điểm lịch sử - cụ thể. Quan
điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt đô fng thực tiễn
cần phải xét đến những tinh chất đă fc thù của đối tượng nhâ fn thức và tình huống phải giải quyết
khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mối liên hê f cụ thể trong
những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có hiê fu quả trong viê fc
xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vâ f
y, trong nhâ fn thức và thực tiễn không những cần phải tránh
và khắc phục quan điểm phiến diê fn, siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biê fn.
=>Như vậy, từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng đã khái quát thànhquan
điểm toàn diện đối với chủ thể nhận thức và thực tiễn. Mỗi khi nghiên cứu, xem xét mọi vấn đề
xung quanh, ta cần quan tâm đến mọi mặt của đối tượng, mối liên hệ của đối tượng đó đối với
những đối tượng khác; từ đó có thể đưa ra những định hướng, giải pháp đúng đắn. Nếu chỉ chú
ý đến mặt này mà bỏ qua mặt khác của vấn đề sẽ khiến chúng ta đi đến quyết định không chính
xác. Đối với bản thân em, với tư cách là sinh viên, việc áp dụng nguyên lý này vào quá trình
học tập có vai trò rất quan trọng. Em cần phân tích rõ ràng về các vấn đề học tập như cách ôn
tập, cách chuẩn bị bài giảng, làm bài tập do giáo viên giao…, xem xét chúng ảnh hưởng đến
nhau như thế nào. Qua quá trình phân tích đó, em có thể rút ra cho mình một phương pháp học
tập phù hợp với bản thân và đạt được một kết quả tốt. Câu 5.
Phân tích nội dung nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật?
Vận dụng trong quá trình học tập của sinh viên?
*Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
- Khái niệm sự phát triển: Phát triển là quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn; nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn
giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng và giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự
phát triển; phát triển vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt đi theo đường xoáy ốc, dường như lặp
lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có
những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
- Từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc phát triển trong
nhận thức và thực tiễn
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan
điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hỏi:
Thứ nhất: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.
– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà
còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư
duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối
hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là
nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa
chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Thứ hai: Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng đầy
mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như một
hiện tượng phổ biến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước thụt
lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp
phải những sai lầm tai hại.
Thứ ba: Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện tượng.
Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự
vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn.
– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp, tìm
cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời
kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Thứ tư: Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về chất.
Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ
về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất. Câu 6.
Phân tích quan niệm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất? Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ mối quan hệ này?
- Cái riêng là một phạm trù của triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
- Cái chung là một phạm trù của triết học, dùng để chỉ, những mặt, những thuộc tính chung
không chỉ ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
- Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính,….chỉ có ở một sự
vật, một kết cấu vật chất mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.
- Cái chung và cái riêng tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau.
- Cái chung là cái bộ phận, cái riêng là cái toàn thể.
=> Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Muốn tìm ra cái chung phải tìm ra cái riêng
+ Khi giải quyết các vấn đề riêng trong thực tiễn cần phải đặt trên các nền tảng các nguyên tắc chung
+ Khi áp dụng nguyên tắc chung vào hoạt động thực tiễn cần phải cá biệt hoá nó
+ Cần nắm vững tính quy luật của quá trình chuyển hoá giữa cái đơn nhất và cái chung để thúc đẩy sự phát triển
Câu 7.Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả? Ý nghĩa phương
pháp luận được rút ra từ mối quan hệ này?
- Nguyên nhân: sự tương tác giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng với nhau xảy ra những biến đổi nhất định
- Kết quả: những biến đổi xảy ra bởi sự tương tác giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện
tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau
=> Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Muốn nhận thức sâu sắc, đầy đủ về một sự vật, hiện tượng, cần phải tìm hiểu nguyên nhân sinh ra nó
+ Muốn triệt tiêu hoặc làm nảy sinh một hiện tượng cần phải loại bỏ hoặc tác động vào nguyên
nhân sinh ra hiện tượng đó
+ Phải biết đánh giá đúng vai trò của từng nguyên nhân trong việc sinh ra kết quả và tác động
trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
Câu 8.Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên? Ý nghĩa phương
pháp luận được rút ra từ mối quan hệ này?
- Tất nhiên: là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong, cái kết cấu vật chất quy định và
trong những điều kiện vật chất nhất định, nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được
- Ngẫu nhiên: là cái không do mối liên hệ bản chất bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật
quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó
có thể xuất hiện hoặc không, có thể xuất hiện thế này hoặc thế khác.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau
=> Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không được căn cứ vào cái ngẫu nhiên
+ Từ những cái ngẫu nhiên thường gặp trong hoạt động thực tiễn, cần phải tìm ra cái tất nhiên
và quy luật chung chi phối hiện thực
+ Không được coi thường cái ngẫu nhiên. Trong cuộc sống phải biết dự phòng những đối sách
cần thiết với các tình huống đột xuất
Câu 9.Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức? Ý nghĩa phương
pháp luận được rút ra từ mối quan hệ này?
- Nội dung: là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật
- Hình thức: là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương
đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó
- Nội dung và hình thức tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau
- Một nội dung có thể thể hiện ra ở nhiều hình thức và một hình thức có thể thể hiện ở nhiều nội dung
- Nội dung quyết định hình thức nhưng hình thức tác động trở lại nội dung
=> Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Không tuyệt đối hóa một trong hai mặt nội dung và hình thức
+ Cần tận dung sự đa dạng của hình thức trong việc thể hiện nội dung
+ Muốn hoạt động thực tiễn có hiệu quả trước hết phải căn cứ vào nội dung
Câu 10.Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng. Ý nghĩa phương
pháp luận được rút ra từ mối quan hệ này?
- Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên
trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật
- Hiện tương là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất
- Bản chất và hiện tượng tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau
- Tính mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng
+ bản chất sâu sắc hơn hiện tượng, hiện tượng phong phú hơn bản chất
+ hiện tượng không hoàn toàn phù hợp với bản chất
+ bản chất ổn định hơn so với hiện tượng, hiện tượng biến đổi nhanh hơn so với bản chất
=> Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Muốn tìm ra bản chất phải nghiên cứu hiện tượng
+ Cần qua nhiều hiện tượng mới tìm ra bản chất
+ Cần nghiên cứu hiện tượng tránh phản ánh sai lệch bản chất
Câu 11.Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực? Ý nghĩa phương
pháp luận được rút ra từ mối quan hệ này?
- Khả năng là phạm trù dùng để chỉ cái đang là mầm móng trong sự vật và sẽ ra đời khi có
những điều kiện thích hợp
- Hiện thực là phạm trù chỉ cái đã ra đời, đã xuất hiện, đã được thực hiện. Đó là sự vật đang tồn tại hiện thực
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau
- Một sự vật với cùng một điều kiện có thể có nhiều khả năng, khi có điều kiện mới có them khả năng mới
- Quá trình chuyển biến khả năng hiện thực trong tự nhiên khác trong xã hội
=> Ý nghĩa của phương pháp luận:
+ Trong một sự vật tồn tại nhiều khả năng nên cần phải lựa chọn khả năng phù hợp, hạn chế khả năng xấu
+ Cần phải nhận thức được khả năng tiềm tàng trong sự vật để nằm bắt được xu thế phát triển của nó
+ Tích cực phát huy nhân tố chủ quan trong hoạt động nhận thức và thực tiễn để biến khả năng
thành hiện thực theo mục đích nhất định
Câu 12.Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập? Ý
nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nội dung quy luật này?
Một trong những quy luật trong triết học Mác-Lênin về quy luật quan trọng nhất của phép biện
chứng duy vật chính là quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Để có thể hiểu rõ về vướng mắc trên, trong bài viết hôm nay chúng tôi sẽ cung cấp một số kiến
thức, nội dung cơ bản mời quý bạn đọc cùng tham khảo.
Trước khi đi vào nội dung về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, chúng tôi
sẽ đề cập tới một số khái niệm liên quan.
Thứ nhất: Mặt đối lập
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau, tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật.
Thứ hai: Mâu thuẫn biện chứng
Mâu thuẫn biện chứng là trạng thái mà các mặt đối lập liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và nguồn gốc
phát triển của nhận thức.
Chúng ta cần phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn logic hình thức. Mâu thuẫn logic
hình thức chỉ tồn tại trong tư duy, xuất hiện do sai lầm trong tư duy.
Thứ ba: Sự thống nhất của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa
các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố
giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Do có sự
đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là trạng thái
vận động của mâu thuẫn khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Cuối cùng: Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất,
mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh.
Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Các mặt đối lập, sự thống và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập. Trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập
không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong quy định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt
đối lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh lẫn nhau.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi
mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ nhưng xung khắc, đối chọi lẫn nhau. Nhưng khi
các mặt đối lập này phát triển theo hướng ngược chiều nhau đến một mức độ nào đó sẽ hình
thành mâu thuẫn. Khi đó, các mặt đối lập có xu hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Thứ hai: Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:
Như chúng ta đã biết, từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dựng, các mức xã hội chủ nghĩa đều
thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy
trì trong một thời gian khá dài và xem như đặc trưng riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, là các đối
lập với nền kinh tế thị trường.
Các nước tư bản chủ nghĩa cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng nhanh chóng
bỏ nó ngay sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về kinh tế và xã hội. Nhưng nền
kinh tế thị trường vẫn gặp phái rất nhiều mâu thuẫn tồn tại.
Thứ ba: Tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
(còn gọi là quy luật mâu thuẫn):
Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy là tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều luôn
luôn khác biệt nhau, nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng dó là tồn tại trong mối liên hệ phổ biến
với nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính khách quan vì cái vốn có
trong các sự vật, hiện tượng và tính phổ biến do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
tồn tại trong tất cả các lĩnh vực.
Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ biến nên nó có
tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong mỗi lĩnh vực khác nhau. Hay
trong mỗi một sự vật, hiện tượng không chỉ có một mức độ nào đó thì mâu thuẫn, sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập đặt đến một mức độ nào đó thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra
đời. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới ra đời và hình thành một quá trình mới, làm cho sự
vật không ngừng vận động và phát triển.
Thứ tư: Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn từ góc độ triết học:
Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế của
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên
Chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu có sự đấu tranh thì có thể giữ vững được định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là một quá trình khó khăn, phức tạp nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế.
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý của nhà nước
là vô cùng quan trọng. Nhà nước trực tiếp quyết định các vấn đề kinh tế, xã hội.
Hiện nay, cơ chế quản lý trong đang ở giai đoạn mới hình thành nên còn đang thiếu hụt, chưa
hoàn chỉnh, dẫn tới môi trường sản xuất, kinh doanh thiếu ổn định, an toàn. Tính chất không rõ
ràng, thiếu xác định trên cả phương diện kinh tế – xã hội dường như đang rất phổ biến, rất đặc
trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế nước ta. Do đó, quá trình chuyển hóa này vấp phải khá
nhiều mâu thuẫn nội tại.
Ví dụ quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Trong mỗi mâu thuẫn thường có hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau tạo tiền đề cho nhau
cùng tồn tại, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Ví dụ như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng
trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất
cả những sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu dùng. Nếu như
không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng.
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây không phải là đối
tượng nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về phương thức tiêu
dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng.
Điều này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu
dùng đối với sản phẩm đó.
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai mặt đối lập,
chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện
cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
+ Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật đó là thừa nhận tính
khách quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất phát từ bản thân sự vật để tìm ra
mâu thuẫn của nó, phải xem xét phân tích một cách chi tiết, cụ thể.
+ Phải nắm vững phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó là thông qua đấu tranh giữa các mặt đối
lập chứ không được phép dung hòa các mặt đối lập, tuy nhiên phải vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh.
+ Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thông qua hình thức chuyển
hóa mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập chuyển hóa vào mặt còn lại, hoặc mặt
này thủ tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt cùng chuyển hóa sang những hình thức mới của mình.
Câu 13.Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định? Ý nghĩa phương pháp luận
được rút ra từ nội dung quy luật này?
1. Phủ định và phủ định biện chứng
• Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
• Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con
đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái cũ bị phủ định. Nói ngắn gọn, phủ
định biện chứng là sự phủ định tạo điều kiện, tiền đề cho cái bị phủ định tiếp tục phát triển.
Như vậy, phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
Phủ định biện chứng mang tính khách quan do mâu thuẫn của bản thân sự vật tự qui định; cách
thức phủ định không tùy thuộc ý muốn của con người. Nghĩa là mỗi sự vật có cách thức phủ
định riêng, do đó mà có sự phát triển.
Phủ định biện chứng mang tính kế thừa vì bản thân sự phủ định biện chứng không phải là sự
thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái bị phủ định. Trái lại thông qua phủ định biện chứng cho ra
đời cái mới. Như vậy, cái mới là cái ra đời từ cái cũ, là cái được phát triển tiếp tục của cái cũ
trên cơ sở gạt bỏ những cái lạc hậu, giữ lại những mặt tích cực, cái mới là cái ra đời hợp qui luật.
Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tốt, mặt tích cực và chỉ
phủ định những mặt lạc hậu, tiêu cực. Do vậy, phủ định đồng thời cũng là khẳng định.
V.I.Lênin viết: “không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ,
không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc
trưng và cái bản chất trong phép biện chứng…mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên
hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định” .
Phủ định biện chứng là một quá trình tích cực chỉ thực hiện bằng con đường phát triển cái bị
phủ định. Cái cũ không phải bị tiêu diệt một cách đơn giản: cái cũ chỉ tiêu diệt sau khi tự nó đã
tạo ra điều kiện cho giai đoạn phát triển mới.
Giai đoạn phát triển cũ bị phủ định, bản thân nó là giai đoạn tiến bộ trong quá trình phát triển
tiến lên nói chung. Nó bị phủ định, nhưng sự tiến bộ thực hiện trong nó thì không bị phủ định.
Trái lại, sự tiến bộ ấy tiếp tục trong giai đoạn mới; giai đoạn mới hấp thụ và phát triển tất cả
những thành tích của quá khứ. Ví dụ, chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản tức là phủ định
biện chứng, nhưng điều kiện ra đời và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là do chủ nghĩa tư bản đẻ
ra, và chủ nghĩa xã hội xuất hiện là giai đoạn phát triển nối tiếp sau của xã hội. Tất cả những
thành tích, tất cả sự tiến bộ của sức sản xuất, cũng như tất cả những thành tích văn hóa đạt được
trong chế độ tư bản không bị tiêu diệt, mà trái lại, nó được giữ lại và phát huy thêm. Người siêu
hình không hiểu nội dung tích cực đó của phủ định biện chứng; đối với họ, phủ định có nghĩa là
nói “không” một cách giản đơn. Hơn nữa, họ hình dung phủ định chỉ là một cái từ bên ngoài
đến, một cái ở bên ngoài tác động vào.
Trong đời thường, có trường hợp phủ định xuất hiện dưới hình thức là một sự tác động từ bên
ngoài phá hoại một cái gì đó. Nhưng chủ nghĩa duy vật biện chứng hiểu phủ định là một yếu tố
liên hệ của cái mới với cái cũ, là sự duy trì ở giai đoạn phát triển cao nội dung tích cực của giai
đoạn thấp đã bị phủ định. Chúng ta còn phải lưu ý thêm rằng, ngay cả đối với nhân tố tích cực
của cái bị phủ định được giữ lại, nó vẫn được duy trì dưới dạng lọc bỏ, nghĩa là tiếp tục được
cải tạo, biến đổi cho phù hợp với nhân tố mới.
Hiện nay, nếu chúng ta không xem sự nghiệp đổi mới của Đảng ta như là một quá trình phủ
định biện chứng, chúng ta dễ rơi vào những sai lầm cực đoan: hoặc là không kiên quyết từ bỏ
cái cũ lỗi thời; hoặc ngược lại, phủ nhận mọi thành tựu đã đạt được trong thời kỳ trước đổi mới.
2. Phủ định của phủ định
Sự phát triển theo khuynh hướng phủ định của phủ định đã được một số nhà biện chứng tự phát
nêu ra từ lâu. Song, do chưa nhận thức sâu sắc tính biện chứng của quá trình phát triển, nên một
số nhà triết học đã tuyệt đối hoá tính lặp lại sau một chu kỳ phát triển, từ đó hình thành quan
niệm siêu hình xem sự phát triển diễn ra theo đường tròn khép kín.
Phủ định của phủ định với tư cách là một quy luật cơ bản của phép biện chứng lần đầu tiên
được trình bày trong triết học Hêghen, trên cơ sở duy tâm khách quan, theo “tam đoạn thức” máy móc.
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã trả lời về phủ định của phủ định như sau: về
bản chất, “phủ định của phủ định” là một quá trình rất giản đơn hàng ngày xảy ra ở khắp mọi
nơi; chỉ cần phủi hết mọi lớp thần bí mà nền triết học cũ dùng để bao bọc quá trình đó là đứa trẻ
con nào cũng có thể hiểu được việc ấy. Thí dụ như hạt lúa chẳng hạn. Hàng triệu những hạt như
vậy đem xay, đem nấu, và sau đó đem ăn. Nhưng nếu hạt lúa như vậy có đủ điều kiện bình
thường đối với nó sẽ biến đổi một cách đặc biệt: nó sẽ mọc lên, hạt lúa đúng như thế sẽ không
còn tồn tại nữa, mà sẽ bị phủ định; thay cho nó là một cây lúa mọc ra từ đấy, cây lúa là sự phủ
định hạt lúa. Sự sinh sống bình thường của cây lúa ấy là như thế nào? nó mọc lên, đâm chồi nẩy
hạt rồi sau cũng lại sinh ra hạt lúa, và khi hạt lúa này chín thì thân cây lúa chết đi và lại bị phủ
định. Kết quả của sự phủ định của phủ định là chúng ta lại có hạt lúa như lúc đầu, nhưng không
phải là một hạt, mà là 10, 20 hay 30 hạt…
Hạt thóc (PĐ)=> Cây lúa (PĐ)=> Nhiều hạt thóc
Đối với đa số các côn trùng, quá trình ấy xảy ra cũng giống như trường hợp hạt lúa. Thí dụ,
bươm bướm ra đời từ trứng ngài bằng cách phủ định trứng ngài, nó trải qua cái giai đoạn biến
chuyển khác nhau cho đến khi dậy thì; rồi nó thụ thai đẻ trứng và lại bị phủ định, nghĩa là chết
đi khi quá trình tái sinh kết thúc và khi con cái đã để lại một số rất nhiều trứng. Chúng ta lưu ý,
trong quá trình thực hiện, số lượng các bước phủ định nhiều hay ít tùy thuộc vào tính chất của
quá trình phát triển cụ thể.
Bướm (PĐ)=> Trứng (PĐ)=> Tằm (PĐ)=> Nhộng
Lịch sử các hình thái kinh tế-xã hội chỉ ra rằng khi giai cấp ra đời và khi xã hội có giai cấp phát
triển thì tức là xã hội cũ không giai cấp bị phủ định. Dưới chế độ cộng sản văn minh sẽ không
có giai cấp nữa. Như thế nghĩa là sau khi đã hoàn toàn phát triển, bản thân xã hội có giai cấp rút
cục bị phủ định. Đó là phủ định của phủ định. Sự phủ định của phủ định ấy không làm cho
chúng ta trở về điểm xuất phát đầu tiên trở về chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy.
Nó đưa chúng ta đến điểm xuất phát mới, tức là điểm xuất phát đầu tiên đã được nâng lên giai
đoạn cao hơn bằng sự phủ định nó và sự phủ định của phủ định. Như vậy chúng ta thấy rằng
trong tiến trình phát triển, do phủ định hai lần nên giai đoạn sau có thể lặp lại giai đoạn trước,
nhưng lặp lại trên trình độ phát triển cao hơn xã hội cộng sản không giai cấp dựa trên cơ sở tất
cả những thành tích của sự phát triển trước.
CSNT (PĐ)=> CHNL (PĐ)=>PK (PĐ)=>TBCN (PĐ)=>CSCN
Không giai cấp (PĐ)=>Có giai cấp (PĐ)=>Không giai cấp
Qui luật phủ định của phủ định tồn tại cả trong tư duy của con người. Ph.Ăngghen đã lấy sự
phát triển của lịch sử triết học duy vật để vạch rõ qui luật này: chúng ta biêt rằng triết học cổ
đại Hy Lạp là chủ nghĩa duy vật tự phát nguyên thủy. Vì là chủ nghĩa duy vật tự phát nên nó
không thể giải thích mối quan hệ giữa tư duy và vật chất.
Nhưng vì cần phải làm rõ vấn đề đó nên về sau mới nảy ra học thuyết về linh hồn tách khỏi
thân thể, về linh hồn bất diệt và sau cùng dẫn đến nhất thần giáo. Như vậy là chủ nghĩa duy vật
tự phát, nguyên thủy đã bị chủ nghĩa duy tâm phủ định. Nhưng trong sự phát triển về sau của
triết học, chủ nghĩa duy tâm tỏ ra không có căn cứ, cho nên đã bị chủ nghĩa duy vật thời nay
phủ định. Chủ nghĩa duy vật thời nay phủ định của phủ định không phải chỉ là sự khôi phục lại
chủ nghĩa duy vật cũ một cách đơn giản, mà trái lại, gắn liền với cơ sở bền vững của chủ nghĩa
duy vật thời nay còn có cả toàn bộ nội dung tư tưởng của hàng nghìn năm phát triển của triết
học và khoa học tự nhiên, cũng như của bản thân lịch sử hàng nghìn năm ấy.
Duy vật tự phát (PĐ)=>Duy tâm (PĐ)=>(PĐ)=>Duy vật biện chứng
Nói một cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu kỳ phát triển. Phủ
định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là một bước trung gian trong sự phát
triển. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái lập cái ban đầu, nhưng trên cơ sở mới cao hơn, nó
thể hiện rõ bước tiến của sự vật. Những lần phủ định tiếp theo đó được gọi là phủ định của phủ
định. Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới như là kết quả tổng hợp tất cả những yếu tố
tích cực đã được phát triển từ trong cái khẳng định ban đầu và cả trong những lần phủ định tiếp
theo những yếu tố tích cực được khôi phục, được duy trì và phát triển. Như vậy, đặc điểm quan
trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định chính là sự phát triển
dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn; và chính sự phủ định của phủ
định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một
chu kỳ phát triển tiếp theo.
3. Xu hướng phát triển “xoáy ốc”
Với những lý giải phần trên, cho chúng ta thấy rằng sự vận động và phát triển của sự vật không
phải đi theo đường thẳng, không phải đi theo đường tròn khép kín, mà đi theo đường “xoáy
ốc”. Vì rằng, qui luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật xu
hướng phát triển. Sự phủ định của phủ định theo lối biện chứng là sự “tựa hồn như trở lại cái
cũ”, tựa hồ như lắp lại các giai đoạn phát triển đã qua trên cơ sở cao hơn. Chính V.I.Lênin có ý
nói tới điều đó khi V.I.Lênin nói rằng sự phát triển “tựa hồ như lắp lại các giai đoạn đã qua,
nhưng lắp lại một cách khác, trên nền tảng cao hơn… sự phát triển có thể nói là phát triển theo
vòng xoáy trôn ốc, chứ không phải theo đường thẳng” .
Diễn tả qui luật phủ định của phủ định bằng con đường “xoáy ốc” chính là hình thức cho phép
diễn đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của qui trình phát triển biện chứng: tính kế thừa; tính
lặp lại nhưng không quay trở lại; tính chất tiến lên của sự phát triển.
Mỗi vòng mới của đường “xoáy ốc” thể hiện trình độ cao hơn dường như lặp lại vòng trước. Sự
nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển tiến lên từ thấp đến cao.
Khi nghiên cứu qui luật phủ định của phủ định cần phải nhấn mạnh rằng thực chất của phép
biện chứng là nghiên cứu quá trình “với tất cả tính chất cụ thể của nó”, là giải thích xem quá
trình ấy xảy ra trên thực tế như thế nào, chứ không phải là bịa ra một công thức rồi sau đó ra
sức “chứng minh” rằng trong thực tế có quá trình y như công thức bịa đặt ấy. Không thể quả
quyết trước rằng mọi quá trình đều là thí dụ về phủ định của phủ định. Sự phủ định vạch ra
nhân tố liên hệ của cái mới với cái cũ, vạch ra sự giữ lại ở giai đoạn phát triển cao, nội dung tốt
của giai đoạn thấp đã bị phủ định. Chúng ta cũng nên tránh khuynh hướng hiểu sự phát triển
một cách máy móc, một chu kỳ phát triển cụ thể trong thực tế có thể nhiều hơn hai lần phủ định
tùy theo tính chất của một quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất cũng phải hai lần. Qua hai
lần phủ định, dường như trở về cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, do vậy có tạo thành đường “xoáy ốc”.
Với những phân tích trên đây, chúng ta có thể kết luận nội dung cơ bản của qui luật phủ định của phủ định như sau:
“Qui luật này nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa
đó, phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trước
đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và giữ gìn nội dung tích cực của các giai đoạn
trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát, nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy,
sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng, mà theo đường “xoáy ốc” .
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu qui luật phủ định của phủ định, chúng ta rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận sau:
+ Hiểu đúng xu hướng của sự vận động và phát triển của sự vật, đó là xu hướng phức tạp. Qui
luật phủ định của phủ định chỉ rõ sự phát triển là khuynh hướng tất yếu của mọi sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan. Song, quá trình phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà
quanh co, phức tạp phải trải qua nhiều lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng
ta tránh được cách nhìn phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc
biệt là hiện tượng xã hội.
+ Hiểu đầy đủ về cái mới, từ đó có quan điểm, có thái độ ủng hộ cái mới, bảo vệ cho cái mới.
Qui luật phủ định của phủ định cũng khẳng định tính tất thắng của cái mới, vì cái mới là cái ra
đời hợp qui luật phát triển của sự vật. Mặc dù khi mới ra đời, cái mới có thể còn non yếu, song
nó là cái tiến bộ hơn, là giai đoạn phát triển cao hơn về chất so với cái cũ. Vì vậy, trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn cần có ý thức phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
+ Trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ,
tránh thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn.
Qui luật phủ định của phủ định chỉ rõ xu hướng vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng.
Câu 14.Phân tích nội dung quy luật từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất và ngược lại. Vận dụng trong quá trình học tập của sinh viên? *Các khái niệm:
-Chất: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quyết định khách quan vốn có của sự vật hiện
tượng,là thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành có, phân biệt nó với các khác.
-Lượng: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quyết định khách quan vốn có của sự vật về các
phương diện, số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các
quá trình vận động và phát triển của sự vật.
-Thuộc tính: chỉ những đặc điểm, tính chất của sự vật.
-Độ: là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn mà trong đó có sự thay đổi về lượng
chưa làm thay đổi căn bản, bản chất của sự vật, hiện tượng.
-Điểm nút: là thời điểm mà tại đó diễn ra sự thay đổi về chất.
-Bước nhảy: là sự chuyển hóa trong quá trình của sự vật, hiện tượng chất cũ mất đi mà chất mới ra đời.
*Mối quan hệ giữa chất và lượng:
-Lượng biến đổi dần dần dẫn đến sự thay đổi về chất: lượng thay đổi dần dần => vượt qua giới
hạn quá độ => tại điểm nút dẫn đến làm chất cũ mất đi, chất mới ra đời, chất mới ra đời sẽ
quyết định 1 lượng mới => Lượng mới tích lũy vượt mức giới hạn độ đến tại điểm nút đến chất
mới… quá trình này diễn ra liên tục, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình
vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
-Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật: chất mới ra đời sẽ quyết định 1
lượng mới biểu hiện trên phương diện làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu vận
động và phát triển của sự vật, làm thay đổi giới hạn độ, điểm nút, tạo ra những biến đổi mới và lượng của sự vật.
*Ý nghĩa của phương pháp luận:
-Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần đân về lượng
đến một giới hạn nhất định thực hiện bước nhảy chuyển hóa về chất do đó tron hoạt động thực
tiễn về nhận thức chúng ta từng bước tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật
tránh tư tưởng chủ quan nóng vội đốt cháy giai đoạn.
-Phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất và ngược lại tránh tư tưởng tả khuynh và hữu khuynh.-Cần có thái độ khách quan
khoa học và quyết tâm thực hiện các bước nhảy khi có đầy đủ các điều kiện. *Vận dụng:
-Ngạn ngữ Trung quốc có câu” Gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính cách, gieo
tính cách găp số phận” câu nói đó có ý nghĩa triết học của nó. Đó là quy luật lượng- chất trong
triết học, rõ ràng là, những thói quen mà chúng ta đang có được hình thành từ sự tích lũy của
nhiều hành vi được lặp đi lặp lại trong cuộc sống hàng ngày, nhiều thói hư như thế đến lượt nó
lại quyết định đến tính cách của chúng ta,và số phận của mỗi con người phụ thuộc vào tính
cách của họ. Khi tích lũy hành vi (lượng) dần dần sẽ tạo nên thói quen (chất), sinh viên cần rèn
luyện cho mình tính chăm chỉ, tự chủ năng động trong quá trình học tập, tích lũy tri thức giản
đơn nhất từ những thói quen hàng ngày.Trong cuộc sống cũng như trong quá trình học tập sinh
viên phải rèn luyện hàng ngày để hình thành những thói quen học tập, rèn luyện tốt, như:phải
biết tiết kiệm thời gian,làm việc nghiêm túc và khoa học,....tích lũy nhiều thói quen như vậy sẽ
góp phần hình thành nên tính cách, giúp chúng ta thành công trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Câu 15.Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hô fi và ý thức xã hô fi? Vận dụng
vào tình hình thực tế ở nước ta?
*Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội:
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức.
Trong lĩnh vực XH thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và
quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
– Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm nguồn gốc tư
tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó phải tồn tại xã
hội để lý giải cho ý thức xã hội.
– Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đã thay đổi thì sớm
hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
*Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội:
Sự lệ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội không phải lúc nào cũng diễn ra trực tiếp mà
cần phải xét đến cùng qua nhiều khâu trung gian mới thấy được, bởi vì ý thức xã hội có tính
độc lập của mình. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được thể hiện dưới các hình thức sau:
– Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Sở dĩ như vậy bởi vì:
+ Do nó chỉ là phản ánh của tồn tại xã hội nên thường biến đổi sau;
+ Do nó có những bộ phận có tính bền vững, tính bảo thủ cao (tâm lý XH, tôn giáo…);
+ Do có những lực lượng XH luôn tìm cách duy trì tính lạc hậu trên (nhằm cai trị ND, nô dịch ND…).
– Vai trò tiên phong vượt trước của tri thức khoa học, bộ phận này trong ý thức xã hội có khả
năng nắm bắt các quy luật vận động khách quan, từ đó đưa ra được những dự báo, tiên đoán về
sự phát triển của XH, nên có thể đi tồn tại xã hội nên có thể đi trước một bước so với tồn tại xã
hội (VD dự báo của Mác về sự sụp đổ của CNTB…).
– Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có thể làm cho nó có một trình độ phát triển
cao hơn so với tồn tại xã hội. Nên có những dân tộc với trình độ kinh tế, chính trị kém phát
triển nhưng đời sống tinh thần lại rất phát triển, chẳng hạn dân tộc Đức ở thể kỷ XIX: kinh tế
lạc hậu so với Châu Âu, nhưng văn hóa tinh thần cực kỳ phát triển (âm nhạc, hội họa….).
– Sự tương tác giữa các hình thái ý thức xã hội có thể tạo ra những quy luật đặc thù, chi phối sự
phát triển của ý thức xã hội, làm cho nó không hoàn toàn lệ thuộc vào tồn tại xã hội. Cụ thể là ở
những giai đoạn nhất định thường nổi lên một hình thái ý thức xã hội chủ đạo, chi phối các hình
thái ý thức còn lại (làm cho toàn bộ XH phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức chủ đạo: thời trung cổ
thì tôn giáo chi phối xã hội, ngày nay khoa học chi phối xã hội).
– Do có tính độc lập tương đối nên ý thức xã hội có thể tác động trở lại lên tồn tại xã hội theo 2 xu hướng:
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của tồn tại xã hội thì nó có thể
thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Vai trò này thuộc về ý thức của những giai cấp tiến bộ và cách mạng.
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tác các quy luật khách quan của tồn tại xã hội thì
nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Tác động này thuộc về ý thức của những giai cấp
cũ, lạc hậu, phản động. Sự tác động của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội phụ thuộc vào mức độ
thâm nhập của nó vào trong phong trào của quần chúng nhân dân. Cho nên phải thường xuyên
đấu tranh để phổ biến tri thức khoa học và lý luận cách mạng cho quần chúng nhân dân, đồng
thời để đấu tranh để loại bỏ những tàn dư của văn hóa, tư tưởng cũ, phản động ra khỏi quần
chúng (không ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân).
Câu 16.Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất?
Vận dụng vào tình hình thực tế ở nước ta?
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,, chúng tồn tại
không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ
lịch sử loài người, quy luật về sự ohuf hợp quan hệ sản xuất với tình chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Quy luật này vạc rõ tính chất phụ thuộc khác quan của quan hệ sản xuất và phát
triển của lực lượng sản xuất.
- Thực tiễn cũng đã làm rõ mối quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất từ đó khẳng
định sự tồn tại của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất tạo động lực cho nền kinh tế phát triển. Lực lượng sản xuất phát triển đòi hỏi phải có quan
hệ sản xuất phù hợp. Ví dụ như chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất và chính sản xuất hàng hóa với quy mô lơn và quan hệ thị trường đã phá vỡ
quan hệ sản xuất phong kiến và hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, Trong tuyên
ngôn của đảng cộng sản (2 - 1948), C. Mác và PH. Ănggghen nêu rõ: "Giai cấp tư sản, trong
quá trình thống trị giai cấp chứ đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất của tất cả
các thế hệ trước kia gộp lại".
- - Lực lượng sản xuất tác động đến quan hệ sản xuất, cụ thể như sau:
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do lực lượng sản xuất quyết định;
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi các quan hệ sản
xuất sao cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất sẽ
phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó;
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ làm cho quan hệ sản xuất từ
phù hợp trở thành không phù hợ với sự phát triển này. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu này dẫn đến sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất
mới sao cho phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng
sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới thì phương
thức sản xuất mới ra đời thay thế cho cái cũ.
- Quan hệ sản xuất tác động đến lực lượng sản xuất, cụ thể như sau:
Sự hình thành, biến đổi, phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất;
Lực lượng sản xuất sẽ có quyết định quan hệ sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính
độc lập tương đối và tác động ngược trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất;
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất và phân phố. Do đó sự trực tiếp
gây ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất,
cải tiến công cụ lao động. Sự tác động của quan hệ sản xuất lên lực lượng sản xuất diễn ra theo
hai hướng là tích cực hoặc tiêu cực. Tích cực là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nếu nó
phù hợp, còn tiêu cực là kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không còn phù hợp.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành động
lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất
lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu thuẫn
gay dắt với lực lượng sản xuất thì trở thành chướng ngại kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Song sự tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính chất tất yếu khách quan thì nó
srx bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.;
Quan hệ sản xuất có tác động mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của
sản xuất, quy định hệ thống của tổ chức, quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối của
cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ của lực lượng