-
Thông tin
-
Hỏi đáp
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP | Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Trong khóa học "Lịch Sử Đảng Cộng sản Việt Nam" tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, chúng ta tập trung vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp, một giai đoạn quan trọng trong lịch sử đấu tranh của Đảng và dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đóng vai trò lãnh đạo quan trọng, động viên và hợp nhất nhân dân trong cuộc chiến tranh giành độc lập và tự do quốc gia. Sinh viên sẽ được tìm hiểu về các chiến lược, chiến thuật, nhân vật và sự kiện quan trọng trong cuộc kháng chiến, đồng thời hiểu rõ hơn về vai trò và đóng góp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc thắng lợi trước thế lực thực dân Pháp. Mục tiêu của chúng ta là truyền đạt và thấu hiểu sâu hơn về sự kiện lịch sử này và tôn vinh tinh thần đoàn kết và chiến đấu của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (LSD01) 21 tài liệu
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 0.9 K tài liệu
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP | Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
Trong khóa học "Lịch Sử Đảng Cộng sản Việt Nam" tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, chúng ta tập trung vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp, một giai đoạn quan trọng trong lịch sử đấu tranh của Đảng và dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đóng vai trò lãnh đạo quan trọng, động viên và hợp nhất nhân dân trong cuộc chiến tranh giành độc lập và tự do quốc gia. Sinh viên sẽ được tìm hiểu về các chiến lược, chiến thuật, nhân vật và sự kiện quan trọng trong cuộc kháng chiến, đồng thời hiểu rõ hơn về vai trò và đóng góp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc thắng lợi trước thế lực thực dân Pháp. Mục tiêu của chúng ta là truyền đạt và thấu hiểu sâu hơn về sự kiện lịch sử này và tôn vinh tinh thần đoàn kết và chiến đấu của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (LSD01) 21 tài liệu
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 0.9 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
TÀI LIỆU ÔN TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
Câu hỏi : .Phân tích yếu tố thời cơ trong đường lối giành chính quyền của ĐCSĐD (1939 - 1945)
liên hệ với việc nắm bắt thời cơ hiện nay của Việt Nam?
74 năm trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
dân tộc Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, đánh đổ thực dân, phong
kiến; thành lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trong những yếu tố góp phần
làm nên thắng lợi to lớn là bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ cách mạng.
Thứ nhất là từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật Bản bị thua
to trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II, nên phải gửi
công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, tầm
nhìn chiến lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng
đã nhóm họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay
sau cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã được phát ra.
Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận được thêm một
tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị đầu hàng quân Đồng minh. Ngay lập
tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc; đồng thời
soạn thảo “Quân lệnh số 1” và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.
Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima của
Nhật Bản, Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành
quyền độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, đồng chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần tranh thủ
từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.
Tại sao lại phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó là vì đồng chí Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng đã nhận định và nắm bắt được tình hình có sự chuyển biến nhanh chóng:
phát xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức; quân đội Nhật đã và đang tan rã, bị tước vũ khí
trên khắp các chiến trường; quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Vì vậy nếu không khởi
nghĩa giành chính quyền từ tay quân Nhật, mà để đến khi quân Đồng minh kéo vào nhận bàn
giao chính quyền từ tay quân Nhật, thì nhân dân ta không thể tiến hành khởi nghĩa được nữa,
vì lúc này Việt Minh đang cùng phe với quân Đồng minh.
Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp
nhận sự thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc lực lượng cách mạng đã chớp
thời cơ, tranh thủ thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Việc vua Bảo Đại thoái vị đánh dấu sự sụp
đổ của chính quyền phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các thế lực đế
quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách mạng, đặt lại
ách thống trị trên đất nước ta.
Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên
ngôn Độc lập” tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, độc lập và tự do đã ra đời; Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
cũng đã chính thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ không tuyên bố độc lập, chủ
quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào thì dù có cướp được chính quyền cũng phải bàn giao lại
cho quân Đồng minh tiếp quản. Vì vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chớp thời cơ, khẩn
trương chỉ đạo sớm tiến hành tổ chức Lễ Độc lập liền sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám thành công trên cả nước chính là nhằm ngay lập tức khẳng định chủ quyền của nhân
dân Việt Nam trước các thế lực đế quốc, phản động đội lốt dưới danh nghĩa quân Đồng minh.
Có thể khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng
Tám: Ðảng ta đã chọn đúng thời cơ "nổ ra đúng lúc". Ðó là lúc 16 nghìn quân Anh chưa vào miền
nam và 200 nghìn quân Tưởng chưa vào miền bắc để giải giáp quân Nhật; cũng là lúc quân Nhật bại lOMoAR cPSD| 41487147
trận mất tinh thần, ngồi chờ Ðồng minh đến tước vũ khí; ngụy quyền tay sai bỏ trốn hoặc đầu
hàng chính quyền cách mạng. Chọn đúng thời cơ là một khoa học, là một nghệ thuật, nhờ thế
sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước một cách nhanh, gọn, không đổ máu và thành công triệt để.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Ðảng ta, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định đúng thời cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt
lực lượng, sẵn sàng chủ động, chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa
giành thắng lợi. Ðây là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và
cách mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi. Hiện nay:
Thời gian qua, toàn cầu hóa và xu hướng hội nhập quốc tế là một diễn biến khách quan
mang tính tất yếu. Đảng ta đã biến nó thành cơ hội khi chuẩn bị một tâm thế sẵn sàng hội nhập,
bắt đầu từ kinh tế, rồi dần là văn hóa, thể thao… cho đến chính trị. Việt Nam đã gia nhập
ASEAN, trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ứng cử Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc… Vị thế, vai trò và uy tín của nước ta trên trường
quốc tế ngày càng được nâng cao.
Hiện nay, dịch Covid-19 đã và đang gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế thế giới nhưng
cũng có thể tạo ra một số cơ hội. Cùng với sự tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung,
nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã có sự chuyển dịch địa bàn đầu tư và quy mô đầu tư, họ đã và
đang chọn điểm đến là Việt Nam. Nước ta có thể nắm bắt cơ hội này để thúc đẩy phát triển đất
nước trên tinh thần chuẩn bị các điều kiện cần thiết và hấp dẫn để “lót ổ đón đại bàng” như
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo.
Câu hỏi : Vì sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu? phân tích sự sáng tạo của ĐCS trong cương lĩnh đầu tiên ?
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện rõ
nét và sinh động về tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo trong việc vận dụng CNMácLN, truyền
thống dân tộc, kinh nghiệm của nước ngoài một cách nhuần nhuyễn vào thực tiễn VN, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng đặt ra và được thể hiện ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng ta, thông qua tại Hội nghị thành lập ĐCSVN (từ ngày 3-7/2/1930).
Ngay từ khi Đảng CSVN mới thành lập, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
đã chỉ ra phương hướng cơ bản của cách mạng VN, đặt nền móng cho việc xác định lý luận,
đường lối, phương pháp cách mạng và những nguyên tắc chủ yếu để xây dựng chính đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân VN.
Tuy hết sức ngắn gọn, vắn tắt nhưng CLCT đầu tiên của Đảng đã kết hợp nhuần nhuyễn quan
điểm dân tộc và giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và thời đại với những luận điểm sau nổi bật. Một là,
cách mạng VN phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để tiến lên xã hội cộng sản.
(Thực chất đó là một cuộc cách mạng có 2 giai đoạn : giai đoạn thứ nhất đó là cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, giai đoạn thứ hai là sau khi giành được thắng lợi sẽ chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa
để tiến tới xã hội cộng sản.)Hai là, trong cách mạng tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống
đế quốc và chống phong kiến. (Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được tiến hành
khắng khít không tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai (phản đế) phải đặt lên
hàng đầu.) Ba là, xác định lực lượng cách mạng, bao gồm : giai cấp công - nông là gốc, những người yêu
nước trong các giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.( Đảng phải vận động, thu phục giai cấp mình
để lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân cày nghèo, liên lạc với trung nông. Lực lượng cách mạng bao
gồm : thứ nhất là giai cấp công - nông là gốc, là động lực của cách mạng, thứ hai là những người yêu
nước trong các giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.) Bốn là, lãnh đạo cách mạng là giai cấp công
nhân thông qua đội tiên phong của giai cấp là Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm là, về phương pháp cách
mạng, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng lOMoAR cPSD| 41487147
bạo lực cách mạng. Sáu là, cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc
thuộc địa trên thế giới để chống chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới.
Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng tạo:
vừa vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng chính xác
những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Sáng tạo trong vấn đề dân tộc, xác định thái độ với các giai cấp, liên minh giai cấp và đoàn
kết toàn dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh Việt
Nam, xác định rõ chủ trương "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản". Cuộc cách mạng này đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập, nhân dân được các quyền dân chủ, tự do, hạnh phúc. Đó chính là tư tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xuyên suốt các chủ trương đường lối cách mạng Việt
Nam từ khi Đảng ta ra đời đến nay. Trong tư tưởng lớn đó, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ:
xác định độc lập dân tộc là mục tiêu cốt tử, trực tiếp trước mắt, là tiền đề, điều kiện để tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu của tiến trình cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. Sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ quan niệm lực lượng cách mạng ở nước ta là toàn
thể nhân dân. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên trong Đảng ta nêu ra tư tưởng cần
xây dựng liên minh Công-Nông-Trí dưới sự lãnh đạo của Đảng làm nòng cốt cho lực lượng cách
mạng Việt Nam bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nguyễn Ái Quốc đánh giá đúng tầm quan trọng của nhân tố dân tộc trong cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, nêu ra chủ trương đoàn kết tất cả các tầng
lớp nhân dân có thể đoàn kết được, có thể tạo nên sức mạnh đánh đổ đế quốc và phong kiến.
1. Mối quan hệ giữa đường lối kháng chiến và xây dựng giai đoạn mới giai đoạn 45-54 ? GT/T- 145
Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.Đảng ta áp dụng phương châm
này không chỉ trong công cuộc kháng chiến chống giặc bảo vệ độc lập dân tộc mà còn trong cả giai
đoạn xây dựng chế độ mới, là xây dựng căn cứ địa cho Cách mạng. Chính vì vậy mà giữa đường lối
kháng chiến và việc xây dựng chế độ mới có mối quan hệ song hành và chặt chẽ với nhau.
Trước tiên về đường lối kháng chiến, xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước cuối T10/1946,
tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng thẳng, nguy cơ một cuộc chiến chiến tranh giữa Việt Nam
và Pháp tăng dân. Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Việt Nam kiên trì thực hiện chủ trương hòa
hoãn và bày tỏ thiện chí hòa bình, nhân nhượng nhằm tìm kiếm con đường hòa bình, bảo vệ, giữ gìn toàn
vẹn nền độc lập, tự do của Việt Nam. Tuy vậy “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng.
Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần
nữa! Trước tình hình đó “Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành và
phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với nội dung cơ bản của đường lối là dựa trên sức mạnh
toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện lâu dài dựa vào sức mình là chính. Cùng với đo slaf
mục tiêu của kháng chiến là kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, "Đánh thực dân
Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập". Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh
cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài. Nó là
một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình.
Xuất phát từ lòng tin vào sức mạnh của nhân dân - có dân là có tất cả, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh, phải dựa vào dân, khơi nguồn sức mạnh, sức sáng tạo của nhân dân. Người giải thích, toàn
dân kháng chiến chính là: "Bất kì đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người
già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là
một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi đường phố là một mặt trận. Trong công cuộc xây dựng
chế độ mới, toàn thể nhân dân chính là nguồn lực chính để thay đổi đất nước, tất cả lOMoAR cPSD| 41487147
mọi người cùng nhau góp sức. Bất kì người dân, không phân biệt văn hóa, vùng miền, tôn giáo , tuổi
tác…đều có thể đóng góp công sức làm nên sức mạnh tập thể đất nước, thay đổi bộ mặt nước nhà.
Về đường lối kháng chiến toàn diện là đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,
ngoại giao. Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn
thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Về quân sự: Thực hiện
vũ trang toàn dân, tiêu diệt địch… Về kinh tế: xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực
dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới.Về ngoại giao: thêm bạn bớt thù
, biểu dương thực lực. Trong công cuộc xây dựng chế độ mới, Đảng ta chủ trương xây dựng
toàn diện, mọi mặt. Đó là sự thay đổi và xây dựng trên mọi bình diện và lĩnh vực đời sống: kinh
tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao…Chỉ có sự tập trung xây dựng toàn diện, đồng đều
mới đưa đất nước tiến lên chế độ mới với sự phát triển nhanh chóng và hợp lý.
Việc thực hiện đường lối kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ
kháng chiến là quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch, vừa xây dựng và phát triển lực lượng ta
để chống âm đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp; để chuyển hóa tương quan lực lượng
đánh thắng địch; để củng cố hậu phương vững chắc. Điều này càng được áp dụng vào
trong công cuộc xây dựng chế độ mới. Toàn dân ra sức xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân với tâm thế kĩ lưỡng, cẩn thận và đúng đắn nên không thể hoàn thành trong thời
gian ngắn mà phải tiến hành lâu dài, có đường lối xây dựng cụ thể.
Phương châm kháng chiến dựa vào sức mình là chính. Là sự kế thừa tư tưởng chiến lược
trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy sức mạnh vật chất, tinh thần của nhân dân làm chỗ
dựa chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Còn với công cuộc xây dựng chế độ mới thì phương
châm này nghĩa là “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt". Nhân dân ta phải đồng sức đồng lòng thi đua
sản xuất, huy động hết sức người, sức của để xây dựng cơ sở vững chắc cho nền công nghiệp, nông
nghiệp. Chỉ có lao động mới tạo ra của cải vật chất. Vì ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào
giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh, kháng chiến dựa vào ý chí và sức mạnh nước nhà. Khi nào có
điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.
Như vậy qua đó có thể thấy được được mối quan hệ mật thiết, gắn bó giữa đường lối kháng
chiến và xây dựng chế độ mới. Dù cho nhiệm vụ chiến lược khác nhau song đường lối và xây dựng
chế độ mới đều phải dựa trên phương châm “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, kháng chiến” để có
thể giành được những thắng lợi nhất định trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
2. Vì sao nói sau CMT8 thì Việt Nam rơi vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc ? - GT/T-129
Sau ngày tuyên bố độc lập lịch sử Việt Nam bước sang chặng đường mới với nhiều
thuận lợi căn bản và đi kèm với đó là những khó khăn. Và những khó khăn chồng chất ấy đã
đẩy Việt Nam rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời
(nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã tác động, cỗ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa; làm cho các thế lực đế quốc và bọn phản động
quốc tế hết sức lo sợ, chúng tìm mọi cách chống phá phòng thủ tiêu Nhà nước công nông đầu
tiên ở Đông Nam Á. Mỹ công khai ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam và
Đông Dương. Anh cũng ra sức ủng hộ Pháp tái chiếm Đông Dương. _ Đối nội :
Ở trong nước, hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn,
yếu kém về nhiều mặt. Cùng với đó là những hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề. Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng Hòa tiếp tục quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, công nghiệp đình đốn, nông
nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang, nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống lOMoAR cPSD| 41487147
rỗng, các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số thất học, mù
chữ, nạn đói cuối năm 1944, đầu năm 1945 làm cho 2 triệu người dân chết đói. Thách thức lớn nhất,
nghiêm trọng nhất lúc này là âm mưu quay trở lại thống trị thị trường Việt Nam một lần nữa của thực
dân Pháp. Ngày 2/9/1945, quân Pháp đã trắng trợn gây hấn cho nổ súng vào những người tham gia
mittinh mừng ngày độc lập ở Sài Gòn - Chợ Lớn. _ Đối ngoại :
Trên thế giới, phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống thuộc
địa thế giới”, ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng
Việt Nam. Do lợi ích cục bộ của mình, các nước lớn không có nước nào ủng hộ độc lập và công
nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Việt Nam vẫn còn nằm trong
vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Cách
mạng ba nước Đông Dương nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều
bất lợi, khó khăn, thử thách hết sức to lớn và rất nghiêm trọng.
Trên thực tế, chính quyền cách mạng non trẻ của ta phái đối phó với muôn vàn khó khăn,
đứng trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Từ tháng 9/1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh 2
vạn quân đội Anh - Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía
Nam Việt Nam. Quân đội Anh đã trực tiếp bảo trợ, sử dụng đội quân của Nhật giúp sức quân Pháp
ngang nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn (Nam Bộ) và rạng sáng ngày 23/9/1945
mở đầu cho công cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Ở phía Bắc vĩ tuyến 16, cuối tháng 8/1945, hơn 20 vạn quân đội của Tưởng Giới Thạch
(Trung Hoa dân quốc) kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với danh nghĩa
quân đội đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật , kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt
Cách . Trong khi đó , trên đất nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn quân Nhật chưa được giải giáp.
Trước tình thế đó, việc củng cố chính quyền bài trừ nội phản là ưu tiên hàng đầu. Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra biện pháp đấu tranh mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình, giữ vững độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, để tranh thủ thời gian củng cố
lực lượng cách mạng, tránh đối phó với cùng lúc nhiều kẻ thù. Chúng ta đã chủ động đàm phán với Pháp
để tránh cuộc chiến tranh, giữ hòa bình cho cả hai dân tộc, giữ độc lập cho Tổ quốc (Hiệp định Sơ bộ -
1946, Tạm ước - 1946). Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Vậy là kẻ thù đã đặt
dân tộc Việt Nam trước 2 con đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại làm nô lệ; hai là đấu tranh đến
cùng để giành lấy tự do và độc lập. Tình thế đó, buộc Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân
dân ta không có lựa chọn nào hơn là cầm vũ khí, đứng lên chiến đấu.
Như vậy qua đó có thể thấy tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng
non trẻ của Việt nam trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” cùng một lúc chúng ta phải đối phó
với giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm (thù trong , giặc ngoài).
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
3. Trình bày và phân tích chiến lược tiến công của Đảng trong giai đoạn 59-64? GT/T-193 Trong giai
đoạn 1959-1964, để phù hợp với tình hình đất nước, vừa phù hợp với xu thế chung
của thời đại, yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta là phải đề ra được đường lối đúng đắn, hợp lí. Trải qua
nhiều lần nhóm họp tại các Hội nghị, Tháng 1-1959 tại Hội nghị Trung ương lần thứ 15, Ban Chấp hành
Trung ương đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định: "Hiện nay, cách
mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất
khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau... nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện
thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội". Nghị
quyết xác định con đường phát triển của cách mạng miền Nam là bạo lực cách mạng thay vì chỉ đấu
tranh dân chủ và chính trị như trước đó, chuyển từ giữ gìn lực lượng sáng thế tiến công. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở lOMoAR cPSD| 41487147
đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo
của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng. Đến tháng 9/1960, đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng họp tại Hà Nội. Tròn diễn văn khai mạc CTHCM nêu rõ
“Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống
nhất nước nhà”. Cách mạng miền Bắc và cách mạng miền Nam tuy thuộc hai chiến lược khác
nhau, có mục tiêu cụ thể riêng. Song trước mắt hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền
Nam, hòa bình thống nhất nước nhà.
Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Cách mạng miền Bắc có nhiệm
vụ xây dựng tiềm lực, bảo vệ căn cứ địa của cả nước và hậu thuẫn cho cách mạng Nam, chuẩn bị cho
cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là củng cố và
phát huy thắng lợi đã giành được, là xây dựng cơ sở vững chắc để thực hiện thống nhất nước nhà.
Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội một mặt là vì mục đích nâng cao không ngừng đời sống của nhân
dân miền Bắc; đoàn kết dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân.
Mặt khác là tích cực gánh vác phần trách nhiệm đối với phong trào cách mạng của cả nước. Kinh tế,
văn hoá miền Bắc ngày càng phát triển, đời sống nhân dân miền Bắc ngày càng được cải thiện, lực
lượng quốc phòng của miền Bắc ngày càng được vững mạnh thì sẽ tăng thêm sức mạnh của cách
mạng và uy thế chính trị của nhân dân ta, tăng thêm tin tưởng và tính tích cực cách mạng của đồng
bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống Mỹ.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Tiếp tục cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ chế độ đế quốc và nửa phong kiến ở miền Nam để thực hiện
thống nhất nước nhà. Cách mạng miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình
thống nhất nước nhà. Cách mạng ở miền Nam hiện nay đang tiếp tục phát huy ý chí quật
cường, truyền thống bất khuất của cả dân tộc Việt Nam. Phong trào yêu nước của nhân dân
miền Nam càng được giữ vững và phát triển thì một mặt càng tăng cường lực lượng cách mạng
để đánh bại chính sách nô dịch, gây chiến và chia cắt của Mỹ - Diệm, đi đến đánh đổ sự thống
trị tàn khốc của chúng, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.
Muốn thống nhất nước nhà cần phải xây dựng củng cố và phát triển lực lượng để hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước dựa trên cơ sở miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh phong trào cách mạng ở miền Nam.
Quá trình hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước là quá
trình tích cực phát huy tính hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời cũng là
quá trình tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ ở miền Nam để đấu tranh chống Mỹ
- Diệm, tiến lên làm thất bại các chính sách của đế quốc Mỹ, đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô
Đình Diệm, tạo điều kiện thuận lợi nhất để hoà bình thống nhất nước nhà.
Như vậy qua đó có thể thấy được đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam giai
đoạn 1959-1964. Tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai
miền. Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa phù hợp với
tình hình miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam vừa phù hợp với cả nước Việt Nam cũng như tình
hình quốc tế nên đã phát huy được hết sức mạnh của hậu phương và tuyền tuyến.
4. Anh chị hãy giải thích vai trò của Nghị quyết Trung Ương 15 năm 1959 ? GT/T-
191 _ Nghị quyết Trung ương 15 năm 1959:
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15, đã xác định
con đường phát triển của cách mạng Miền Nam, vạch rõ mục tiêu và phương pháp cách mạng ở Miền
Nam; xác định mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở Miền Nam và Miền Bắc, giữa cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới, nhằm giải phóng Miền Nam, bảo vệ Miền Bắc, thống nhất nước nhà.
Nghị quyết 15 được thông qua và phổ biến sau cuộc họp đợt 2 (7-1959) khẳng định: nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng Miền Nam là giải phóng Miền Nam; nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập lOMoAR cPSD| 41487147
đoàn thống trị Ngô Ðình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ; phương pháp cách mạng và phương
thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang; dự kiến xu hướng phát triển từ khởi nghĩa của nhân dân tiến
lên cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ.
Nghị quyết 15 ra đời đã đáp ứng đúng đòi hỏi của tình hình và nguyện vọng của đông
đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển đi lên của cách mạng
Miền Nam là phải dùng bạo lực cách mạng, phải chuyển hướng sang đấu tranh vũ trang, để
đưa phong trào vượt thoát khỏi tình thế hiểm nghèo. Ðây là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử,
đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng chỉ đạo đấu tranh cách mạng ở cấp lãnh đạo cao nhất, sự
chuyển hướng mạnh mẽ về hình thức và phương pháp đấu tranh.
_ Vai trò của nghị quyết trung ương 15
Nghị quyết trung ương 15 năm 1959, bám sát tình hình thực tế cách mạng Việt Nam đã vạch ra
mục tiêu cụ thể cho Việt Nam tiến lên thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Bằng con đường bạo lực.
Phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng với hai lực lượng chính trị và vũ
trang kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
về tay nhân dân. Tại đây có thể thấy nghị quyết trung ương Đảng 15 đã đưa ra những định hướng rõ
ràng và phương pháp cụ thể cho cách mạng Việt Nam đã giúp cho cách mạng nước ta có sự chuẩn bị và
đầu tư hơn về mặt lực lượng, sẵn sàng cho sự tiến công quyết chiến và quyết thắng.
Ngoài ra nghị quyết trung ương Đảng 15 năm 1959, thực hiện tốt trong vai trò là kim chỉ
nam cho hoạt động cách mạng lúc bấy giờ. Sự nhận thức đúng đắn trong việc nhận thấy Việt Nam
đồng thời thực hiện cách mạng ở hai miền. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng
dân chủ nhân dân ở miền Nam. Dù khác nhau về mục tiêu chiến lược những hướng tới mục tiêu
chung là đấu tranh tới tới thống nhất nước nhà. Sự phối hợp nhịp nhàng miền Bắc vừa thực hiện
xây dựng chế độ mới vừa là hậu phương vững chắc chi viện cho miền Nam ruột thịt. Miền Nam tiền
tuyến thực hiện mục tiêu lớn lao trong việc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Nghị
quyết trung ương 15 đã đưa ra một chiến lược linh hoạt phù hợp với tình hình đất nước giúp đất
nước ta nhanh chóng thực hiện được nhiệm vụ lớn lao cao cả hòa bình thống nhất.
Như vậy, có thể thấy rằng Nghị quyết 15 ra đời là vô cùng cần thiết, đáp ứng đúng đòi hỏi
của tình thế cách mạng, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam,
khi tình thế đã đầy đủ và chín muồi, giải tỏa nỗi bức xúc bị kìm nén và nguyện vọng tha thiết của
cán bộ, chiến sĩ, đồng bào Miền Nam. Nghị quyết 15 như ngọn đuốc soi sáng con đường phát triển
của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam, là cơ sở trực tiếp cho phong trào Ðồng khởi nổ ra và giành
thắng lợi. Kết quả to lớn và dễ nhận thấy của phong trào Ðồng khởi là sự khôi phục hoạt động của
Ðảng bộ Miền Nam. Ðội quân đấu tranh chính trị, đặc biệt là "đội quân tóc dài", một lực lượng đấu
tranh độc đáo và hiệu quả của phụ nữ Nam Bộ ra đời. Cũng từ phong trào Ðồng khởi, lực lượng vũ
trang ba thứ quân từng bước củng cố, phát triển về số lượng và chất lượng. Phong trào Ðồng khở i
thực sự là một mốc son lịch sử đánh dấu bước chuyển giai đoạn cách mạng quan trọng, đẩy Mỹ và
chính quyền, quân đội Sài Gòn vào thế bị động chống đỡ và thất bại.
5. Phân tích mối quan hệ giữa đấu tranh chính trị, ngoại giao, quân sự trong chiến tranh kháng
chiến chống Mỹ (1965-1975) ?
Ngay từ đầu, Đảng ta đã đề ra khẩu hiệu phối hợp ba mặt trận quân sự-chính trị-ngoại giao để
chống Mỹ, cứu nước. Thông thường trong chiến tranh, ngoại giao chỉ có mặt khi kết thúc chiến tranh để
đi đến ký một hiệp định ghi lại mức thắng bại của mỗi bên. Trái lại, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, ngoại giao của chúng ta có mặt từ đầu đến cuối, luôn luôn có vai trò, vị trí, nhiệm vụ nặng nề. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa III), tháng Giêng 1967 về đẩy mạnh đấu
tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đã
khẳng định: “Chúng ta tiến công địch về ngoại giao bây giờ là đúng lúc vì ta đã và đang thắng địch, thế
của ta là thế mạnh...”. Nghị quyết Bộ Chính trị tháng Tư 1969 ghi rõ: “Ngoại lOMoAR cPSD| 41487147
giao đã trở thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược.” Ngoại giao tự nó phải tăng
cường và xây dựng lực lượng, vừa phát huy thắng lợi của đấu tranh quân sự, chính trị trên
chiến trường. Trên chiến trường, ta đánh thắng được keo nào thì ngoại giao phải phát huy,
khuếch trương trên thế giới, đồng thời phải phục vụ và phối hợp với đấu tranh quân sự, chính
trị tạo thành sức mạnh tổng hợp đưa cuộc chiến đấu đến thắng lợi.
Trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao có hai nhiệm vụ lớn. Nhiệm vụ
thứ nhất là tăng cường hậu phương quốc tế của ta và làm suy yếu hậu phương của địch. Đối với hậu
phương quốc tế của ta, ngoại giao có nhiệm vụ thực hiện khẩu hiệu của Đảng đề ra là thêm bạn bớt thù,
tranh thủ từ bạn gần đến bạn xa, từ những đồng minh chiến lược đến những người chỉ đồng tình với ta
một điểm nào đó. Như trên đã nêu, chúng ta chống đế quốc Mỹ là nhằm mục tiêu chung của loài người,
của thời đại, từ mục tiêu cao là chủ nghĩa xã hội, cho đến mục tiêu thấp là hòa bình, độc lập dân tộc. Ai
đồng tình với ta trên cơ sở chiến lược là đi tới chủ nghĩa xã hội đều là bạn của ta. Ai chỉ đồng tình với ta
dù chỉ là trên cơ sở chủ nghĩa nhân đạo, ta cũng coi là bạn. Ta tranh thủ kết bạn với mọi người từ mức
thấp tới mức cao, theo đúng phương châm thêm bạn bớt thù của Bác Hồ.Nhiệm vụ thứ hai của ngoại giao
là giải quyết vấn đề ta thắng địch thua. Lãnh đạo ta nhìn vấn đề với đầu óc rất sáng suốt và thực tế. Với
một địch thủ lớn mạnh hơn hẳn như Mỹ, cuộc đấu tranh của ta chống Mỹ không thể chỉ khi nào ta buộc
đối phương phải quy hàng mới kết thúc. Phải có khái niệm thật rõ thế nào là ta thắng, thế nào là địch
thua thì mới xác định được giải pháp. Ta thắng tức là khi nào ta bảo vệ được độc lập tự do, giải phóng
được đất nước của ta. Mỹ thua tức là Mỹ phải rút hết quân, chấm dứt xâm lược, phải cam kết tôn trọng
các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam.
Chính với tinh thần như vậy nên lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nếu Mỹ
mà chịu nhận rút thì chúng tôi trải thảm đỏ cho mà rút. Ngoại giao phải làm sao đạt được thực
chất vấn đề như vậy. Để thắng một kẻ thù cỡ lớn như thế mà ta lại là một nước nhỏ thì phải có
ngoại giao đóng góp vào đó, thực hiện phương châm thắng từng bước, tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn. Phải có ngoại giao để giải quyết vấn đề ta thắng địch thua.
Tạo lập một Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam làm nền tảng vững chắc về
chính trị và tinh thần cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của ta
Trước một kẻ thù giàu mạnh như vậy, trong một bầu không khí sợ Mỹ phổ biến trên thế
giới như vậy, điều tối cần thiết đối với ta là phải tạo lập được một mặt trận nhân dân thế giới
ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ để tập hợp dư luận và cô lập Mỹ về chính trị và tinh thần.
Nhằm mục đích đó, việc tuyên truyền vận động quốc tế của ta trong thời gian đầu
hướng vào bốn nội dung: thứ nhất là nêu cao chính nghĩa của Việt Nam, thứ hai là nêu cao
quyết tâm giành độc lập của Việt Nam, thứ ba là nêu cao thiện chí hòa bình của Việt Nam, thứ
tư là tố cáo tội ác chiến tranh và vạch trần tính chất phi nghĩa của xâm lược Mỹ.
Trong thời gian Mỹ leo thang chiến tranh, chiến sự còn ở thế giằng co quyết liệt, nhiệm
vụ ngoại giao chủ yếu vẫn là tăng cường hậu phương quốc tế của ta, làm suy yếu rối loạn hậu
phương quốc tế của địch.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương (tháng Mười hai 1965) của
Đảng nhận định lúc đó “tình hình chưa chín muồi cho một giải pháp về Việt Nam”, song đã tính đến
lúc nào đó sẽ đi vào vừa đánh vừa nói chuyện, lấy đàm để hỗ trợ cho đánh, lấy đánh để ép địch đàm
phán nhằm chuyển biến so sánh lực lượng. Ngay từ những năm 1965-1967, ta chưa tính đến đàm
phán nhưng đã chuẩn bị việc này. Rút kinh nghiệm của Hiệp định Genève 1954, ta làm cho các nước
hiểu và đồng tình với ta: vấn đề Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam giải quyết trực tiếp với Mỹ.
Thời gian này, hoạt động dùng trung gian “tiến công hòa bình” của Mỹ rất sôi nổi. Trong một
cuộc họp ở Nhà Trắng, Johnson nói: “Cuộc chiến tranh này giống như một trận đấu ăn giải. Tay phải của
ta nắm lực lượng quân sự, song tay trái cần có các đề nghị hòa bình. Mỗi khi đưa quân đội lên phía trước
thì cũng phải đưa các nhà ngoại giao lên phía trước. Các tướng lĩnh muốn tôi đưa ra nhiều nhiều hơn
nữa. Họ muốn tiến xa hơn. Song Bộ Ngoại giao cũng phải cung cấp cho tôi thêm cái gì lOMoAR cPSD| 41487147
nữa.” Có tới hàng chục nước đủ các loại: các nước Không liên kết, châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh, rồi
Nhật Bản, Bắc Mỹ, đến các nhân vật như Tổng thư ký Liên hợp quốc U Thant, Giáo hoàng, các trí
thức, nhà báo có tên tuổi,... làm trung gian cho Mỹ. Thông thường, dùng trung gian chỉ là một
phương thức có tính chất quá độ để mở đường cho đàm phán trực tiếp giữa hai bên đối địch trong
một cuộc tranh chấp. Nhưng với Mỹ, việc dùng trung gian đã được xem như một thủ đoạn nhằm
những mục đích khác như: thu thập tin tức về ý đồ chiến lược hoặc về lập trường đàm phán cụ thể
đối phương, tung ra những tin thất thiệt làm cho đối phương chập chững, mơ hồ về ý đồ của Mỹ;
bắn tin tức thúc ép, đe dọa hoặc ve vãn dụ dỗ; xoa dịu phản ứng quốc tế đối với Mỹ và chuyển sức
ép sang đối phương; gây hiểu lầm chia rẽ giữa đối phương với bạn bè của họ.
Để thực hiện những mục đích khác nhau này, Mỹ đã dùng đủ các loại trung gian. Trước
năm 1967, Mỹ dùng thủ đoạn này khá nhiều. Làm trung gian cho Mỹ không những là các nước
đồng minh của Mỹ và các nước thế giới thứ ba mà còn cả nước xã hội chủ nghĩa nữa; không
những là nhân vật trong chính giới các nước mà cả những nhân sĩ, trí thức, v.v.. Mỹ không
những dùng trung gian rất mạnh trong thời gian chưa có cuộc đàm phán Paris, mà cả khi đã
tiếp xúc với ta rồi họ vẫn tiếp tục dùng trung gian. Thủ đoạn này thâm độc ở chỗ các nước
trung gian khi nhận đề nghị của Mỹ đã phải đồng tình hoặc đồng tình một nửa với ý kiến của
Mỹ. Nếu họ truyền đạt ý kiến đó cho ta mà ta bác đi, như vậy có nghĩa là ta bác cả Mỹ lẫn nước
trung gian, và mặc nhiên Mỹ tranh thủ được nước đó, chia rẽ được họ với ta.
Thời gian 1965-1966 và dai dẳng tới cuối năm 1967 đầu 1968, Mỹ chủ yếu dùng loại
“trung gian thân tín” – các nước châu u và đồng minh của Mỹ - vừa để gây sức ép bên ngoài với
ta vừa để thu thập tình báo chính trị, đánh giá tình hình tại chỗ, giúp cho Mỹ tài liệu nhận tin
tổng hợp về khả năng và ý chí của ta. Mỹ còn thông qua Liên Xô dùng “mồi kinh tế” lôi kéo
được bốn nước Đông u làm trung gian. Khác với việc dùng các nước phương Tây làm trung
gian, Mỹ dùng các nước xã hội chủ nghĩa làm trung gian với mục đích phân hóa mặt trận đoàn
kết xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam, gây sức ép từ bên trong phe xã hội chủ nghĩa đối với ta
hòng tác động đến ý chí của ta và giảm viện trợ cho ta.
Còn ta kiên trì giải thích cho những nước định làm trung gian hiểu âm mưu, ý đồ, tội ác
của Mỹ, tại sao ta chưa đàm phán. Ta cảm ơn họ ủng hộ Việt Nam, và cho họ biết đến lúc chín
muồi ta sẽ trực tiếp đàm phán với Mỹ. Bằng cách đó, ta không còn phải lo vừa đối phó với Mỹ,
vừa phải giải thích cho bạn mà bạn vẫn hiểu ta, tránh được âm mưu chia rẽ, lừa bịp của Mỹ,
tăng cường hậu phương ta và chuẩn bị cho đàm phán sau này.
5. Phân tích mối quan hệ giữa đấu tranh chính trị, ngoại giao, quân sự trong chiến tranh kháng
chiến chống Mỹ (1965-1975) ?
Trước tình hình mới đặt ra sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, thời gian đầu, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đấu tranh thống nhất Việt Nam trên cơ sở độc lập và dân
chủ bằng phương pháp hòa bình và xác định đây là cuộc đấu tranh rất gian khổ và phức tạp.
Tuy nhiên, đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã cự tuyệt hiệp thương tổng tuyển cử
thống nhất đất nước, huy động bộ máy quân đội, cảnh sát đàn áp, khủng bố, bắt bớ, giam cầm,
giết hại hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và người dân yêu nước. Phong trào cách mạng miền
Nam bị tổn thất lớn cả về cơ sở tổ chức và lực lượng. Đấu tranh chính trị, sử dụng các phương
pháp hòa bình để thống nhất nước nhà tỏ ra không hiệu quả trước dã tâm tiêu diệt cách mạng
miền Nam bằng vũ lực của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm.
Hội nghị lần thứ 15 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), tháng 1-1959, đã họp và đi tới
quyết định: dùng bạo lực cách mạng, cụ thể là dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết
hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ và chính quyền tay sai
Ngô Đình Diệm. Nghị quyết 15 của Đảng đã kịp thời đáp ứng được tình hình thực tế đang diễn ra ở miền
Nam, đáp ứng được đòi hỏi của cách mạng miền Nam. Đấu tranh vũ trang từng bước được chú lOMoAR cPSD| 41487147
trọng, phát triển rộng khắp, đã hỗ trợ tích cực cho phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân.
Nghị quyết 15 là cơ sở trực tiếp dẫn tới thắng lợi của phong trào Đồng khởi nổ ra đầu
năm 1960 trên phạm vi toàn miền Nam.Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ tháng 7-1960 đã nhận định: “...
Chúng ta chấp hành đúng đắn Nghị quyết của Trung ương Đảng, đẩy mạnh đấu tranh chính trị
và kết hợp với hoạt động vũ trang, lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu”. Thắng lợi của phong
trào Đồng khởi “đánh dấu một bước nhảy vọt quan trọng chuyển cách mạng miền Nam sang
thế tiến công, phát triển cao trào cách mạng ra khắp miền với sự kết hợp cả hai hình thức đấu
tranh chính trị và đấu tranh quân sự”.
Sau phong trào Đồng khởi, tình hình cách mạng miền Nam đã có sự chuyển biến quan trọng,
từ thế giữ gìn lực lượng tiến lên thực hành chiến tranh cách mạng. Nhân dân ta từ thế bị kìm kẹp, bị
khống chế và kiểm soát đã vùng lên thành một phong trào đấu tranh rộng lớn và ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Đã xuất hiện các cuộc đấu tranh chính trị quy mô lớn bằng mít tinh, biểu tình của
nông dân, công nhân và các tầng lớp nhân dân, có sự liên kết với nhau từ tỉnh này đến tỉnh khác, từ
thôn quê kéo vào các thị trấn, thị xã, thành phố. Nếu như trước phong trào Đồng khởi, Trung ương
Đảng chủ trương sử dụng các lực lượng vũ trang tuyên truyền tới một mức nhất định để tự vệ và để
phục vụ cho đấu tranh chính trị, lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu, đấu tranh quân sự có vai trò hỗ
trợ đấu tranh chính trị, thì sau Đồng khởi, Đảng cho rằng phải chuyển phương châm đấu tranh: đẩy
mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu
tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự. Qua đó ta thấy được vận dụng
dụng linh hoạt và sự phối hợp nhịp nhàng giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự từ đó đã
mang đến những thắng lợi nhất định.
Cũng trong thời kỳ 1961-1964, để phối hợp với đấu tranh chính trị, quân sự ở miền
Nam, Đảng ta chủ trương mở một cuộc đấu tranh ngoại giao trên các diễn đàn của Chính phủ,
Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới, Bộ Ngoại giao, các phương tiện
thông tin báo chí... nhằm vạch trần và lên án âm mưu can thiệp mới của đế quốc Mỹ chuẩn bị
đưa quân vào miền Nam và tiến hành các hoạt động phá hoại miền Bắc.
Những thắng lợi trên mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao của quân và dân ta trên cả
hai miền Nam, Bắc đã làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, buộc chúng phải
thay đổi, tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân chiến đấu Mỹ vào trực tiếp tham
chiến ở miền Nam, leo thang chiến tranh, đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Từ năm 1959 đến cuối 1963 là thời kỳ tiến công địch chủ yếu bằng đấu tranh chính trị kết
hợp với đấu tranh vũ trang đang từng bước được nâng lên về lực lượng và cách đánh, thì từ năm
1964 trở đi, đấu tranh quân sự ngày càng chiếm địa vị chủ yếu. Đảng ta không chủ trương đánh tiêu
diệt đến tên lính Mỹ cuối cùng, buộc chúng đầu hàng không điều kiện, mà chủ trương đánh tan rã
về cơ bản quân ngụy đồng thời tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Mỹ, đập tan ý chí tiếp tục
chiến tranh xâm lược của Mỹ, buộc chúng phải đàm phán theo những điều kiện ta đưa ra. Như thế,
trong đấu tranh quân sự, chúng ta kết hợp cả đấu tranh ngoại giao, vừa đánh vừa đàm. Điều này
phù hợp và gắn liền với đường lối chính trị, quân sự của Đảng đề ra. Thực tế là chiến thắng mùa
khô 1965-1966, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu thân 1968 đã làm lung lay ý chí xâm lược
của Mỹ, làm cho Mỹ phải thừa nhận không thể giành thắng lợi quân sự. Cộng với thất bại trong
cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn đối với miền Bắc, Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán với ta
Khi chủ trương mở mặt trận đấu tranh ngoại giao, Đảng ta khẳng định: “Đấu tranh quân sự và
đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho
thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng
ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc
đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, đối với tính chất cuộc đấu tranh giữa
ta và địch, cuộc đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”.Cơ lOMoAR cPSD| 41487147
chế và cục diện “vừa đánh vừa đàm”, được mở ra từ sau khi Hội nghị Pa-ri nhóm họp, chính là
sự phản ánh sinh động phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu
tranh ngoại giao, đã phát huy cao độ sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại, đã từng
bước đánh thắng địch, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận thương lượng và
ký kết theo những điều kiện của ta. Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân ta ở miền
Nam vừa tăng cường đấu tranh quân sự, chính trị, chống địch lấn chiếm, giành và giữ quyền
làm chủ, chủ động chuẩn bị lực lượng, vật chất mọi mặt, vừa kiên trì cuộc đấu tranh ngoại giao
đòi chính quyền, quân đội Sài Gòn thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pa-ri.
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
6. Vì sao trong thời kỳ đổi mới lại đặt vấn đề phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với
bảo vệ môi trường, tức phát triển bền vững?
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ô nhiễm nguồn nước, không khí đang
lan rộng không chỉ ở các KCN, khu đô thị, mà ở cả những vùng nông thôn; đa dạng sinh học
tiếp tục bị suy giảm; biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu quả
khôn lường. Đây chính là kết quả của quá trình Công nghiệp hóa nhanh ở nước ta. Trước tình
hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về bảo vệ môi trường trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định bảo vệ môi trường
vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH-HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên một tầm cao mới, gắn chặt
với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới so với
Đại hội X là đưa thêm nội dung ''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường;
từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng không thể bỏ qua
với môi trường. Việc các làng nghề sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn
đều gây ô nhiễm môi trường. CNH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa, đây thực sự là sức ép lớn về môi
trường trong quản lý đô thị. Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu
những áp lực về thay đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần được lồng ghép ngay từ
quá trình ra các quyết định về phát triến kinh tế và xã hội.
Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện
với môi trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại hội
Đảng lần thứ XI. Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội
sinh nhằm sử dụng và phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...;
vì đây là động lực chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng
phát triển bền vững. Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu tư
vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch; sản xuất
và sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít
gây hại đến môi trường; tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chế.
(Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần đây khẳng định, chúng ta có đủ năng lực,
điều kiện để chuyển đổi thành công sang mô hình phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát triển lĩnh vực
công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như việc chế tạo thành công
các sản phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh học, cùng với năng lực sáng tạo trong toán
học, vật lý học, hóa học... cho thấy nếu có đủ quyết tâm và cách sáng tạo, phù hợp, chúng ta sẽ nhanh
chóng bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại mà 21 quốc gia thành viên APEC, trong đó có Việt Nam đã
cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về thực hiện một mô hình lOMoAR cPSD| 41487147
tăng trưởng mới, đảm bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng; ii) Tăng trưởng an toàn; iii) Tăng
trưởng bền vững; iv) Tăng trưởng dựa vào trí tuệ; v) Tăng trưởng với lợi ích được chia sẻ công bằng
cho tất cả mọi người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá trình CNH-HĐH nước ta.)
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có
khả năng phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường trong thời
gian qua chủ yếu là do các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu tăng trưởng
kinh tế, chưa đảm bảo hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường,
được Bộ hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi được phê duyệt. Đồng thời, tăng
cường việc kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là các chất thải trong sản
xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ y tế. Và cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và
toàn xã hội về nhận thức và hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai
các hoạt động bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển KTTT.
7. So sánh đường lối công nghiệp hóa của Đảng trước và trong thời kỳ đổi mới (86) GT/T-296
- Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất yếu, khách
quan. Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các nước tư bản chủ nghĩa đã thực hiện
từ lâu, công nghiệp hóa còn được đề cập trong chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Đồng thời, tình hình đất
nước ta tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh mún, lạc hậu…
- Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và thấp kém, năng suất lao động thấp, đời sống nhân
dân nghèo nàn, lạc hậu, công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn…
- Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta Sự khác nhau:
- Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý. Ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.Đặc điểm
của nước ta là tồn tại nền sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng
chưa hình thành… do đó cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa được hiểu quá
trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chuyển lao động bằng
máy móc, công cụ sang giai đoạn mới là tự động hóa, điều khiển hóa,đây là quá trình hiện đại
hóa. Như vậy, bối cảnh thế giới mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội và thách thức mới.Chính vì
vậy, công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa là chúng ta lựa chọn mô hình công nghiệp
hóa theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó là: quá trình tuần tự (từ sử dụng
lao động thủ công chuyển sang sử dụng máy móc, rồi từ sử dụng máy móc chuyển sang tự động
hóa, điều khiển hóa), quá trình nhảy vọt (lĩnh vực nào đủ điều kiện thì phải hiện đại hóa ngay
lập tức, phải đi trước đón đầu, hội nhập với thời đại).
- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng
nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế, sử dụng
chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế lOMoAR cPSD| 41487147
giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu
quả thị trường thế giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà
nước và doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự
nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực
hiện công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo kế
hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện bằng
cơ chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.
- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất
đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa ở thời kỳ đổi mới, lấy phát huy
nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; coi phát triển khoa học và
công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Con người là yếu tố cơ bản tham gia vào
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển yếu tố con người cần đặc biệt chú trọng phát triển
giáo dục, đào tạo. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về
cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của
thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đế tăng
năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế. Ở
nước ta, muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì
phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công
nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh.
- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ quan duy
ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội. Còn ở thời kỳ đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.Xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Phát triển kinh tế cũng là để thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, vấn đề văn hóa – xã hội... vì mục tiêu
phát triển con người, mọi người đều hưởng thành quả của sự phát triển.
8. Quan trọng: Tại sao phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là bước
phát triển mới về tư duy lý luận, là sự sáng tạo, độc lập của Đảng.
Trong nền kinh tế thế giới tồn tại các mô hình kinh tế thị trường: kinh tế thị trường tự
do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường hỗn hợp. Và trong mỗi quốc gia lại có những
biến thể khác nhau xuất phát từ quan niệm, trình độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội. Trên
cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm phát triển của các
quốc gia trên thế giới, và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước phát triển mới về tư duy lý
luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta.
Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước ta bắt đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hoà
bình, thống nhất, độc lập và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên do chủ quan, nóng vội,
trong kế hoạch kinh tế - xã hội 1976 - 1980 đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về
tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất; đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính
quan liêu bao cấp, chậm đổi mới các chính sách, chế độ kìm hãm sản xuất; đã quan liêu, xa rời
thực tế, không nhạy bén với những thay đổi của vận động xã hội, bảo thủ, trì trệ, lạc quan thiếu
cơ sở. Bên cạnh đó tình hình quốc tế hết sức phức tạp đã tác động lớn đến sự phát triển kinh tế -
xã hội, đẩy nền kinh tế đến khủng hoảng.
Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới, trong đó có đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra
động lực thúc đẩy các đơn vị kinh tế và quần chúng lao động tích cực phát triển sản xuất, nâng cao lOMoAR cPSD| 41487147
năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao
cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa (XHCN), đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ chế mới lấy kế hoạch
hoá làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quản lý bằng phương pháp
kinh tế là chủ yếu kết hợp với biện pháp hành chính, giáo dục, thực hiện phân cấp quản lý theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, thiết lập trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động kinh tế.
Như vậy, trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, Đảng mới nêu ra quan điểm phát triển
nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, chưa đề cập đến cơ chế thị
trường và phát triển nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi
mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây dựng CNXH ở nước ta.
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989), lần đầu tiên Đảng khẳng định rằng, trong
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thị trường xã hội là một thể thống nhất, thông suốt
trong cả nước và gắn với thị trường thế giới với nhiều lực lượng khác nhau tham gia lưu thông
hàng hoá, đồng thời đề cập đến cơ chế thị trường. Mặc dù chưa được đề cập trực tiếp với tư
cách là cơ chế quản lý nền kinh tế, song Đảng cũng chỉ rõ, cơ chế thị trường phải được vận
dụng nhất quán trong kế hoạch hóa và các chính sách kinh tế.
Đến Đại hội VII (6 - 1991), Văn kiện đã nêu rõ cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Trong cơ chế đó, các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh; hợp tác, liên doanh tự nguyện, bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp. Bên cạnh đó,
Đảng cũng chỉ rõ, phải xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường, xóa bỏ độc quyền và đặc
quyền ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế. Như vậy, đây là lần đầu tiên Đảng đề cập đến cơ
chế thị trường với tư cách là cơ chế vận hành nền kinh tế. Có thể xem đây là một bước tiến lớn
trong nhận thức, trong tư duy về thị trường, cơ chế thị trường của Đảng ta. Bổ sung câu 8:
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển
kinh tế tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lý luận
và tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc
trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và
phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng, kinh
tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là
cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách
quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng
tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc;
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế" lOMoAR cPSD| 41487147
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta lựa
chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Nhận thức về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản và đến nay Đại hội
Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:
- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có
ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn
diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã
tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù
hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị trường là một
phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có
của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế không có một
nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi
giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế
thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là
sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy
định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi,
tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.
9. Vì sao Đảng Cộng sản lựa chọn mô hình kinh tế thị trường là lựa chọn tất yếu
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển
kinh tế tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lý luận
và tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc
trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta.
Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được bắt lOMoAR cPSD| 41487147
đầu từ Đại hội Đảng VI (1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và phát
triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng, kinh
tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy
luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng
tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc;
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"
Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta lựa
chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Nhận thức về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản và đến nay Đại hội
Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:
- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có
ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn
diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã
tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù
hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị trường là một
phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có
của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế không có một
nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi
giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế thị
trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân
công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là
kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Kinh tế thị
trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh lOMoAR cPSD| 41487147
đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi,
tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam.
Câu hỏi : Vì sao trong thời kỳ đổi mới, ĐCSVN phải lựa chọn phương châm đối ngoại theo
hướng đa phương hóa, đa dạng hóa là một tất yếu?
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX tình hình thế giới có nhiều biến động.cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế thế
giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa hoãn giữa các nước lớn. Các
nước đang phát triển cũng dần đổi mới chính sách đối ngoại, thực hiện chủ trương đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế để tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và công nghệ. Hai
xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách
ngoại giao của các nước, trong đó có các nước Đông Nam Á.
Trong khi đó, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu
những năm 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông u sụp đổ hoàn toàn. Trật tự thế giới
hai cực theo đó cũng tan rã, mở ra thời kỳ mới với việc hình thành trật tự thế giới đa cực.
Tư duy về sức mạnh trên thế giới cũng có sự thay đổi. Sức mạnh của một quốc gia không chỉ
bó hẹp ở mặt quốc phòng, quân sự, chính trị mà phải là tổng thể của sự phát triển tất cả các mặt:
kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học công nghệ,… trong đó, kinh tế phải được đặt lên vị trí hàng đầu.
Những thành tựu của cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ thông tin trong những năm cuối thế
kỷ 20 đã làm tăng tốc sự phát triển của lực lượng sản xuất,đưa loài người từ xã hội công nghiệp sang xã
hội hậu công nghiệp và đang bước vào ngưỡng cửa của xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức. chính sự
phát triển mạnh mẽ này, về khách quan đã đặt ra yêu cầu mở rộng thị trường lên một tầm mức mới,bằng
những phương cách mới. Quan hệ kinh tế vượt qua rào cản về địa lí lan ra toàn cầu. Hàng hóa, tiền tệ,
thông tin,… lưu thông khắp các nước. Hình thành mạng lưới kinh tế đa chiều.
Câu hỏi : Trong Đại hội X (2006), ĐCSVN đã đề ra chủ trương “chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế”, Anh/chị hiểu hội nhập quốc tế như thế nào? Theo Anh/Chị là sinh viên, cần phải làm
gì để chủ động hội nhập quốc tế?
Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với nhau
thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát
triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết
những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa đầy đủ là hội
nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Về bản chất, hội nhập quốc tế chính là một
hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.
Hội nhập quốc tế hiện nay là nhiệm vụ chung của cả nước, cả xã hội. Hội nhập quốc tế toàn
diện thực chất là mở rộng các lĩnh vực hợp tác, không chỉ chính trị và kinh tế đối ngoại, mà còn bao
gồm an ninh quốc phòng, các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành như khoa học-kĩ thuật, y tế, giáo dục…
Chúng ta tham gia vào môi trường quốc tế với sự chủ động trong hợp tác; tích cực trong
hoạt động và trao đổi; biết điều chỉnh linh hoạt dựa vào tình hình thực tiễn chứ không có những
chủ trương cứng nhắc và bảo thủ.
(Trong hội nhập quốc tế, mục tiêu cơ bản được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhằm củng
cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và
bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy
bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc lOMoAR cPSD| 41487147
tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên thế giới.)
Cần phải làm gì để chủ động hội nhập quốc tế ?
Một là, thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, coi đây
vừa là tiền đề, vừa là hệ quả của hội nhập kinh tế quốc tế, là giải pháp có tính quyết định để
nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới
Hai là, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững;
thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị trong tình
hình mới và thực thi các cam kết quốc tế.
Bốn là, tập trung khai thác hiệu quả các cam kết quốc tế, xây dựng các cơ chế, chính sách
hợp hỗ trợ các lĩnh vực có năng lực cạnh tranh; tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ, trình
độ pháp luật quốc tế, xây dựng hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ chủ động phù hợp.
nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích
cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động
của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng
có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. VỀ VĂN HÓA
10. Vì sao nói văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững của đất nước ?
Theo Unesco: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của
cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại; nó cấu thành một hệ thống các giá trị,
truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có rất nhiều Nghị quyết về
văn hóa. Trong đó, quan trọng nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII với mục tiêu là “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước xác định: “Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.’ Qua đó ta
thấy được nhiệm vụ, vai trò rất lớn của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Khái niệm “nền tảng” tinh thần được hiểu là không gian tinh thần của cộng đồng, bầu
không khí tinh thần, khí thế của đông đảo quần chúng nhân dân và của cộng đồng dân tộc, hệ
tư tưởng, tình cảm, niềm tin, khát vọng của con người, các quan niệm đạo lý, pháp lý đạt chuẩn
mực chân, thiện, mỹ... Vai trò nền tảng tinh thần của xã hội của văn hóa chính là sức mạnh của
hệ thống giá trị của văn hóa Việt Nam trong hiện tại và trong quá khứ. Các giá trị nói trên tạo
thành nền tảng tinh thần của xã hội - vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả
cộng đồng; được truyền lại tiếp nối và phát huy qua các thế hệ; được vật chất hóa và khẳng
định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc.Các giá trị này chi phối hàng ngày đến
cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội - văn hóa.
Các giá trị và sức mạnh đó của văn hóa và con người Việt Nam đã làm nên nền tảng tinh thần
vững chắc của dân tộc ta;trở thành nguồn lực nội sinh, động lực quan trọng của phát triển đất nước và
bảo vệ Tổ quốc.Trong đó, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - cơ sở
chỉ đạo đời sống tinh thần dân tộc và là thành tố quan trọng của văn hóa. Vì vậy, chúng ta chủ trương
làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng
tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây
dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và lOMoAR cPSD| 41487147
đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích
cực là đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, phường xã văn hóa, cơ quan, đơn vị văn
hóa; nêu gương người tốt - việc tốt. _ Nhận thức:
Trong bối cảnh đi ngược với xu thế chung của đất nước, nhằm chống phá công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận vai
trò chủ đạo đời sống tinh thần dân tộc của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, thay vào đó, coi đa nguyên văn hóa mới là vai trò chủ đạo; tuyên truyền
cho các giá trị văn hóa phương Tây; cố tình hạ thấp giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc..
Chúng ta càng phải nâng cao tinh thần cảnh giác, khẳng định vị trí, vai trò, sức mạnh
của văn hóa “soi đường cho quốc dân đi”, phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc, kiên trì
vai trò chỉ đạo đời sống tinh thần dân tộc của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực phát triển văn hóa. Đây là một công việc khó khăn, vô cùng
phức tạp và cũng là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực
phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư
tưởng văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa,...
=> Chính vì vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, giữ gìn những giá trị tốt đẹp,
tích cực, tạo nên sức hấp dẫn, uy tín của quốc gia trên con đường phát triển, cần có quyết tâm
chính trị hàng đầu là đặt văn hóa về đúng vị trí, vai trò, đúng tầm mức; kiên trì xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người phát triển toàn
diện, xây cái tốt để lấn át cái xấu, làm lành mạnh hóa môi trường xã hội, làm thất bại âm mưu
“diển biến hòa bình” của các thế lực thù địch
11. Quan điểm về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đất nước
Về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác định: Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Quan điểm này
được thể hiện qua mấy nội dung cơ bản sau đây:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Quan điểm này một lần nữa khẳng định vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng của Đảng
và dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc là chăm lo nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu
nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Các giá trị văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần
trong mỗi con người và cả dân tộc. Các giá trị văn hóa được nối tiếp, trao truyền và phát huy
qua các thế hệ người Việt Nam, đó là tất yếu của dòng chảy lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và
hướng đến tương lai, tương lai của những giá trị phổ quát Chân - Thiện - Mỹ. Vì vậy, chúng ta
làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành
nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.
để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, chúng ta cần
phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong tinh hoa văn hóa
các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, làm cho văn hóa Việt Nam bắt kịp sự phát
triển của văn hóa nhân loại trong thời đại ngày nay và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với
văn hóa. Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi trọng nguồn lực văn
hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di sản văn hóa, các giá trị văn hóa là lOMoAR cPSD| 41487147
“tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đó còn là cơ sở tinh thần cho sự ổn
định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.
Hai là, văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước.
Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một
xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Đây cũng chính là mục tiêu của
văn hóa, nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất của văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2020 xác định: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người.
Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội,
phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”, ngày nay không thể phát triển bằng mọi giá, nhất là
chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích hôm nay mà làm tổn hại đến tương lai.
Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã
hội, giữa kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường sinh thoái, tạo
cơ sở nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó phải cần đến văn hóa, sự
tham gia của văn hóa vào trong tổ chức và hoạt động của nền kinh tế vì mục tiêu phát triển xã
hội, phát triển con người, đó chính là vai trò của văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa.
Văn hóa với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan trọng, vì nó
là nhu cầu phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu cầu tinh thần còn là nhu cầu
nhân văn và là cứu cánh của con người, văn hóa ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con người, xã hội
tiến bộ, vừa thúc đẩy con người đạt được niềm tin, sự khát vọng hạnh phúc.
Ba là, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.
Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên thiên
nhiên, thậm chí còn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế, kinh tế phát triển, xã hội
tiến bộ chính là nhờ coi trọng yếu tố văn hóa, con người, thông qua việc nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mở đường cho sự phát triển.
Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm sâu trong văn hóa,
con người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, cái tốt, cái tiến bộ nhưng không
thể tách rời, bỏ qua cội nguồn, phát triển phải vựa trên cội nguồn, cội nguồn đó của mỗi dân tộc
là văn hóa. kinh nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh rằng,
ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra, mà
động lực của sự đổi mới kinh tế đó một phần quan trọng nằm trong văn hóa.
Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động và làm thay đổi quan niệm
về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không đơn thuần chỉ dựa vào điều kiện tự
nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu tố này phong phú, đa dạng nhưng đều có hạn và có thể bị
khai thác cạn kiệt, mà dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho sự phát triển chính là trí tuệ, tri
thức, thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày
càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân và xã hội, đó tức là văn hóa, vai trò của văn hóa
trong phát triển, chỉ có sự tham gia của văn hóa mới đưa đến sự phát triển bền vững.
Ngày nay, nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng sáng tạo
này nằm trong văn hóa, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách của mỗi cá nhân và cộng đồng. Chỉ có
nguồn lực này là vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn kiệt, các nguồn lực khác
sẽ không được sự dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai khác
chúng, thì các nguồn lực đó dù có phong phú, đa dạng, thì cũng không thể tham
12. Vì sao trong thời kì đổi mới, Đảng Cộng sản phải lựa chọn phương châm đối ngoại theo
hướng đa phương và đa dạng hóa là một tất yếu
Đảng và Nhà nước luôn xác định Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của thế giới, gắn
liền với tiến trình phát triển của thế giới. Hiểu biết sâu sắc tình hình thế giới là điều kiện không thể thiếu
để xác định những mục tiêu, nhiệm vụ cho đất nước. Xa rời với sự vận động chung, tự cô lập lOMoAR cPSD| 41487147
mình với thế giới bên ngoài là những sai lầm nguy hại, có thể ảnh hưởng đến sự sinh tồn của cả
dân tộc. Chính vì vậy, Đảng ta đã có những điều chỉnh kịp thời trong chính sách ngoại giao, đặc
biệt nhấn mạnh tầm quan trọng và tính tất yếu của chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại.
Đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa là một tất yếu vì những lý do sau.
Đầu tiên, về mặt chính trị - ngoại giao, do không nắm bắt kịp thời xu thế phát triển của
thế giới mà chính sách đối ngoại của chúng ta mười năm trước đổi mới đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, bị cô lập lại bị các thế lực thù địch chống phá, cộng với các
chính sách phát triển sai lầm, không phù hợp với hoàn cảnh khiến nước ta lâm vào cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng.
Những biến động của tình hình thế giới tác động sâu sắc đến nhận thức và tư duy của
Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa
đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Từ đây, Đảng ta nhận thức và rút kinh
nghiệm, cần phải thay đổi mô hình xã hội chủ nghĩa cũ, cụ thể hơn là đổi mới chủ trương và
chính sách ngoại giao sao cho hợp lí, hiệu quả.
Xuất phát từ tình hình cụ thể trong, ngoài nước và nhu cầu phát triển của nước ta, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt đầu đã có
những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược về đường lối và chính sách đối ngoại, đặc biệt
coi trọng đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ ngoại giao.
Với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập là xu thế chung hiện nay, việc hợp tác đa phương trên nhiều
lĩnh vực là tất yếu. Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực văn hóa, an sinh xã hội, lao động, thông tin -
truyền thông, môi trường, du lịch...được mở rộng, từ đó thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển thị trường lao
động và hệ thống an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo… Hội nhập khu vực và quốc tế về khoa học
- công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển nền khoa học, giáo
dục tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thông tin và y tế quốc gia đáp ứng nhu cầu của người
dân, tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới trong các lĩnh vực này.
Việc VN tham gia mạng lưới liên kết kinh tế đa phương đã góp từng bước mở cửa, gắn
nền kinh tế và thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tiếp thu những nguyên tắc và
chuẩn mực quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát triển, tạo thêm động lực xây dựng và hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội BỔ SUNG THÊM
Câu hỏi : Nghệ thuật tạo bất ngờ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) ?
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) là một trong ba đòn Tiến công chiến lược của
quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nó đã gây cú “sốc đột ngột”,
làm đảo lộn thế bố trí, phá vỡ kế hoạch tác chiến của Mỹ; làm rung chuyển không chỉ toàn bộ chiến
trường miền Nam, mà còn gây chấn động Nhà trắng, Lầu năm góc và làm lay chuyển ý chí xâm lược
của đế quốc Mỹ. Tổng thống Mỹ Giôn-xơn phải cách chức Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng chỉ huy
quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam; đồng thời, xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào
bàn đàm phán với Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam tại Pa-ri. Về cá nhân, Giôn-xơn tuyên bố không tham gia ứng cử Tổng thống Mỹ
nhiệm kỳ thứ 2. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) về cơ bản đã làm phá sản
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, mở ra khả năng và cục diện mới cho quân và dân ta thực
hiện quyết chiến chiến lược “đánh cho Mỹ cút”, tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc vào mùa Xuân 1975. Thắng lợi đó có nhiều nguyên nhân và để lại nhiều
bài học quý. Xét về lĩnh vực quân sự, đó là bài học nghệ thuật tạo bất ngờ trên cả ba phương diện:
chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. lOMoAR cPSD| 41487147
Trước hết là sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng và vũ khí trang bị. Đây là điều kiện tiên quyết để
ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân với quy mô lớn trên toàn miền Nam, trong đó tập
trung vào các thành phố, đô thị. Vì thế, yêu cầu đặt ra là phải có lực lượng quân sự tinh nhuệ, lực lượng
đấu tranh chính trị hùng hậu, rộng khắp và khối lượng lớn vũ khí, trang thiết bị quân sự... Thực hiện
quyết tâm của Bộ Chính trị, các sư đoàn chủ lực dự bị cơ động chiến lược (308, 304, 320, 312) được gấp
rút kiện toàn về tổ chức, biên chế, trang bị, đẩy mạnh huấn luyện để sẵn sàng vào chiến trường khi có
lệnh. Các trung đoàn, sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng từ nhiều nơi trên chiến trường miền
Nam bí mật hành quân “ém sẵn” ở các địa bàn ven đô. Riêng khu vực Sài Gòn, Trung ương Cục quyết
định giải thể Quân khu 7 và Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập “Khu trọng điểm” gồm nhiều phân
khu (Tiểu đoàn mũi nhọn) được tổ chức và trang bị gọn nhẹ; trong đó, biên chế nhiều tổ, đội biệt động,
đặc công, bảo đảm cho các lực lượng vừa có mũi nhọn, vừa có chiều sâu tiến công đồng loạt từ nhiều
hướng vào Sài Gòn... Bên cạnh đó, việc đảm bảo lương thực, thực phẩm, vũ khí, trang bị kỹ thuật cho
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy (từ miền Bắc chuyển vào) được chuẩn bị hết sức chu đáo. Trong nội đô,
nhiều tổ chức - cơ sở cách mạng của ta đã sử dụng các phương tiện vận tải (ô tô, xuồng máy) hợp pháp,
đêm ngày bí mật chuyển lương thực, thuốc men ra vùng giải phóng và nhận súng đạn đưa về nội đô... Với
chiến thuật “thiên biến vạn hóa” đó, chúng ta đã đưa một lực lượng bộ đội chủ lực cùng với khối lượng
lớn vũ khí, trang bị quân sự vượt qua hệ thống trạm kiểm soát và mạng lưới mật vụ, biệt kích, thám báo
chìm, nổi dày đặc của địch, vào “lót sẵn” trong nội đô. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình, táo bạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân (thậm chí có cả vợ, con của sĩ quan ngụy) trong các thành phố,
thị xã đã nhiệt tình ủng hộ, che chở, đùm bọc lực lượng cách mạng. Họ bí mật đào những căn hầm chứa
vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự ngay dưới nền nhà của mình; nhiều bà má, chị, em không quản gian
khổ, hiểm nguy, hy sinh để vận chuyển vũ khí vào thành phố... Nhờ đó, các lực lượng của ta với đầy đủ vũ
khí, trang bị đã “nằm sẵn” trong lòng thành phố, thị xã, quận lỵ sẵn sàng chờ lệnh nổ súng tiến công tiêu
diệt địch. Những việc làm trên được khắc ghi trong sử sách là minh chứng sống động về nghệ thuật chiến
tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, mà biểu hiện cụ thể của nó là tạo bất ngờ cả về thế
và lực đối với địch.
Tạo bất ngờ về thời điểm tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Chọn dịp Tết Nguyên
Đán và thời khắc giao thừa 1 đồng loạt nổ súng mở màn là nét đặc sắc của nghệ thuật tạo bất ngờ;
bởi đây là lúc địch sơ hở và chủ quan nhất. Cân nhắc, nghiên cứu và tính toán rất kỹ, cụ thể từng chi
tiết, phong tục tập quán Tết cổ truyền của dân tộc trên đất phương Nam; việc “điều binh, khiển
tướng” của Quân lực Việt Nam cộng hòa từ nhiều năm trước đó, sau khi có sự thống nhất giữa cơ
quan chỉ đạo tối cao và chỉ huy các chiến trường, Bộ thống soái quyết định chọn thời điểm Giao thừa
là “giờ G” làm hiệu lệnh nổ súng mở màn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Với sự tính
toán mưu lược chu tất như vậy, nên khi ta tiến công, địch hoàn toàn bị bất ngờ, không kịp đối phó.
Ngay sau khi sự kiện Tết Mậu Thân diễn ra, giới chỉ huy quân sự và học giả Mỹ cũng như phương
Tây đã xác nhận: Vào những ngày Tết Mậu Thân, các đơn vị của Quân đội Việt Nam cộng hòa chỉ
có một nửa quân số, khiến cho Bộ Chỉ huy Quân sự Mỹ ở Sài Gòn vô cùng lúng túng trong việc ứng
phó. Từ thực tế đó, càng khẳng định: việc chọn thời điểm Tết Nguyên Đán mở cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy Tết Mậu Thân có ý nghĩa chiến lược, góp phần tạo bất ngờ về thời gian - yếu tố quan
trọng làm nên thắng lợi của Xuân Mậu Thân. Vì thời gian là lực lượng.
Tạo bất ngờ về hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu. Vào thời điểm trước cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân, địch còn rất mạnh cả về thế và lực, nên chúng ta không thể sử dụng toàn bộ lực
lượng chủ lực để đánh vào các thành phố lớn. Do vậy, chủ trương của Đảng ta là căng, kéo, lừa địch trải
lực lượng ra khắp chiến trường miền Nam, nhất là đến địa bàn có lợi để dùng những quả đấm mạnh
đánh những đòn tiêu diệt lớn, bẻ gãy các cuộc hành quân “tìm diệt” của chúng. Thực hiện chủ trương đó,
cuối năm 1967, Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch tiến công Đường
9 - Khe Sanh 2, nhằm dụ quân Mỹ lên để giam chân và tiêu diệt chúng tại đó, tạo ra kẽ hở, điểm yếu ở
các đô thị. Trong khi đó, giới chức chỉ huy quân sự Mỹ và Sài Gòn cho rằng bộ đội chủ lực ta có rất ít lOMoAR cPSD| 41487147
kinh nghiệm tác chiến trong thành phố, lực chưa đủ mạnh để tiến công vào các cơ quan đầu não của
chúng; bởi, đây là những mục tiêu được canh phòng cẩn mật, với hệ thống thiết bị cảnh giới tinh vi,
hỏa lực ngăn chặn mạnh và dày đặc nhiều tầng, nhiều lớp. Từ đánh giá sai về ta, lại “tuyệt đối hóa”
sức mạnh của vũ khí, thiết bị chiến trường, nên từ chỉ huy đến binh sĩ của quân đội Mỹ cũng như
quân đội ngụy chủ quan, mất cảnh giác. Do vậy, chọn đô thị là hướng tiến công chủ yếu là ta đã
chọn đánh vào điểm yết hầu, hiểm yếu của kẻ thù. Đòn hiểm đó đã phơi bày sự thất bại về quân sự
và sự yếu kém của Mỹ và chính quyền ngụy. Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, chúng ta đã đưa được chiến tranh vào đô thị, thực hiện một đòn đánh hiểm, đánh đau vào
“trung tâm đầu não” của địch; đồng thời, khẳng định: với đường lối chiến tranh nhân dân đúng
đắn, sáng tạo của Đảng thì mọi điều đều có thể xảy ra, dù khó khăn, phức tạp đến mấy. Đó chính là
tư duy chiến lược, chiến thuật của những bộ não chỉ huy và trực tiếp điều hành chiến tranh thời đại
Hồ Chí Minh; sự sáng tạo, độc đáo, vượt trước của Đảng ta trong cuộc đấu mưu, đấu trí sinh tử với
kẻ thù. Sau thảm bại trong Tết Mậu Thân, với tâm trạng hoang mang, dao động, nhiều giới chức
quân sự và chính khách Mỹ đã tự hỏi: Tại sao nửa triệu lính Mỹ và hơn 70 vạn lính Nam Việt Nam
cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp quá đầy đủ và được trang bị
những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn
công! Chính nội dung câu hỏi đã lộ rõ và thừa nhận về sự bị động và bất ngờ của quân Mỹ - lực
lượng đóng vai trò chủ chốt trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”.
Ngoài ra, nét độc đáo về nghệ thuật tạo bất ngờ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân còn được thể hiện ở cách thức phát hiệu lệnh tiến công. Để bảo đảm bí mật, bất
ngờ tuyệt đối, hiệu lệnh khởi phát cuộc Tổng tiến công Tết của ta được ấn định vào thời điểm
giao thừa, lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc thơ chúc mừng năm mới trên Đài phát thanh tiếng nói
Việt Nam, một phương tiện thông tin đại chúng, có độ lan tỏa rộng, nhanh và ít bị địch chế áp,
theo dõi. Vì thế, Lời chúc Tết Mậu Thân của Bác trở thành một sự kiện gây bất ngờ đối với
quân thù. Như vậy, hiệu lệnh của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân cũng thực sự là
một hiện tượng thật đặc sắc, góp thêm một bất ngờ nữa đối với Mỹ và Quân đội Sài Gòn.
Tóm lại, nghệ thuật tạo bất ngờ đối với Mỹ và Quân đội Việt Nam cộng hòa thực sự là
một trong những nhân tố đóng vai trò quyết định thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân. Đây là “sản phẩm đặc biệt” của tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam thời đại
Hồ Chí Minh; nét đặc sắc đáng ghi nhớ nhất, hấp dẫn nhất của sự kiện Tết Mậu Thân đã diễn
ra cách đây 45 năm, trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Bài học kinh nghiệm về nghệ thuật tạo
bất ngờ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) nói riêng, trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, vẫn mãi giữ nguyên giá trị để chúng ta tiếp tục nghiên
cứu, vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.