/50
lOMoARcPSD| 61622985
MỤC LỤC
1. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên ........................................................... 1
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ............................................................................................ 1
3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ...................................................................................................... 1
4. Tình hình VN sau CMT8 năm 1945 đến toàn quốc kháng chiến bùng nổ 19/12/1946 ............................ 8
5. 1. Chiến dịch Việt Bắc ............................................................................................................................. 14
6. Hội nghị Geneve 1954 và Hiệp định Geneve .......................................................................................... 20
7. Hội nghị Paris và Hiệp định Paris 1973 ................................................................................................... 24
8. Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975 ...................................................................................... 27
9. Hoàn cảnh và nội dung Công cuộc đổi mới Vit Nam 1986 ................................................................ 32
10. Sự ra đời của nước Văn Lang và đời sống vật chất và nh thần của cư dân Văn Lang- Âu Lạc ............ 34
11. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đối với lịch sử dân tộc Việt Nam .............................. 35
12. Nhà Lý và những đóng góp đối với lịch sử Việt Nam ............................................................................ 38
13. Nhà Trần và những đóng góp đối với lịch sử Việt Nam ........................................................................ 42
15. Chế độ quân chủ chuyên chế thịnh đạt thời Lê Sơ ............................................................................... 45
16.Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn và hệ quả đối với nh hình Đại Nam nửa cuối thế kỉ XIX ......... 47
17. Những biến chuyển của xã hội Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa là thứ nht ca
thực dân Pháp ............................................................................................................................................ 48
Lịch sử Việt Nam
1. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
4. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Toàn quốc kháng
chiếnbùng nổ 19-12-1946
5. Các chiến dịch Việt Bắc 1947, Biên Gioi 1950, Điện Biên Phủ 1954
6. Hội Nghị Geneve 1954 và Hiệp định Geneve
7. Hội nghị Paris và Hiệp định Paris 1973
8. Cuộc tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975
9. Hoàn cảnh và nội dung Công cuộc đổi mới ở Việt Nam 1986
lOMoARcPSD| 61622985
10. Sự ra đời của nước Văn Lang đời sống vật chất tinh thần của cư dân Văn LangÂu
Lạc
11. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đối với lịch sử dân tộc Việt
12. Nhà Lý và những đóng góp đối với lịch sử Việt Nam
13. Nhà Trần và những đóp góp đối với lịch sử Việt Nam
14. Những chính sách cải cách của Hồ Qúy Ly
15. Chế độ quân chủ chuyên chế thịnh đạt của thời Lê Sơ
16. Chính ch đối ngoại của nhà Nguyễn hệ quả đối với tình hình Đại Nam nửa cuốithế
kỉ XIX
17. Những biến chuyển của hội Việt Nam ới tác động của cuộc khai thác thuộc địalần
thứ nhất của thực dân Pháp
1. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
a, Sự thành lập
- Tháng 11/1924, khi về đến Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc mở lớp
huấnluyện đào tạo cán bộ. Phần lớn học sinh thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam
yêu nước. Họ học làm cách mạng, học hoạt động bí mật. Phần lớn số học sinh đó sau khi
học xong mật về ớc truyền luận giải phóng dân tộc tchức nhân dân, Một
số người được gửi sang học trường đại học Phương Đông hoặc trường quân sự Hoàng
Phố. Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm để tổ
chức thành nhóm Cộng sản đoàn (2/1925)
- Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên nhằmtổ
chức lãnh đạo quần chúng đoàn kết lại, kịch liệt tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu mình. b, Hoạt động của Hội:
- Sau khi thành lập, Hội đã phái người về ớc để tuyển người sang Trung Quốc dự c
lớp huấn luyện ở Quảng Châu hay để gửi sang Liên học tại Trường Đại học Phương
Đông. Đồng thời, Hội tiến hành lập c chi bộ các cấp trong nước. Từ đầu năm 1925
đến tháng 9 năm 1927, Hội đã tổ chức được 10 khóa đào tạo cho các học viên được tuyển
mộ. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các học viên sau đó được tập hợp lại thành
tập sách Đường kách mệnh.
- ới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, Hội xuất bản tuần o tiếng Việt Thanh
niên từ tháng 6 năm 1925 phát hành trong số những người Việt Nam sống miền Nam
lOMoARcPSD| 61622985
Trung Quốc cũng như đưa về nước và đưa sang Xiêm. Báo này vừa tuyên truyền đường
lối cách mạng của Hội vừa phê phán những tồn tại các tchức ch mạng khác như
Việt Nam Quang Phục Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng.
- Hội cũng tuyển người đi học quân sự để sau này thành lập một lực lượng trang cách
mạng Việt Nam. Hồng Phong được gửi tới Leningrad học về không quân. Một số
khác được gửi tới Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 2 m 1927, Hội lại ra tờ Lính
Cách mệnh để tuyên truyền giác ngộ binh lính Việt Nam.
- Năm 1927, các blần lượt ra đời, sau đó tỉnh bộ, thành bộ cuối cùng huyện
bộ. Năm 1929, cấu tổ chức của Hội gồm 5 cấp được thiết lập phát triển khắp đất
nước. Số lượng hội viên lên tới 1.700 người sở trong Việt kiều Xiêm (Thái
Lan). Hội đóng vai trò quan trọng trong việc truyền chủ nghĩa Mác - Lênin trong nhân
dân và trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân chống Pháp.
- Năm 1928, Hội chủ trương "vô sản hóa", tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao ý
thức chính trị cho giai cấp công nhân. Phong trào công nhân càng phát triển mạnh, trở
thành ng cốt của phong trào dân tộc trong cả nước, nổ ra tại các trung m kinh tế,
chính trị.
- Năm 1927, Tưởng Giới Thạch tổ chức bắt bớ những người Cộng sản Trung Quốc. Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũng bị đàn áp. Nguyễn Ái Quốc phải lánh sang Liên
Xô. Nhiều đảng viên ưu tú của Hội như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Duy Điếm, Trần
Văn Cung, Trương Vân Lĩnh, Thiết Hùng, Nguyễn Thanh Phúc v.v... bị bắt. Tổng bộ
Hội phải di tản sang Ung Châu, (Quảng Tây) rồi lại sang Hồng Kông.
- Ở trong nước, các chi bộ Hội phát triển mạnh. Theo tổng kết của mật thám Pháp, ở trong
nước Hội có khoảng 1000 đảng viên và cảm tình, có kỳ hội ở cả ba miền. Tuy nhiên các
chi bộ này cũng bị chính quyền thực dân lùng bắt ráo riết. Nam Kỳ, tháng 12 m
1928, Ngô Thiêm bị bắt bị tử hình. Tôn Đức Thắng bị kết án chung thân. Phạm Văn
Đồng bị đày đi Côn Đảo. Ở Bắc Kỳ, Nguyễn Văn Lân bị bắt và bị tử hình.
* Ý nghĩa của việc thành lập Hội: - Thông qua hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, chủ nghĩa Mác-Lênin lần lượt được truyền vào trong nước, tác dụng thúc
đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Việc thành lập Hội
là sự chuẩn bị về tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Hoàn cảnh lịch sử:
lOMoARcPSD| 61622985
- Cuối năm 1929, Việt Nam bấy giờ tồn tại ba tổ chức Cộng sản cùng hoạt động
theo khuynh hướng vô sản (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn). Tuy nhiên phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển
mạnh mẽ, đòi hỏi phải sự lãnh đạo của một Đảng thống nhất. Sự tồn tại và hoạt động
riêng rẽ của ba tổ chức Cộng sản làm cho lực ợng sức mạnh của phong trào Cách
mạng bị phân tán, điều đó không phù hợp với lợi ích của cách mạng và nguyên tắc tổ chức
của Đảng Cộng sản. Bối cảnh trên đặt ra yêu cầu bức thiết là có một Đảng Cộng sản thống
nhất trong cả nước để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Được sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc chđộng triệu tập các
đạibiểu của Đông ơng Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp tại Cửu Long
(Hồng ng) để tổ chức hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành một chính đảng
duy nhất của Việt Nam. Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6/1/1930.
* Nội dung hội nghị:
- Để chỉ đạo Hội nghị tiến hành đạt mục tiêu thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ởViệt
Nam, Nguyễn Ái Quốc xác định vấn đề quan trọng hàng đầu phải tự phê bình và
phê bình vnhững thành kiến giữa các tổ chức cộng sản, dẫn đến tình trạng xung đột,
công kích lẫn nhau, phải xóa bỏ những khuyết điểm đó thành thật hợp tác để thống
nhất các tổ chức cộng sản. Tiếp đó, Hội nghị bàn về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam thảo luận thông qua Chính cương, Điều lệ, kế hoạch thực hiện việc thống nhất
các tổ chức cộng sản trong nước, cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Những ý kiến
chỉ đạo đó của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị tán thành và thực hiện.
- Hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng An Nam Cộng sản Đảng đãphê
bình lẫn nhau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của họ.
Những khuyết điểm chủ yếu của An Nam Cộng sản Đảng là: điều kiện công nhận đảng
viên chính thức quá khắt khe, điều kiện gia nhập Công hội, Nông hội, Học sinh hội cũng
quá khắt khe.
- Đông ơng Cộng sản Đảng thì phạm c sai lầm, khuyết điểm: điều kiện công nhậnđảng
viên chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt tổ chức, đảng có
tính chất bè phái, xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt.
- Kết quả phê bình và tự phê bình đó dẫn tới sự thống nhất thành lập một Đảng Cộng sản.
- Hội nghị thảo luận tán thành ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, thông
quakế hoạch thành lập một Đảng Cộng sản lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam; thống
nhất cách cử Ban Chấp hành Trung ương m thời: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, năm y viên
lOMoARcPSD| 61622985
do Đông Dương Cộng sản Đảng cử, Nam Kỳ hai ủy viên do Đông Dương Cộng sản
Đảng An Nam Cộng sản Đảng cử. Như vậy, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời
tổng số bảy ủy viên.
- Chánh cương văn tắt, Sách lược văn tắt của Đảng
- Hội nghị thảo luận thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách ợc vắn
tắt,Chương trình tóm tắt Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thcủa cách mạng Việt Nam. Chánh cương
vắn tắt của Đảng, sách lược vắn tắt của Đảng ơng lĩnh cách mạng đầu tiên vạch ra
con đường đi cho cách mạng Việt Nam. Chánh cương, Sách lược vắn tắt giá trị
cùng to lớn - là một trong những nền tảng quan trọng xây dựng nên đường lối và phương
pháp cách mạng của Đảng ta.
- Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời nhưng chưa có lực lượng, tổ chức, chánhcương
không cụ thể "nhưng có tinh thần cộng sản" và muốn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xét nguyện vọng chính đáng của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, ngày 24/2/1930,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được chấp nhận sáp nhập vào Đảng Cộng sản Việt
Nam.
* Ý nghĩa của Hội nghị thành lập Đảng
- Đánh dấu sự thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam, thống nhất phong trào cách
mạng Việt Nam dưới slãnh đạo của một Đảng Cộng sản đường lối cách mạng đúng
đắn, sáng tạo.
* Ý nghĩa của việc thành lập Đảng
- Đảng cộng sản Việt Nam ra đời một bước ngoặt ng quan trọng của lịch sử
cáchmạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về
đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX
- Đó kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong
cảnước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sự đoàn kết
nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
lOMoARcPSD| 61622985
- Hơn thế nữa, đó còn là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
tràocông nhân phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam
đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng, llà bước chuẩn bị đầu tiên có tính chất quyết
định cho sự phát triển nhảy vọt về sau của Cách mạng.
3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
- Nhân loại đang chứng kiến những ngày cuối cùng của chủ nghia phát xít TG . Ở châuÂu
, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện Đồng minh . Ở châu Á trước những đòn sấm sét của
đội quân Mỹ- Anh và hồng quân Liên Xô , 14/8/1945 phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng
- Được tin Nhật sắp tuyên bố đầu hàng đồng minh , trung ương Đảng Tổng bộ VN
đãUỷ ban khởi nghĩa toàn quốc .Uỷ ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng công bố mệnh
lệnh khởi nghĩa .23h 12/8/1945 Uỷ ban khởi nghĩa ra quân lệnh số 1 : Giờ tổng khởi
nghĩa đã đánh ! hội một cho quân dân VN vùng dậy giành lấy quyền độc lập của
nước nhà!...Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần cùng quả cảm ,
vùng thận trọng ! .. Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta !”
- Ngày 13/8/1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân To với sự tham giacủa
đại biểu các đảng bộ trong ngoài nước .Trên sở phân tích tình hình TG trong
nước , Hội nghị quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa , đề ra chính sách
đối nội , đối ngoại .Liền sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc , 16/8/1945 Quốc
dân Đại hội khai mạc . Hơn 60 đại biểu đại diện cho 3 miền đất nước và kiều bào ở nước
ngoài , các đảng phái , tôn giáo tiêu biểu cho ý chí thống nhất của toàn dân tộc , về dự đại
hội .Đại hội nhất trí tán thành chủ trương . Tổng khởi nghĩa của Đảng thông qua 10 chính
sách của Mặt trận Việt Minh bầu Uỷ ban giải phóng dân tộc VN do HCM làm chủ tịch
- Hưởng ứng lệnh tổng khởi nghĩa khắp nơi quần chúng đồng loạt nổi dậy giành
chínhquyền . Ở những vùng xa xôi chưa nhận đc lệnh Tổng khởi nghĩa đc sự chỉ dẫn của
chỉ thị Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta , các đảng bộ địa phương đã lãnh
đạo nhân dân vùng dậy giành chính quyền
- HN , đc tin Tổng hội viên chức sẽ tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại nhà hát lớn thànhphố
vào chiều 17/8/1945 để ủng hộ chính phủ nhìn , Uỷ ban khởi nghĩa quyết định biến
cuộc mít tinh ấy thành cuộc mít tinh ủng hộ cách mạng
- Cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành biểu dương sức mạnh qua các phố trung tâmthủ
đô , hô vang khẩu hiệu: “Ủng hộ việt minh” , “đả đảo chính phủ bù nhìn” , “VN độc lập”
- Trước khí thế của quần chúng, chính phủ nhìn không dám chống cự , quân Nhật ánbinh
bất động . Uỷ ban khởi nghĩa quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào 19/8/1945
- Ngày 18/8/1945 cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên các đường phố HN
lOMoARcPSD| 61622985
- Sáng 19/8 hàng chục vạn nhân dân nội ngoại thành xuống đường hướng về quảngtrường
nhà hát thành phố . Đúng 11h Uỷ ban khởi nghĩa đọc lời kêu gọi khởi nghĩa . Tối hôm đó
cuộc khởi nghĩa HN đã thắng lợi hoàn toàn . Chính quyền về tay nhân dân HN đã cổ
mạnh mẽ nhân dân cả nước nhất tề xông lên đại nghĩa . Khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi Thanh Hoá , Bắc Ninh , Ninh Bình , Thái Nguyên , Sơn Tây (20/8) ,
Yên Bái , Bắc Cạn , Tuyên Quang , Nam Định , Nghệ An , Ninh Thuận , Tân An( 21/8 ),
Cao Bằng , Hưng Yên , Kiến An( 22/8), Hải Phòng , Hà Đông , Quảng Bình ,
Quảng Trị , Bình Định , Lâm Viên , Gia Lai , Tân An , Bạc Liêu (23/8)
- Được tin nhân dân HN giành chính quyền thắng lợi 20/8/1945 tại Thừa Thiên – Huế ,Uỷ
ban khởi nghĩa của tỉnh đc thành lập . Uỷ ban quyết định lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành
chính quyền vào 23/8 . Ngày hôm đó hàng chục vạn nhân dân từ các huyện đổ về tp Huế
biểu tình thị uy và chiến các công sở
- Ngày 24/8 chính quyền đã về tay nhân dân các tỉnh Nam , Quảng Yên , Đắc Lắc
,Phú Yên , Gò Công
- Ngày 25/8 khởi nghĩa thắng lợi ở Lạng Sơn , Phú Thọ ,Kon Tum , Bình Thuận
- Tại Sài Gòn từ 20/8 cở đỏ sao vàng đã xuất hiện công khai trên các đường phố , khí
thếcách mạng của nhân dân sôi sục . Xứ uỷ Nam Kì quyết định khỏi nghĩa ở Sài Gòn và
các tỉnh vào 25/8 . Sáng 25/8 nhân dân các ng lân cận kéo vào SG ngập tràn đường phố
. Quần chúng nhanh chóng làm chủ tình hình , chia đi chiếm các quan đầu não của
địch . Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở SG thắng lợi
- Cùng nổi dậy một ngày với nhân dân SG nhân dân các tỉnh Nam Bộ như Chợ lớn ,
GiaĐịnh , Sóc Tng , Long Xuyên , Vĩnh Long , Bà Rịa , Thủ Dẩu Một ,Tây Ninh , Bến
Tre , Sa Đéc giành chính quyền thắng lợi
- Ngày 26/8 chính quyền về tay nhân dân Hồng Gai , Sơn La , Châu Đốc , Biên Hoà ,Cần
Thơ . 27/8 nhân dân ta giành chính quyền ở Rạch Giá . 28/8 chính quyền về tay nhân dân
ở Đồng Nai Thượng và Hà Tiên
- Chiều 30/8 một cuộc mít tinh lớn đc tổ chức tại Ngọ Môn , Huế . Trước hàng vạn
quầnchúng vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị , nộp ấn kiếm cho chính phủ lâm thời . Chỉ
trong vòng hai tuần lễ cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nc đã hoàn toàn
thắng lợi . Chế độ thuộc địa và nền quân chủ đã cáo chung
- Chiều 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình , HN trước hàng chục vạn người dân vừa đcgiải
thoát kiếp lệ , chủ tịch HCM thay mặt chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên
ngôn độc lập , khai sinh nền cộng hoà dân chủ VN
lOMoARcPSD| 61622985
- Người tuyên b: “Tất cdt trên TG đều sinh ra bình đẳng , dân tộc nào cũng quyềnsống
, quyền sung ớng quyền tự do ..Nước VN quyền hưởng tự do độc lập sự
thật đã thành một nc tự do độc lập .Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng , tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do , độc lập ấy”
- Ngày 2/9/1945 trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử hàng nghìn năm của dt VN
- CMT8 một sự kiện đại trong lịch sử dt VN . Với sự thắng lợi của CMT8 , xiền xíchnô
lệ mà TDPhap phát xít Nhật trói buộc nhân dân ta trong suốt 80 năm đã bị đập tan ,
chế độ quân chủ chuyên chế ngự trị tồn tại nghìn năm đã bị lật nhào . Nc ta từ một
nước thuộc địa đã trở thành một quốc gia độc lập với chính thể dân chủ cộng hoà , dân ta
từ thân phận nô lệ đã vươn dậy , trở thành người tự do , người chủ đất nước mình
- Với thắng lợi của cuộc CMT8 , lịch sử dt VN ta khởi đầu một bước nhảy vọt quan trọng,
khởi đầu một kỷ nguyên mới giải phóng dân tộc , giải phóng xã hội giải phóng con
người , kỷ nguyên độc lập , tự do
- Với CMT8, một Đảng cộng sản mới 15 tuổi đã trở thành một đảng cầm quyền . Vớithắng
lợi của cuộc CMT8 lần đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin đã đc vận dụng sáng tạo chiến
thắng ở một nước thuộc địa
- Trên bình diện quốc tế CMT8 đã bẻ gãy một mắt xich trong hệ thống xiềng xích thuộcđịa
của chủ nghĩa thực dân đế quốc tạo ra một đột phá khẩu để qua đó các dân tộc bị áp bức
vùng dậy đập nát xiềng xích trói buộc , giải thoát mình khỏi kiếp nô lệ.
4. Tình hình VN sau CMT8 năm 1945 đến toàn quốc kháng chiến bùng nổ
19/12/1946
* Tình hình và nhiệm vụ cách mạng sau tháng Tám năm 1945
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra một thời kỳ phát triển lịch sử mới cho nhân
dân Việt Nam. Trong dòng thác chung của tiến trình phát triển cách mạng thế giới lúc ấy,
cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đứng trước bối cảnh đặc biệt
* Tình hình quốc tế
- Sau Cách mạng tháng Mười Nga, nhà nước hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới
rađời. Từ thành trì cách mạng của thế giới đó, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt
nước được Hồng quân Liên giải phóng khỏi ách phát xít, đã đứng vào hàng ngũ các
nước hội chủ nghĩa. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu trở thành
trụ cột cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấpbảo vệ hòa bình của
nhân dân thế giới.
lOMoARcPSD| 61622985
- Cách mạng giải phóng dân tộc của các nước trên thế giới làm lung lay hệthống chủ
nghĩa thực dân cũ.
- Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của công nhân, nhân dân lao động, của
cácĐảng Cộng sản nhiều nước bản, tác động mạnh đến chính sách đối nội, đối
ngoại của các thế lực đang cầm quyền trong hệ thống tư bản chủ nghĩa.
- Hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa thay đổi vị trí: các nước phát xít bị bại
trận,các đế quốc đại diện cho chủ nghĩa thực dân kiểu cũ như Anh, Pháp suy yếu ; Mỹ trở
thành đế quốc lớn nhất, có sức chi phối hệ thống đế quốc và đang trở thành sen đầm quốc
tế.
- Cuộc đấu tranh giữa cách mạng phản cách mạng, giữa phong trào giải phóng dân
tộcchống ách thực dân, giữa thế lực đế quốc mới nội dung chính của tiến trình lịch
sử thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tình hình đó tác động sâu sắc đến lịch
sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
* Tình hình trong nước
- Sau cách mạng tháng 8 cùng với diễn biến của tình hình thế giới đã mang lại cho Việt
Nam không ít thuận lợi trong việc quản xây dựng đất nước. Tuy nhiên, dân tộc Việt
Nam lại không thể tránh khỏi được nhiều khó khăn khi “thù trong, giặc ngoài” những tàn
sau chiến tranh đang ngày càng tàn phá mạnh mẽ. thể nói, tình thế Việt Nam lúc bấy
giờ là “ngàn cân treo sợi tóc”.
Một số thuận lợi của Việt Nam sau cách mạng tháng 8
Năm 1945, phong trào đấu tranh của Việt Nam giành được nhiều thắng lợi, cùng
vớiđó, tình hình thế giới cũng có nhiều chuyển biến tốt đẹp với sự phát triển mạnh mẽ của
phong trào cách mạng thế giới hệ thống Xã hội chủ nghĩa, góp phần tạo nên chỗ dựa
vững chắc cho cách mạng Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam từ thân phận lệ bây giờ đã chính thức đứng lên làm chủ
vậnmệnh của mình, làm chủ vận mệnh đất nước. Điều này khiến nhân dân càng thêm phấn
khởi, tin tưởng và ủng hộ vào chế độ mới. Như vậy, có thể thấy, chính quyền mới rất được
sự tin tưởng của nhân dân.
Sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản. tình hình
chínhtrị của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chuyển vào trạng thái hoạt động mật,
điều này đã làm cho việc chỉ đạo phối hợp, quản lý, điều hành công việc rất khó
khăn. Hiện nay, khi đất nước được giải phóng, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ
Chí Minh cùng Đảng Cộng sản Việt Nam hứa hẹn mang lại nhiều thành tựu to lớn cho dân
tộc sau này.
lOMoARcPSD| 61622985
Khó khăn của nước ta sau cách mạng tháng 8
Sự bao vây của các thế lực quân đội nước ngoài:
+ Từ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc lấy danh nghĩa giải
giáp quân Nhật nhưng âm mưu chính lật đổ chính quyền cách mạng. Mang theo bọn
phản động Việt Nam Quốc Dân đảng và Việt Nam Cách Mạng đảng tìm mọi cách chống
phá chính quyền cách mạng.
+ Từ tuyến 16 trở vào Nam: Quân Anh với danh nghĩa là giải giáp quân Nhật, nhưng âm
mưu lại là giúp đỡ Pháp quay trở lại xâm lược, tạo điều kiện cho quân Pháp quay lại xâm
lược miền Nam.
- Ngoài ra, trên cả nước ta có 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp. Một bộ phận quân Nhật đã
tình gây ra nhiều tội ác cho nhân dân ta.
Các thế lực thù địch trong nước thì luôn m mọi cách để chống phá chính quyền
cáchmạng.
Nền kinh tế nông nghiệp nước ta vốn lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề;
hậuquả của nạn đói cuối năm 1944 – đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Tiếp đến là nạn
lũ lụt lớn, làm vỡ đê ở chín tỉnh Bắc Bộ, rồi hạn hán kéo dài, khiến cho nửa tổng số ruộng
đất không canh tác được.
Ngân sách Nhà ớc trống rỗng. Chính quyền cách mạng chưa quản được
Ngânhàng Đông Dương. Trong lúc đó, quân Trung Hoa Dân quốc lại tung ra thị trường
các loại tiền Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính ớc ta thêm rối loạn. Các cơ
sở công nghiệp của ta chưa kịp phục hồi sản xuất. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt,
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Tàn văn hóa lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nề,
hơn90% dân số không biết chữ.
Trong khi đó, chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố, lực
lượngvũ trang còn non yếu, chưa có kinh nghiệm quản lý Nhà nước.
- Trong các khó khăn nước ta gặp phải lúc bấy giờ thì kkhăn nào lớn nhất
vànguy hiểm nhất?
- thể thấy, khó khăn lớn nhất nguy hiểm nhất của Việt Nam chính giặc
ngoạixâm. Bởi:
Nếu không giải quyết được khó khăn liên quan đến giặc ngoại xâm thì nền độc lập
củadân tộc lại một lần nữa bị ảnh ởng, đe dọa nghiêm trọng tới thành quả của cuộc
cách mạng tháng 8 mà toàn thể dân tộc Việt Nam đã phải nỗ lực để giành lấy.
lOMoARcPSD| 61622985
Chỉ khi Việt Nam giữ được độc lập dân tộc thì các khó khăn trong nước mới có thể
giảiquyết được ổn thỏa.
* Toàn quốc kháng chiến 1946
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành ng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời(nay là nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam) đã tác động, cổ mạnh mẽ phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các thuộc địa, làm cho các thế lực đế quốc bọn
phản động quốc tế hết sức lo sợ. Mỹ công khai ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay lại xâm lược
Việt Nam Đông Dương. Đế quốc Anh xuất phát từ quyền lợi thực dân theo quỹ đạo
của Mỹ cũng ra sức ủng hộ ý đồ của thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương.
- Từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946, cục diện chính trị quốc tế và tình hình Đông
Dương có những diễn biến phức tạp. Sự góp mặt của gần 300.000 quân Anh - Pháp Tưởng
- Nhật hung hăng châm ngòi lửa chiến tranh, cùng với “giặc đói” và “giặc “dốt” đẩy nước
ta vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên sức mạnh
toàn dân, kiên quyết chống xâm lăng, giữ vững chính quyền, chủ động chuẩn bị bước vào
cuộc kháng chiến lâu dài trong cả nước.
- Được đế quốc Anh, Mỹ tiếp sức, từ khi đưa quân ra miền Bắc theo Hiệp định Sơ bộ,thực
dân Pháp bội ước, gạt bỏ mọi khả năng thương lượng, ráo riết thực hiện âm mưu mở rộng
chiến tranh. Chúng biến đội quân “tiếp phòng” thành đội quân chiếm đóng áp dụng
hình thức “đánh lấn”. Sau khi chiếm Tây Nguyên, một phần Đông Bắc, Tây Bắc, Pháp
ngang nhiên tấn công Hải Phòng, Lạng Sơn. Chúng khẩn trương chuẩn bị gây chiến
Nội với mục đích nắm quyền quản lý Thđô Việt Nam nhằm “vô hiệu hóa tức thì
Chính phủ Hồ Chí Minh”.
- miền Bắc, Đảng ta từ hoạt động mật trở thành đảng cầm quyền, chính quyền
mớiđược thành lập. Trong những điều kiện mới, Đảng ra sức xây dựng lực lượng, phát
triển tổ chức, xác lập quyền lãnh đạo trên mọi nh vực, tchức động viên toàn dân kháng
chiến ở miền Nam và đấu tranh chính trị ở miền Bắc.
- Nhiệm vụ xây dựng chính quyền sớm được Đảng xác định về nguyên tắc biện pháptiến
hành, đồng thời chủ động chống giặc ngoại xâm. Đảng chăm lo xây dựng, củng cố chính
quyền nhân dân các cấp, chăm lo đời sống vật chất của nhân dân, bảo đảm chính quyền
thực sự là của dân, do dân, vì dân
-- Chính quyền tập trung giải quyết các vấn đề dân sinh, dân chủ, đẩy lùi nạn đói, xóa nạn
chữ, khôi phục sản xuất, gắn mật thiết với nhân dân. Hưởng ứng lời kêu gọi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào toàn dân tham gia bình dân học vụ phát triển sâu rộng.
Chỉ sau một năm đã có thêm 2 triệu người biết chữ.
lOMoARcPSD| 61622985
Cuối tháng 11-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, chỉ các nhiệm
vụ phương pháp thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị nhấn mạnh: “Cuộc
cách mạng Đông Dương lúc này vẫn cuộc cách mạng dân tộc giải phóng” và tiếp tục đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết.
Tổ quốc trên hết”. Hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc có quan hệ khăng khít.
Về quân sự, động viên toàn dân kháng chiến; tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu
dài; kết hợp chiến thuật chiến tranh du kích sự bất hợp tác với địch; giữ vững liên lạc,
thống nhất chỉ huy, tăng cường sự nh đạo của Trung ương đối với cuộc kháng chiến
Nam Bộ và Trung Nam Bộ…
Về chính trị, tăng cường xây dựng khối đoàn kết toàn dân; nhanh chóng tổ chức tổng
tuyển cử bầu Quốc hội, xây dựng Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức, ban hành những
sắc lệnh mang lại quyền tự do, dân chủ cho nhân dân; xây dựng củng cố chính quyền
nhân dân ở các địa phương…
Về kinh tế - tài chính, huy động các nguồn lực nhanh chóng khôi phục sản xuất công
nghiệp sản xuất nông nghiệp, khuyến khích phát triển thương nghiệp; xây dựng hệ thống
ngân hàng, thuế, ngân quỹ, phát hành giấy bạc…
Về văn hóa - hội, bài trừ nạn chữ, cải cách hệ thống giáo dục xây dựng nền
giáo dục mới, xây dựng nền văn hóa mới theo nguyên tắc: Dân tộc - khoa học - đại chúng…
Về ngoại giao, thực hiện nguyên tắc bình đẳng tương trợ” nhằm thêm bạn bớt thù,
chú ý biểu dương thực lực để chứng tỏ sức mạnh và ý chí dân tộc. Với chính quyền Trung
Hoa Dân quốc, trước mắt tỏ ra thân thiện; đối với Pháp, thực hiện độc lập về chính trị, nhân
nhượng về kinh tế…
Về Đảng, củng cố và phát triển hệ thống tổ chức đảng, duy trì hệ thống tổ chức bí mật
nửa công khai của Đảng, phát triển đảng viên và tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan, xí
nghiệp, trong quân đội; giữ vững sinh hoạt đảng…
Về Mặt trận Việt Minh, phát triển các tổ chức cứu quốc, không ngừng mở rộng thành
viên Mặt trận nhằm đoàn kết rộng rãi hơn nữa các lực lượng yêu nước và tiến bộ
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc thể hiện rõ sự vững vàng, nhạy bén của Đảng về chính trị
khả năng nh đạo cách mạng. Trên sở những chủ trương, biện pháp được hoạch
định, Đảng Cộng sản Đông Dương, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẩn trương triển
khai hàng loạt các nhiệm vụ cấp bách, mà trước hết chống “giặc đói” hồi phục sức lực đã
kiệt quệ của hàng triệu nông dân sau nạn đói năm 1945 diệt trừ giặc dốt”, xem đó
hai trong sáu nhiệm vụ cấp bách nhất của chính quyền dân chủ nhân dân.
lOMoARcPSD| 61622985
Cùng với nhiệm vụ cứu đói, khôi phục sản xuất, phát triển văn hóa, Đảng, Chính phủ và
Chủ tịch Hồ Chí Minh tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, làm thất bại âm
mưu ly gián Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch. Đảng nắm quyền lãnh đạo chặt
chẽ lực lượng trang, thực hiện thống nhất chỉ huy bộ đội, tổ chức đấu tranh hiệu quả
chống bọn phản cách mạng.
Cuộc Tổng tuyển cử (ngày 6-1-1946) được tiến hành khẩn trương trên cả nước, ngay trong
khói lửa chiến tranh, xác lập quyền làm chủ đất nước của toàn dân, biểu thị sự tín nhiệm
tuyệt đối Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên
nước ta còn là cuộc động viên chính trị rộng lớn và sâu sắc, biểu thị sức mạnh đoàn kết và
quyết tâm làm chủ của nhân dân ta, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh chính trị và ngoại
giao của Chính phủ ta, tăng thêm uy tín quốc tế của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn chính sách đối ngoại mềm dẻo, khôn khéo, lợi
dụng mâu thuẫn, phân hóa hàng ngũ kẻ thù. Để tránh rơi vào thế đối lập với kẻ thù “khoác
áo” Đồng minh, Đảng chủ trương Hoa - Việt thân thiện, hòa hoãn với chính quyền Tưởng
Giới Thạch, tập trung mũi đấu tranh chống thực dân Pháp đang tái xâm lược Nam Bộ, đồng
thời vừa nhân nhượng, vừa đấu tranh ngăn chặn dập tắt những mưu đồ phản loạn của
các tổ chức phản động làm tay sai cho chính quyền Tưởng Giới Thạch.
Sau Hiệp ước Hoa - Pháp (ngày 28-2-1946), ta chủ trương hòa với Pháp để đẩy nhanh
quân đội của chính quyền Tưởng về nước. Kế thừa truyền thống yêu chuộng hòa bình,
tránh cho hai dân tộc Việt - Pháp đổ máu ích, Trung ương Đảng Chủ tịch Hồ Chí
Minh quyết định với Chính phủ Pháp Hiệp định bộ (ngày 6-3-1946) với sự nhân
nhượng tối đa mcuộc đàm phán với Chính phủ Pháp. Tuy nhiên Chính phủ Pháp đã
xóa bỏ mọi cam kết và tiếp tục đẩy cuộc chiến tranh xâm lược của họ lên quy mô lớn hơn
nhằm tái chiếm Đông Dương. Thiện chí hòa bình của dân tộc Việt Nam, của Trung ương
và Chính phủ Hồ Chí Minh tiếp tục bị thách thức khi thực dân Pháp phớt lờ Tạm ước Việt
- Pháp đã được ký ngày 14-9-1946 giữa hai chính phủ.
Ngay trong đêm 19-12-1946, Chủ tịch HChí Minh gửi tới đồng bào cả ớc Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định ý chí kiên quyết chống xâm lăng, giành và giữ hòa
bình của dân tộc Việt Nam. Toàn dân siết chặt đội ngũ, kiên quyết bảo vệ chính quyền của
nhân dân.
+ Một , Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khái quát đường lối kháng chiến toàn dân,
toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính
+ Hai là, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - kết tinh truyền thống đại đoàn kết toàn dân
tộc.
lOMoARcPSD| 61622985
+ Ba là, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam
Như vậy, Ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946 đã thể hiện sự lãnh đạo tài nh, sáng
suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản Việt Nam, bám sát tình hình thực tiễn,
nắm vững thời cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính toán chính xác thời điểm nổ súng, biến
bị động thành chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân
quân địch hai tháng, để cả ớc chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát
động toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 tại Thủ đô thể hiện một nghệ thuật khởi đầu
cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn, quả cảm sáng tạo. Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến khẳng định truyền thống yêu nước, yêu hòa bình, quyết tâm chống ngoại xâm,
bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc Việt Nam góp thêm sức mạnh để một lần nữa dân
tộc Việt Nam chiến thắng giặc ngoại xâm.
5. 1. Chiến dịch Việt Bắc
Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947 (từ 7/10 đến 22/12/1947) một chiến dịch quân sự
do quân đội Pháp thực hiện tại Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương, nhằm phá tan cơ
quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chlực của Việt Minh.Nhưng dưới sự chỉ đạo
của Đảng, với ý chí tinh thần quả cảm, quân dân ta đã làm thất bại cuộc tiến công
của quân Pháp, góp phần đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích trên toàn chiến trường
Việt Bắc.
Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Bộ đội ta ng kích đồng loạt vào
các vị trí quân Pháp, sau đó nhanh chóng chuyển sang bao vây, ghìm giữ quân địch
Nội và các thành phố, thị xã trên địa bàn cả nước.
Bị sa lầy tại các thành phố, thị xã, thực dân Pháp xúc tiến việc chuẩn bị một cuộc tiến công
lớn lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt lực lượng chủ lực quan đầu não kháng chiến của ta
bằng chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh". Với trên trên 12.000 quân tinh nhuệ được
trang bị khí, phương tiện hiện đại, quân Pháp hình thành hai gọng kìm” lớn theo đường
số 4, số 3 và phối hợp với cánh quân tiến theo sông Lô, sông Gâm nhằm bao vây chặt căn
cứ Việt Bắc; đồng thời, cho quân nhảy dù xuống trung tâm chiến khu, tiến hành càn quét,
tìm diệt chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta.
Ngày 7/10/1947, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn mở đầu cuộc tiến công Việt Bắc. Chỉ
một ngày sau, ngày 8/10, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi toàn thể đồng bào đoàn
kết kháng chiến, ra sức giết giặc. Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra
chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp".
Nghiên cứu thế lực của ta và địch trên chiến trường, Bộ tổng chỉ huy quyết định tập trung
lực lượng đánh địch trên 3 mặt trận: “Đánh mạnh mặt trận Sông Lô; đường số 4 và đường
số 3 nhằm phá vận tải tiếp tế địch, phục kích các đường rừng, đánh đường sông; tại những
lOMoARcPSD| 61622985
căn cứ của địch luôn quấy rối, với những vtrí nhỏ thì bao vây tiêu diệt để phối hợp với
Việt Bắc”.
Quân đội ta sử dụng các trung đoàn 147, 165 (chủ lực Bộ); 72, 74, 121 (Khu 1); 11, 36; 59;
98 (Khu 12); 1 tiếu đoàn pháo binh và Trung đoàn Sông Lô (Khu 10); 5 tiểu đoàn độc lập
của Bộ, Khu 1 và Khu 12, các đơn vị binh chủng và du kích trên địa bàn chiến dịch. Chiến
khu do Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp chỉ huy, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng.
Chiến dịch tấn công của quân Pháp bắt đầu tchiến dịch phản công của quân đội ta tại
Việt Bắc cũng bắt đầu.
mặt trận Sông - Chiêm Hóa, địch vừa đổ bộ lên bến Bình Ca tbị quân đội ta bắn
chìm một pháo thuyền địch, tiếp đó diệt hơn một tiểu đội giặc lập chiến công đầu tiên trên
sông Lô. Những trận đánh địa lôi, phục kích, bắn tỉa của quân đội ta làm cho quân đội Pháp
không thể tiến theo các đường thủy, đường bộ, buộc chúng phải tiếp viện quân nhảy
xuống Chiêm Hóa. Đoàn pháo binh cùng các binh đoàn chủ lực bắn chìm một số tàu chiến
ca của quân Pháp tại Đoan Hùng, Khoan Bộ, Khe Lau. Đường tiếp viện của quân
Pháp từ Hà Nội lên bị cắt đứt.
Ở mặt trận đường số 4, các đại đội độc lập và quân dân du kích Cao Bằng, Lạng Sơn phục
kích, bắn tỉa trên đường địch hành quân, tiến công tiêu diệt địch tại Đông Khê, Thất Khê.
Tiểu đoàn tập trung Lạng Sơn lợi dụng địa hình đánh trận phục kích xuất sắc, diệt 33 xe
giới, gần 300 tên địch tại Bông Lau, thu toàn bộ khí. Đường số 4 thành “con đường
máu” của thực dân Pháp.
Ở mặt trận đường số 3, tự vệ quân giới phối hợp với dân quân dân tộc ít người đánh quân
Pháp đi lẻ. Các tiểu đoàn tập trung thuộc Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy Chiến khu 1, tập
kích, đánh địa lôi hàng trăm lính Pháp bị tiêu diệt trong công sự, cắt đứt đường tiếp viện
của quân Pháp từ Cao Bằng xuống Bắc Kạn.
Ngày 22/12/1947, cuộc chiến đấu chống địch tấn công Việt Bắc kết thúc thắng lợi. Việt
Bắc đã trở thành "mồ chôn quân Pháp" với hơn 6.000 tên địch bị loại, bắn rơi 16 máy bay,
bắn chìm 11 ca nô và tàu chiến và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh khác.
Chiến dịch Việt BắcThu - Đông 1947 diễn ra giành thắng lợi trong thời gian tương đối
ngắn trong cuộc kháng chiến trường kỳ, đã khẳng định đường lối chiến tranh nhân dân
đúng đắn, cùng nghệ thuật quân sự đặc sắc của Đảng ta, trong đó nổi bật là nghệ thuật xây
dựng, tạo lập thế trận toàn dân đánh giặc rộng khắp, vững chắc ngay từ đầu suốt quá
trình chiến tranh.Đây cũng một bài học thắng lợi được vận dụng trong suốt hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho đấtớc.
2. Chiến dịch Biên Giới Thu Đông
lOMoARcPSD| 61622985
Năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta diễn ra trong
bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước nhiều biến đổi lớn. Để đẩy mạnh kháng
chiến tiến lên một bước mới, tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở
chiến dịch lớn đánh địch trên tuyến biên giới Việt – Trung.
Ngày 7/7/1950, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở chiến dịch giải phóng vùng biên giới
Đông Bắc tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn, lấy mật danh là Chiến dịch Lê Hồng phong
II, tiến công phòng tuyến của địch trên đường số 4, tập trung vào khu vực Cao Bằng Thất
Khê. Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy mặt trận
Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch.
Đây là lần đầu tiên sau bốn năm kháng chiến ta mở một chiến dịch tiến công lớn, đánh vào
tuyến phòng thủ mạnh của địch, nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược quan trọng.
“Chiến dịch Biên Giới Thu Đông (1950) đã chuyển cuộc kháng chiến của ta từ hình thái
chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến
tranh du kích ở trình độ cao hơn, gây nên thất bại chưa từng có trong chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp thời điểm lúc bấy giờ” - Đại tướng Ngô Xuân Lịch khẳng định.
Theo Đại Nguyễn Huy Toàn, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Việt Nam, thời điểm này,
được Mỹ giúp sức, thực dân Pháp ráo riết thực hiện Kế hoạch -ve, tập trung lực lượng
mở rộng chiếm đóng vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ; ra sức phong tỏa biên giới nhằm
ngăn chặn sự chi viện của cách mạng Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam; bao vây,
lập căn cứ địa Việt Bắc. Với quyết tâm giành thắng lợi cho chiến dịch lớn ý nghĩa chiến
lược quan trọng này, Thường vụ Trung ương Đảng Chủ tịch HChí Minh đã trực tiếp
nghiên cứu tình hình, phê chuẩn kế hoạch tác chiến. Liên khu Việt Bắc địa phương chính
động viên sức người, sức của phục vụ chiến dịch.
Quân ta tham gia chiến dịch với lực lượng chủ lực của Liên Khu Việt Bắc cùng bộ đội địa
phương, dân quân du kích của hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Chiến dịch được phân chia
làm ba mặt trận: mặt trận Đông Khê đánh cụm cứ điểm Đông Khê; mặt trận đánh quân ứng
chiếm đoạn đường giữa Đông Khê - Thất Khê; mặt trận Na Sầm - Lạng Sơn nhiệm
vụ phá đường, tiêu hao, phục kích địch trên đoạn đường Thất Khê - Lạng Sơn.
Sáng sớm 16/9/1950, quân ta bắt đầu nổ súng đánh cụm cứ điểm Đông Khê mở màn chiến
dịch. Mặc địch chống trả hết sức quyết liệt song với tinh thần dũng cảm, mưu trí, bộ đội
ta đã tổ chức nhiều đợt xung phong tiêu diệt gọn từng cụm cứ điểm của địch. Sau 54 giờ
chiến đấu, sáng ngày 18/9, bộ đội ta chiếm toàn bộ cụm cứ điểm Đông Khê. Chiến thắng
oanh liệt của trận mmàn đã cổ khí thế giết giặc lập công trên khắp các mặt trận, tạo
thế thuận lợi cho những bước tiếp theo của chiến dịch.
lOMoARcPSD| 61622985
Đại tá, Anh hùng Lực ợng trang nhân dân La n Cầu, nguyên Tiểu đoàn trưởng,
chiến Trung đoàn 704, đoàn 316 nhớ lại: “Lúc ấy tôi anh em trong trung đội
nhiệm vụ phá hàng rào, cốt để mở đường cho trung đội xung kích, tiến n chiếm trận
địa. Tôi ôm quả bộc phá cốt nên bị thương tay phải. Chúng tôi đã viết quyết tâm thư
sẵn sàng hy sinh nên khi ấy tôi nhờ đồng đội chặt giúp cánh tay để tiếp tục chiến đấu”.
Để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến dịch, quân ta đã huy động lực lượng lớn binh lực tập trung
tại biên giới, kiên quyết đánh đòn then chốt giành toàn thắng. Cụ thể, quân ta mở một chiến
dịch quy lớn với lực lượng gần ba vạn cán bộ, chiến sĩ, huy động hàng vạn dân công,
tiến công vào một hệ thống phòng ngự mạnh của địch trên tuyến dài hàng trăm km, đánh
liên tục cả tháng” - GS.TS khoa học Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào
tạo, Đại học quốc gia Hà Nội cho biết.
Với phương châm tác chiến “đánh điểm, diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự
chính”, Chiến dịch Biên giới đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông
biên giới, mở rộng củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Sau 29 ngày đêm chiến đấu quyết liệt
(16/9 đến 14/10/1950), chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 đã giành thắng lợi vang dội.
PGS.TS Vũ Đình Lễ, Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử Việt Nam cận hiện đại (Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn) cho rằng chiến thắng Biên giới (Thu - Đông 1950) đánh dấu một
bước tiến nhảy vọt của Quân đội ta về nghệ thuật tác chiến. Chiến dịch đã thay đổi cục
diện chiến tranh, mở ra bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiên chống thực dân Pháp xâm
lược. Được giao “trọng trách đặc biệt” với quyền hạn lãnh đạo, chỉ huy lớn, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã có những quyết đoán mang tính độc lập, sắc bén, thể hiện tài thao lược và
phong cách cầm quân đặc trưng.
Chiến thắng Biên Giới Thu Đông 1950 đã khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, tinh
thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường khát vọng vươn lên của cả dân tộc. Hơn 70 năm đã
qua, song những bài học kinh nghiệm quý u vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục được
phát huy trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc hiện nay” - Thiếu tướng, Tiến sỹ
Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Viện lịch sử quân sự Việt Nam khẳng định.
Với thắng lợi của Chiến dịch Biên giới Thu Đông, quân và dân ta càng thêm tin tưởng vào
sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau Chiến thắng Biên giới, quân
dân ta tiếp tục phát huy thế tiến công chiến lược trong những năm 1951 1953; tiến tới
giành thắng lợi liên tiếp trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 1954, đỉnh
cao Chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải Hiệp định G-ne-vơ lập
lại hòa bình ở Đông Dương./.
3. Chiến dịch ĐBP
lOMoARcPSD| 61622985
Cách đây 68 năm, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu" là một mốc son chói lọi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân, vì độc lập tự do trong thế kỷ 20. Chiến thắng vang dội đó đã để lại nhiều bài học
sâu sắc, hiện vẫn còn nguyên giá trị to lớn đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ phát triển và hội nhập.
Trong những năm từ 1947 đến 1953, quân dân ta liên tiếp giành nhiều thắng lợi quan
trọng trong các chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông (năm 1947), chiến dịch Biên giới (năm
1950)... làm cho cục diện chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương ngày càng chuyển biến
lợi cho ta, tạo ra thế bất lợi đối với thực dân Pháp.
Để cứu vãn tình thế, thực dân Pháp tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ
điểm mạnh nhằm thu hút, làm tiêu hao quân chủ lực của ta, đồng thời khống chế toàn bộ
vùng Tây Bắc nước ta và Thượng Lào. Thực dân Pháp bố trí lực lượng Điện Biên Phủ
lúc cao nhất lên đến 16.200 quân và nhiều vũ khí, phương tiện hiện đại tại 49 cứ điểm, với
3 phân khu. Xác định cứ điểm Điện Biên Phủ là một pháo đài "bất khả xâm phạm".
Trước tình hình đó, tháng 9/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta họp, phân tích cục diện
chiến trường quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 hình
thành 5 đòn tấn công nhằm tiêu diệt sinh lực cũng như buộc địch phải phân tán lực lượng.
Trong đó, mặt trận Tây Nguyên đã phối hợp rất đắc lực với chiến trường chính Điện Biên
Phủ. Tướng Nguyễn Chánh (người Quảng Ngãi) đã chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên giải
phóng Kon Tum, đánh thắng trận An Khê, đập tan cuộc hành quân Atlante (Ác- lăng) của
tướng chỉ huy quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Tây Nguyên lệnh chiến
dịch Atlante là De Beaufort.
Đến ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm Bí thư Đảng ủy kiêm Tư lệnh Bộ chỉ huy Chiến dịch.
Lúc bấy giờ, cán bộ, chiến đều hăng hái triển khai kế hoạch “đánh nhanh, giải quyết
nhanh”. Tuy nhiên, trước tình hình địch tăng cường lực lượng, phương tiện thay đổi trận
địa cũng như hệ thống phòng ngự…
Sau khi nhận được ý kiến của đại Phạm Kiệt (một người con của quê hương Quảng Ngãi)
đề nghị xem xét lại cách đánh; đồng thời cùng với những tin tức trinh sát từ các mặt trận
gửi về, tại cuộc họp khẩn của Đảng ủy Mặt trận, Đại tướng Nguyên Giáp quyết định
chuyển phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang phương châm tác
chiến và kế hoạch mới "đánh chắc, tiến chắc".
Điện Biên Phđịa hình rừng núi hiểm trở, việc di chuyển khó khăn do nhiều đèo cao,
vực sâu. Để bảo đảm các điều kiện cho Chiến dịch thắng lợi trọn vẹn, Trung ương
lOMoARcPSD| 61622985
Đảng và Bác Hồ đã tập trung lãnh đạo, đẩy mạnh cuộc vận động nhân dân các địa phương,
phát huy được sức mạnh của cả hậu phương và tiền tuyến nhằm cung cấp đầy đủ các điều
kiện về hậu cần, kỹ thuật, phương tiện cho bộ đội tham gia trận quyết chiến lịch sử này.
Nghị quyết của Bộ Chính trị và Lời u gọi của Chủ tịch HChí Minh đã được quân dân
cả nước tích cực hưởng ứng sôi nổi, đồng lòng, dốc sức cho Chiến dịch. Bên cạnh 55.000
quân chủ lực, hơn 10 vạn người gồm: lực lượng dân công, thanh niên xung phong, c
lực lượng khác đã tham gia Chiến dịch, trên tinh thần tất cả tập trung cho Chiến dịch Điện
Biên Phủ.
Theo các tài liệu, sách báo... ghi lại, trong 210 ngày, từ tháng 11/1953 đến tháng 5/1954,
hơn 261 nghìn dân công hỏa tuyến, trong đó 18.200 cán bộ, đội viên, thanh niên xung
phong trực tiếp tham gia, làm mới 89km đường sửa chữa hơn 500km đường giao
thông...
Đặc biệt, sự sáng tạo độc đáo, biểu hiện trí thông minh của nhân dân ta, làm cho thực dân
Pháp hết sức bất ngờ và thán phục. Đó việc sử dụng các phương tiện thô xe đạp
thồ phương tiện chính. Quân dân các địa phương đã huy động 22.000 lượt xe đạp thồ,
11.800 thuyền bè, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ, xe trâu, một đội ô tô
628 chiếc... đã vận chuyển 30.759 tấn lương thực, thực phẩm, khí, quân dụng... phục vụ
Chiến dịch.
Trải qua 56 ngày đêm "khoét núi, ngủ hầm...", thông qua phương châm tác chiến phù hợp,
đầy thông minh, sáng tạo, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo, sự tập trung lãnh đạo, chỉ
huy của Đảng ủy, Bộ chỉ huy Chiến dịch, bằng quyết tâm cao độ; với 3 đợt tấn công bất
ngờ, sấm sét; thực hiện phương châm tác chiến “đánh chắc, tiến chắccác lực lượng của
quân đội ta đã đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, một pháo đài thực dân Pháp
khẳng định “không thể công phá” "bất khả xâm phạm". Kết quả, bắt sống tướng De
Castries (Đờ-cát-xtơ-ri), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 16 nghìn tên địch, tịch thu toàn bộ
vũ khí, quân trang, quân dụng, phương tiện của địch và giành thắng lợi vang dội.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" đã kết thúc 9
năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta, buộc thực dân Pháp
phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Trước tiên, phải khẳng định sự lãnh đạo tài tình, đầy sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã quy tụ, tập hợp, khơi dậy, phát huy cao độ lòng u nước, thương nòi của
nhân dân ta, dân tộc ta; làm cho nhân dân ta thấy rõ lợi ích sống còn của dân tộc mà đoàn
kết chiến đấu chống thực dân xâm lược, giành độc lập tự do, đã tạo nên sức mạnh vô địch
của cuộc chiến tranh nhân dân và chính nghĩa trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
lOMoARcPSD| 61622985
Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại là trận quyết chiến chiến lược đập tan tập đoàn cứ điểm
mạnh nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương, đưa đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
trường kỳ, anh dũng của nhân dân ta, chấm dứt ách xâmợc của thực dân Pháp gần 100
năm trên đất nước ta, giải phóng miền Bắc, đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa hội, làm
sở vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đồng thời, còn là bài học về tinh thần đoàn kết, sự kết tinh trí tuệ, bản lĩnh kiên cường
truyền thống yêu nước, bất khuất của toàn thể dân tộc Việt Nam, bài học về nghệ thuật
quân sự; bài học về phát huy, hiệu triệu sức mạnh của toàn dân tộc sự ủng hộ của nhân
dân tiến bộ trên thế giới, nhất 2 nước Lào và Campuchia; bài học về thế trận ng dân,
sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân để làm nên một trong những chiến thắng đại
nhất trong thế kỷ 20.
Tinh thần chiến thắng Điện Biên Phủ tiếp tục là động lực, nguồn cổ vũ to lớn đối với nhân
dân ta trên đường đổi mới, phát triển và hội nhập.
6. Hội nghị Geneve 1954 và Hiệp định Geneve.
Cuối năm 1953, sau n 8 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Đông ơng, những thất
bại nặng nề của quân đội Pháp trên chiến trường đã tác động mạnh tới nội nh phân hóa
nội bộ chính quyền Pháp. Trước áp lực của phái chủ hòa đòi sớm cuộc đàm phán về vấn
đề Đông Dương, Thủ ớng Lanien - phái chủ chiến buộc phải chấp nhận một giải pháp
ngoại giao bảo đảm danh dự cho nước Pháp rút khỏi cuộc chiến. Quan điểm thái độ của
các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Mỹ với Đông ơng lúc này cũng khác
nhau.
Trước tình hình đó, Đảng ta Chủ tịch Hồ CMinh chủ trương mở cuộc đấu tranh trên
mặt trận ngoại giao, phối hợp với cuộc tiến công chiến ợc Đông Xuân 1953 - 1954, đi
tới chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình Đông Dương, làm thất bại âm u của Pháp
và Mỹ.
Ngày 8/5/1954, một ngày sau thất bại Điện Biên Phủ, Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị
Genève cùng với sự tham dự của các nước Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Mỹ, Anh và ba đoàn đại diện của chính quyền bù nhìn Việt Nam, Lào, Campuchia.
Tại Hội nghị, đồng chí Phạm Văn Đồng - Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ ta trình bày lập
trường tám điểm:
1- Pháp phải công nhận chủ quyền, độc lập của Việt Nam trên khắp lãnh thổ Việt Nam
vàchủ quyền, độc lập của hai nước Lào, Campuchia.
2- một hiệp định về việc rút quân đội ngoại quốc ra khỏi ba nước Việt Nam, Lào
vàCampuchia.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61622985 MỤC LỤC
1. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên ........................................................... 1
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ............................................................................................ 1
3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ...................................................................................................... 1
4. Tình hình VN sau CMT8 năm 1945 đến toàn quốc kháng chiến bùng nổ 19/12/1946 ............................ 8
5. 1. Chiến dịch Việt Bắc ............................................................................................................................. 14
6. Hội nghị Geneve 1954 và Hiệp định Geneve .......................................................................................... 20
7. Hội nghị Paris và Hiệp định Paris 1973 ................................................................................................... 24
8. Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975 ...................................................................................... 27
9. Hoàn cảnh và nội dung Công cuộc đổi mới ở Việt Nam 1986 ................................................................ 32
10. Sự ra đời của nước Văn Lang và đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang- Âu Lạc ............ 34
11. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đối với lịch sử dân tộc Việt Nam .............................. 35
12. Nhà Lý và những đóng góp đối với lịch sử Việt Nam ............................................................................ 38
13. Nhà Trần và những đóng góp đối với lịch sử Việt Nam ........................................................................ 42
15. Chế độ quân chủ chuyên chế thịnh đạt thời Lê Sơ ............................................................................... 45
16.Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn và hệ quả đối với tình hình Đại Nam nửa cuối thế kỉ XIX ......... 47
17. Những biến chuyển của xã hội Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa là thứ nhất của
thực dân Pháp ............................................................................................................................................ 48 Lịch sử Việt Nam
1. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
4. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Toàn quốc kháng chiếnbùng nổ 19-12-1946
5. Các chiến dịch Việt Bắc 1947, Biên Gioi 1950, Điện Biên Phủ 1954
6. Hội Nghị Geneve 1954 và Hiệp định Geneve
7. Hội nghị Paris và Hiệp định Paris 1973
8. Cuộc tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975
9. Hoàn cảnh và nội dung Công cuộc đổi mới ở Việt Nam 1986 lOMoAR cPSD| 61622985
10. Sự ra đời của nước Văn Lang và đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn LangÂu Lạc
11. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đối với lịch sử dân tộc Việt
12. Nhà Lý và những đóng góp đối với lịch sử Việt Nam
13. Nhà Trần và những đóp góp đối với lịch sử Việt Nam
14. Những chính sách cải cách của Hồ Qúy Ly
15. Chế độ quân chủ chuyên chế thịnh đạt của thời Lê Sơ
16. Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn và hệ quả đối với tình hình Đại Nam nửa cuốithế kỉ XIX
17. Những biến chuyển của xã hội Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địalần
thứ nhất của thực dân Pháp
1. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên a, Sự thành lập
- Tháng 11/1924, khi về đến Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc mở lớp
huấnluyện đào tạo cán bộ. Phần lớn học sinh là thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam
yêu nước. Họ học làm cách mạng, học hoạt động bí mật. Phần lớn số học sinh đó sau khi
học xong bí mật về nước truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân, Một
số người được gửi sang học trường đại học Phương Đông hoặc trường quân sự Hoàng
Phố. Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã để tổ
chức thành nhóm Cộng sản đoàn (2/1925)
- Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên nhằmtổ
chức và lãnh đạo quần chúng đoàn kết lại, kịch liệt tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và tay sai để tự cứu mình. b, Hoạt động của Hội:
- Sau khi thành lập, Hội đã phái người về nước để tuyển người sang Trung Quốc dự các
lớp huấn luyện ở Quảng Châu hay để gửi sang Liên Xô học tại Trường Đại học Phương
Đông. Đồng thời, Hội tiến hành lập các chi bộ các cấp ở trong nước. Từ đầu năm 1925
đến tháng 9 năm 1927, Hội đã tổ chức được 10 khóa đào tạo cho các học viên được tuyển
mộ. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các học viên sau đó được tập hợp lại thành
tập sách Đường kách mệnh.
- Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, Hội xuất bản tuần báo tiếng Việt Thanh
niên từ tháng 6 năm 1925 phát hành trong số những người Việt Nam sống ở miền Nam lOMoAR cPSD| 61622985
Trung Quốc cũng như đưa về nước và đưa sang Xiêm. Báo này vừa tuyên truyền đường
lối cách mạng của Hội vừa phê phán những tồn tại ở các tổ chức cách mạng khác như
Việt Nam Quang Phục Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng.
- Hội cũng tuyển người đi học quân sự để sau này thành lập một lực lượng vũ trang cách
mạng ở Việt Nam. Lê Hồng Phong được gửi tới Leningrad học về không quân. Một số
khác được gửi tới Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 2 năm 1927, Hội lại ra tờ Lính
Cách mệnh để tuyên truyền giác ngộ binh lính Việt Nam.
- Năm 1927, các kì bộ lần lượt ra đời, sau đó là tỉnh bộ, thành bộ và cuối cùng là huyện
bộ. Năm 1929, cơ cấu tổ chức của Hội gồm 5 cấp được thiết lập và phát triển khắp đất
nước. Số lượng hội viên lên tới 1.700 người và có cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái
Lan). Hội đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin trong nhân
dân và trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân chống Pháp.
- Năm 1928, Hội chủ trương "vô sản hóa", tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao ý
thức chính trị cho giai cấp công nhân. Phong trào công nhân càng phát triển mạnh, trở
thành nòng cốt của phong trào dân tộc trong cả nước, nổ ra tại các trung tâm kinh tế, chính trị.
- Năm 1927, Tưởng Giới Thạch tổ chức bắt bớ những người Cộng sản Trung Quốc. Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũng bị đàn áp. Nguyễn Ái Quốc phải lánh sang Liên
Xô. Nhiều đảng viên ưu tú của Hội như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Duy Điếm, Trần
Văn Cung, Trương Vân Lĩnh, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Thanh Phúc v.v... bị bắt. Tổng bộ
Hội phải di tản sang Ung Châu, (Quảng Tây) rồi lại sang Hồng Kông.
- Ở trong nước, các chi bộ Hội phát triển mạnh. Theo tổng kết của mật thám Pháp, ở trong
nước Hội có khoảng 1000 đảng viên và cảm tình, có kỳ hội ở cả ba miền. Tuy nhiên các
chi bộ này cũng bị chính quyền thực dân lùng bắt ráo riết. Ở Nam Kỳ, tháng 12 năm
1928, Ngô Thiêm bị bắt và bị tử hình. Tôn Đức Thắng bị kết án chung thân. Phạm Văn
Đồng bị đày đi Côn Đảo. Ở Bắc Kỳ, Nguyễn Văn Lân bị bắt và bị tử hình.
* Ý nghĩa của việc thành lập Hội: - Thông qua hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, chủ nghĩa Mác-Lênin lần lượt được truyền bá vào trong nước, có tác dụng thúc
đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Việc thành lập Hội
là sự chuẩn bị về tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Hoàn cảnh lịch sử: lOMoAR cPSD| 61622985 -
Cuối năm 1929, ở Việt Nam bấy giờ tồn tại ba tổ chức Cộng sản cùng hoạt động
theo khuynh hướng vô sản (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn). Tuy nhiên phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển
mạnh mẽ, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một Đảng thống nhất. Sự tồn tại và hoạt động
riêng rẽ của ba tổ chức Cộng sản làm cho lực lượng và sức mạnh của phong trào Cách
mạng bị phân tán, điều đó không phù hợp với lợi ích của cách mạng và nguyên tắc tổ chức
của Đảng Cộng sản. Bối cảnh trên đặt ra yêu cầu bức thiết là có một Đảng Cộng sản thống
nhất trong cả nước để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. -
Được sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc chủ động triệu tập các
đạibiểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp tại Cửu Long
(Hồng Kông) để tổ chức hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành một chính đảng
duy nhất của Việt Nam. Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6/1/1930.
* Nội dung hội nghị:
- Để chỉ đạo Hội nghị tiến hành đạt mục tiêu thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ởViệt
Nam, Nguyễn Ái Quốc xác định rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tự phê bình và
phê bình về những thành kiến giữa các tổ chức cộng sản, dẫn đến tình trạng xung đột,
công kích lẫn nhau, phải xóa bỏ những khuyết điểm đó và thành thật hợp tác để thống
nhất các tổ chức cộng sản. Tiếp đó, Hội nghị bàn về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam và thảo luận thông qua Chính cương, Điều lệ, kế hoạch thực hiện việc thống nhất
các tổ chức cộng sản trong nước, cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Những ý kiến
chỉ đạo đó của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị tán thành và thực hiện.
- Hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đãphê
bình lẫn nhau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của họ.
Những khuyết điểm chủ yếu của An Nam Cộng sản Đảng là: điều kiện công nhận đảng
viên chính thức quá khắt khe, điều kiện gia nhập Công hội, Nông hội, Học sinh hội cũng quá khắt khe.
- Đông Dương Cộng sản Đảng thì phạm các sai lầm, khuyết điểm: điều kiện công nhậnđảng
viên chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt tổ chức, đảng có
tính chất bè phái, xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt.
- Kết quả phê bình và tự phê bình đó dẫn tới sự thống nhất thành lập một Đảng Cộng sản.
- Hội nghị thảo luận và tán thành ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, thông
quakế hoạch thành lập một Đảng Cộng sản lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thống
nhất cách cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, có năm ủy viên lOMoAR cPSD| 61622985
do Đông Dương Cộng sản Đảng cử, Nam Kỳ có hai ủy viên do Đông Dương Cộng sản
Đảng và An Nam Cộng sản Đảng cử. Như vậy, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời có tổng số bảy ủy viên.
- Chánh cương văn tắt, Sách lược văn tắt của Đảng
- Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt,Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Chánh cương
vắn tắt của Đảng, sách lược vắn tắt của Đảng là cương lĩnh cách mạng đầu tiên vạch ra
con đường đi cho cách mạng Việt Nam. Chánh cương, Sách lược vắn tắt có giá trị vô
cùng to lớn - là một trong những nền tảng quan trọng xây dựng nên đường lối và phương
pháp cách mạng của Đảng ta.
- Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời nhưng chưa có lực lượng, tổ chức, chánhcương
không cụ thể "nhưng có tinh thần cộng sản" và muốn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xét nguyện vọng chính đáng của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, ngày 24/2/1930,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được chấp nhận sáp nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Ý nghĩa của Hội nghị thành lập Đảng
- Đánh dấu sự thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, thống nhất phong trào cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản có đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo.
* Ý nghĩa của việc thành lập Đảng -
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử
cáchmạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về
đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX -
Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong
cảnước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết
nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. lOMoAR cPSD| 61622985 -
Hơn thế nữa, đó còn là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
tràocông nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam
đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng, llà bước chuẩn bị đầu tiên có tính chất quyết
định cho sự phát triển nhảy vọt về sau của Cách mạng.
3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
- Nhân loại đang chứng kiến những ngày cuối cùng của chủ nghia phát xít TG . Ở châuÂu
, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện Đồng minh . Ở châu Á trước những đòn sấm sét của
đội quân Mỹ- Anh và hồng quân Liên Xô , 14/8/1945 phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng
- Được tin Nhật sắp tuyên bố đầu hàng đồng minh , trung ương Đảng và Tổng bộ VN
đãUỷ ban khởi nghĩa toàn quốc .Uỷ ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng công bố mệnh
lệnh khởi nghĩa .23h 12/8/1945 Uỷ ban khởi nghĩa ra quân lệnh số 1 : “ Giờ tổng khởi
nghĩa đã đánh ! cơ hội có một cho quân dân VN vùng dậy giành lấy quyền độc lập của
nước nhà!...Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm , vô
vùng thận trọng ! .. Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta !”
- Ngày 13/8/1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào với sự tham giacủa
đại biểu các đảng bộ trong và ngoài nước .Trên cơ sở phân tích tình hình TG và trong
nước , Hội nghị quyết định phát động và lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa , đề ra chính sách
đối nội , đối ngoại .Liền sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc , 16/8/1945 Quốc
dân Đại hội khai mạc . Hơn 60 đại biểu đại diện cho 3 miền đất nước và kiều bào ở nước
ngoài , các đảng phái , tôn giáo tiêu biểu cho ý chí thống nhất của toàn dân tộc , về dự đại
hội .Đại hội nhất trí tán thành chủ trương . Tổng khởi nghĩa của Đảng thông qua 10 chính
sách của Mặt trận Việt Minh bầu Uỷ ban giải phóng dân tộc VN do HCM làm chủ tịch
- Hưởng ứng lệnh tổng khởi nghĩa khắp nơi quần chúng đồng loạt nổi dậy giành
chínhquyền . Ở những vùng xa xôi chưa nhận đc lệnh Tổng khởi nghĩa đc sự chỉ dẫn của
chỉ thị Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta , các đảng bộ địa phương đã lãnh
đạo nhân dân vùng dậy giành chính quyền
- Ở HN , đc tin Tổng hội viên chức sẽ tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại nhà hát lớn thànhphố
vào chiều 17/8/1945 để ủng hộ chính phủ bù nhìn , Uỷ ban khởi nghĩa quyết định biến
cuộc mít tinh ấy thành cuộc mít tinh ủng hộ cách mạng
- Cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành biểu dương sức mạnh qua các phố trung tâmthủ
đô , hô vang khẩu hiệu: “Ủng hộ việt minh” , “đả đảo chính phủ bù nhìn” , “VN độc lập”
- Trước khí thế của quần chúng, chính phủ bù nhìn không dám chống cự , quân Nhật ánbinh
bất động . Uỷ ban khởi nghĩa quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào 19/8/1945
- Ngày 18/8/1945 cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên các đường phố HN lOMoAR cPSD| 61622985
- Sáng 19/8 hàng chục vạn nhân dân nội ngoại thành xuống đường hướng về quảngtrường
nhà hát thành phố . Đúng 11h Uỷ ban khởi nghĩa đọc lời kêu gọi khởi nghĩa . Tối hôm đó
cuộc khởi nghĩa ở HN đã thắng lợi hoàn toàn . Chính quyền về tay nhân dân HN đã cổ
vũ mạnh mẽ nhân dân cả nước nhất tề xông lên vì đại nghĩa . Khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi ở Thanh Hoá , Bắc Ninh , Ninh Bình , Thái Nguyên , Sơn Tây (20/8) ,
Yên Bái , Bắc Cạn , Tuyên Quang , Nam Định , Nghệ An , Ninh Thuận , Tân An( 21/8 ),
Cao Bằng , Hưng Yên , Kiến An( 22/8), Hải Phòng , Hà Đông , Quảng Bình ,
Quảng Trị , Bình Định , Lâm Viên , Gia Lai , Tân An , Bạc Liêu (23/8)
- Được tin nhân dân HN giành chính quyền thắng lợi 20/8/1945 tại Thừa Thiên – Huế ,Uỷ
ban khởi nghĩa của tỉnh đc thành lập . Uỷ ban quyết định lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành
chính quyền vào 23/8 . Ngày hôm đó hàng chục vạn nhân dân từ các huyện đổ về tp Huế
biểu tình thị uy và chiến các công sở
- Ngày 24/8 chính quyền đã về tay nhân dân ở các tỉnh Hà Nam , Quảng Yên , Đắc Lắc ,Phú Yên , Gò Công
- Ngày 25/8 khởi nghĩa thắng lợi ở Lạng Sơn , Phú Thọ ,Kon Tum , Bình Thuận
- Tại Sài Gòn từ 20/8 cở đỏ sao vàng đã xuất hiện công khai trên các đường phố , khí
thếcách mạng của nhân dân sôi sục . Xứ uỷ Nam Kì quyết định khỏi nghĩa ở Sài Gòn và
các tỉnh vào 25/8 . Sáng 25/8 nhân dân các vùng lân cận kéo vào SG ngập tràn đường phố
. Quần chúng nhanh chóng làm chủ tình hình , chia đi chiếm các cơ quan đầu não của
địch . Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở SG thắng lợi
- Cùng nổi dậy một ngày với nhân dân SG nhân dân các tỉnh Nam Bộ như Chợ lớn ,
GiaĐịnh , Sóc Trăng , Long Xuyên , Vĩnh Long , Bà Rịa , Thủ Dẩu Một ,Tây Ninh , Bến
Tre , Sa Đéc giành chính quyền thắng lợi
- Ngày 26/8 chính quyền về tay nhân dân ở Hồng Gai , Sơn La , Châu Đốc , Biên Hoà ,Cần
Thơ . 27/8 nhân dân ta giành chính quyền ở Rạch Giá . 28/8 chính quyền về tay nhân dân
ở Đồng Nai Thượng và Hà Tiên
- Chiều 30/8 một cuộc mít tinh lớn đc tổ chức tại Ngọ Môn , Huế . Trước hàng vạn
quầnchúng vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị , nộp ấn kiếm cho chính phủ lâm thời . Chỉ
trong vòng hai tuần lễ cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nc đã hoàn toàn
thắng lợi . Chế độ thuộc địa và nền quân chủ đã cáo chung
- Chiều 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình , HN trước hàng chục vạn người dân vừa đcgiải
thoát kiếp nô lệ , chủ tịch HCM thay mặt chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên
ngôn độc lập , khai sinh nền cộng hoà dân chủ VN lOMoAR cPSD| 61622985
- Người tuyên bố : “Tất cả dt trên TG đều sinh ra bình đẳng , dân tộc nào cũng có quyềnsống
, quyền sung sướng và quyền tự do ..Nước VN có quyền hưởng tự do và độc lập và sự
thật đã thành một nc tự do độc lập .Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng , tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do , độc lập ấy”
- Ngày 2/9/1945 trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử hàng nghìn năm của dt VN
- CMT8 là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dt VN . Với sự thắng lợi của CMT8 , xiền xíchnô
lệ mà TDPhap và phát xít Nhật trói buộc nhân dân ta trong suốt 80 năm đã bị đập tan ,
chế độ quân chủ chuyên chế ngự trị và tồn tại nghìn năm đã bị lật nhào . Nc ta từ một
nước thuộc địa đã trở thành một quốc gia độc lập với chính thể dân chủ cộng hoà , dân ta
từ thân phận nô lệ đã vươn dậy , trở thành người tự do , người chủ đất nước mình
- Với thắng lợi của cuộc CMT8 , lịch sử dt VN ta khởi đầu một bước nhảy vọt quan trọng,
khởi đầu một kỷ nguyên mới giải phóng dân tộc , giải phóng xã hội và giải phóng con
người , kỷ nguyên độc lập , tự do
- Với CMT8, một Đảng cộng sản mới 15 tuổi đã trở thành một đảng cầm quyền . Vớithắng
lợi của cuộc CMT8 lần đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin đã đc vận dụng sáng tạo và chiến
thắng ở một nước thuộc địa
- Trên bình diện quốc tế CMT8 đã bẻ gãy một mắt xich trong hệ thống xiềng xích thuộcđịa
của chủ nghĩa thực dân đế quốc tạo ra một đột phá khẩu để qua đó các dân tộc bị áp bức
vùng dậy đập nát xiềng xích trói buộc , giải thoát mình khỏi kiếp nô lệ.
4. Tình hình VN sau CMT8 năm 1945 đến toàn quốc kháng chiến bùng nổ 19/12/1946
* Tình hình và nhiệm vụ cách mạng sau tháng Tám năm 1945
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra một thời kỳ phát triển lịch sử mới cho nhân
dân Việt Nam. Trong dòng thác chung của tiến trình phát triển cách mạng thế giới lúc ấy,
cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đứng trước bối cảnh đặc biệt
* Tình hình quốc tế -
Sau Cách mạng tháng Mười Nga, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới
rađời. Từ thành trì cách mạng của thế giới đó, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt
nước được Hồng quân Liên Xô giải phóng khỏi ách phát xít, đã đứng vào hàng ngũ các
nước xã hội chủ nghĩa. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu trở thành
trụ cột cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và bảo vệ hòa bình của nhân dân thế giới. lOMoAR cPSD| 61622985 -
Cách mạng giải phóng dân tộc của các nước trên thế giới làm lung lay hệthống chủ nghĩa thực dân cũ. -
Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của công nhân, nhân dân lao động, của
cácĐảng Cộng sản ở nhiều nước tư bản, có tác động mạnh đến chính sách đối nội, đối
ngoại của các thế lực đang cầm quyền trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. -
Hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa có thay đổi vị trí: các nước phát xít bị bại
trận,các đế quốc đại diện cho chủ nghĩa thực dân kiểu cũ như Anh, Pháp suy yếu ; Mỹ trở
thành đế quốc lớn nhất, có sức chi phối hệ thống đế quốc và đang trở thành sen đầm quốc tế. -
Cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa phong trào giải phóng dân
tộcchống ách thực dân, giữa thế lực đế quốc cũ và mới là nội dung chính của tiến trình lịch
sử thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tình hình đó tác động sâu sắc đến lịch
sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
* Tình hình trong nước
- Sau cách mạng tháng 8 cùng với diễn biến của tình hình thế giới đã mang lại cho Việt
Nam không ít thuận lợi trong việc quản lý và xây dựng đất nước. Tuy nhiên, dân tộc Việt
Nam lại không thể tránh khỏi được nhiều khó khăn khi “thù trong, giặc ngoài” những tàn
dư sau chiến tranh đang ngày càng tàn phá mạnh mẽ. Có thể nói, tình thế Việt Nam lúc bấy
giờ là “ngàn cân treo sợi tóc”.
Một số thuận lợi của Việt Nam sau cách mạng tháng 8
Năm 1945, phong trào đấu tranh của Việt Nam giành được nhiều thắng lợi, cùng
vớiđó, tình hình thế giới cũng có nhiều chuyển biến tốt đẹp với sự phát triển mạnh mẽ của
phong trào cách mạng thế giới và hệ thống Xã hội chủ nghĩa, góp phần tạo nên chỗ dựa
vững chắc cho cách mạng Việt Nam. –
Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ bây giờ đã chính thức đứng lên làm chủ
vậnmệnh của mình, làm chủ vận mệnh đất nước. Điều này khiến nhân dân càng thêm phấn
khởi, tin tưởng và ủng hộ vào chế độ mới. Như vậy, có thể thấy, chính quyền mới rất được
sự tin tưởng của nhân dân. –
Sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản. Vì tình hình
chínhtrị của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chuyển vào trạng thái hoạt động bí mật,
điều này đã làm cho việc chỉ đạo và phối hợp, quản lý, và điều hành công việc rất khó
khăn. Hiện nay, khi đất nước được giải phóng, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ
Chí Minh cùng Đảng Cộng sản Việt Nam hứa hẹn mang lại nhiều thành tựu to lớn cho dân tộc sau này. lOMoAR cPSD| 61622985
Khó khăn của nước ta sau cách mạng tháng 8
Sự bao vây của các thế lực quân đội nước ngoài:
+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc lấy danh nghĩa là giải
giáp quân Nhật nhưng âm mưu chính là lật đổ chính quyền cách mạng. Mang theo bọn
phản động Việt Nam Quốc Dân đảng và Việt Nam Cách Mạng đảng tìm mọi cách chống
phá chính quyền cách mạng.
+ Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam: Quân Anh với danh nghĩa là giải giáp quân Nhật, nhưng âm
mưu lại là giúp đỡ Pháp quay trở lại xâm lược, tạo điều kiện cho quân Pháp quay lại xâm lược miền Nam.
- Ngoài ra, trên cả nước ta có 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp. Một bộ phận quân Nhật đã có
tình gây ra nhiều tội ác cho nhân dân ta. –
Các thế lực thù địch trong nước thì luôn tìm mọi cách để chống phá chính quyền cáchmạng. –
Nền kinh tế nông nghiệp nước ta vốn lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề;
hậuquả của nạn đói cuối năm 1944 – đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Tiếp đến là nạn
lũ lụt lớn, làm vỡ đê ở chín tỉnh Bắc Bộ, rồi hạn hán kéo dài, khiến cho nửa tổng số ruộng
đất không canh tác được. –
Ngân sách Nhà nước trống rỗng. Chính quyền cách mạng chưa quản lý được
Ngânhàng Đông Dương. Trong lúc đó, quân Trung Hoa Dân quốc lại tung ra thị trường
các loại tiền Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn. Các cơ
sở công nghiệp của ta chưa kịp phục hồi sản xuất. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt,
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. –
Tàn dư văn hóa lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến để lại hết sức nặng nề,
hơn90% dân số không biết chữ. –
Trong khi đó, chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố, lực
lượngvũ trang còn non yếu, chưa có kinh nghiệm quản lý Nhà nước. -
Trong các khó khăn mà nước ta gặp phải lúc bấy giờ thì khó khăn nào là lớn nhất vànguy hiểm nhất? -
Có thể thấy, khó khăn lớn nhất và nguy hiểm nhất của Việt Nam chính là giặc ngoạixâm. Bởi: –
Nếu không giải quyết được khó khăn liên quan đến giặc ngoại xâm thì nền độc lập
củadân tộc lại một lần nữa bị ảnh hưởng, nó đe dọa nghiêm trọng tới thành quả của cuộc
cách mạng tháng 8 mà toàn thể dân tộc Việt Nam đã phải nỗ lực để giành lấy. lOMoAR cPSD| 61622985 –
Chỉ khi Việt Nam giữ được độc lập dân tộc thì các khó khăn trong nước mới có thể
giảiquyết được ổn thỏa.
* Toàn quốc kháng chiến 1946
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời(nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã tác động, cổ vũ mạnh mẽ phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các thuộc địa, làm cho các thế lực đế quốc và bọn
phản động quốc tế hết sức lo sợ. Mỹ công khai ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay lại xâm lược
Việt Nam và Đông Dương. Đế quốc Anh xuất phát từ quyền lợi thực dân và theo quỹ đạo
của Mỹ cũng ra sức ủng hộ ý đồ của thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương.
- Từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946, cục diện chính trị quốc tế và tình hình Đông
Dương có những diễn biến phức tạp. Sự góp mặt của gần 300.000 quân Anh - Pháp Tưởng
- Nhật hung hăng châm ngòi lửa chiến tranh, cùng với “giặc đói” và “giặc “dốt” đẩy nước
ta vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên sức mạnh
toàn dân, kiên quyết chống xâm lăng, giữ vững chính quyền, chủ động chuẩn bị bước vào
cuộc kháng chiến lâu dài trong cả nước.
- Được đế quốc Anh, Mỹ tiếp sức, từ khi đưa quân ra miền Bắc theo Hiệp định Sơ bộ,thực
dân Pháp bội ước, gạt bỏ mọi khả năng thương lượng, ráo riết thực hiện âm mưu mở rộng
chiến tranh. Chúng biến đội quân “tiếp phòng” thành đội quân chiếm đóng và áp dụng
hình thức “đánh lấn”. Sau khi chiếm Tây Nguyên, một phần Đông Bắc, Tây Bắc, Pháp
ngang nhiên tấn công Hải Phòng, Lạng Sơn. Chúng khẩn trương chuẩn bị gây chiến ở
Hà Nội với mục đích nắm quyền quản lý Thủ đô Việt Nam nhằm “vô hiệu hóa tức thì
Chính phủ Hồ Chí Minh”.
- Ở miền Bắc, Đảng ta từ hoạt động bí mật trở thành đảng cầm quyền, chính quyền
mớiđược thành lập. Trong những điều kiện mới, Đảng ra sức xây dựng lực lượng, phát
triển tổ chức, xác lập quyền lãnh đạo trên mọi lĩnh vực, tổ chức động viên toàn dân kháng
chiến ở miền Nam và đấu tranh chính trị ở miền Bắc.
- Nhiệm vụ xây dựng chính quyền sớm được Đảng xác định về nguyên tắc và biện pháptiến
hành, đồng thời chủ động chống giặc ngoại xâm. Đảng chăm lo xây dựng, củng cố chính
quyền nhân dân ở các cấp, chăm lo đời sống vật chất của nhân dân, bảo đảm chính quyền
thực sự là của dân, do dân, vì dân
-- Chính quyền tập trung giải quyết các vấn đề dân sinh, dân chủ, đẩy lùi nạn đói, xóa nạn
mù chữ, khôi phục sản xuất, gắn bó mật thiết với nhân dân. Hưởng ứng lời kêu gọi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào toàn dân tham gia bình dân học vụ phát triển sâu rộng.
Chỉ sau một năm đã có thêm 2 triệu người biết chữ. lOMoAR cPSD| 61622985
Cuối tháng 11-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, chỉ rõ các nhiệm
vụ và phương pháp thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị nhấn mạnh: “Cuộc
cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng” và tiếp tục đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết.
Tổ quốc trên hết”. Hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc có quan hệ khăng khít.
Về quân sự, động viên toàn dân kháng chiến; tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu
dài; kết hợp chiến thuật chiến tranh du kích và sự bất hợp tác với địch; giữ vững liên lạc,
thống nhất chỉ huy, tăng cường sự lãnh đạo của Trung ương đối với cuộc kháng chiến ở
Nam Bộ và Trung Nam Bộ…
Về chính trị, tăng cường xây dựng khối đoàn kết toàn dân; nhanh chóng tổ chức tổng
tuyển cử bầu Quốc hội, xây dựng Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức, ban hành những
sắc lệnh mang lại quyền tự do, dân chủ cho nhân dân; xây dựng và củng cố chính quyền
nhân dân ở các địa phương…
Về kinh tế - tài chính, huy động các nguồn lực nhanh chóng khôi phục sản xuất công
nghiệp và sản xuất nông nghiệp, khuyến khích phát triển thương nghiệp; xây dựng hệ thống
ngân hàng, thuế, ngân quỹ, phát hành giấy bạc…
Về văn hóa - xã hội, bài trừ nạn mù chữ, cải cách hệ thống giáo dục và xây dựng nền
giáo dục mới, xây dựng nền văn hóa mới theo nguyên tắc: Dân tộc - khoa học - đại chúng…
Về ngoại giao, thực hiện nguyên tắc “bình đẳng và tương trợ” nhằm thêm bạn bớt thù,
chú ý biểu dương thực lực để chứng tỏ sức mạnh và ý chí dân tộc. Với chính quyền Trung
Hoa Dân quốc, trước mắt tỏ ra thân thiện; đối với Pháp, thực hiện độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế…
Về Đảng, củng cố và phát triển hệ thống tổ chức đảng, duy trì hệ thống tổ chức bí mật và
nửa công khai của Đảng, phát triển đảng viên và tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan, xí
nghiệp, trong quân đội; giữ vững sinh hoạt đảng…
Về Mặt trận Việt Minh, phát triển các tổ chức cứu quốc, không ngừng mở rộng thành
viên Mặt trận nhằm đoàn kết rộng rãi hơn nữa các lực lượng yêu nước và tiến bộ…
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc thể hiện rõ sự vững vàng, nhạy bén của Đảng về chính trị
và khả năng lãnh đạo cách mạng. Trên cơ sở những chủ trương, biện pháp được hoạch
định, Đảng Cộng sản Đông Dương, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẩn trương triển
khai hàng loạt các nhiệm vụ cấp bách, mà trước hết chống “giặc đói” hồi phục sức lực đã
kiệt quệ của hàng triệu nông dân sau nạn đói năm 1945 và diệt trừ “giặc dốt”, xem đó là
hai trong sáu nhiệm vụ cấp bách nhất của chính quyền dân chủ nhân dân. lOMoAR cPSD| 61622985
Cùng với nhiệm vụ cứu đói, khôi phục sản xuất, phát triển văn hóa, Đảng, Chính phủ và
Chủ tịch Hồ Chí Minh tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, làm thất bại âm
mưu ly gián Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch. Đảng nắm quyền lãnh đạo chặt
chẽ lực lượng vũ trang, thực hiện thống nhất chỉ huy bộ đội, tổ chức đấu tranh hiệu quả
chống bọn phản cách mạng.
Cuộc Tổng tuyển cử (ngày 6-1-1946) được tiến hành khẩn trương trên cả nước, ngay trong
khói lửa chiến tranh, xác lập quyền làm chủ đất nước của toàn dân, biểu thị sự tín nhiệm
tuyệt đối Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở
nước ta còn là cuộc động viên chính trị rộng lớn và sâu sắc, biểu thị sức mạnh đoàn kết và
quyết tâm làm chủ của nhân dân ta, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh chính trị và ngoại
giao của Chính phủ ta, tăng thêm uy tín quốc tế của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn chính sách đối ngoại mềm dẻo, khôn khéo, lợi
dụng mâu thuẫn, phân hóa hàng ngũ kẻ thù. Để tránh rơi vào thế đối lập với kẻ thù “khoác
áo” Đồng minh, Đảng chủ trương Hoa - Việt thân thiện, hòa hoãn với chính quyền Tưởng
Giới Thạch, tập trung mũi đấu tranh chống thực dân Pháp đang tái xâm lược Nam Bộ, đồng
thời vừa nhân nhượng, vừa đấu tranh ngăn chặn và dập tắt những mưu đồ phản loạn của
các tổ chức phản động làm tay sai cho chính quyền Tưởng Giới Thạch.
Sau Hiệp ước Hoa - Pháp (ngày 28-2-1946), ta chủ trương hòa với Pháp để đẩy nhanh
quân đội của chính quyền Tưởng về nước. Kế thừa truyền thống yêu chuộng hòa bình,
tránh cho hai dân tộc Việt - Pháp đổ máu vô ích, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh quyết định ký với Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ (ngày 6-3-1946) với sự nhân
nhượng tối đa và mở cuộc đàm phán với Chính phủ Pháp. Tuy nhiên Chính phủ Pháp đã
xóa bỏ mọi cam kết và tiếp tục đẩy cuộc chiến tranh xâm lược của họ lên quy mô lớn hơn
nhằm tái chiếm Đông Dương. Thiện chí hòa bình của dân tộc Việt Nam, của Trung ương
và Chính phủ Hồ Chí Minh tiếp tục bị thách thức khi thực dân Pháp phớt lờ Tạm ước Việt
- Pháp đã được ký ngày 14-9-1946 giữa hai chính phủ.
Ngay trong đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tới đồng bào cả nước Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định ý chí kiên quyết chống xâm lăng, giành và giữ hòa
bình của dân tộc Việt Nam. Toàn dân siết chặt đội ngũ, kiên quyết bảo vệ chính quyền của nhân dân.
+ Một là, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khái quát đường lối kháng chiến toàn dân,
toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính
+ Hai là, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - kết tinh truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. lOMoAR cPSD| 61622985
+ Ba là, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam
Như vậy, Ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946 đã thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng
suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, bám sát tình hình thực tiễn,
nắm vững thời cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính toán chính xác thời điểm nổ súng, biến
bị động thành chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân
quân địch hai tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát
động toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 tại Thủ đô thể hiện một nghệ thuật khởi đầu
cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn, quả cảm và sáng tạo. Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến khẳng định truyền thống yêu nước, yêu hòa bình, quyết tâm chống ngoại xâm,
bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc Việt Nam góp thêm sức mạnh để một lần nữa dân
tộc Việt Nam chiến thắng giặc ngoại xâm.
5. 1. Chiến dịch Việt Bắc
Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947 (từ 7/10 đến 22/12/1947) là một chiến dịch quân sự
do quân đội Pháp thực hiện tại Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương, nhằm phá tan cơ
quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực của Việt Minh.Nhưng dưới sự chỉ đạo
của Đảng, với ý chí và tinh thần quả cảm, quân và dân ta đã làm thất bại cuộc tiến công
của quân Pháp, góp phần đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích trên toàn chiến trường Việt Bắc.
Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Bộ đội ta công kích đồng loạt vào
các vị trí quân Pháp, sau đó nhanh chóng chuyển sang bao vây, ghìm giữ quân địch ở Hà
Nội và các thành phố, thị xã trên địa bàn cả nước.
Bị sa lầy tại các thành phố, thị xã, thực dân Pháp xúc tiến việc chuẩn bị một cuộc tiến công
lớn lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt lực lượng chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta
bằng chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh". Với trên trên 12.000 quân tinh nhuệ được
trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại, quân Pháp hình thành hai “gọng kìm” lớn theo đường
số 4, số 3 và phối hợp với cánh quân tiến theo sông Lô, sông Gâm nhằm bao vây chặt căn
cứ Việt Bắc; đồng thời, cho quân nhảy dù xuống trung tâm chiến khu, tiến hành càn quét,
tìm diệt chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta.
Ngày 7/10/1947, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn mở đầu cuộc tiến công Việt Bắc. Chỉ
một ngày sau, ngày 8/10, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi toàn thể đồng bào đoàn
kết kháng chiến, ra sức giết giặc. Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra
chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp".
Nghiên cứu thế lực của ta và địch trên chiến trường, Bộ tổng chỉ huy quyết định tập trung
lực lượng đánh địch trên 3 mặt trận: “Đánh mạnh ở mặt trận Sông Lô; đường số 4 và đường
số 3 nhằm phá vận tải tiếp tế địch, phục kích các đường rừng, đánh đường sông; tại những lOMoAR cPSD| 61622985
căn cứ của địch luôn quấy rối, với những vị trí nhỏ thì bao vây tiêu diệt để phối hợp với Việt Bắc”.
Quân đội ta sử dụng các trung đoàn 147, 165 (chủ lực Bộ); 72, 74, 121 (Khu 1); 11, 36; 59;
98 (Khu 12); 1 tiếu đoàn pháo binh và Trung đoàn Sông Lô (Khu 10); 5 tiểu đoàn độc lập
của Bộ, Khu 1 và Khu 12, các đơn vị binh chủng và du kích trên địa bàn chiến dịch. Chiến
khu do Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp chỉ huy, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng.
Chiến dịch tấn công của quân Pháp bắt đầu thì chiến dịch phản công của quân đội ta tại
Việt Bắc cũng bắt đầu.
Ở mặt trận Sông Lô - Chiêm Hóa, địch vừa đổ bộ lên bến Bình Ca thì bị quân đội ta bắn
chìm một pháo thuyền địch, tiếp đó diệt hơn một tiểu đội giặc lập chiến công đầu tiên trên
sông Lô. Những trận đánh địa lôi, phục kích, bắn tỉa của quân đội ta làm cho quân đội Pháp
không thể tiến theo các đường thủy, đường bộ, buộc chúng phải tiếp viện quân nhảy dù
xuống Chiêm Hóa. Đoàn pháo binh cùng các binh đoàn chủ lực bắn chìm một số tàu chiến
và ca nô của quân Pháp tại Đoan Hùng, Khoan Bộ, Khe Lau. Đường tiếp viện của quân
Pháp từ Hà Nội lên bị cắt đứt.
Ở mặt trận đường số 4, các đại đội độc lập và quân dân du kích Cao Bằng, Lạng Sơn phục
kích, bắn tỉa trên đường địch hành quân, tiến công tiêu diệt địch tại Đông Khê, Thất Khê.
Tiểu đoàn tập trung Lạng Sơn lợi dụng địa hình đánh trận phục kích xuất sắc, diệt 33 xe cơ
giới, gần 300 tên địch tại Bông Lau, thu toàn bộ vũ khí. Đường số 4 thành “con đường
máu” của thực dân Pháp.
Ở mặt trận đường số 3, tự vệ quân giới phối hợp với dân quân dân tộc ít người đánh quân
Pháp đi lẻ. Các tiểu đoàn tập trung thuộc Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy Chiến khu 1, tập
kích, đánh địa lôi hàng trăm lính Pháp bị tiêu diệt trong công sự, cắt đứt đường tiếp viện
của quân Pháp từ Cao Bằng xuống Bắc Kạn.
Ngày 22/12/1947, cuộc chiến đấu chống địch tấn công Việt Bắc kết thúc thắng lợi. Việt
Bắc đã trở thành "mồ chôn quân Pháp" với hơn 6.000 tên địch bị loại, bắn rơi 16 máy bay,
bắn chìm 11 ca nô và tàu chiến và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh khác.
Chiến dịch Việt BắcThu - Đông 1947 diễn ra và giành thắng lợi trong thời gian tương đối
ngắn trong cuộc kháng chiến trường kỳ, đã khẳng định đường lối chiến tranh nhân dân
đúng đắn, cùng nghệ thuật quân sự đặc sắc của Đảng ta, trong đó nổi bật là nghệ thuật xây
dựng, tạo lập thế trận toàn dân đánh giặc rộng khắp, vững chắc ngay từ đầu và suốt quá
trình chiến tranh.Đây cũng là một bài học thắng lợi được vận dụng trong suốt hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho đất nước.
2. Chiến dịch Biên Giới Thu Đông lOMoAR cPSD| 61622985
Năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta diễn ra trong
bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước có nhiều biến đổi lớn. Để đẩy mạnh kháng
chiến tiến lên một bước mới, tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở
chiến dịch lớn đánh địch trên tuyến biên giới Việt – Trung.
Ngày 7/7/1950, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở chiến dịch giải phóng vùng biên giới
Đông Bắc tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn, lấy mật danh là Chiến dịch Lê Hồng phong
II, tiến công phòng tuyến của địch trên đường số 4, tập trung vào khu vực Cao Bằng Thất
Khê. Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy mặt trận và
Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch.
Đây là lần đầu tiên sau bốn năm kháng chiến ta mở một chiến dịch tiến công lớn, đánh vào
tuyến phòng thủ mạnh của địch, nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược quan trọng.
“Chiến dịch Biên Giới Thu Đông (1950) đã chuyển cuộc kháng chiến của ta từ hình thái
chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến
tranh du kích ở trình độ cao hơn, gây nên thất bại chưa từng có trong chiến tranh xâm lược
của thực dân Pháp thời điểm lúc bấy giờ” - Đại tướng Ngô Xuân Lịch khẳng định.
Theo Đại tá Nguyễn Huy Toàn, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Việt Nam, thời điểm này,
được Mỹ giúp sức, thực dân Pháp ráo riết thực hiện Kế hoạch Rơ-ve, tập trung lực lượng
mở rộng chiếm đóng vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ; ra sức phong tỏa biên giới nhằm
ngăn chặn sự chi viện của cách mạng Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam; bao vây, cô
lập căn cứ địa Việt Bắc. Với quyết tâm giành thắng lợi cho chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến
lược quan trọng này, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp
nghiên cứu tình hình, phê chuẩn kế hoạch tác chiến. Liên khu Việt Bắc là địa phương chính
động viên sức người, sức của phục vụ chiến dịch.
Quân ta tham gia chiến dịch với lực lượng chủ lực của Liên Khu Việt Bắc cùng bộ đội địa
phương, dân quân du kích của hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Chiến dịch được phân chia
làm ba mặt trận: mặt trận Đông Khê đánh cụm cứ điểm Đông Khê; mặt trận đánh quân ứng
chiếm ở đoạn đường giữa Đông Khê - Thất Khê; mặt trận Na Sầm - Lạng Sơn có nhiệm
vụ phá đường, tiêu hao, phục kích địch trên đoạn đường Thất Khê - Lạng Sơn.
Sáng sớm 16/9/1950, quân ta bắt đầu nổ súng đánh cụm cứ điểm Đông Khê mở màn chiến
dịch. Mặc dù địch chống trả hết sức quyết liệt song với tinh thần dũng cảm, mưu trí, bộ đội
ta đã tổ chức nhiều đợt xung phong tiêu diệt gọn từng cụm cứ điểm của địch. Sau 54 giờ
chiến đấu, sáng ngày 18/9, bộ đội ta chiếm toàn bộ cụm cứ điểm Đông Khê. Chiến thắng
oanh liệt của trận mở màn đã cổ vũ khí thế giết giặc lập công trên khắp các mặt trận, tạo
thế thuận lợi cho những bước tiếp theo của chiến dịch. lOMoAR cPSD| 61622985
Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân La Văn Cầu, nguyên Tiểu đoàn trưởng,
chiến sĩ Trung đoàn 704, Sư đoàn 316 nhớ lại: “Lúc ấy tôi và anh em trong trung đội có
nhiệm vụ phá hàng rào, lô cốt để mở đường cho trung đội xung kích, tiến lên chiếm trận
địa. Tôi ôm quả bộc phá lô cốt nên bị thương ở tay phải. Chúng tôi đã viết quyết tâm thư
sẵn sàng hy sinh nên khi ấy tôi nhờ đồng đội chặt giúp cánh tay để tiếp tục chiến đấu”.
Để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến dịch, quân ta đã huy động lực lượng lớn binh lực tập trung
tại biên giới, kiên quyết đánh đòn then chốt giành toàn thắng. Cụ thể, quân ta mở một chiến
dịch quy mô lớn với lực lượng gần ba vạn cán bộ, chiến sĩ, huy động hàng vạn dân công,
tiến công vào một hệ thống phòng ngự mạnh của địch trên tuyến dài hàng trăm km, đánh
liên tục cả tháng” - GS.TS khoa học Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào
tạo, Đại học quốc gia Hà Nội cho biết.
Với phương châm tác chiến là “đánh điểm, diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là
chính”, Chiến dịch Biên giới đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông
biên giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Sau 29 ngày đêm chiến đấu quyết liệt
(16/9 đến 14/10/1950), chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 đã giành thắng lợi vang dội.
PGS.TS Vũ Đình Lễ, Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử Việt Nam cận hiện đại (Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn) cho rằng chiến thắng Biên giới (Thu - Đông 1950) đánh dấu một
bước tiến nhảy vọt của Quân đội ta về nghệ thuật tác chiến. Chiến dịch đã thay đổi cục
diện chiến tranh, mở ra bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiên chống thực dân Pháp xâm
lược. Được giao “trọng trách đặc biệt” với quyền hạn lãnh đạo, chỉ huy lớn, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã có những quyết đoán mang tính độc lập, sắc bén, thể hiện tài thao lược và
phong cách cầm quân đặc trưng.
Chiến thắng Biên Giới Thu Đông 1950 đã khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, tinh
thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cả dân tộc. Hơn 70 năm đã
qua, song những bài học kinh nghiệm quý báu vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục được
phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay” - Thiếu tướng, Tiến sỹ
Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Viện lịch sử quân sự Việt Nam khẳng định.
Với thắng lợi của Chiến dịch Biên giới Thu Đông, quân và dân ta càng thêm tin tưởng vào
sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau Chiến thắng Biên giới, quân
và dân ta tiếp tục phát huy thế tiến công chiến lược trong những năm 1951 1953; tiến tới
giành thắng lợi liên tiếp trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 1954, mà đỉnh
cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ lập
lại hòa bình ở Đông Dương./. 3. Chiến dịch ĐBP lOMoAR cPSD| 61622985
Cách đây 68 năm, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu" là một mốc son chói lọi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân, vì độc lập tự do trong thế kỷ 20. Chiến thắng vang dội đó đã để lại nhiều bài học
sâu sắc, hiện vẫn còn nguyên giá trị to lớn đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ phát triển và hội nhập.
Trong những năm từ 1947 đến 1953, quân và dân ta liên tiếp giành nhiều thắng lợi quan
trọng trong các chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông (năm 1947), chiến dịch Biên giới (năm
1950)... làm cho cục diện chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương ngày càng chuyển biến
có lợi cho ta, tạo ra thế bất lợi đối với thực dân Pháp.
Để cứu vãn tình thế, thực dân Pháp tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ
điểm mạnh nhằm thu hút, làm tiêu hao quân chủ lực của ta, đồng thời khống chế toàn bộ
vùng Tây Bắc nước ta và Thượng Lào. Thực dân Pháp bố trí lực lượng ở Điện Biên Phủ
lúc cao nhất lên đến 16.200 quân và nhiều vũ khí, phương tiện hiện đại tại 49 cứ điểm, với
3 phân khu. Xác định cứ điểm Điện Biên Phủ là một pháo đài "bất khả xâm phạm".
Trước tình hình đó, tháng 9/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta họp, phân tích cục diện
chiến trường và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 và hình
thành 5 đòn tấn công nhằm tiêu diệt sinh lực cũng như buộc địch phải phân tán lực lượng.
Trong đó, mặt trận Tây Nguyên đã phối hợp rất đắc lực với chiến trường chính Điện Biên
Phủ. Tướng Nguyễn Chánh (người Quảng Ngãi) đã chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên giải
phóng Kon Tum, đánh thắng trận An Khê, đập tan cuộc hành quân Atlante (Ác- lăng) của
tướng chỉ huy quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Tây Nguyên và là Tư lệnh chiến
dịch Atlante là De Beaufort.
Đến ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm Bí thư Đảng ủy kiêm Tư lệnh Bộ chỉ huy Chiến dịch.
Lúc bấy giờ, cán bộ, chiến sĩ đều hăng hái triển khai kế hoạch “đánh nhanh, giải quyết
nhanh”. Tuy nhiên, trước tình hình địch tăng cường lực lượng, phương tiện và thay đổi trận
địa cũng như hệ thống phòng ngự…
Sau khi nhận được ý kiến của đại tá Phạm Kiệt (một người con của quê hương Quảng Ngãi)
đề nghị xem xét lại cách đánh; đồng thời cùng với những tin tức trinh sát từ các mặt trận
gửi về, tại cuộc họp khẩn của Đảng ủy Mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định
chuyển phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang phương châm tác
chiến và kế hoạch mới "đánh chắc, tiến chắc".
Điện Biên Phủ có địa hình rừng núi hiểm trở, việc di chuyển khó khăn do có nhiều đèo cao,
vực sâu. Để bảo đảm các điều kiện cho Chiến dịch thắng lợi trọn vẹn, Trung ương lOMoAR cPSD| 61622985
Đảng và Bác Hồ đã tập trung lãnh đạo, đẩy mạnh cuộc vận động nhân dân các địa phương,
phát huy được sức mạnh của cả hậu phương và tiền tuyến nhằm cung cấp đầy đủ các điều
kiện về hậu cần, kỹ thuật, phương tiện cho bộ đội tham gia trận quyết chiến lịch sử này.
Nghị quyết của Bộ Chính trị và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được quân dân
cả nước tích cực hưởng ứng sôi nổi, đồng lòng, dốc sức cho Chiến dịch. Bên cạnh 55.000
quân chủ lực, hơn 10 vạn người gồm: lực lượng dân công, thanh niên xung phong, và các
lực lượng khác đã tham gia Chiến dịch, trên tinh thần tất cả tập trung cho Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Theo các tài liệu, sách báo... ghi lại, trong 210 ngày, từ tháng 11/1953 đến tháng 5/1954,
có hơn 261 nghìn dân công hỏa tuyến, trong đó có 18.200 cán bộ, đội viên, thanh niên xung
phong trực tiếp tham gia, làm mới 89km đường và sửa chữa hơn 500km đường giao thông...
Đặc biệt, sự sáng tạo độc đáo, biểu hiện trí thông minh của nhân dân ta, làm cho thực dân
Pháp hết sức bất ngờ và thán phục. Đó là việc sử dụng các phương tiện thô sơ và xe đạp
thồ là phương tiện chính. Quân và dân các địa phương đã huy động 22.000 lượt xe đạp thồ,
11.800 thuyền bè, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ, xe trâu, một đội ô tô
628 chiếc... đã vận chuyển 30.759 tấn lương thực, thực phẩm, vũ khí, quân dụng... phục vụ Chiến dịch.
Trải qua 56 ngày đêm "khoét núi, ngủ hầm...", thông qua phương châm tác chiến phù hợp,
đầy thông minh, sáng tạo, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo, sự tập trung lãnh đạo, chỉ
huy của Đảng ủy, Bộ chỉ huy Chiến dịch, bằng quyết tâm cao độ; với 3 đợt tấn công bất
ngờ, sấm sét; thực hiện phương châm tác chiến “đánh chắc, tiến chắc” các lực lượng của
quân đội ta đã đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, một pháo đài mà thực dân Pháp
khẳng định là “không thể công phá” và "bất khả xâm phạm". Kết quả, bắt sống tướng De
Castries (Đờ-cát-xtơ-ri), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 16 nghìn tên địch, tịch thu toàn bộ
vũ khí, quân trang, quân dụng, phương tiện của địch và giành thắng lợi vang dội.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" đã kết thúc 9
năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta, buộc thực dân Pháp
phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Trước tiên, phải khẳng định sự lãnh đạo tài tình, đầy sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã quy tụ, tập hợp, khơi dậy, phát huy cao độ lòng yêu nước, thương nòi của
nhân dân ta, dân tộc ta; làm cho nhân dân ta thấy rõ lợi ích sống còn của dân tộc mà đoàn
kết chiến đấu chống thực dân xâm lược, giành độc lập tự do, đã tạo nên sức mạnh vô địch
của cuộc chiến tranh nhân dân và chính nghĩa trong chiến dịch Điện Biên Phủ. lOMoAR cPSD| 61622985
Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại là trận quyết chiến chiến lược đập tan tập đoàn cứ điểm
mạnh nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương, đưa đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
trường kỳ, anh dũng của nhân dân ta, chấm dứt ách xâm lược của thực dân Pháp gần 100
năm trên đất nước ta, giải phóng miền Bắc, đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ
sở vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đồng thời, còn là bài học về tinh thần đoàn kết, sự kết tinh trí tuệ, bản lĩnh kiên cường và
truyền thống yêu nước, bất khuất của toàn thể dân tộc Việt Nam, bài học về nghệ thuật
quân sự; bài học về phát huy, hiệu triệu sức mạnh của toàn dân tộc và sự ủng hộ của nhân
dân tiến bộ trên thế giới, nhất là 2 nước Lào và Campuchia; bài học về thế trận lòng dân,
sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân để làm nên một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong thế kỷ 20.
Tinh thần chiến thắng Điện Biên Phủ tiếp tục là động lực, nguồn cổ vũ to lớn đối với nhân
dân ta trên đường đổi mới, phát triển và hội nhập.
6. Hội nghị Geneve 1954 và Hiệp định Geneve.
Cuối năm 1953, sau hơn 8 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, những thất
bại nặng nề của quân đội Pháp trên chiến trường đã tác động mạnh tới nội tình và phân hóa
nội bộ chính quyền Pháp. Trước áp lực của phái chủ hòa đòi sớm có cuộc đàm phán về vấn
đề Đông Dương, Thủ tướng Lanien - phái chủ chiến buộc phải chấp nhận một giải pháp
ngoại giao bảo đảm danh dự cho nước Pháp rút khỏi cuộc chiến. Quan điểm và thái độ của
các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Mỹ với Đông Dương lúc này cũng khác nhau.
Trước tình hình đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở cuộc đấu tranh trên
mặt trận ngoại giao, phối hợp với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, đi
tới chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, làm thất bại âm mưu của Pháp và Mỹ.
Ngày 8/5/1954, một ngày sau thất bại ở Điện Biên Phủ, Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị
Genève cùng với sự tham dự của các nước Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Mỹ, Anh và ba đoàn đại diện của chính quyền bù nhìn Việt Nam, Lào, Campuchia.
Tại Hội nghị, đồng chí Phạm Văn Đồng - Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ ta trình bày lập trường tám điểm:
1- Pháp phải công nhận chủ quyền, độc lập của Việt Nam trên khắp lãnh thổ Việt Nam
vàchủ quyền, độc lập của hai nước Lào, Campuchia.
2- Ký một hiệp định về việc rút quân đội ngoại quốc ra khỏi ba nước Việt Nam, Lào vàCampuchia.