-
Thông tin
-
Quiz
Từ Điển Thuật Ngữ Văn Học
Ảnh hưởng văn học Mối quan hệ tác động qua lại giữa các nhà văn, các tác phẩm và các nền văn học. Mô phỏng, đồng nguồn, vay mượn, phổ biến, đều có quan hệ với ảnh hưởng nhưng chưa phải đã là ảnh hưởng thật sự. Sự mô phỏng tự nó chỉ mới chứng tỏ sự lặp lại, chạy theo con đường của người khác. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Văn học 95 tài liệu
Tài liệu khác 1.8 K tài liệu
Từ Điển Thuật Ngữ Văn Học
Ảnh hưởng văn học Mối quan hệ tác động qua lại giữa các nhà văn, các tác phẩm và các nền văn học. Mô phỏng, đồng nguồn, vay mượn, phổ biến, đều có quan hệ với ảnh hưởng nhưng chưa phải đã là ảnh hưởng thật sự. Sự mô phỏng tự nó chỉ mới chứng tỏ sự lặp lại, chạy theo con đường của người khác. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: Văn học 95 tài liệu
Trường: Tài liệu khác 1.8 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Tài liệu khác
Preview text:
Anh hùng ca (X. Sử thi*). Ảnh hưởng văn học
Hỏi thăm cô ấy chửa hay đà...
Mối quan hệ tác động qua lại
Hình dung yểu điệu in như
giữa các nhà văn, các tác phẩm và thể... các nền văn học.
Diện mạo phương phi ngỡ
Mô phỏng, đồng nguồn, vay tưởng là...
mượn, phổ biến, đều có quan hệ với (Thơ khuyết danh)
ảnh hưởng nhưng chưa phải đã là
hoặc như phần thơ yết hậu (để
ảnh hưởng thật sự. Sự mô phỏng tự trống phần sau):
nó chỉ mới chứng tỏ sự lặp lại, chạy Chơi xuân kẻo nữa già.
theo con đường của người khác. Sự Lâu nay vẫn muốn mà,
vay mượn cốt truyện, sử dụng tư “Mời vãi vào nhà hậu.
liệu, ngôn ngữ cũng chưa phải là ảnh Ta…!
hưởng. A.h.v.h chỉ xảy ra trong điều (Thơ khuyết danh)
kiện có tiếp nhận và sáng tạo và chủ
Â.ng. còn có nghĩa là lời nói
yếu thể hiện trong phương diện sáng
kín chỉ người trong cuộc hiểu không
tạo, làm ra tác phẩm mới, là cái tác
cho người ngoài hiểu. Loại này sử
động đem lại sự phong phú hay biến
dụng các thứ tiếng lóng, ám thị.
đổi về quan điểm thẩm mỹ hay các
tư duy nghệ thuật mà truyền thông Bản chính
văn học dân tộc của nhà văn không
Văn bản được dùng làm đối
có, hoặc sự phát triển tự nhiên của
tượng chính để nghiên cứu trong
tài năng nhà văn không dẫn đến.
trường hợp tác phẩm ấy có nhiều dị
Chẳng hạn, ảnh hưởng của chủ bản*.
nghĩa lãng mạn Pháp, đặc biệt là chủ
B.ch. có thể là bản gốc*, có
nghĩa tượng trưng Pháp đã góp phần
thể là bản sao của bản gốc hoặc một
tạo thành những sáng tác Thơ mới
dị bản được xem là gần với bản gốc 1932 - 1945 ở Việt Nam. nhất.
A.h.v.h là một quá trình, có
Thuật ngữ b.ch. cũng có lúc
thể tác động tới các khâu khác nhau
được dùng để chỉ bản gốc.
trong quá trình ảnh hưởng như gợi ý, Bản dịch
thúc đẩy, làm cho giống, tiêu hoá
Văn bản tác phẩm trên một
biến dạng, thay đổi biểu hiện nghệ
ngôn ngữ khác với nguyên bản. thuật... Có a.h.v.h diễn v.d: Tác phẩm Ngục trung
Lại đến Oran (tức vấn đáp) là
nhật ký (Nhật kí trong tù) của Chủ bước khó,
tịch Hồ Chí Minh, nguyên văn bằng
Mình ơi ta bảo "Có thi thì..."
chữ Hán, được chuyển sang dịch chỗ â.ng. trong văn bản
bằng tiếng Việt và phổ biến rộng rãi.
thường thể hiện thành chấm lửng
Một tác phẩm có thể có nhiều
(...), người đọc dựa vào ngữ cảnh mà
b.d khác nhau (bài thơ Thu hứng của nhận ra.
Đỗ Phủ có hai bản dịch: một của
Â.ng. thường được sử dụng
Tản Đà và một của Nguyễn Công
để thể hiện sự nghẹn ngào, e thẹn,
Trứ. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần
hoặc đùa vui, gây bất ngờ dí dỏm.
Côn có ít nhất bốn bản dịch ra chữ
Có kiểu thơ, lối nói chuyện khai thác
Nôm...). Các b.d. có thể đạt trình độ
đặc điểm â.ng. như thơ tiệt hạ (cắt
nghệ thuật cũng như mức độ trung
bỏ phần tiếp theo), chẳng hạn:
thành với nguyên nhân không đồng Thấy gái hồng nhan bỗng đều nhau. chốc mà...
B.d. lược bỏ bớt một số phần,
B.th. là tư liệu quan trọng để
một số đoạn không quan trọng, hoặc
nghiên cứu quá trình lao động của
dịch không theo sát nguyên văn của
nhà văn, lịch sử hình thành tác
nguyên bản gọi là bán lược dịch hay phẩm. phóng dịch. Bản xuất bản
Bản thảo* đã qua biên tập và Bản gốc
được nhà xuất bản công bố.
Văn bản tác phẩm* từ đó
Về nguyên tắc b.x.b. (dưới
người ta tiến hành sao chép hoặc
các hình thức in khác nhau) thống phiên âm, phiên dịch.
nhất với bản bên tập. Nhưng trên
Khi công bố các văn bản sao,
thực tế cũng có những trường hợp có
bản phiên âm, phiên dịch, cần thiết
sự xê dịch: hoặc là do khâu in (sai
phải nói rõ b.g. của nó.
sót), hoặc do khâu kiểm duyệt.
Trong b.x.b. người ta chú ý Bản sao
giới thiệu những chi tiết cần thiết về
Văn bản tác phẩm* có được
cơ quan xuất bản, năm, nơi xuất bản,
bằng cách sao chép lại (chép tay, số lượng bản in...
đánh máy hoặc photocopy) từ một Bạt
văn bản có trước của tác phẩm.
Con được gọi là hậu tự, hậu Bản tái bản
kí. B. là thành phần nằm ngoài văn
Văn bản tác phẩm* được công
bản* của một tác phẩm, được trình
bố lại trên cơ sở văn bản tác phẩm
bày sau tác phẩm (cuối cuốn sách),
đã được xuất bản lần trước.
khác với tựa* thường nằm ở đầu
Một tác phẩm có thể được tái cuốn sách.
bản nhiều lần có sửa chữa hoặc
Nội dung của bạt nhằm thuyết
không sửa chữa so với nguyên bản
minh thêm về cuốn sách, về những
hoặc bản xuất bản trước, v.d.: b.t.b.
gì mà bài tựa chưa nói tới hoặc chưa
năm 1955 cuốn tiểu thuyết Bước
nói hết. Những lời thuyết minh thêm
đường cùng của Nguyễn Công Hoan
này rất quan trọng, giúp người đọc
so với xuất bản lần đầu năm 1938 có
hiểu cuốn sách không kém gì lời tựa.
một số chi tiết thay đổi. Trong khi
V.d. bài b. Sống với ca dao dân ca
đó b.t.b lần thứ sáu, 1984 cuốn tiểu
miền Nam Trung bộ của Xuân Diệu
thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố lại
in ở cuối tuyển tập Dân ca miền
không có gì khác so với bản xuất
Nam Trung bộ đã khơi dậy cả một bản đầu tiên.
nguồn ca dao trong ký ức tác giả với
Việc xem xét các b.t.b. có thể
tất cả bối cảnh sinh hoạt và thiên
góp phần tìm hiểu lịch sử văn bản.
nhiên mơ mộng cùng tâm tình thiết Bản thảo
tha, sầu kín của con người. Đọc
Văn bản* tác giả viết ra trong
xong lời b. người đọc hiểu thêm về
quá trình hình thành tác phẩm.
dân ca Nam Trung bộ, nghĩa là hiểu
Có thể phân biệt hai loại: loại
sâu thêm về phần văn bản chính của
do chính tay tác giả viết, chữ viết
cuốn sách đã được trình bày. Nội
trong b.th. là chữ tác giả: loại khác
dung lời b. nói chung, tương đối tự
do tác giả đọc cho người khác viết do. hoặc đánh máy.
B. có khi do chính tác giả viết
Có thể có nhiều b.th. khác
(gọi là lời tự bạt). Một số nhà viết
nhau do sự sửa chữa, bổ sung nhiều
tiểu thuyết trên thế giới hay có lời tự lần của tác giả.
b. sau tác phẩm của mình.
B.th. cuối cùng được gọi là Bi ca định cảo.
Thể thơ trữ tình có quy mô
trung bình, nội dung giàu chất trầm
tư hoặc cảm xúc, thường là buồn
(còn gọi là kịch dram). Cơ sở xã hội
thảm, được diễn đạt phần lớn bằng
- thẩm mĩ của sự hình thành b.h.k. -
ngôi thứ nhất và kết cấu không theo
là cảm giác về tính tương đối trong một khuôn mẫu rõ ràng.
sự cảm thụ thực khách quan của nhà
B.c. ra đời ở Hy Lạp vào thế
văn. Nó thường nảy sinh vào những
kỉ VII trước C.N., lúc đầu có nội
thời điểm bước ngoặt của lịch sử và
dung chính trị đạo đức là chủ yếu.
được coi là dấu hiệu của sự khủng
Về sau trong thơ ca Hy Lạp và La
hoảng tinh thần. Khái niệm b.h.k.
Mã (kể riêng b.c.) để tài tình yêu
lần đầu tiên được nhà viết kịch La chiếm ưu thế.
Mã cổ đại Plot sử dụng với ý nghĩa
Hình thức b.c. cổ đại là thơ
là trong số các nhân vật hài kịch của
hai câu Trong thời trung cổ và Phục
ông sẽ có cả các vị thần vốn thường
Hưng, b.c. viết bằng tiếng La Tinh
chỉ xuất hiện trong các bi kịch. Đến
cúng bắt chước khuôn mẫu này. Đến
thời Phục Hưng, nội dung khái niệm
thế kỉ XVI - XVIII, b.c. được viết
này được mở rộng hơn. Tất cả các
bằng ngôn ngữ mới của các dân tộc
vở kịch trong đó có sự phá vỡ các
châu Âu và có những tác giả nổi
quy tắc định sẵn của bi kịch hoặc hài
tiếng như Rôngxar (1524 - 1585,
kịch cổ đại, chẳng hạn có sự pha Pháp), Xpenxer (1552 - 1599.
trộn các nhân vật cao cả với thấp
Anh)... Tuy vậy, trong suốt một thời
hèn, sự xen kẽ giữa pha nghiêm túc
gian dài. b c. vẫn bị coi là thể loại
với buồn cười, hoặc hành động bi
hạng nhì. Bước sang thời tiền lãng
kịch được kết thúc có hậu (và đây là
mạn và lãng mạn. b.c. mới đạt đến
nét duy nhất bắt buộc phải có), đều
độ phát triển cao, gắn liền với tên
được gọi là b.h.k. Cách hiểu này đến
tuổi nhiều nhà thơ lớn như Gớt
thế kỉ XVI còn được áp dụng. Vì thế
(1749 - 1832, Đức), Lamactin (1790
năm 1636, Cornây đã gọi vở kịch
- 1896. Pháp), Giucốpxki (1783 -
LơXit của mình là b.h.k bởi lẽ đó là
1852) và A.Puskin (1799 - 1837.
một vở bi kịch điển hình nhưng lại
Nga). Nhưng rồi sau đó b.c. mất dần
kết thúc có hậu. Từ thế kỉ XVII trở
tính chất đặc trưng về mặt hình thức
đi, yếu tố b.h.k. chỉ biểu hiện một
thể loại, nhưng đặc trưng nội dung
cách ngẫu nhiên, không còn là
vẫn còn xác định, nên thuật ngữ b.c.
những nét đặc trưng bền vững của
còn sử dụng để chỉ một truyền thống
tác phẩm thuộc một thể loại "thuần
nội dung vào nửa sau thế kỉ XIX và
tuý” độc lập nữa. Đến cuối thế kỉ
thế kỉ XX. thuật ngữ "bi ca" chỉ
XIX đầu thế kỷ XX nguyên lý b.h.k
dùng như tên gọi của một "chùm"
lại bắt đầu chiếm ưu thế trên kịch
(hoặc hệ) bài thơ nào đó, hoặc
trường châu Âu với các tác phẩm
những bài thơ riêng lẻ có nội dung
xuất sắc của Ipxen (1828 - 1906, Na buồn thảm.
Uy) và Sêkhôp (1860 - 1904, Nga)
Ở Việt Nam, có thể tìm thấy
như Con vịt giời, Cậu Vania, Vườn
chất bi ca trong các khúc "ngâm",
anh đào... chúng được coi là cội
"vãn" và nhiều bài thơ mới lãng mạn
nguồn của b.h.k. hiện đại. B.h.k.
của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Huy
hiện đại chú trọng vào việc tạo ra Cận...
trạng thái xúc động mang tính bi hài Bi hài kịch
kịch dựa trên cơ sở không tương
Thể loại văn học - sân khấu
xứng giữa nhân vật với tình huống.
mà tác phẩm của nó mang những nét
Tình huống trong b.h.k. phần lớn là
đặc trưng vừa của bi kịch*, vừa chứa
bi còn nhân vật lại không đạt tới tính
hài kịch*. Nó là hình thức trung gian
hoàn thiện và chủ nghĩa cực đoan
giữa bi kịch và hài kịch, nhưng về
của nhân vật bi kịch, thậm chí nhiều
mặt thể loại* khác với chính kịch
khi trở thành nhân vật hài kịch nữa.
Nhân vật chính của b.h.k. phụ thuộc
Kết thúc bi thảm của số phận nhân
vào hoàn cảnh và thường đóng vật
vật b.k. thường có ý nghĩa thức tỉnh,
hy sinh của biến cố và số mệnh.
dự báo về một cái gì tốt đẹp hơn sẽ
Trong b.h.k. hiện đại ít gặp trường
nảy sinh trong cuộc sống và mỗi con
hợp ngược lại là nhân vật bi kịch với
người. Trong b.k. qua cái chết của tình huống hài kịch.
nhân vật chính, người ta tìm thấy cái
Xung đột trong b.h.k thường
thiêng liêng vô giá của sự sống chân
bắt nguồn từ tính không quyết đoán
chính và cái bất tử của cộng đồng.
bên trong của nhân vật, vở kịch
Vì thế nhân vật chính của b.k.
thường kết thúc không đứt điểm và
thường là những nhân vật anh hùng
buộc khán giả phải suy nghĩ tiếp đến
với ý nghĩa tích cực cao cả. cùng.
B.k. ra đời rất sớm ở Hy Lạp
Ở nước ta, chưa thấy có một
cổ đại, bắt nguồn từ những nghi lễ
vở kịch nào được xây dựng theo
thờ cúng thần rượu nho Đionidốt ở
đúng những nguyên tắc thi pháp trên
đây, vào thế kỷ V trước C.N., b.k. đã
đây của b.h.k. như một thể loại
là một thể loại sân khấu rất thịnh “thuần tuý" độc lập.
hành với những tác giả nổi tiếng như Bi kịch
Etsilơ, Xôphôclơ, ơripit và những
Một thể loại kịch*, thường
tác phẩm bất hủ còn lưu giữ được
được coi như là đối lập với hài
đến ngày nay như Prômêtê bị xiềng, kịch*.
Antigôn, Orext v.v... Từ bấy đến B.k. phản ánh không phải
nay, b.k. đã trải qua nhiều bước
bằng tự sự mà bằng hành động của
thăng trầm và không ngừng đổi mới
nhân vật chính, mối xung đột không
về hình thức và nội dung nghệ thuật
thể điều hoà được giữa cái thiện và
để ngày một hoàn thiện hơn về mặt
cái ác, cái cao cả* và cái thấp hèn
thể loại và đáp ứng được ngày một
v.v... diễn ra trong một tình huống
tốt hơn nhu cầu xã hội - thẩm mỹ
cực kỳ căng thẳng mà nhân vật
của công chúng ở các thời đại khác
thường chỉ thoát ra khỏi nó bằng cái nhau.
chết bi thảm gây nên những suy tư
Vào các thế kỉ XVI - XVII. ờ
và xúc động mạnh mẽ đối với công
một số nước châu Âu như Anh, Pháp
chúng. Theo Arixtốt (384 - 322
V.V.... b.k. là thể loại văn học - sân
trước C.N.), b.k. là "Sự bắt chước
khấu rất thịnh hành gắn liền với tên
hành động hệ trọng và trọn vẹn"
tuổi các tác giả lớn như Sêcxpia
nhằm "dùng hành động chứ không
(1564 - 1616). Cornây (1606 - 1699)
phải bằng kể chuyện, bằng cách gây
và những tác phẩm tiêu biểu như:
nỗi xót thương và nỗi sợ hãi để thực
Hăm lét, Ôtelô, Lơ xít, Oraxơ,
hiện sự thanh lọc những nỗi xúc
Anđrômac v.v... Từ thế kỉ XVIII trở
động tương tự" (Nghệ thuật thi ca -
đi b.k. phát triển theo chiều hướng
chương 6). Như vậy, b.k. sẽ không
khác nhau và không còn bị ràng
còn là b.k. nữa nếu người xem
buộc chặt chẽ với những nguyên tắc
không bị rung động bởi hành động
thi pháp* cổ điển của nó nữa. Ở Việt
của nhân vật và nếu toàn bộ nỗi xúc
Nam, không có b.k. như một thể loại
động và khiếp sợ không dẫn đến
văn học - sân khấu theo quan niệm
được một giải quyết nào đó về tình
cổ điển, mà chỉ có một số vở tuồng
cảm theo hướng tích cực. Nhân loại
hoặc kịch hiện đại mà nội dung tư
tìm thấy ở tác phẩm b.k. những cái
tưởng nghệ thuật có chứa đựng yếu
gì khủng khiếp mà cái ác có thể gieo
tố b.k. Có thể coi vở Vũ Như Tô của
rắc, áp đặt cho mình, do đó không
Nguyễn Huy Tưởng là một ví dụ.
thể bàng quan và chịu khuất phục Biền ngẫu
trước sức mạnh tàn bạo của nó được.
Hình thức cấu trúc của một
nhất của nó là rất gò bó trong việc
loại văn chương cổ xưa ở phương
diễn tả tư tưởng, tình cảm. Tuy
Đông (được gọi là biền văn), trong
nhiên, đối với những cây bút lão
đó lấy đối làm nguyên tắc cơ bản,
luyện, với cảm xúc mãnh liệt, cũng
tạo cho lời vàn sự nhịp nhàng cân
có thể tạo ra những bài văn hay như đối.
Biệt phú của Giang Yêm. Vu thành
Theo nghĩa từ nguyên, biên là
phú của Bão Chiếu... thời Nam Bắc
hai con ngựa chạy song song với
triều ở Trung Quốc. Bạch Đằng
nhau và ngẫu là chẵn đôi. B.ng. là
giang phú của Trương Hán Siêu,
cách nói hình tượng hoá, chỉ câu văn
Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi,...
có các vế sóng đôi đối nhau từng
thời Trần, Lê ở Việt Nam.
cặp. Nguyên tắc đối trong b.ng. có
Biện pháp nghệ thuật
những yêu cầu rất chặt chẽ và phức
Những nguyên tắc thi pháp tạp.
trong việc tổ chức một phát ngôn -
Đối ý: Phải tìm được
nghệ thuật (nguyên tắc xây dựng cốt
hai ý có liên quan với nhau nhưng
truyện, quy tắc thể loại*, nguyên tắc
lại đối nhau để đặt thành hai vế
phong cách*, thể thức câu thơ). Tuy
trong câu, hai ý này có thể trái
nhiên trong nghiên cứu văn học*,
ngược hoặc thuận chiều với nhau,
người ta thường nói đến b.ph.ngh.th. v.d.:
khi xác định những hình thức mới - Đến nay nước sông tuy
hoặc khi nói đến việc sử dụng các vẫn chảy hoài
b.ph.ng.th. đã ổn định, cố định vào
Mà nhục quân thù không rửa
mục đích mới. Do đó b.ph.ngh.th. nổi
nào nổi bật sẽ có ý nghĩa đáng kể, (đối tương phản)
v.d.: việc đưa các yếu tố kỳ ảo và - Thuyền bè muôn đội,
nghịch dị* vào cốt truyện "giống tinh kỳ phấp phới.
như thật" của tác phẩm hiện thực
Hùng hổ ba quân, giáo gươm
chủ nghĩa, toàn bộ các b.ph.ng.th,
sáng chói (Trương Hán Siêu - Bạch
đặc thù của văn học "dòng ý thức",
đằng giang phú dịch từ nguyên tác
việc sử dụng một cách khác thường hán văn;
các hình thức cú pháp và nhịp điệu - Đố thanh: nghịch đối
trong thơ vào văn xuôi (V.d.: cách (trắc đối với bằng).
dùng từ độc đáo. "lệch chuẩn" trong
- Đối từ: đối theo nghĩa
tùy bút Nguyễn Tuân) v.v...
(cũng có nghịch đối và thuận đối).
Bên cạnh những b.ph.ngh.th
- Đối từ loại: thực từ đối
độc đáo của một tác giả hoặc một
với thực từ, hư từ đối với hư từ. thời đại văn học nào
Văn b.ng. có quá trình phát
đó, còn có những b.ph.ngh.th.
triển lâu dài ở Trung Quốc. Thời
sáo mòn mà nhà văn thường muốn
Ngụy Tấn Nam Bắc triều (220-589) khắc phục.
là thời kì thịnh đạt của b.ng. Đặc
Tuy vậy trong văn học vừa có
biệt thời Nam Bắc triều, biền văn
việc cải biến một cách có ý thức các
chiếm một vị trí rất quan trọng trong
b.ph.ngh.th. truyền thống, lại vừa có
văn học, lấn át các loại văn khác như
việc kế thừa chúng, cả ở cấp độ
tản văn. Thời đó b.ng. được coi là
phong cách cá nhân, cả ở cấp độ
thể tứ lục, vì mỗi câu có hai vế, vế
"phong cách lớn" của một thời đại,
trên bốn chữ, vế dưới sáu chữ. Các
v.d.: ở chủ nghĩa cổ điển* việc bắt
thể văn như phú*, cáo*, hịch*, văn
chước các mẫu mực được coi là tất
tế* v.v... đều được viết theo lối b.ng.
yếu, làm khác đi sẽ bị coi là sai trái.
Nhìn chung văn b.ng. chỉ chú
Sự ổn định của các b.ph.ngh.th. - nét
trọng về hình thức. Nhược điểm lớn
đặc thù của một thời đại văn học -
dẫn đến việc tạo nên các khuôn mẫu
ngược lại. Tất nhiên, đối với những
sẽ đưa tới thói học đòi. Các
thiên tài, khi cố tình vi phạm luật thơ
b.ph.ngh.th. khuôn mẫu vốn có chức
lại gây được hiệu quả nghệ thuật độc
năng đặc biệt, đáng kể về mặt thẩm đáo.
mỹ trong sáng tác dân gian. Biểu Biến thể
Thể văn thư bề tôi viết đưa
Hình thức phi chuẩn của bài
lên nhà vua để bày tỏ một điều gì
thơ luật mà một vài yếu tố bên trong
với lời lẽ cung kính dựa vào nội
của nó đã vượt ra ngoài quy tắc
dung và chủ đề*, người ta chia b.
thông thường của thể thơ đó, nhưng
thành các loại nhỏ, như tạ biểu (biểu
vẫn duy trì các nguyên tắc chủ yếu,
tạ ơn), hạ biểu (biểu chúc mừng),
không dẫn đến việc biến thành một
trần tình biểu (biểu trình bày sự việc, thể thơ khác.
tình cảm), v.d.: Biểu tạ ơn của
Chẳng hạn "lục bát gián thất"
Nguyễn Trãi khi được nhà vua
do hai câu bảy chữ được đưa lui sau
phong chức Gián nghị đại phu kiêm
hai câu sáu tám. Thể lục bát có các
hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ tri tam
biến thể do thay đổi cách gieo vần
quán sự. Biểu trần tình của Lí Mật.
bằng bằng vần trắc như: Bút danh Tò vò mà nuôi con nhện
Tên tác giả được dùng để
Đến khi nó lớn nó quện nhau
công bố các tác phẩm thay thế tên đi
thật. Chẳng hạn, Chế Lan Viên là (ca dao)
b.d. của Phan Ngọc Hoan, Nam Cao
hoặc thay đổi vị trí gieo vần:
là b.d. của Trần Hữu Tri, Tố Hữu là Núi cao chi lắm núi ơi
b.d. của Nguyễn Kim Thành... sử
Núi che mặt trời không thấy
dụng b.d. là hiện tượng phổ biến người thương
trong văn học toàn thế giới thuộc (Ca dao)
mọi thời đại, đặc biệt là ở phương
B.th. còn được xây dựng do Đông.
việc thay đổi số chữ trong câu so với
Có rất nhiều kiểu đặt b.d. Có
quy định, v.d.: thể thơ Đường luật*
b.d. chỉ là những chữ cái, có b.d.
thường có bảy chữ trong câu. Nhưng
được đặt theo chữ lót và tên thật của
b.th. của nó có thể chen vào một câu
nhà văn, như Huy Thông (Phạm Huy sáu chữ:
Thông), Xuân Diệu (Ngô Xuân Rồi, hóng mát thuở ngày
Diệu), Huy Cận (Cù Huy Cận), Tế trường
Hanh (Trần Tế Hanh)... Lại có người
Hòe lục đùn đùn, tán rợp
lấy chữ lót và họ thật làm b.d. như giương... Nguyễn Bính (Nguyễn Bính (Nguyễn Trãi)
Thuyết). B.d. Thế Lữ do chữ lót và
Việc thay đổi nhịp điệu khác
tên thật của nhà thơ nói lái lại với
thường trong câu thơ cũng có thể tạo
nhau mà thành (Nguyễn Thứ Lễ).
ra b.th., tuy nhiên trường hợp này
Nhiều nhà văn dùng các bút danh không tiêu biểu.
mang ý nghĩa tượng trưng nhằm làm
Như vậy, b.th. thường gắn với
cho người đọc chú ý đến một đặc
những thể thơ có quy định tương đối
điểm tính cách nào đó hoặc ý đồ
chặt chẽ về vần*, luật. Thể thơ tự
sáng tác của mình, chẳng hạn Tú do* không có b.th.
Mỡ, Thợ Rèn,... lại có những nhà
Cần phân biệt hiện tượng b.th.
văn vừa kí b.d. vừa ký tên thật.
và hiện tượng vi phạm luật thơ. B.th. Bút kí
là hiện tượng được mọi người thừa
Thể loại thuộc loại hình kí
nhận, được phổ biến và có giá trị
thướng có quy mô tương ứng với
thẩm mỹ, còn vi phạm luật thơ thì
truyện ngắn*. B.k khác truyện ngắn
ở chỗ b.k. không sử dụng hư cấu*
Trong văn học b.ph.. là cách
vào việc phản ánh hiện thực.
thức hành văn, dùng chữ, bố cục,
B.k. ghi lại những con người
cách sử dụng các phương tiện biểu
và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu
hiện để tạo thành một hình thức
nghiên cứu cùng với những cảm
nghệ thuật nào đó. Ở đây b.ph. cũng
nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư
tức là cách viết, lối viết.
tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết
Người ta thường nói: b.ph.
phục của b.k. tùy thuộc vào tài năng
trào lộng, b.ph trữ tình, b.ph. cổ
trình độ quan sát, nghiên cứu khám
kính... là do sử dụng các biện pháp
phá, diễn đạt của tác giả đối với các
trào lộng, trữ tình hay từ cổ, cách
sự kiện được đề cập đến nhằm khám
diễn đạt cổ mà nên v.d.: "Bút pháp
phá ra những khía cạnh “có vấn đề",
sở trường của Chủ tịch Hồ Chí Minh
những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc trong
trang truyện và kí là châm biếm"
va chạm giữa tính cách và hoàn
(Phạm Huy Thông). "Trong thơ trữ
cảnh, cá nhân và môi trường. Nói
tình, Bác thường dùng bút pháp hiện
cách khác, giá trị hàng đầu của b.k.
thực và bút pháp tượng trưng" là giá trị nhận thức. (Nguyễn Đăng Mạnh).
B.k. có thể thuộc về vần học
Khái niệm b.ph. do trực tiếp
cũng có thể thuộc về báo chí tuỳ
gián với cách viết, lối viết, nên có
theo mức độ biểu hiện cái riêng của
phấn tương đồng với khái niệm
tác giả và mức độ sử dụng các biện
phong cách*, văn phong*. Bởi chữ
pháp nghệ thuật cùng tính chất tác
phong cách trong tiếng Hy Lạp,
động của nó đối với công chúng.
Latinh lúc đầu cũng có nghĩa là cây
B.k. có thể thiên về khái quát
bút, sau mở rộng thành chữ viết,
các hiện tượng đời sống có vấn đề,
cách viết. Tuy nhiên nội dung khái
hoặc thiên về chính luận. Nếu ở loại
niệm phong cách nay được hiểu rộng
trên, tác giả chú ý nhiều đến việc
hơn, có tính hệ thống hơn. còn b.ph.
điển hình hóa những tính cách* bằng
thường chỉ yếu tố của phong cách.
nhiều biện pháp nghệ thuật như: xây
dựng cốt truyện* (tuy không chặt Bút tích
chẽ như trong truyện ngắn, nhất là
Chữ do tác giả viết được lưu
không có xung đột duy nhất), sử giữ lại.
dụng các yếu tố liên tưởng, trữ
tình..., thì trường b.k. chính luận
thường nổi lên những hiện tượng của
đời sống xã hội mà tác giả nắm bắt Ca dao
được cái thực chất bên trong của
chúng mà mô tả nó một cách chính
Còn gọi là phong dao.
xác, sinh động, có kèm theo những
Thuật ngữ c.đ. được dùng với
nhận xét riêng của mình hoặc của
nhân vật, phân tích đánh giá cuộc
nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau.
sống được mô tả. Ở đây yếu tố nghị
Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát
luận, châm biếm, hài hước thường
có khúc điệu, dao là bài hát không
được sử dụng nhiều hơn. Bút pháp có khúc điệu.
Vốn là thuật ngữ của thư pháp
c.d. là danh từ chung chỉ toàn
- nghệ thuật viết chữ Nho, chỉ cách
bộ những bài hát lưu hành phổ biến
cầm bút, cách đưa đẩy nét bút để tạo
trong dân gian có hoặc không có
dáng chữ đẹp. Chẳng hạn: "Khen
khúc điệu. Trong trường hợp này
rằng bút pháp đã tinh” (Truyện
c.d. đồng nghĩa với dân ca*. Kiều).
Do tác động của hoạt động sưu
tượng mới mà chưa từng có trong
tầm, nghiên cứu văn học dân gian,
lịch sử ca dao trước Cách mạng
c.d. đã dần dần chuyển nghĩa. Từ tháng Tám (1945).
một thế kỉ nay, các nhà nghiên cứu
Dựa vào chức năng kết hợp với
văn học dân gian Việt Nam đã dùng
hệ thống đề tài, có thể phân ca dao
danh từ c.d. để chia riêng thành phần
cổ (hay ca dao cổ truyền) thành
nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ)
những loại ca dao khác nhau, như ca
của dán ca (không kể những tiếng
dao ru con. ca dao tình yêu, ca dao
đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi). Với
về tình cảm gia đình, ca dao than
nghĩa này. c.d. là thơ dân gian
thân, ca dao trào phúng v.v... truyền thống Ca trù v.d. câu ca dao:
Còn gọi là hát ả đào hay hát
Làm trai quyết chí tu thân cô đầu.
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Một loại ca nhạc thính phòng
Vốn được rút ra từ bài dân ca
thịnh hành trong giới nho sĩ miền
hát cách với những tiếng đệm. tiếng
Bắc (từ Nghệ Tĩnh trở ra) dưới thời láy, tiếng đưa hơi như
phong kiến (từ khoảng thế kỉ XV sau:
đến đầu thế kỉ XX), đặc biệt là ở các
Làm trai- quyết chí (mà) tu (ý)
đô thị (Hà Nội, Nam Định...). Gọi là
thân. Công danh (là công danh) chớ
c.tr. vì khi ca người nghe dùng "trù"
vội (chớ đả), nợ nần (mà nợ nần)
(cái thẻ tre) để thưởng những chỗ
chớ lo (ý y y ý y)...
hát hay, cuối cùng đếm thẻ để bình
giá và thưởng tiền. Hát c.tr. có cả
Từ sau Cách mạng tháng Tám
đào lẫn kép nhưng đào là chủ yếu
(1945) trên sách báo nước ra đã xuất
nên được gọi là hát ả đào, (về sau,
hiện danh từ ca dao mới để phân
đầu thế kỉ XX mới gọi là hát cô đầu,
biệt ca dao cổ (hay cao dao cổ
hát nhà trò), c.tr. vốn có nguồn gốc truyền).
từ lối hát cửa đình (hát thề. hát tế
Ca dao mới khác với ca dao
thần phổ biến ở nước ta từ thời
cổ về khá nhiều phương diện (về
Trần), qua hình thức hát cửa quyền,
thời gian, hoàn cảnh, lực lượng sáng
hát hoá, thiếu khái quát hoá thì
tác, hệ thống đề tài, chủ đề, phương
c.t.h.n.v. trở nên vô nghĩa, nhưng
thức và phương tiện lưu truyền, phổ
không có c.t.h. n.v. thì cũng không
biến...). Ngoài phương thức sáng tác
thể thực hiện điển hình hoá được.
và lưu truyền bằng miệng của nhân
dân ca dao mới còn được sáng tác và
c.t.h.n.v đòi hỏi nhà văn phải có
phổ biến bằng văn tự của các văn
một vốn sống phong phú, một sự
nghệ sĩ chuyên nghiệp hoặc nghiệp
hiểu biết sâu sắc và một năng lực
dư. Những tập ca dao thành văn khái quát.
được xuất bản trong mấy chục năm
qua (như ca dao kháng chiến, ca dao Cá tính sáng tạo
chống Mĩ, ca dao chống hạn...) thiên
Các đặc điểm phẩm chất toàn
về tuyên truyền chính trị là một hiện
vẹn của một nghệ sĩ bao gồm các
mặt triết học, mĩ học, tâm lí xã
hội, thị hiếu, phong cách, ngôn
tự biểu hiện mình một cách độc đáo ngữ nghệ thuật... trong sinh hoạt.
c.t.s.t. là’ biểu hiện rực rỡ
c.t.s.t. là cơ sở của phong
của các phạm trù cái chủ quan,
cách* nghệ thuật, là nhân tố không
cái cá biệt, cái không lặp- lại
thể thiếu của quá trình văn học*.
trong tài năng của nghệ sĩ. Nó
không mâu thuẫn với các phạm
trù cái khách quan, cái chung,
cái điển hình, cái lặp lại, mà Cái bi
ngược lại, nó gắn bó hữu cơ với
Phạm trù mĩ học phản ánh một
chúng, và cũng chỉ trong sự
hiện tượng có tính quy luật của thực
thống nhất đó thì nghệ sĩ mới
tế đời sống xã hội thường diễn ra
khám phá được cái mới trong
trong cuộc đấu tranh không ngang lĩnh vực nghệ thuật.
sức giữa cái thiện với cái ác, cái mới
c.t.s.t. biểu hiện tập trung ở cái
với cái cũ, cái tiến bộ với cái phản
nhìn nghệ thuật độc đáo, ở cách cảm
động... trong điều kiện những cái sau
nghĩ của nhà văn có khả năng đề
còn mạnh hơn những cái trước. Đó
xuất những nguyên tắc, biện pháp
là sự trả giá tự nguyện cho những
nghệ thuật mới mẻ, tạo thành một
chiến thắng và sự bất tử về tinh thần
ngôn ngữ nghệ thuật mới trong việc
bằng nỗi đau và cái chết của nhân
biểu hiện những nội dung mới của
vật chính diện, c.b. tạo ra một cảm
đời sống và tư tưởng. Chẳng hạn
xúc thẩm mĩ phức hợp bao hàm cả
Nguyễn Du có con mắt tinh đời
nỗi xót đau, niềm hân hoan lẫn nỗi
trong việc biểu hiện các ngõ ngách
sợ hãi khủng khiếp, c.b. thường đi
liền với nỗi đau và cái chết, song
phức tạp của cuộc sống con người,
bản thân nỗi đau và cái chết chưa
lại có biệt tài nắm bắt và miêu tả
phải là c.b. Chúng chỉ trở thành c.b.
chính xác một cách thần tình các
khi hướng tới và khẳng định cái bất
tâm trạng, thần thái nhân vật chỉ qua
tử về mặt tinh thần của con người,
vài nét, ông là người có khả năng sử
c.b. là cơ sở quy định đặc trưng của
dụng tiếng Việt một cách uyển
xung đột* nghệ thuật trong thể loại
chuyển, mềm mại, tạo thành điển
bi kịch*. Đó là loại xung đột được
phạm của ngôn từ nghệ thuật. Nhà
tạo nên bởi hành động tự do của
văn Nga F.Đôtxtôiépxki có thể nắm
nhân vật trong việc thực hiện cái tất
bắt những cuộc đối thoại của thời
yếu mà nó tự thấy trước là không
đại, tính nhiều tiếng nói của cuộc
tránh khỏi bị giết chết như nhân vật
sống, tính lưỡng tính của thực tại
trong bi kịch anh hùng hoặc không
ngay ở nơi mà người khác chỉ thấy
thấy trước như trong bi kịch về sự
có độc thoại, tính đơn giọng và tính lầm lạc.
đồng nhất. Còn L.Tônxtôi lại có khả
Bi kịch, về bản chất là ca ngợi,
năng thể hiện phép biện chứng tâm
khẳng định sự bất tử của con người hồn,
và phát hiện những phẩm chất cao
Chính vì vậy, không nên đồng
đẹp, anh hùng của nó. Hêghen cho
nhất c.t.s.t. trong nghệ thuật với cá
rằng, trong bi kịch cái chết không
tính sáng tạo trong đời sống, là
chỉ là sự huỷ diệt. Nó còn có nghĩa
người có khả năng giải quyết các
là sự bảo tồn dưới hình thức biến
khó khăn do hoàn cảnh đặt ra hoặc
dạng cái mà trong hình thức có sẵn
cần phải bị tiêu vong. Ăngghen thì
Về nhận thức lý thuyết. thời cổ
cho rằng cội nguồn của c.b. là xung
Hy Lạp, khái niệm c.c.c. chưa được
đột giữa đòi hỏi tất yếu về mặt lịch
coi là một phạm trù mĩ học. mà chỉ
sử với tình trạng không thể thực hiện
là một hình thức biểu hiện của
được nó trong thực tiễn".
phong cách thuộc tu từ học.
Trong văn học - nghệ thuật, c.b.
Về sau. khi người ta phát hiện
qua mỗi thời đại vừa không thay đổi
ra nguồn gốc tinh thần quan trọng
(v.d. cảm hứng duy nhất về mặt loại
nhất của c.c.c. là những tư tưởng và
hình), lại vừa dễ thay đổi (về mặt
khát vọng khác thường và khi vẻ đẹp
bản chất xã hội - lịch sử thể hiện ở
của lời nói hoà hợp với những tư
tính chất, hình thái xung đột).
tưởng vĩ đại, thì nội dung của khái
Chẳng hạn trong bi kịch của
niệm này mới được mở rộng sang
Sêcxpia, c.b. là cái xung đột giữa ý phạm trù mĩ học.
thức cá nhân của con người với thời
Thời Trung cổ, các nhà thờ kiểu
đại và thiết chế xã hội cũng như
Gôtích là biểu trưng của c.c.c. như
chính bản thân mình. Còn trong bi
một phạm trù mĩ học, Bằng những
kịch của chủ nghĩa cổ điển* thì nó
đường nét kiến trúc vươn thẳng lên,
lại là xung đột giữa dục vọng, khát
các nhà thờ ấy đã thể hiện vẻ đẹp
vọng cá nhân với tinh thần nghĩa vụ
của sức mạnh và khát vọng lớn lao quốc gia.
của con người, nhưng đồng thời
Trong văn học - nghệ thuật ngày
cũng thể hiện quan niệm tôn giáo
nay, c.b. được khám phá và thể hiện
cho rằng mọi ước vọng của con
trên nhiều khía cạnh và từ trong cội
người gắn liền với bầu trời và
nguồn lịch sử - xã hội của nó. Ờ đây,
cái bất tử của nhân vật được thực thượng giới.
hiện trong cái bất tử của nhân dân, vì
Thời Phục Hưng, c.c.c. được
thế c.b. mang tính chất lạc quan lịch
Mikenlăng thể hiện một cách hoàn sử.
hảo qua bức tượng Đavit nổi tiếng
của ông. Ở đây, bằng ngôn ngữ điêu
khắc, tác giả muốn nói rằng con Cái cao cả
người là hùng mạnh, là vạn năng, và
Phạm trù mĩ học phản ánh một
những khả năng tiềm ẩn trong nó sẽ
thuộc tính thẩm mỹ khách quan vốn
trỗi dậy và tuôn trào vào hành động
có của những hiện tượng và khách
sáng tạo thế giới theo quy luật của
thể có ý nghĩa xã hội tích cực, có con người.
ảnh hưởng đến đời sống tinh thần
Trong văn học - nghệ thuật cổ
của các đản tộc hoặc toàn nhân loại.
điển chủ nghĩa.*, c.c.c. được đặc
Thuộc tính ấy là tính vĩ đại, tính ưu
biệt coi trọng và thể hiện tập trung
việt như một sức mạnh tiềm tàng
nhất ở các thể loại bi kịch và tụng lớn.
ca. Hêghen coi c.c.c. là một giai
Secnưsepxki định nghĩa: "Cái
đoạn vận động của ý niệm tuyệt đối
cao cả là cái lớn hơn, mạnh hơn rất
trong nghệ thuật, đó là giai đoạn
nhiều những hiện tượng mà chúng ta
lãng mạn khi mà tinh thần và nội so sánh".
dung trội hơn vật chất và hình thức.
Mĩ học phương Tây hiện đại
nhận và làm giàu lí tưởng thẩm mĩ*.
cho rằng c.c.c. và cái đẹp* là một.
Trong lịch sử mĩ học. c.đ. và sự cảm
C.c.c. theo họ, chính là cái đẹp đang
thụ c.đ. được xem xét ở bình diện
đi tìm gặp những nhu cầu của con
mối quan hệ giữa cái tinh thần và cái
người trong cái vĩ đại, cái ưu việt
vật chất, cái khách quan và cái chủ nào đó.
quan, cái tự nhiên và cái xã hội, giữa
Các nhà mĩ học Mác-xít xem
nội dung và hình thức. Đặc trưng
c.c.c. như là một phạm trù bên cạnh
của c.đ. được xác định thông qua
cái đẹp. Khác với cái đẹp, C.C.C.
mối quan hệ của nỏ với các loại hình
phản ánh đặc tính của những đối
giá trị khác: giá trị thực dụng (lợi
tượng, hiện tượng có ý nghĩa đặc
ích), giá trị nhận thức (chân lí), giá
biệt tích cực đối với đời sống xã hội
trị đạo đức (cái thiện). Đối với vấn
và hàm chứa trong bản thân những
đề c.đ là thuộc tính khách quan hay
sức mạnh tiềm tàng to lớn.
chỉ là vấn đề chủ quan, các khuynh
Có hai kiểu cao cả. Có cái cao
hướng, học thuyết mĩ học khác nhau
cả làm vẻ vang sức mạnh, lực lượng
có những cách giải quyết khác nhau,
của con người và có cái cao cà chế
tuỳ thuộc vào phương pháp luận triết
áp nó. Sự nhận thức - cảm thụ c.c.c.
học, trước hết là cách giải quyết vấn
thường diễn ra trong quá trình. Do
đề cơ bản của triết học. Mĩ học Mác-
tầm vóc to lớn và sức mạnh tiềm ẩn
xít nhấn mạnh sự liên hệ có tính quy
vĩ đại của chúng, những hiện tượng
luật giữa c.đ và hoạt động lao động
cao cả thường không dễ nắm bắt
của con người, coi hoạt động này là
hoàn toàn ngay một lúc được.
cơ sở nảy sinh cảm quan thẩm mĩ.
Mĩ học Mác-xít coi c.đ. là thuộc tính
khách quan bởi vì nó là giá trị nhân Cái đẹp
bản - xã hội được tạo ra trong sự tác
động qua lại của tự nhiên và xã hội,
Phạm trù mĩ học xác định các
của con người và con người trong
hiện tượng theo quan điểm về sự
quá trình thực tiễn xã hội lịch sử. Sự
hoàn thiện, xem các hiện tượng đó
đánh giá c.đ. (bộc lộ qua tình cảm
như là có giá trị thẩm mĩ cao nhất.
thẩm mĩ, lí tưởng thẩm mĩ*) lại có
Có thể xem các hiện tượng là đẹp
tính chất chủ quan, và có thể chân
khi với tính toàn vẹn cụ thể cảm tính
thực hoặc giả dối tùy theo chỗ nó
của chúng thể hiện những giá trị
tương ứng hay không tương ứng với
nhân bản, xã hội, do sự khẳng định
c.đ. như là giá trị khách quan. Mĩ
giá trị của con người trong thế giới,
học Mác-xít cũng nhấn mạnh sự liên
chứng tỏ sự mở rộng giới hạn tự do
hệ biện chứng giữa cái hữu ích với
của xã hội và con người, thúc đẩy sự
cái đẹp và cái thiện, trong khi nhiều
phát triển hài hoà của nhân cách,
học thuyết mĩ học khác đem đối lập
làm nảy sinh và bộc lộ ngày càng
cái đẹp với cái hữu ích và với sự
đầy đủ những sức mạnh và năng lực nhận thức.
của con người. Bởi vậy. việc cảm
Nghệ thuật là lĩnh vực đặc
thụ c.đ. thức tỉnh niềm vui sướng,
biệt của việc sáng tạo và thể hiện
tình yêu vô tư, cảm giác tự do, xác
c.đ., nhưng các tác phẩm nghệ
thuật chỉ đẹp, tức là có giá trị nghệ
Nó phủ định cái lỗi thời xấu xa nhân
thuật khi nó thể hiện chân thực đời danh cái cao đẹp.
sống trong mọi biểu hiện thẩm mĩ
của nỏ thông qua lăng kính của lí
c.h. là cơ sở quy định đặc trưng
tưởng nhân đạo, thể hiện được sự
của xung đột nghệ thuật trong thể
phong phú về tinh thần của cá nhân
loại hài kịch. Đó là loại xung đột
con người, và dưới một hình thức
giữa cái vốn là hiện tượng của đời hoàn thiện bậc thầy.
sống thực tế với cái mà nó (hiện
tượng) cố ý làm ra thế, muốn tỏ ra, muốn giả bộ thế. Cái hài
Trong văn học, nghệ thuật,
Phạm trù mĩ học phản ánh một
tiếng cười thường có nhiều cung bậc
hiện tượng phổ biến của thực tế đời
và mang những sắc thái khác nhau.
sống vốn có khả năng tạo ra tiếng
Người ta thường coi umua, hài
cười ở những cung bậc và sắc thái
hước* là cung bậc đầu tiên và châm
khác nhau. Đó là sự mâu thuẫn, sự
biếm* là cung bậc cuối cùng. Trong
không tương xứng mà người ta có
umua, phép biện chứng của trí tưởng
thể cảm nhận được về phương diện
tượng phóng khoáng hé mở cho ta
xã hội - thẩm mĩ (chẳng hạn hình
thấy đằng sau cái tầm thường là cái
thức với nội dung, hành động với
cao quý, sau cái điên rồ là cái anh
tình huống, mục đích và phương
minh, sau cái buồn cười là nỗi đau.
tiện, bản chất và biểu hiện V.V...).
Trong đó, hoặc là chính bản thân
Trái lại trong châm biếm, đối
mâu thuẫn là một trong những mặt
tượng của tiếng cười là thói hư tật
của nó đối lập với những lí tưởng
xấu, nên nổi bật lên cái giọng đả thẩm mĩ* cao đẹp.
kích, phủ định, tố cáo. Tiếng cười
còn mang những sắc thái phong phú
Secnưsepxki, nhà văn, nhà tư
đa dạng: cười khinh bỉ, cười thiện
tưởng Nga định nghĩa: "Cái hài là
cảm, cười nghiêm khắc, cười chua
sự trống rỗng và sự vô nghĩa bên chát v.v...
trong được che đậy bằng một cái vỏ
Đối với c.h., dù ở cung bậc nào
huênh hoang tự cho rằng có nội
của tiếng cười cũng cần có ba yếu tố
dung và ý nghĩa thực sự".
tạo thành sau đây- Một là, bản chất
c.h. gắn với cái buồn cười,
mang tính hài hước của đối tượng
nhưng không phải cái buồn cười nào
mà ai cũng dễ dàng cảm nhận được. cũng trở thành c.h.
Đây là yếu tố cơ bản. Hai là, sự
cường điệu những đường nét. kích
c.h. bao hàm một ý nghĩa xã
thước và những liên hệ của chúng
hội gắn liền với sự khẳng định thẩm
trong việc mô tả đối tượng. Ba là, sự
mĩ cao cả. Nó là sự phê phán mang
sắc bén. ý nhị, hóm hỉnh của người
tính cảm xúc sáng tạo tích cực, và có
thể hiện nhằm làm tăng thêm hiệu
sức công phá mạnh mẽ đối với quả của tiếng cười.
những cái xấu xa lỗi thời. Sức mạnh
phê phán của nó vừa có tính phủ
định lại vừa mang tính khẳng định. Cái hùng
Phạm trù mĩ học nhằm khám
Nhưng đối với một số thể thơ
phá toàn bộ giá trị của những hành
nhất định, như các thể thơ cổ điển,
động có ý nghĩa xã hội, đòi hỏi một
cấu trúc chặt chẽ thì các yếu tố
con người hoặc một tập thể người
nghĩa cũng có thể tham gia tạo nên
(nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc) phải
c.l. v.d. sự bắt buộc đối ý đối lời
gồng lên mức cao nhất những sức
trong các cặp câu thực và luận
lực thể chất và tinh thần, lòng dũng
trong thể thơ Đường thất ngôn bát
cảm, hy sinh. Là một trong những cú:
dạng thức của cái cao cả*, c.h. gắn
bó mật thiết với cái bi*. Bản chất
Lom khom dưới núi tiều vài chú
của cái hùng là khắc phục những
Lác đác bên sông chợ
mâu thuẫn gay gắt, không điều hòa, mấy nhà,
và để khắc phục chúng nhiều khi
phải trả giá bằng sinh mạng. Trong
Nhớ nước đau lòng con
nghệ thuật., c.h. thể hiện trong việc quốc quốc,
khẳng định một lí tưởng thẩm mĩ
Thương nhà mỏi miệng
cao. trước hết là thông qua hình
tượng người anh hùng, những biểu cái gia gia.'
hiện anh hùng. Những hình tượng đó (Bà huyện Thanh Quan
thường là hiện thân của xu thế tiến - Qua đèo Ngang)
bộ xã hội, của sự kiên cường về đạo
đức, sự lớn lao của tinh thần. Xây
dựng nhân vật là phương thức chính,
tuy không phải duy nhất, để thể hiện Cách ngôn
c.h. bằng nghệ thuật, c.h. cũng còn
Loại câu nói ngắn gọn, súc tích
được biểu hiện thông qua lập trường
có ý nghĩa giáo dục đạo đức, tư
tích cực của tác giả (v.d. trong thể
tưởng, được nhiều người coi là
loại châm biếm, trào lộng). Các hình
chuẩn mực, khuôn thước để làm
thức thẩm mĩ thể hiện c.h. phụ thuộc
theo và vươn tới. c.ng. cũng có thể
vào loại hình, thể loại nghệ thuật,
được rút ra trong kho tàng tục ngữ
vào phương pháp nghệ thuật mà
của nhân dân hoặc từ những trước nghệ sĩ lựa chọn.
tác, những lời nói của các lãnh tụ,
các học giả, các nhà văn học lớn. v.d: Cách luật
- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng
- Thương người như thể thương thân.
Toàn bộ những quy tắc tổ chức
ngôn từ thơ ca được cố định lại
thành một thể thức nhất định, lặp đi
- Không pháp thuật nào mạnh hơn pháp
lặp lại trong các tác phẩm.
thuật của lời nói.
Nền tảng của c.l. là các quy tắc (A.Phrăng) • • * •
tổ chức ngôn từ về mặt âm thanh,
gieo vần, ngắt nhịp, đối thanh (luật
- Con người làm sao thì họ sẽ tranh luận
bằng trắc), số dòng, số tiếng trong với nhau làm vậy.
một dòng v.v... (X.Lục bát*, song (F.Angghen)
thất lục bát*, thơ Đường luật*).
Cảm hứng chủ đạo Cáo
Trạng thái tình cảm mãnh liệt,
say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ
Một thể văn thư nhà vua dùng
thuật, gắn liền với một tư tưởng xác
để ban bố cho thần dân nhằm trình
định, một sự đánh giá nhất định, gây
bày chủ trương, công bố kết quả một
tác động đến cảm xúc của những sự nghiệp.
người tiếp nhận tác phẩm. Bêlinxki
coi c.h.ch.đ. là điều kiện không thể
Bài c. lớn nhất, tiêu biểu và có
thiếu của việc tạo ra những tác phẩm
giá trị nhất ở nước ta là Bình ngô đại
đích thực, bởi nó "biến sự chiếm lĩnh
cáo do Nguyễn Trãi viết năm 1428
thuần tuý trí óc đối với tư tưởng
thành tình yêu đối với tư tưởng, một
theo lệnh của Lê Lợi. c. có thể được
tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng
viết bằng văn xuôi (tản văn) nhưng nhiệt thành".
phần nhiều được viết theo thể văn
Thuật ngữ c.h.ch.đ. lúc đầu chỉ biền ngẫu*.
yếu tố nhiệt tình say sưa diễn thuyết,
sau chỉ trạng thái mê đắm khi xuất
hiện tứ thơ. Về sau lý luận văn học
xem c.h.ch.đ. là một yếu tố của bản
thân nội dung nghệ thuật, của thái độ
tư tưởng xúc cảm ở nghệ sĩ đối với
thế giới được mô tả. Theo nghĩa này.
c.h. ch.đ. thống nhất với đề tài và tư
tưởng của tác phẩm. C.h.ch.đ. đem
lại cho tác phẩm một không khí xúc
cảm tinh thần nhất định, thống nhất
tất cả các cấp độ và yếu tố của nội
dung tác phẩm. Đây là cái mức căng
thẳng cảm xúc mà nhờ đó nghệ sĩ
khẳng định các nguyên tắc thế giới
quan của mình trong tác phẩm.
Trong nghiên cứu văn học*
hiện đại, có người phân loại
c.h.ch.đ.: bi kịch*, chính kịch*, anh
hùng*, cảm thương, lãng mạn*, trữ
tình*, trào lộng*, châm biếm* (dùng
như những định ngữ). Có thể gọi tắt
những c.h.ch.đ. là "cảm hứng", v.d.:
cảm hứng anh hùng, cảm hứng trào
lộng v.v... nhưng c.h.ch.đ. trong tác
phẩm cụ thể là một hiện tượng độc
đáo không lắp lại, gắn với tình cảm của tác giả.
Tuy có nhiều tác dụng khác Câu đố
nhau (như đức dục, mĩ dục...) nhưng tác
Một thể loại văn học dân gian mà
dụng chủ yếu của câu đố là trí dục. Lối ẩn
chức năng chủ yếu là phản ánh sự vật
dụ trong câu đố là một lối ẩn dụ riêng,
hiện tượng bằng phương pháp giấu tên
khác với lối ẩn dụ thông dụng trong văn
và nghệ thuật chuyển hoá (chuyển vật
học nghệ thuật (cái ẩn trong câu đố là cái
nọ thành vật kia), được nhân dân dùng
hoàn toàn vô định, không nhất thiết phải
trong sinh hoạt tập thể để thử tài suy
là cái thuộc về con người trong văn học
đoán, kiểm tra sự hiểu biết và mua vui,
nghệ thuật). Dựa vào những biểu hiện giải trí.
khác nhau về nội dung, hình thức, người
ta còn chia c.đ. thành các loại, các nhóm
Đơn vị tác phẩm của thể loại này
khác nhau, như loại đố tục giảng thanh,
được gọi là câu, vì nó đều rất ngắn,
loại đố chữ, loại đố nói và đố giảng v.v...
tương tự như những câu tục ngữ và ca dao, v.d.:
- Anh lớn mặc áo đỏ. Em nhỏ mặc áo xanh (Quà ớt) Câu đốì
Một thể văn đặc biệt có quy mô nhỏ,
- Một đàn cò trắng phau phau
mỗi đơn vị tác phẩm (được gọi là câu) gồm
Ăn no tắm mát rủ nhau đi
hai vế (thực chất là hai câu) đối xứng với nằm.
nhau về từ loại, âm thanh và ý nghĩa, dùng
để biểu lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ trước (Những cái bát ăn cơm)
một con người, một sự việc hoặc một cảnh
Nhưng cũng không ít những c.đ. dài
(tương tự như một bài ca dao hay một bài thơ), v.d.: Con hai đứa hai nơi
Gặp nhau một chỗ cùng chơi một phòng
Không may nhà sập thì chồng
Tan xương nát thịt máu hồng chứa chan.
(Trầu cau và việc ăn trầu)
vật; một đối tượng nào đó
điểm của tiếng Việt về ngữ âm, ngữ pháp
mà chú thể (tác giả) quan tâm chú
từ vựng rất thuận lợi cho việc làm c.đ. trở
thành phương thức phổ biến của cả văn
ý. Câu đối dùng để đọc, hoặc dán.
học viết lẫn văn học truyền miệng, là một
khấc (trang trí ở nơi trang trọng) để
món ăn tinh thần truyền thống, một thú
chơi tao nhã, phù hợp với nhiều trường
tỏ chí, đối đáp, chúc mừng, ghi
hợp, hoàn cảnh và sinh hoạt xã hội khác
công, viếng người chết, hoặc đùa
nhau.c.đ. hay bất luận ngắn hay dài.
vui, cười nhạo... Sức mạnh của c.đ.
Nôm hay chữ (chữ Hán) đều cốt ở
là tính khái quát cao, súc tích, v.d,
sự mới mẻ. sâu sắc về nội dung và
câu đối tuyệt mệnh của Trần Hữu
hoàn thiện, độc đáo về hình thức. Lực:
Non sông đã chết, ta há lại sống
thừa, từ mười năm rửa kiếm mài
Cấu trúc của tác phẩm
dao, chí mạnh những mong phò Tổ
Tổ chức nội tại. mối quan hệ
quốc. Lông cánh chưa thành, việc
qua lại của các yếu tố của tác phẩm
bỗng đâu hóa hỏng, dưới chính
mà sự biến đổi một yếu tố nào
suối điều binh khiển tướng, hồn
trong đó sẽ kéo theo sự biến đổi
nhiên ngầm giúp bọn thiếu niên
của các yếu tố khác. Từ xưa người (Tôn Quang Phiệt
ta đã biết đến c.tr.c.t.ph. văn học,
dịch từ nguyên bản Hán văn)
nhưng chỉ hiểu ở khía cạnh hoà
hợp hài hoà đối xứng. Nghiên cứu
Trong nhà trường cũ, dựa vào
văn học từ những năm 20 thế kỉ
cách làm, người ta phán c.đ. thành
này hiểu c.rr.c.t.ph. văn học là kết
ba loại: câu đối sách (lấy nghĩa
cấu*, cấu tạo và mối quan hệ qua
hoặc chữ trong sách mà đối), câu
lại của nhân vật với các hình tượng
đối tức cảnh (thấy cảnh gì thì làm
khác, quan hệ giữa các lớp tư
câu đối về cảnh ấy), câu đối chiết
tưởng chủ đề và lớp tạo hình, tổ
tự ("bẻ chữ’ ra mà đối, chữ ở đây lã chức lời văn.
chữ Hán bao gồm cả hình nét và
Ngày nay, c.tr.c.t ph. văn học
nội dung ý nghĩa của chữ).
là một khái niệm được sử dụng phổ
Dựa vào hình thức tổ chức
biến và được hiểu như là mối quan
ngôn từ, c.đ cũng được phân
hệ qua lại của các kí hiệu thẩm mĩ
thành ba dạng; câu tiểu đối (câu
đặc thù bởi tác phẩm là một thông
đối nhỏ, mỗi vế từ ba đến sáu
báo bằng một ngôn ngữ đặc biệt.
tiếng), câu đối thơ ( câu đối đặt
Khác với ngôn ngữ tự nhiên, các
theo lối thơ thất ngôn), câu đối
yếu tố c.tr.c.t.ph đều có ý nghĩa
phú (câu đối được làm theo thể
riêng, v.d. một câu tục ngữ như:
văn phú, như song quan, cách cú,
"Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng
gối hạc. Mỗi vế dài từ 8 tiếng trở
, thì cả mực và đen, đèn và sáng.
lên, có thể dài tới mấy chục
trong cấu trúc của câu tục ngữ đều tiếng).
hàm chứa những nội dung mà
những chữ ấy thông thường tách
c.đ. là thể loại văn học Trung Quốc
du nhập vào Việt Nam từ lâu đời. Đặc
riêng ra không thể có được. Do đó
muốn hiểu tác phẩm văn học ta
phải tìm hiểu cấu trúc của nó, đặt
các yếu tố trong cấu trúc của nó.
Tác phẩm văn học là một cấu
trúc phức tạp. Hiện vẫn chưa có
một quan niệm thỏa mãn được mọi
người. Tuy vậy nhìn chung, khái
niệm c.tr c.t.ph. có thể hình dung
đại thể như sau: xét từ lí luận chính
thể. C-tr.c.t.ph. bao gồm các yếu tố
được đặt trong trật tự (cấp độ) phụ
thuộc vào nhau sau đây: tư tưởng –
chủ đề (gồm cả đề tài), hệ thống
hình tượng (có thể bao gồm cả cốt
truyện*), kết cấu*, ngôn từ. Cũng có ý kiến xem nội
dung tư tưởng - chủ đề là yếu tố ưu trội,
quy định cả hệ thống tác phẩm, còn cấu
Thể của các môtip và tiếp theo, chỉ
ra các cốt truyện "di chuyển", các chủ đề
trúc đích thực của tác phẩm chỉ bao gồm
"vĩnh cửu" (thiên nhiên, tình yêu. cái
hai yếu tố: ngôn từ, cốt truyện, được tổ
chết...) Trên cấp độ hình tượng, người ta
chức với nhau bằng kết cấu. Yếu tố kết
chia ra hình tượng ngôn từ (các phép
cấu* là đặc trưng cho bản chất nghệ thuật
chuyển nghĩa), các hình tượng nhân vật,
nói chung của văn học, nó tạo ra nhịp
phong cảnh, chân dung, nội tâm (chiếm
điệu chung cho tác phẩm và cho từng bộ
một phần văn bản), các hình tượng về thế
phận. Yếu tố cốt truyện đặc trưng cho tác
giới, không gian, thời gian (chiếm toàn
phẩm và cho từng bộ phận. Yếu tố cốt
văn bản). Trên cấp độ thời gian, người ta
truyện đặc trưng cho văn học với tư cách
chia các yếu tố dòng thơ, khổ thơ, văn
là nghệ thuật thời gian, gắn với nó xuất
bản thơ. Trên cấp độ ngôn ngữ, người ta
hiện con người, không gian, thời gian,
phân biệt ngữ âm, hình thái, cú pháp, yếu
xung đột. biến cố. Yếu tố ngôn ngữ tiêu
tố trên câu. toàn văn bản, liên văn bản.
biểu cho đặc trưng nghệ thuật ngôn từ.
Toàn bộ các yếu tố vừa kể trên ở các cấp
Sự thống nhất các yếu tố (cấp độ) này tạo
độ đều tham gia vào c.tr.c.t.ph. nhằm tạo
ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
ra một hình thái về mối quan hệ thẩm mĩ
Trên cấp độ chủ đề*, cốt truyện*,
giữa chủ thể và thế giới.
người ta chỉ ra các câu. các từ ngữ chìa
Tính lặp lại và vững bền của các yếu
khóa có ý nghĩa đặc biệt như là các chủ
tố thuộc các cấp độ cấu trúc tối cao. cho
đề nhỏ. Các môtip*. Cốt truyện được
phép nghĩ đến các mẫu gốc* của tư hiếu như là tổng
duy nghệ thuật. Tính ổn định của
c.t. không phải chỉ có trong thơ
các cấp độ cấu trúc siêu văn bản cho
trữ tình hoặc trong một tác phẩm mà
phép nói đến cấu trúc của tình
có cả trong mọi tác phẩm nghệ thuật
huống văn học sử của thời đại. Một
loại khác như tiểu thuyết*, kịch*,
trong những đặc điểm quan trọng
kí*, tản văn*, trong sáng tác của một
của tính ổn định của cấu trúc là kí ức
tác giả hoặc một loại văn học.
của thể loại* tức là mô hình của thể
Chẳng hạn "đa thanh” (polyphonie) văn học.
là một c.r nghệ thuật của
Đôxtôiepxki để phản ánh cái phẩm
chất chưa hoàn thành của đời sống. Cấu tứ
Miêu tả con người như đồ vật (chân
Xét trong quá trình sáng tác, là
dung thằng ăn cắp. bà phán
hoạt động tư duy để sáng tạo ra
Tuyên...) là một nét đáng chú ý
trong c.t. nghệ thuật của truyện ngắn
hình tượng nghệ thuật. Trong thiên
trào phúng của Nguyễn Công Hoan.
Thần tứ, nhà lý luận văn học
Trung Quốc Lưu Hiệp (≈465 - ≈ Châm biếm
532) nói: "Cái kỳ diệu của cấu tứ
là làm cho tinh thần nhà văn gặp
Một dạng của văn học trào
gỡ với sự vật khách quan", "hình
phúng*. dùng lời lẽ sắc sảo. cay độc,
và ý gặp nhau". Các nhà văn
thâm thuý để vạch trần thực chất xấu
thường nói "tình tứ", "cấu tứ" tác
xa của những đối tượng và những phẩm là như vậy.
hiện tượng này hay hiện tượng khác
Xét như một thành quả sáng
trong xã hội Ch.b. gắn liền với tình
tạo, c.t. là sự cắt nghĩa, lí giải khái
cảm xã hội như yêu nước, yêu lẽ
quát hiện tượng đời sống bằng một
phải, tình yêu con người.
hình tượng tổng quát có sức chi Ch.b. khác với umua, hài
phối toàn bộ cảm thụ, suy tưởng và
hước ở mức độ gay gắt của sự phê
miêu tả nghệ thuật trong tác phẩm.
Chẳng hạn trong bài Lệ, Xuân
phán và ý nghĩa sâu sắc của hình
Diệu xem "trái đất ba phần tư tượng nghệ thuật.
nước mắt" là một giọt lệ lớn đi
Về phương diện xã hội. phần
giữa không trung, hoặc trong bài
lớn những tác phẩm ch.b. thường
Hồ Chí Minh (1946) Tố Hữu hình
chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của nhân
dung Hồ Chủ tịch qua hình ảnh
dân, của tư tưởng tiến bộ trong lịch
"Người lính già" đi tiên phong quyết chiến, hi sinh.
sử. Các nhà văn, nhà thơ trào phúng
Có thể xem c.t. là linh hồn của
thường có tài ch.b. và đã viết những
tác phẩm, cung cấp một thế đứng,
tác phẩm có giá trị đả kích bọn
thế nhìn, cách cảm nhận để thâm
thống trị tàn bạo, hà khắc, bọn xâm
nhập vào thế giới nghệ thuật của tác
lược và bè lũ phản bội, bán nước cầu
phẩm, c.t. là mô hình nghệ thuật của vinh...
tác phẩm, là quan niệm nghệ thuật
về thế giới và con người của nó.
Phương pháp của ch.d.v.h. là
phương pháp của thể kí. Nó không
thiên về cốt truyện*. Nhà văn phát Châm ngôn
huy sở trường quan sát. lựa chọn chi
Lời nói để răn đời. ngăn ngừa
tiết, cử chỉ, ngôn luận, kể cả tác
phẩm, tư thế, hồi tưởng để dựng lại
sai trái, có tác dụng hướng dẫn về tư
bộ mặt tinh thần của một con người,
tưởng đạo đức, cách sống. Chẳng
thường là nhà văn. nghệ sĩ hoặc các
hạn: "Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân"
nhà hoạt động xã hội nổi tiếng.
(Điều mình không muốn thì chớ làm
L.Tônxtôi. V.I.Lênin của M. Gorki.
cho người khác). Mở rộng ra. ch.ng.
Bandăc, Đickenx của X.Xvai là
cũng như cách ngón là lời đúc kết
những ch.d.v.h. nổi tiếng
cách sống. Với hình thức ngắn gọn,
Chân lí nghệ thuật
dễ nhớ. (câu) ch.ng thường được rút
ra từ tục ngữ* hoặc từ lời nói của
Một trong những phạm trù mĩ
các lãnh tụ, các nhà tư tưởng, các
học trung tâm. Nhằm nêu lên đặc
nhà văn hoá lớn. Chẳng hạn nhiều
trưng nhận thức luận của nghệ thuật.
câu nói của Khổng Tử, Hồ Chí
Các khái niệm về sự giống thực, về
Minh, Lênin đã được coi là ch.ng
sự trung thành với "sự thật của đời
sống" của các hình thức nghệ
Ch.ng. còn là một thể văn trong
thuật*, đều chưa bộc lộ hết ý nghĩa
của ch.l.ng.th. Để đạt tới ch.l.ng.th.
văn cổ gọi là bài chăm hay chàm từ.
cần phải có vai trò của tưởng tượng,
Chẳng hạn, bài Cừu mục châm của
của cá tính sáng tạo* của nghệ sĩ,
Dương Hùng. Nữ sư châm của
của việc sử dụng các phương thức Trương Hoa (Trung Quốc).
tạo hình và biểu hiện trong phản ánh nghệ thuật Chân dung văn học
Thể loại văn học đặc thù có
nhiệm vụ tương tự như thể loại chân
dung trong hội họa và điêu khắc,
diễn tả diện mạo của một con người
cụ thể, có thật, sao cho truyền được
thần thái sống động của người đó,
phát hiện đặc điểm riêng, cá nhân,
độc đáo. không lặp lại của một nhân
cách với thế giới tinh thần của nó.
Khác với hồi tưởng, ghi chép
về một con người cụ thể với tư
cách là một thể loại văn học.
ch.d.v.h. miêu tả con người cụ thể
với một quan niệm xác định về nhân cách.