Trường đại học kinh tế quốc dân NEU - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU
Trường đại học kinh tế quốc dân NEU - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lênin (KTCT2D02)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 44820939
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI T P L N MÔ
N: KINH TẾẾ CHÍNH TR MÁC-LẾNIN
ĐỀ TÀI: . Vai trò của tích lũy đối với Việt Nam hiện nay
Họ và tên SV: Nguyễn Minh Trí Lớp tín chỉ: 13 Mã SV: 11226564
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU
.................................................................................... HÀ NỘI, NĂM 2023 lOMoAR cPSD| 44820939 A. LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang ở quá trình hội nhập, phát triển năng động nhất từ trước đến nay và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị làm nâng cao vị thế của nước ta trên
trường quốc tế. Đó là những thành quả chúng ta đạt được do những quyết định đúng đắn
trong đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng
sáng tạo các phương pháp, nguyên lý cơ bản của phát triển kinh tế vào điều kiện của đất
nước. Với xuất phát điểm là một đất nước nông nghiệp lạc hậu, tiềm lực kinh tế rất yếu,
thu nhập bình quân trên đầu người thấp và tỉ lệ dữ trữ so với thu nhập thấp. Chúng ta đã
phải đối mặt với những vấn đề như trình độ lao động thấp, năng suất lao động thấp. Sau
khi vận dụng thành công đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thì chúng ta lại phải đối mặt với một vấn đề mới đó chính là: tư bản hay còn được
gọi là vốn. Với một nền kinh tế hiện đại thì vốn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
phát triển kinh tế. Vốn chính là cơ sở tạo ra việc làm, tạo ra công nghệ tiên tiến, nâng cao
năng lực sản xuất và thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất và cũng thúc đẩy nền kinh tế
phát triển theo chiều sâu. Việc cơ cấu sử dụng vốn có tác động quan trọng vào chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Để chúng ta có thể tiếp tục phát triển nền kinh tế với mức
độ tăng trưởng cao và bền vững thì chúng ta phải giải quyết vấn đề về huy động về vốn.
Nguồn vốn có thể được huy động từ tích lũy trong nước và vốn vay nước ngoài. Lý luận
cho thấy việc tích lũy và huy động vốn nội địa là quan trọng nhất, việc tích lũy và huy
động vốn ở trong nước sẽ đảm bảo sự bền vững của nền kinh tế và không bị phụ thuộc
vào bên ngoài. Bài luận dưới đây sẽ nêu lên những lý luận chung về tích lũy tư bản và
qua đó sẽ nêu lên vai trò của việc tích lũy đối với Việt Nam. Bài luận được viết dựa trên
hạn chế về trình độ hiểu biết của bản thân, nên sẽ khó mà có thể tránh những sai sót trong
quá trình nghiên cứu, em rất mong nhận được đánh giá thực tế, hướng dẫn, góp ý của
thầy, giúp em ngày càng hoàn thiện hơn. B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN TÍCH LŨY TƯ BẢN
1. Bản chất và nguồn gốc của tích lũy tư bản
Trước tiên để có thể hiểu và chỉ ra được bản chất của việc tích lũy tư bản, ta cần phải hiểu về tái sản xuất lOMoAR cPSD| 44820939
Trong thực tế của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Quá trình sản xuất không chỉ
diễn ra một lần đơn lẻ mà được lặp đi lặp lại không ngừng. Quá trình sản xuất lặp đi lặp
lại không ngừng này được gọi là tài sản xuất. Quá trình sản xuất này là tất yếu khách
quan và được phân ra thành 2 hình thức chủ yếu là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng. Tái sản xuất giản đơn là sự lặp lại của quá trình sản xuất với quy mô như cũ. Ở
trong trường hợp này thì toàn bộ giá trị thặng dư đã được nhà tư bản tiêu dùng cho cá
nhân. Tuy nhiên tái sản xuất giản đơn không phải là phương thức tái sản xuất điển hình
của chủ nghĩa tư bản mà hình thái điển hình là tái sản xuất mở rộng. Trong quá trình tái
sản xuất mở rộng, nhà tư bản sẽ lặp lại quá trình sản xuất nhưng với quy mô lớn hơn
trước . Để có thể mở rộng quy mô của quá trình sản xuất nhà tư bản sẽ buộc phải biến
một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng
dư thành tư bản là tích lũy tư bản.
Bản chất của tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa thông qua
việc chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để tiếp tục mở rộng sản xuất kinh
doanh, thông qua mua thêm hàng hóa sức lao động, mở mang nhà xưởng, mua thêm
nguyên vật liệu, trang bị thêm máy móc thiết bị… Nhà tư bản sẽ không sử dụng hết giá
trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân mà sẽ để một phần để biến thành tư bản phụ thêm. Nên
khi thị trường thuận lợi, nhà tư bản sẽ sản xuất được nhiều hàng hóa hơn, bán được hàng
hóa nhiều hơn, giá trị thặng dư sẽ càng ngày nhiều và nhà tư bản càng ngày giàu có hơn.
Thực chất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư. Nhờ có tích lũy tư
bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không những trở thành thống trị mà còn liên tục
mở rộng sự thống trị của nó.
Mục đích của các nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không chỉ đơn
thuần là có được giá trị thặng dư mà là phải thu được nhiều giá trị thặng dư. Để thực hiện
được mục đích đó các nhà tư bản sẽ không ngừng tích lũy và tái sản xuất mở rộng quy
mô. Họ xem đó là cách thức căn bản để tăng cường bóc lột công nhân làm thuê. Bên cạnh
đó, do tính cạnh tranh quyết liệt nên các nhà tư bản buộc phải không ngừng làm cho tư
bản của mình tăng lên. Để có làm tư bản không ngừng tăng lên thì chỉ có thể thực hiện
bằng cách tăng nhanh tích lũy tư bản. Do động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở lOMoAR cPSD| 44820939
rộng Tư bản chủ nghĩa chính là một quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Trong
những giai đoạn đầu của sản xuất chủ nghĩa tư bản sự ham muốn làm giàu của các nhà tư
bản chi phối tuyệt đối nhưng đến một trình độ phát triển nhất định, sự tiêu dùng của các
nhà tư bản ngày căng tăng lên theo sự tích lũy tư bản
2, NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUY MÔ TÍCH LŨY
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định, thì quy mô tích lũy tư bản sẽ phụ thuộc
vào tỷ lệ phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng. Nếu tỷ lệ phân chuan giữa tích lũy và tiêu
dùng đã được xác định thì quy mô tích lũy sẽ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư.
Nếu nhà tư bản sử dụng khối lượng giá trị thặng dư vào việc tiêu dùng cá nhân thì khối
lượng giá trị thặng dư dành cho tích lũy sẽ ít đi. Ngược lại nếu nhà tư bản tiêu dùng ít
khối lượng thặng dư thì điều đó sẽ làm tăng khối lượng tích lũy, làm quy mô tích lũy tăng
lên. Tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đã cho sẵn thì khi đó đại lượng tư bản
tích lũy sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. Vì vậy, các nhân tố chủ
yếu ảnh hưởng tới quy mô tích lũy gồm:
+Trình độ khai thác lao động: Tỷ suất giá trị thặng dư tăng sẽ tạo tiền đề để tăng quy mô
giá trị thặng dư. Từ đó mà tạo điều kiện để tăng quy mô tích lũy. Để nâng cao tỷ suất giá
trị thặng dư, ngoài sử dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản
xuất giá trị thặng dư tương đối. Các nhà tư bản còn sử dụng những biện pháp như cắt xén
tiền công của công nhân, tăng cường độ lao động, tăng ca tăng kíp. Điều đó có nghĩa rằng
những nhà tư bản sẽ nhận được khối lượng giá trị thặng dư lớn hơn thông qua việc giảm
chí phí hoặc kéo dài thời gian công nhân tạo ra giá trị.
+ Trình độ lao động xã hội: Năng suất lao động xã hội làm cho giá trị tư liệu sinh hoạt
giảm xuống, làm giảm giá trị sức lao động giúp cho các nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn.
+ Sử dụng hiệu qủa máy móc: C.Mác gọi việc này là chênh lệch giữa tư bản sử dụng và
tư bản tiêu dùng. Theo C.Mác, máy móc được sử dụng toàn bộ tính năng của nó, song giá
trị chỉ được tính dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao. Như vậy thì mặc dù giá trị của lOMoAR cPSD| 44820939
máy móc đã bị khấu hao, song tính năng hay giá trị sử dụng của máy móc vẫn nguyên
như cũ. Do đó, nếu như không tính những phần giá trị của máy móc được chuyển vào
trong những sản phẩm trong từng thời gian thì nhà tư bản có thể sử dụng những máy móc
và công cụ lao động đó mà không đòi hỏi một chi phí khác. Máy móc có thể coi như một
lực lượng lao động không công. Máy móc càng hiện đại, phần giá trị được chuyển vào
sản phầm ngày càng ít, càng phục vụ lao động không công nhiều hơn góp phần vào việc
tích lũy tư bản . Sự phục vụ không công ấy lại được các lao động sống nắm lấy và làm
cho chúng hoạt động. Chúng được tích lũy lại cùng với tăng quy mô tích lũy tư bản.
Đồng thời sự lớn lên không ngừng của quỹ khấu hao khi chưa cần thiết phải đổi mới tư
bản cố định cũng trở thành nguồn tài chính có thể sử dụng cho mở rộng sản xuất. + Đại
lượng tư bản ứng trước: Nếu thị trường thuận lợi, hàng hóa luôn bán được thì tư bản ứng
trước tạo điều kiện tăng thêm quy mô tích lũy của tư bản. Trong công thức: M=m’.V
Nếu như m’ ( Tỷ suất giá trị thặng dư) không đổi thì cách duy nhất để cho M ( Khối
lượng giá trị thặng dư) tăng là khi V( Tổng tư bản khả biến ) tăng. Sự gia tăng của tổng tư
bản khả biến cũng sẽ một phần ảnh hưởng làm gia tăng tổng tư bản bất biến. Do vậy
muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư thì phải tăng quy mô tư bản có trước
3, MỘT SỐ HỆ QUẢ CỦA TÍCH LŨY TƯ BẢN.
Theo C.Mác, quá trình tích lũy trong nền kinh tế thị trường tư bản dẫn đến các hệ quả
kinh tế mang tính quy luật như sau:
+ Tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản
Cấu tạo hữu cơ của tư bản (Ký hiệu là c/v) là cấu tạo giá trị được quyết định bởi cấu
tạo kỹ thuật và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật tư bản
C.Mác cho rằng nền sản xuất có thể được quan sát qua hình thái hiện vật và hình thái giá
trị. Nếu quan sát qua hình thái hiện vật thì mối quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản
xuất và số lượng sức lao động được gọi là cấu tạo kĩ thuật. cấu tạo kĩ thuật này, nếu quan lOMoAR cPSD| 44820939
sát qua hình thái giá trị nó phản ánh ở mối quan hệ tỷ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản
khả biến. Tỷ lệ giá trị này được gọi là cấu tạo hữu cơ. Cấu tạo hữu cơ luôn có xu hướng
tăng do cấu tạo kĩ thuật cũng vận động theo xu hướng tăng lên về lượng. Vì vậy, quá trình
tích lũy tư bản không ngừng làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
+ Tích lũy tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản
Trong quá trình tái sản xuất Tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông
qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư
bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản
cá biệt đồng thời làm tăng quy mô tư bản xã hội do giá trị thặng dư được biến thành tư
bản phụ thêm. Đây là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản. Tập trung tư bản là sự tăng
thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã
hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Tập trung tư bản có thể được thực hiện thông
qua sáp nhập các tư bản cá biệt với nhau. Tích tụ và tập trung tư bản đều góp phần tạo
tiền đề để có thể thu được nhiều giá trị thặng dư hơn cho người mua hàng hóa sức lao động.
+Quá trình tích lũy tư bản làm không ngừng làm tăng chênh lệch giữa thu nhập của nhà
tư bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương đôi.
Xét trên mặt bằng chung của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, những nhà tư bản có thu nhập
lớn hơn gấp rất nhiều lần với thu nhập của những người lao động làm thuê dưới dạng tiền
công. Hiện tượng này được C.Mác gọi là sự bần cùng hóa người lao động. Cùng với sự gia
tăng quy mô sản xuất và cấu tạo hữu cơ của tư bản, tư bản khả biến có xu hướng giảm
tương đối so với tư bản bất biến, dẫn đến nguy cơ thừa nhân khẩu. Do đó, Quá trình tích
lũy tư bản tất yếu sẽ dẫn đến sự phân cực giữa 2 mặt, một mặt sẽ làm giai cấp tư bản ngày
càng trở nên giàu có, mặt còn lại những người dân lao động không tránh khỏi sự bần cùng hóa và thất nghiệp.
Có 2 hình thức biểu hiện của sự bần cùng hóa giai cấp lao động là bần cùng hóa tương
đối và bần cùng hóa tuyệt đối. Bần cùng hóa tương đối là cùng với đà tăng trưởng của lực
lượng sản xuất, phần sản phẩm phân phối cho giai cấp công nhân làm thuê tuy có tăng lOMoAR cPSD| 44820939
tuyệt đối nhưng lại giảm tương đối so với phần sản phẩm dành cho giai cấp tư sản. . Bần
cùng hóa tuyệt đối thể hiện sự giảm tuyệt đối về mức sống của nhân dân làm thuê. Bần
cùng hóa tuyệt đối thường xuất hiện với bộ phận giai cấp công nhân đang thất nghiệp và
đối với toàn bộ giai cấp công nhân đang làm thuê trong các điều kiện kinh tế khó khăn,
đặc biệt là trong khủng hoảng kinh tế.
II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỚI VIỆT NAM
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, nhất là hơn 30
năm đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng khá cao, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao
trong khu vực và trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người cải thiện rõ rệt so với những
năm trước thời kì đổi mới, sản xuất phát triển, đời sống nhân dân ngày càng tốt đẹp lên.
Tuy nhiên, để giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức ổn định và hơn thế nữa, nền
kinh tế sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc tích lũy và huy động vốn. Thực tế đã được nhiều
chuyên gia kinh tế trong nước và nước ngoài nhận định rằng, Việt Nam muốn có tốc độ
phát triển vượt bậc, xếp loại những nước có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất thế giới thì
phải nỗ lực huy động tối đa nguồn vốn trong nước, tăng cường sử dụng nguồn vốn nước
ngoài và đầu tư phải có hiệu quả cao. Để có thể tăng trưởng thu nhập bình quân đầu
người của Việt Nam tăng 4-5 lần trong khoảng vài chục năm tới thì chỉ số ICOR (một chỉ
số cho biết để thêm một đơn vị sản lượng trong một khoảng thời gian nhất định thì sẽ cần
phải bỏ ra thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư trong khoảng thời gian đó) là ở mức 2,3 ~
2,5 cùng với tốc độ tăng trưởng GDP ít nhất là 8% một năm. Việt Nam muốn đẩy nhanh
tốc độ công nghiệp hóa hiện đại hóa cần huy động tối đa không chỉ cần huy động nguồn
vốn rải rác trong nội địa mà còn phải huy động cả nguồn vốn từ bên ngoài, đồng thời tiếp
thu những kinh nghiệm quản lý cho nền kinh tế từ các nước phát triển trên thế giới. 1,
Tại sao phải tích lũy vốn lOMoAR cPSD| 44820939
Trong đường lối Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước do Đại hội VIII của Đảng đề ra
vấn đề tích lũy vốn để tiến hành Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa có tầm quan trọng đặc
biệt cả về phương pháp, nhận thức chỉ đạo thực tiễn. Ai cũng biết rằng để Công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước cần phải có vốn. Đặc biệt là khi xuất phát điểm thấp như nước
ta lại phải cần nhiều vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Dù nước ta đã thoát khỏi
khủng hoảng nhưng đất nước vẫn là một đất nước đang phát triển, thì vấn đề tích lũy vốn
lại là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng
đất nước. Nhiều chuyên gia quốc tế đã cho rằng Việt Nam muốn phát triển và đạt tốc độ
theo hướng rồng bay thì phải nỗ lực huy động và tích lũy vốn trong nước, tăng cường có
hiệu quả với nguồn nước ngoài và đầu tư có hiệu quả cao. Họ đã tính toán rằng để tốc độ
tăng trưởng GDP trung bình hàng năm khoảng 8-10% thì tổng đầu tư trong nước của Việt
Nam phải đạt từ 20-35%. Nhưng đất nước ta đang đứng trước tình trạng thiếu vốn về mọi
mặt (vốn lao động, vốn tín dụng, vốn đầu tư phát triển) cần phải giải đáp của nền công
nghiệp: muốn phát huy tối đa nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo bồi dưỡng nhân
tài để phát huy tối đa cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa thì phải đầu tư cho
GDP, đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất cũng như xây dựng cơ sở hạ
tầng. Những việc trên không thể thiếu được vai trò của vốn. Ngoài ra Việt Nam nay càng
trở nên hội nhập với nền kinh tế thế giới, điều này cho nền kinh tế Việt Nam rất nhiều cơ
hội để phát triển nhưng đồng thời sự cạnh tranh đối với nền kinh tế nước ta sẽ lớn hơn rất nhiều.
2, Các giải pháp tích lũy thúc đẩy quá trình tích lũy ở Việt Nam
Mục tiêu của Đảng và Nhà nước là không ngừng tái sản xuất mở rộng, nhằm nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần văn hóa cho mọi người dân, đồng thời góp phần tích cực vào
công cuộc xây dựng một nền kinh tế lớn Xã Hội Chủ Nghĩa mà chúng ta phải xác định
cho được quan hệ giữa quỹ tích lũy và tiêu dùng. Trong điều kiện đất nước ta từ sản xuất
nhỏ, lại quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Chúng ta phải cùng chung sức, huy động toàn bộ
sức lực của mọi cá nhân tổ chức, triệt tiết để kiệm nhằm tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế
nước ta cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
2.1 Giải quyết đúng đắn mối quan hệ tích lũy tiêu dùng. lOMoAR cPSD| 44820939
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỷ
lệ phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng. Nếu tiêu dùng càng nhiêu thì quy mô tích lũy sẽ
càng bé hơn. Ngược lại nếu tích lũy nhiều thì phần tư bản dùng để tiêu dùng cá nhân sẽ ít
đi. Tỷ lệ cụ thể giữa tích lũy và tiêu dùng sẽ phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội,
trình độ phát triển của lực lượng lao động, trình độ kĩ thuật và các yếu tố khác. Tương
quan giữa tích lũy và tiêu dùng được coi là tối ưu khi sử dụng được các nguồn lực có sẵn
để thực hiện được mức tích lũy có thể đảm bảo phát triển sản xuất với tốc độ cao ổn định
mà cuối cùng vẫn đảm bảo tăng tiêu dùng và tích lũy ở mức cao nhất có thể . Tỷ lệ giữa
tích luỹ và tiêu dùng sắp xếp như thế nào là tối ưu? Việc sắp xếp tỷ lệ này như thế nào và
liệu nó có cố định không? Đây là vấn đề trung tâm của việc phân phối xã hội chủ nghĩa
cần nghiêm túc nghiên cứu. Làm như thế nào chúng ta có thể vừa đảm bảo sự phát triển
kinh tế cùng với cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo lợi ích lâu dài và lợi ích ngắn hạn.
Chính vì vậy Việc phân chia tỷ lệ này không cố định mà thay đổi tuỳ thuộc vào nhu cầu
của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. . Như vậy có thể nói tỷ lệ giữa tích luỹ và
tiêu dùng không đơn thuần làmột tỷ lệ về kinh tế mà còn là sự thể của hiện lối đường lối,
chính sách của một chính phủ trong từng thời kỳ khác nhau. Hiện nay ở nước ta, việc gia
tăng quy mô tích lũy đang được chú trọng để đất nước ta có thể bắt kịp với nhịp điệu phát
triển của nền kinh tế thế giới cho nên việc tiết kiệm, tích lũy được khuyến khích.
2.2 Sử dụng hiệu quả vốn
Để sử dụng nguồn vốn với hiệu quả cao nhất, chúng ta cần xác định rõ từng đối tượng
cần được cấp vốn, từ đó phân bổ hợp lý nguồn vốn một cách hợp lý cho các ngành nhằm
tận dụng hiệu quả tối đa do nguồn vốn mang lại và làm giảm rủi ro nguốn vốn có hạn bị
sử dụng một cách thiếu hiệu quả hoặc thậm chí là sai mục đích. Ở hầu hết các quốc gia
đang trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đầu tư công là một công cụ
kinh tế của Nhà nước, được sử dụng và đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế.
Nhưng ngược lại, đầu tư công cũng có thể trở thành gánh nặng cho quốc gia, nếu nó được
sử dụng một cách thái quá, gây nên sự kém hiệu quả. Chính vì chính phủ không nên cấp
vốn toàn bộ cho các doanh nghiệp mà nên tiền hành cổ phần hóa doanh nghiệp trong
nước. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp trong nước như vậy sẽ khiến cho doanh nghiệp có lOMoAR cPSD| 44820939
trách nhiệm hơn với vốn của mình và sẽ sử dụng vốn của mình các hiệu quả nhất có thể.
Việc những đồng vốn được sử dụng một cách hiệu quả hay là một cách kém hiệu quả phụ
phần lớn sẽ phụ thuộc vào người sử dụng đồng vốn ấy.
Vì vậy nên có một đội ngũ quản lý ý có trình độ năng lực và trách nhiệm cao. Đồng thời
nhà nước cũng cần phải xem xét lại mô hình tổ chức quản lý, chú ý đến đội ngũ cán bộ,
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ có thể phát huy mọi năng lực của mình. Trong điều
kiện cạnh tranh quyết liệt với nguồn vốn FDI ngày nay, việc thiết lập một cơ chế tổ chức
gọn nhẹ có hiệu quả cao cũng góp phần tạo ra cạnh tranh lớn.
2.3.3. Tăng cường tích luỹ vốn trong nước và có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Chúng ta có thể tăng cường nguồn vốn trong nước thông qua nhiều nguồn vốn khác nhau
như: các tổ chức tín dụng và ngân hàng, thị trường chứng khoán, các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài,…
Tuy nhiên giải pháp hàng đầu chính là tăng cường nguồn vốn từ ngân sách nhà nước,
nguồn vốn từ ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng để giải quyết các nhu cầu chi tiêu
của nhà nước như: Chi tiêu để đầu tư và phát triển, Chi thường xuyên… . Chính vì vậy
việc nâng cao hiệu quả tích lũy vốn qua ngân sách nhà nước là điều hết sức cần thiết. Một
biện pháp để nâng cao nguồn vốn phổ biến nữa là thông qua các tổ chức tín dụng và ngân
hàng. Những hình thức này rất có hiệu quả trong việc thu hút những nguồn vốn nhàn rỗi
của dân cư. Tuy nhiên phương thức này sẽ yêu cầu các ngân hàng và tổ chức tín dụng
nâng cao dịch vụ khách hàng của mình đồng thời tạo dựng lòng tin với người dân, đảm
bảo bí mật thông tin cùng với ổn định tiền gửi của khác hàng. Chính phủ cũng phải có
những biện nâng cao lãi suất tiết kiệm nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn nhàn dỗi trong
dân. Đặc biệt là hệ thống ngân hàng cần phối hợp chặt chẽ với các quỹ tín dụng nhân dân
để tích tụ và tập trung vốn được thuận tiện.
Một biện pháp khá là mới được áp dụng ở nước ta hiện nay là thu hút vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Đây là một hình thức tích tụ và tập trung vốn rất hiệu quả được sử lOMoAR cPSD| 44820939
dụng các nước phát triển. Thị trường chứng khoán là một dạng của thị trường vốn, và nếu
thị trường chứng khoán hoạt động tốt thì nó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam ta đã đạt được những thành tựu rất
ấn tượng, . Khi thị trường chứng khoán mới mở cửa vào năm 2000 vốn hóa thị trường chỉ
tương đương với 0,28% GDP nước ta, thì đến cuối năm 2020 chỉ sau 2 thập kỷ mức vốn
hóa thị trường cổ phiếu Việt Nam đã tương đương 83% GDP năm 2019. Đây quả là một
con số tăng trưởng đáng ấn tượng và càng khẳng định vai trò chiến lược của thị trường
chứng khoán trong việc tích lũy nguồn vốn.
Ngoài nguồn vốn tích luỹ trong nước thì trong hoàn cảnh hội nhập với nền kinh tế thế
giới thì có một nguồn vốn có vai trò đặc biệt quan trọng khác là nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Có hai hình thức của vốn đầu tư nước ngoài: đầu tư trực tiếp nước ngoài ( hay còn
được gọi là FDI) và đầu tư gián tiếp ( hay còn được gọi là FII) Từ khi nước ta bắt đầu
đón nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cùng với việc tiến hành các cải cách kinh tế ở
trong nước khác, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Khu vực FDI là khu vực có
tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong vòng 5 năm qua, cho thấy vai trò càng ngày càng lớn
của khu vực FDI trong nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy chúng ta cần phải có chính sách thu
hút vốn đầu tư trực tiếp, đặc biệt là từ những quốc gia phát triển. Tuy nhiên chúng ta cũng
phải đảm bảo lợi ích của của chính chúng ta thông qua việc sửa đổi, bổ sung bộ luật đầu
tư nước ngoài sao cho tạo ra một môi trường phù hợp hấp dẫn với cả nhà đầu tư nước
ngoài nhưng vẫn giữ những lợi ích của chính chúng ta. dfdfdf III, KẾT LUẬN.
Với một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đất nước ta đang ở trong giai đoạn
phát triển mạnh mẽ và năng động với những lợi thế như: Một nền chính trị ổn định, dân
số trẻ với nguồn lao động lớn, và một nền kinh tế trẻ mới nổi, năng động. Tuy vậy sự phát
triển nhanh chóng của nền kinh tế cũng đang gây ra một áp lực không nhỏ đến vấn đề
quy mô vốn cho nền kinh tế. Do đó việc nghiên cứu tích lũy tư bản và việc vận dụng lí
luận đó vào thực tiễn Việt Nam rất quan trọng và cấp thiết. Đặc biệt khi Nghị quyết Đại
hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2045 nước ta trở thành lOMoAR cPSD| 44820939
nước phát triển, thu nhập cao, để có thể đạt được mục tiêu này chúng ta sẽ cần phải có quy mô vốn rất lớn.
Từ thực tiễn ta thấy được tích lũy tư bản có vai trò rất lớn đến nền kinh tế nước ta, để
chúng ta có thể đạt được những mục tiêu thì trước hết chúng ta phải hiểu được thực trạng
và rồi đưa ra giải pháp đúng đắn cho nền kinh tế. Đồng thời chúng ta cũng sẽ phải nhận
thức được vai trò của vốn với sự phát triển đất nước và khẳng định vốn là là cơ sở để tạo
việc làm, mở rộng công nghệ thúc đây tăng trưởng nền kinh tế. Tài liệu tham khảo:
1. GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LENIN – BỘ GD&Đ
2. Các số liệu, bài báo cáo từ Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( từ 1986– 2020)
3. “ Phát triển thị trường vốn- Cơ hội trong kỷ nguyên mới” – Dangcongsan.com
4 “Vai trò của kinh tế nhà nước trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế sâu, rộng”- tapchicongsan.org.vn
5 Tài liệu tiểu luận của kênh 123.doc