Từ Điển Thuật Ngữ Văn Học

Ảnh hưởng văn học Mối quan hệ tác động qua lại giữa các nhà văn, các tác phẩm và các nền văn học. Mô phỏng, đồng nguồn, vay mượn, phổ biến, đều có quan hệ với ảnh hưởng nhưng chưa phải đã là ảnh hưởng thật sự. Sự mô phỏng tự nó chỉ mới chứng tỏ sự lặp lại, chạy theo con đường của người khác. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

Môn:

Văn học 95 tài liệu

Trường:

Tài liệu khác 1.8 K tài liệu

Thông tin:
240 trang 13 giờ trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Từ Điển Thuật Ngữ Văn Học

Ảnh hưởng văn học Mối quan hệ tác động qua lại giữa các nhà văn, các tác phẩm và các nền văn học. Mô phỏng, đồng nguồn, vay mượn, phổ biến, đều có quan hệ với ảnh hưởng nhưng chưa phải đã là ảnh hưởng thật sự. Sự mô phỏng tự nó chỉ mới chứng tỏ sự lặp lại, chạy theo con đường của người khác. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem !

7 4 lượt tải Tải xuống
Anh hùng ca
(X. Sử thi*).
Ảnh hưởng văn học
Mối quan hệ tác động qua lại
giữa các nhà văn, các tác phẩm
các nền văn học.
phỏng, đồng nguồn, vay
mượn, phổ biến, đều quan hệ với
ảnh hưởng nhưng chưa phải đã
ảnh hưởng thật sự. Sự phỏng tự
chỉ mới chứng tỏ sự lặp lại, chạy
theo con đường của người khác. S
vay mượn cốt truyện, sử dụng
liệu, ngôn ngữ cũng chưa phải là ảnh
hưởng. A.h.v.h chỉ xảy ra trong điều
kiện tiếp nhận sáng tạo chủ
yếu thể hiện trong phương diện sáng
tạo, làm ra tác phẩm mới, cái tác
động đem lại sự phong phú hay biến
đổi về quan điểm thẩm mỹ hay các
duy nghệ thuật truyền thông
văn học dân tộc của nhà văn không
có, hoặc sự phát triển tự nhiên của
tài năng nhà văn không dẫn đến.
Chẳng hạn, ảnh hưởng của chủ
nghĩa lãng mạn Pháp, đặc biệt là chủ
nghĩa tượng trưng Pháp đã góp phần
tạo thành những sáng tác Thơ mới
1932 - 1945 ở Việt Nam.
A.h.v.h một quá trình,
thể tác động tới các khâu khác nhau
trong quá trình ảnh hưởng như gợi ý,
thúc đẩy, làm cho giống, tiêu hoá
biến dạng, thay đổi biểu hiện nghệ
thuật... Có a.h.v.h diễn
Lại đến Oran (tức vấn đáp)
bước khó,
Mình ơi ta bảo "Có thi thì..."
chỗ â.ng. trong văn bản
thường thể hiện thành chấm lửng
(...), người đọc dựa vào ngữ cảnh
nhận ra.
Â.ng. thường được sử dụng
để thể hiện sự nghẹn ngào, e thẹn,
hoặc đùa vui, gây bất ngờ dỏm.
Có kiểu thơ, lối nói chuyện khai thác
đặc điểm â.ng. như thơ tiệt hạ (cắt
bỏ phần tiếp theo), chẳng hạn:
Thấy gái hồng nhan bỗng
chốc mà...
Hỏi thăm cô ấy chửa hay đà...
Hình dung yểu điệu in như
thể...
Diện mạo phương phi ngỡ
tưởng là...
(Thơ khuyết danh)
hoặc như phần thơ yết hậu (để
trống phần sau):
Chơi xuân kẻo nữa già.
Lâu nay vẫn muốn mà,
“Mời vãi vào nhà hậu.
Ta…!
(Thơ khuyết danh)
Â.ng. còn nghĩa lời nói
kín chỉ người trong cuộc hiểu không
cho người ngoài hiểu. Loại này sử
dụng các thứ tiếng lóng, ám thị.
Bản chính
Văn bản được dùng làm đối
tượng chính để nghiên cứu trong
trường hợp tác phẩm ấy nhiều dị
bản*.
B.ch. thể bản gốc*,
thể bản sao của bản gốc hoặc một
dị bản được xem gần với bản gốc
nhất.
Thuật ngữ b.ch. cũng lúc
được dùng để chỉ bản gốc.
Bản dịch
Văn bản tác phẩm trên một
ngôn ngữ khác với nguyên bản.
v.d: Tác phẩm Ngục trung
nhật (Nhật trong tù) của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, nguyên văn bằng
chữ Hán, được chuyển sang dịch
bằng tiếng Việt và phổ biến rộng rãi.
Một tác phẩm thể nhiều
b.d khác nhau (bài thơ Thu hứng của
Đỗ Phủ hai bản dịch: một của
Tản Đà một của Nguyễn Công
Trứ. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần
Côn ít nhất bốn bản dịch ra chữ
Nôm...). Các b.d. thể đạt trình độ
nghệ thuật cũng như mức độ trung
thành với nguyên nhân không đồng
đều nhau.
B.d. lược bỏ bớt một số phần,
một số đoạn không quan trọng, hoặc
dịch không theo sát nguyên văn của
nguyên bản gọi bán lược dịch hay
phóng dịch.
Bản gốc
Văn bản tác phẩm* từ đó
người ta tiến hành sao chép hoặc
phiên âm, phiên dịch.
Khi công bố các văn bản sao,
bản phiên âm, phiên dịch, cần thiết
phải nói rõ b.g. của nó.
Bản sao
Văn bản tác phẩm* được
bằng cách sao chép lại (chép tay,
đánh máy hoặc photocopy) từ một
văn bản có trước của tác phẩm.
Bản tái bản
Văn bản tác phẩm* được công
bố lại trên sở văn bản tác phẩm
đã được xuất bản lần trước.
Một tác phẩm thể được tái
bản nhiều lần sửa chữa hoặc
không sửa chữa so với nguyên bản
hoặc bản xuất bản trước, v.d.: b.t.b.
năm 1955 cuốn tiểu thuyết Bước
đường cùng của Nguyễn Công Hoan
so với xuất bản lần đầu năm 1938
một số chi tiết thay đổi. Trong khi
đó b.t.b lần thứ sáu, 1984 cuốn tiểu
thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố lại
không khác so với bản xuất
bản đầu tiên.
Việc xem xét các b.t.b. thể
góp phần tìm hiểu lịch sử văn bản.
Bản thảo
Văn bản* tác giả viết ra trong
quá trình hình thành tác phẩm.
thể phân biệt hai loại: loại
do chính tay tác giả viết, chữ viết
trong b.th. chữ tác giả: loại khác
do tác giả đọc cho người khác viết
hoặc đánh máy.
thể nhiều b.th. khác
nhau do sự sửa chữa, bổ sung nhiều
lần của tác giả.
B.th. cuối cùng được gọi
định cảo.
B.th. liệu quan trọng để
nghiên cứu quá trình lao động của
nhà văn, lịch sử hình thành tác
phẩm.
Bản xuất bản
Bản thảo* đã qua biên tập
được nhà xuất bản công bố.
Về nguyên tắc b.x.b. (dưới
các hình thức in khác nhau) thống
nhất với bản bên tập. Nhưng trên
thực tế cũng có những trường hợp có
sự dịch: hoặc do khâu in (sai
sót), hoặc do khâu kiểm duyệt.
Trong b.x.b. người ta chú ý
giới thiệu những chi tiết cần thiết về
cơ quan xuất bản, năm, nơi xuất bản,
số lượng bản in...
Bạt
Con được gọi hậu tự, hậu
kí. B. thành phần nằm ngoài văn
bản* của một tác phẩm, được trình
bày sau tác phẩm (cuối cuốn sách),
khác với tựa* thường nằm đầu
cuốn sách.
Nội dung của bạt nhằm thuyết
minh thêm về cuốn sách, về những
bài tựa chưa nói tới hoặc chưa
nói hết. Những lời thuyết minh thêm
này rất quan trọng, giúp người đọc
hiểu cuốn sách không kém gì lời tựa.
V.d. bài b. Sống với ca dao dân ca
miền Nam Trung bộ của Xuân Diệu
in cuối tuyển tập Dân ca miền
Nam Trung bộ đã khơi dậy cả một
nguồn ca dao trong ức tác giả với
tất cả bối cảnh sinh hoạt thiên
nhiên mộng cùng tâm tình thiết
tha, sầu kín của con người. Đọc
xong lời b. người đọc hiểu thêm về
dân ca Nam Trung bộ, nghĩa hiểu
sâu thêm về phần văn bản chính của
cuốn sách đã được trình bày. Nội
dung lời b. nói chung, tương đối tự
do.
B. khi do chính tác giả viết
(gọi lời tự bạt). Một số nhà viết
tiểu thuyết trên thế giới hay có lời tự
b. sau tác phẩm của mình.
Bi ca
Thể thơ trữ tình quy
trung bình, nội dung giàu chất trầm
hoặc cảm xúc, thường buồn
thảm, được diễn đạt phần lớn bằng
ngôi thứ nhất kết cấu không theo
một khuôn mẫu rõ ràng.
B.c. ra đời Hy Lạp vào thế
kỉ VII trước C.N., lúc đầu nội
dung chính trị đạo đức chủ yếu.
Về sau trong thơ ca Hy Lạp La
(kể riêng b.c.) để tài tình yêu
chiếm ưu thế.
Hình thức b.c. cổ đại thơ
hai câu Trong thời trung cổ Phục
Hưng, b.c. viết bằng tiếng La Tinh
cúng bắt chước khuôn mẫu này. Đến
thế kỉ XVI - XVIII, b.c. được viết
bằng ngôn ngữ mới của các dân tộc
châu Âu những tác giả nổi
tiếng như Rôngxar (1524 - 1585,
Pháp), Xpenxer (1552 - 1599.
Anh)... Tuy vậy, trong suốt một thời
gian dài. b c. vẫn bị coi thể loại
hạng nhì. Bước sang thời tiền lãng
mạn lãng mạn. b.c. mới đạt đến
độ phát triển cao, gắn liền với tên
tuổi nhiều nhà thơ lớn như Gớt
(1749 - 1832, Đức), Lamactin (1790
- 1896. Pháp), Giucốpxki (1783 -
1852) A.Puskin (1799 - 1837.
Nga). Nhưng rồi sau đó b.c. mất dần
tính chất đặc trưng về mặt hình thức
thể loại, nhưng đặc trưng nội dung
vẫn còn xác định, nên thuật ngữ b.c.
còn sử dụng để chỉ một truyền thống
nội dung vào nửa sau thế kỉ XIX
thế kỉ XX. thuật ngữ "bi ca" chỉ
dùng như tên gọi của một "chùm"
(hoặc hệ) bài thơ nào đó, hoặc
những bài thơ riêng lẻ nội dung
buồn thảm.
Việt Nam, thể tìm thấy
chất bi ca trong các khúc "ngâm",
"vãn" và nhiều bài thơ mới lãng mạn
của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Huy
Cận...
Bi hài kịch
Thể loại văn học - sân khấu
mà tác phẩm của nó mang những nét
đặc trưng vừa của bi kịch*, vừa chứa
hài kịch*. Nó là hình thức trung gian
giữa bi kịch hài kịch, nhưng về
mặt thể loại* khác với chính kịch
(còn gọi kịch dram). sở hội
- thẩm của sự hình thành b.h.k. -
cảm giác về tính tương đối trong
sự cảm thụ thực khách quan của nhà
văn. thường nảy sinh vào những
thời điểm bước ngoặt của lịch sử
được coi dấu hiệu của sự khủng
hoảng tinh thần. Khái niệm b.h.k.
lần đầu tiên được nhà viết kịch La
cổ đại Plot sử dụng với ý nghĩa
trong số các nhân vật hài kịch của
ông sẽ cả các vị thần vốn thường
chỉ xuất hiện trong các bi kịch. Đến
thời Phục Hưng, nội dung khái niệm
này được mở rộng hơn. Tất cả các
vở kịch trong đó sự phá vỡ các
quy tắc định sẵn của bi kịch hoặc hài
kịch cổ đại, chẳng hạn sự pha
trộn các nhân vật cao cả với thấp
hèn, sự xen kẽ giữa pha nghiêm túc
với buồn cười, hoặc hành động bi
kịch được kết thúc hậu (và đây
nét duy nhất bắt buộc phải có), đều
được gọi b.h.k. Cách hiểu này đến
thế kỉ XVI còn được áp dụng.thế
năm 1636, Cornây đã gọi vở kịch
LơXit của mình b.h.k bởi lẽ đó
một vở bi kịch điển hình nhưng lại
kết thúc hậu. Từ thế kỉ XVII trở
đi, yếu tố b.h.k. chỉ biểu hiện một
cách ngẫu nhiên, không còn
những nét đặc trưng bền vững của
tác phẩm thuộc một thể loại "thuần
tuý” độc lập nữa. Đến cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỷ XX nguyên b.h.k
lại bắt đầu chiếm ưu thế trên kịch
trường châu Âu với các tác phẩm
xuất sắc của Ipxen (1828 - 1906, Na
Uy) Sêkhôp (1860 - 1904, Nga)
như Con vịt giời, Cậu Vania, Vườn
anh đào... chúng được coi cội
nguồn của b.h.k. hiện đại. B.h.k.
hiện đại chú trọng vào việc tạo ra
trạng thái xúc động mang tính bi hài
kịch dựa trên sở không tương
xứng giữa nhân vật với tình huống.
Tình huống trong b.h.k. phần lớn
bi còn nhân vật lại không đạt tới tính
hoàn thiện chủ nghĩa cực đoan
của nhân vật bi kịch, thậm chí nhiều
khi trở thành nhân vật hài kịch nữa.
Nhân vật chính của b.h.k. phụ thuộc
vào hoàn cảnh thường đóng vật
hy sinh của biến cố số mệnh.
Trong b.h.k. hiện đại ít gặp trường
hợp ngược lại là nhân vật bi kịch với
tình huống hài kịch.
Xung đột trong b.h.k thường
bắt nguồn từ tính không quyết đoán
bên trong của nhân vật, vở kịch
thường kết thúc không đứt điểm
buộc khán giả phải suy nghĩ tiếp đến
cùng.
nước ta, chưa thấy một
vở kịch nào được xây dựng theo
đúng những nguyên tắc thi pháp trên
đây của b.h.k. như một thể loại
“thuần tuý" độc lập.
Bi kịch
Một thể loại kịch*, thường
được coi như đối lập với hài
kịch*.
B.k. phản ánh không phải
bằng tự sự bằng hành động của
nhân vật chính, mối xung đột không
thể điều hoà được giữa cái thiện
cái ác, cái cao cả* cái thấp hèn
v.v... diễn ra trong một tình huống
cực kỳ căng thẳng nhân vật
thường chỉ thoát ra khỏi bằng cái
chết bi thảm gây nên những suy
xúc động mạnh mẽ đối với công
chúng. Theo Arixtốt (384 - 322
trước C.N.), b.k. "Sự bắt chước
hành động hệ trọng trọn vẹn"
nhằm "dùng hành động chứ không
phải bằng kể chuyện, bằng cách gây
nỗi xót thương nỗi sợ hãi để thực
hiện sự thanh lọc những nỗi xúc
động tương tự" (Nghệ thuật thi ca -
chương 6). Như vậy, b.k. sẽ không
còn b.k. nữa nếu người xem
không bị rung động bởi hành động
của nhân vật nếu toàn bộ nỗi xúc
động khiếp sợ không dẫn đến
được một giải quyết nào đó về tình
cảm theo hướng tích cực. Nhân loại
tìm thấy tác phẩm b.k. những cái
khủng khiếp mà cái ác có thể gieo
rắc, áp đặt cho mình, do đó không
thể bàng quan chịu khuất phục
trước sức mạnh tàn bạo của nó được.
Kết thúc bi thảm của số phận nhân
vật b.k. thường ý nghĩa thức tỉnh,
dự báo về một cái tốt đẹp hơn sẽ
nảy sinh trong cuộc sống và mỗi con
người. Trong b.k. qua cái chết của
nhân vật chính, người ta tìm thấy cái
thiêng liêng giá của sự sống chân
chính cái bất tử của cộng đồng.
thế nhân vật chính của b.k.
thường những nhân vật anh hùng
với ý nghĩa tích cực cao cả.
B.k. ra đời rất sớm Hy Lạp
cổ đại, bắt nguồn từ những nghi lễ
thờ cúng thần rượu nho Đionidốt
đây, vào thế kỷ V trước C.N., b.k. đã
một thể loại sân khấu rất thịnh
hành với những tác giả nổi tiếng như
Etsilơ, Xôphôclơ, ơripit những
tác phẩm bất hủ còn lưu giữ được
đến ngày nay như Prômêtê bị xiềng,
Antigôn, Orext v.v... Từ bấy đến
nay, b.k. đã trải qua nhiều bước
thăng trầm không ngừng đổi mới
về hình thức nội dung nghệ thuật
để ngày một hoàn thiện hơn về mặt
thể loại đáp ứng được ngày một
tốt hơn nhu cầu hội - thẩm mỹ
của công chúng các thời đại khác
nhau.
Vào các thế kỉ XVI - XVII.
một số nước châu Âu như Anh, Pháp
V.V.... b.k. thể loại văn học - sân
khấu rất thịnh hành gắn liền với tên
tuổi các tác giả lớn như Sêcxpia
(1564 - 1616). Cornây (1606 - 1699)
những tác phẩm tiêu biểu như:
Hăm lét, Ôtelô, xít, Oraxơ,
Anđrômac v.v... Từ thế kỉ XVIII trở
đi b.k. phát triển theo chiều hướng
khác nhau không còn bị ràng
buộc chặt chẽ với những nguyên tắc
thi pháp* cổ điển của nó nữa. Ở Việt
Nam, không có b.k. như một thể loại
văn học - sân khấu theo quan niệm
cổ điển, chỉ một số vở tuồng
hoặc kịch hiện đại nội dung
tưởng nghệ thuật chứa đựng yếu
tố b.k. Có thể coi vở Vũ Như Tô của
Nguyễn Huy Tưởng là một ví dụ.
Biền ngẫu
Hình thức cấu trúc của một
loại văn chương cổ xưa phương
Đông (được gọi biền văn), trong
đó lấy đối làm nguyên tắc bản,
tạo cho lời vàn sự nhịp nhàng cân
đối.
Theo nghĩa từ nguyên, biên
hai con ngựa chạy song song với
nhau ngẫu chẵn đôi. B.ng.
cách nói hình tượng hoá, chỉ câu văn
các vế sóng đôi đối nhau từng
cặp. Nguyên tắc đối trong b.ng.
những yêu cầu rất chặt chẽ phức
tạp.
- Đối ý: Phải tìm được
hai ý liên quan với nhau nhưng
lại đối nhau để đặt thành hai vế
trong câu, hai ý này thể trái
ngược hoặc thuận chiều với nhau,
v.d.:
- Đến nay nước sông tuy
vẫn chảy hoài
nhục quân thù không rửa
nổi
(đối tương phản)
- Thuyền muôn đội,
tinh kỳ phấp phới.
Hùng hổ ba quân, giáo gươm
sáng chói (Trương Hán Siêu - Bạch
đằng giang phú dịch từ nguyên tác
hán văn;
- Đố thanh: nghịch đối
(trắc đối với bằng).
- Đối từ: đối theo nghĩa
(cũng có nghịch đối và thuận đối).
- Đối từ loại: thực từ đối
với thực từ, hư từ đối với hư từ.
Văn b.ng. quá trình phát
triển lâu dài Trung Quốc. Thời
Ngụy Tấn Nam Bắc triều (220-589)
thời thịnh đạt của b.ng. Đặc
biệt thời Nam Bắc triều, biền văn
chiếm một vị trí rất quan trọng trong
văn học, lấn át các loại văn khác như
tản văn. Thời đó b.ng. được coi
thể tứ lục, mỗi câu hai vế, vế
trên bốn chữ, vế dưới sáu chữ. Các
thể văn như phú*, cáo*, hịch*, văn
tế* v.v... đều được viết theo lối b.ng.
Nhìn chung văn b.ng. chỉ chú
trọng về hình thức. Nhược điểm lớn
nhất của rất trong việc
diễn tả tưởng, tình cảm. Tuy
nhiên, đối với những cây bút lão
luyện, với cảm xúc mãnh liệt, cũng
thể tạo ra những bài văn hay như
Biệt phú của Giang Yêm. Vu thành
phú của Bão Chiếu... thời Nam Bắc
triều Trung Quốc. Bạch Đằng
giang phú của Trương Hán Siêu,
Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi,...
thời Trần, Lê ở Việt Nam.
Biện pháp nghệ thuật
Những nguyên tắc thi pháp
trong việc tổ chức một phát ngôn
nghệ thuật (nguyên tắc xây dựng cốt
truyện, quy tắc thể loại*, nguyên tắc
phong cách*, thể thức câu thơ). Tuy
nhiên trong nghiên cứu văn học*,
người ta thường nói đến b.ph.ngh.th.
khi xác định những hình thức mới
hoặc khi nói đến việc sử dụng các
b.ph.ng.th. đã ổn định, cố định vào
mục đích mới. Do đó b.ph.ngh.th.
nào nổi bật sẽ ý nghĩa đáng kể,
v.d.: việc đưa các yếu tố kỳ ảo
nghịch dị* vào cốt truyện "giống
như thật" của tác phẩm hiện thực
chủ nghĩa, toàn bộ các b.ph.ng.th,
đặc thù của văn học "dòng ý thức",
việc sử dụng một cách khác thường
các hình thức pháp nhịp điệu
trong thơ vào văn xuôi (V.d.: cách
dùng từ độc đáo. "lệch chuẩn" trong
tùy bút Nguyễn Tuân) v.v...
Bên cạnh những b.ph.ngh.th
độc đáo của một tác giả hoặc một
thời đại văn học nào
đó, còn những b.ph.ngh.th.
sáo mòn nhà văn thường muốn
khắc phục.
Tuy vậy trong văn học vừa
việc cải biến một cách ý thức các
b.ph.ngh.th. truyền thống, lại vừa
việc kế thừa chúng, cả cấp độ
phong cách nhân, cả cấp độ
"phong cách lớn" của một thời đại,
v.d.: chủ nghĩa cổ điển* việc bắt
chước các mẫu mực được coi tất
yếu, làm khác đi sẽ bị coi sai trái.
Sự ổn định của các b.ph.ngh.th. - nét
đặc thù của một thời đại văn học -
dẫn đến việc tạo nên các khuôn mẫu
sẽ đưa tới thói học đòi. Các
b.ph.ngh.th. khuôn mẫu vốn chức
năng đặc biệt, đáng kể về mặt thẩm
mỹ trong sáng tác dân gian.
Biến thể
Hình thức phi chuẩn của bài
thơ luật một vài yếu tố bên trong
của đã vượt ra ngoài quy tắc
thông thường của thể thơ đó, nhưng
vẫn duy trì các nguyên tắc chủ yếu,
không dẫn đến việc biến thành một
thể thơ khác.
Chẳng hạn "lục bát gián thất"
do hai câu bảy chữ được đưa lui sau
hai câu sáu tám. Thể lục bát các
biến thể do thay đổi cách gieo vần
bằng bằng vần trắc như:
Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi lớn quện nhau
đi
(ca dao)
hoặc thay đổi vị trí gieo vần:
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời không thấy
người thương
(Ca dao)
B.th. còn được xây dựng do
việc thay đổi số chữ trong câu so với
quy định, v.d.: thể thơ Đường luật*
thường có bảy chữ trong câu. Nhưng
b.th. của có thể chen vào một câu
sáu chữ:
Rồi, hóng mát thuở ngày
trường
Hòe lục đùn đùn, tán rợp
giương...
(Nguyễn Trãi)
Việc thay đổi nhịp điệu khác
thường trong câu thơ cũng có thể tạo
ra b.th., tuy nhiên trường hợp này
không tiêu biểu.
Như vậy, b.th. thường gắn với
những thể thơquy định tương đối
chặt chẽ về vần*, luật. Thể thơ tự
do* không có b.th.
Cần phân biệt hiện tượng b.th.
và hiện tượng vi phạm luật thơ. B.th.
hiện tượng được mọi người thừa
nhận, được phổ biến giá trị
thẩm mỹ, còn vi phạm luật thơ thì
ngược lại. Tất nhiên, đối với những
thiên tài, khi cố tình vi phạm luật thơ
lại gây được hiệu quả nghệ thuật độc
đáo.
Biểu
Thể văn thư bề tôi viết đưa
lên nhà vua để bày tỏ một điều
với lời lẽ cung kính dựa vào nội
dung chủ đề*, người ta chia b.
thành các loại nhỏ, như tạ biểu (biểu
tạ ơn), hạ biểu (biểu chúc mừng),
trần tình biểu (biểu trình bày sự việc,
tình cảm), v.d.: Biểu tạ ơn của
Nguyễn Trãi khi được nhà vua
phong chức Gián nghị đại phu kiêm
hàn lâm viện thừa chỉ học tri tam
quán sự. Biểu trần tình của Lí Mật.
Bút danh
Tên tác giả được dùng để
công bố các tác phẩm thay thế tên
thật. Chẳng hạn, Chế Lan Viên
b.d. của Phan Ngọc Hoan, Nam Cao
b.d. của Trần Hữu Tri, Tố Hữu
b.d. của Nguyễn Kim Thành... sử
dụng b.d. hiện tượng phổ biến
trong văn học toàn thế giới thuộc
mọi thời đại, đặc biệt phương
Đông.
rất nhiều kiểu đặt b.d.
b.d. chỉ những chữ cái, b.d.
được đặt theo chữ lót tên thật của
nhà văn, như Huy Thông (Phạm Huy
Thông), Xuân Diệu (Ngô Xuân
Diệu), Huy Cận (Cù Huy Cận), Tế
Hanh (Trần Tế Hanh)... Lại có người
lấy chữ lót họ thật làm b.d. như
Nguyễn Bính (Nguyễn Bính
Thuyết). B.d. Thế Lữ do chữ lót
tên thật của nhà thơ nói lái lại với
nhau thành (Nguyễn Thứ Lễ).
Nhiều nhà văn dùng các bút danh
mang ý nghĩa tượng trưng nhằm làm
cho người đọc chú ý đến một đặc
điểm tính cách nào đó hoặc ý đồ
sáng tác của mình, chẳng hạn
Mỡ, Thợ Rèn,... lại những nhà
văn vừa kí b.d. vừa ký tên thật.
Bút kí
Thể loại thuộc loại hình
thướng quy tương ứng với
truyện ngắn*. B.k khác truyện ngắn
chỗ b.k. không s dụng cấu*
vào việc phản ánh hiện thực.
B.k. ghi lại những con người
sự việc nhà văn đã tìm hiểu
nghiên cứu cùng với những cảm
nghĩ của mình nhằm thể hiện một
tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết
phục của b.k. tùy thuộc vào tài năng
trình độ quan sát, nghiên cứu khám
phá, diễn đạt của tác giả đối với các
sự kiện được đề cập đến nhằm khám
phá ra những khía cạnh “có vấn đề",
những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc trong
va chạm giữa tính cách hoàn
cảnh, nhân môi trường. Nói
cách khác, giá trị hàng đầu của b.k.
là giá trị nhận thức.
B.k. thể thuộc về vần học
cũng thể thuộc về báo chí tuỳ
theo mức độ biểu hiện cái riêng của
tác giả mức độ sử dụng các biện
pháp nghệ thuật cùng tính chất tác
động của nó đối với công chúng.
B.k. thể thiên về khái quát
các hiện tượng đời sống vấn đề,
hoặc thiên về chính luận. Nếu loại
trên, tác giả chú ý nhiều đến việc
điển hình hóa những tính cách* bằng
nhiều biện pháp nghệ thuật như: xây
dựng cốt truyện* (tuy không chặt
chẽ như trong truyện ngắn, nhất
không xung đột duy nhất), sử
dụng các yếu tố liên tưởng, trữ
tình..., thì trường b.k. chính luận
thường nổi lên những hiện tượng của
đời sống hội tác giả nắm bắt
được cái thực chất bên trong của
chúng tả một cách chính
xác, sinh động, kèm theo những
nhận xét riêng của mình hoặc của
nhân vật, phân tích đánh giá cuộc
sống được tả. đây yếu tố nghị
luận, châm biếm, hài hước thường
được sử dụng nhiều hơn.
Bút pháp
Vốn là thuật ngữ của thư pháp
- nghệ thuật viết chữ Nho, chỉ cách
cầm bút, cách đưa đẩy nét bút để tạo
dáng chữ đẹp. Chẳng hạn: "Khen
rằng bút pháp đã tinh” (Truyện
Kiều).
Trong văn học b.ph.. cách
thức hành văn, dùng chữ, bố cục,
cách sử dụng các phương tiện biểu
hiện để tạo thành một hình thức
nghệ thuật nào đó. đây b.ph. cũng
tức là cách viết, lối viết.
Người ta thường nói: b.ph.
trào lộng, b.ph trữ tình, b.ph. cổ
kính... do sử dụng các biện pháp
trào lộng, trữ tình hay từ cổ, cách
diễn đạt cổ nên v.d.: "Bút pháp
sở trường của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trang truyện châm biếm"
(Phạm Huy Thông). "Trong thơ trữ
tình, Bác thường dùng bút pháp hiện
thực bút pháp tượng trưng"
(Nguyễn Đăng Mạnh).
Khái niệm b.ph. do trực tiếp
gián với cách viết, lối viết, nên
phấn tương đồng với khái niệm
phong cách*, văn phong*. Bởi chữ
phong cách trong tiếng Hy Lạp,
Latinh lúc đầu cũng nghĩa cây
bút, sau mở rộng thành chữ viết,
cách viết. Tuy nhiên nội dung khái
niệm phong cách nay được hiểu rộng
hơn, tính hệ thống hơn. còn b.ph.
thường chỉ yếu tố của phong cách.
Bút tích
Chữ do tác giả viết được lưu
giữ lại.
Ca dao
Còn gọi là phong dao.
Thuật ngữ c.đ. được dùng với
nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau.
Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát
khúc điệu, dao bài hát không
có khúc điệu.
c.d. danh từ chung chỉ toàn
bộ những bài hát lưu hành phổ biến
trong dân gian hoặc không
khúc điệu. Trong trường hợp này
c.d. đồng nghĩa với dân ca*.
Do tác động của hoạt động sưu
tầm, nghiên cứu văn học dân gian,
c.d. đã dần dần chuyển nghĩa. Từ
một thế kỉ nay, các nhà nghiên cứu
văn học dân gian Việt Nam đã dùng
danh từ c.d. để chia riêng thành phần
nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ)
của dán ca (không kể những tiếng
đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi). Với
nghĩa này. c.d. thơ dân gian
truyền thống
v.d. câu ca dao:
Làm trai quyết chí tu thân
Công danh chớ vội, nợ nần chớ
lo.
Vốn được rút ra từ bài dân ca
hát cách với những tiếng đệm. tiếng
láy, tiếng đưa hơi như
sau:
Làm trai- quyết chí (mà) tu (ý)
thân. Công danh (là công danh) chớ
vội (chớ đả), nợ nần (mà nợ nần)
chớ lo (ý y y ý y)...
Từ sau Cách mạng tháng Tám
(1945) trên sách báo nước ra đã xuất
hiện danh từ ca dao mới để phân
biệt ca dao cổ (hay cao dao cổ
truyền).
Ca dao mới khác với ca dao
cổ về khá nhiều phương diện (về
thời gian, hoàn cảnh, lực lượng sáng
tác, hệ thống đề tài, chủ đề, phương
thức phương tiện lưu truyền, phổ
biến...). Ngoài phương thức sáng tác
lưu truyền bằng miệng của nhân
dân ca dao mới còn được sáng tác và
phổ biến bằng văn tự của các văn
nghệ chuyên nghiệp hoặc nghiệp
dư. Những tập ca dao thành văn
được xuất bản trong mấy chục năm
qua (như ca dao kháng chiến, ca dao
chống Mĩ, ca dao chống hạn...) thiên
về tuyên truyền chính trị một hiện
tượng mới chưa từng trong
lịch sử ca dao trước Cách mạng
tháng Tám (1945).
Dựa vào chức năng kết hợp với
hệ thống đề tài, thể phân ca dao
cổ (hay ca dao cổ truyền) thành
những loại ca dao khác nhau, như ca
dao ru con. ca dao tình yêu, ca dao
về tình cảm gia đình, ca dao than
thân, ca dao trào phúng v.v...
Ca trù
Còn gọi hát đào hay hát
cô đầu.
Một loại ca nhạc thính phòng
thịnh hành trong giới nho miền
Bắc (từ Nghệ Tĩnh trở ra) dưới thời
phong kiến (từ khoảng thế kỉ XV
đến đầu thế kỉ XX), đặc biệtở các
đô thị (Hà Nội, Nam Định...). Gọi
c.tr. khi ca người nghe dùng "trù"
(cái thẻ tre) để thưởng những chỗ
hát hay, cuối cùng đếm thẻ để bình
giá thưởng tiền. Hát c.tr. cả
đào lẫn kép nhưng đào chủ yếu
nên được gọi hát đào, (về sau,
đầu thế kỉ XX mới gọi hát đầu,
hát nhà trò), c.tr. vốn nguồn gốc
từ lối hát cửa đình (hát thề. hát tế
thần phổ biến nước ta từ thời
Trần), qua hình thức hát cửa quyền,
hát hoá, thiếu khái quát hoá thì
c.t.h.n.v. trở nên nghĩa, nhưng
không c.t.h. n.v. thì cũng không
thể thực hiện điển hình hoá được.
c.t.h.n.v đòi hỏi nhà văn phải
một vốn sống phong phú, một sự
hiểu biết sâu sắc một năng lực
khái quát.
Cá tính sáng tạo
Các đặc điểm phẩm chất toàn
vẹn của một nghệ bao gồm các
mặt triết học, học, tâm
hội, thị hiếu, phong cách, ngôn
ngữ nghệ thuật...
c.t.s.t. là’ biểu hiện rực rỡ
của các phạm trù cái chủ quan,
cái biệt, cái không lặp- lại
trong tài năng của nghệ sĩ.
không mâu thuẫn với các phạm
trù cái khách quan, cái chung,
cái điển hình, cái lặp lại,
ngược lại, gắn hữu với
chúng, cũng chỉ trong sự
thống nhất đó thì nghệ mới
khám phá được cái mới trong
lĩnh vực nghệ thuật.
c.t.s.t. biểu hiện tập trung cái
nhìn nghệ thuật độc đáo, ở cách cảm
nghĩ của nhà văn khả năng đề
xuất những nguyên tắc, biện pháp
nghệ thuật mới mẻ, tạo thành một
ngôn ngữ nghệ thuật mới trong việc
biểu hiện những nội dung mới của
đời sống tưởng. Chẳng hạn
Nguyễn Du con mắt tinh đời
trong việc biểu hiện các ngõ ngách
phức tạp của cuộc sống con người,
lại biệt tài nắm bắt miêu tả
chính xác một cách thần tình các
tâm trạng, thần thái nhân vật chỉ qua
vài nét, ông người khả năng sử
dụng tiếng Việt một cách uyển
chuyển, mềm mại, tạo thành điển
phạm của ngôn từ nghệ thuật. Nhà
văn Nga F.Đôtxtôiépxki thể nắm
bắt những cuộc đối thoại của thời
đại, tính nhiều tiếng nói của cuộc
sống, tính lưỡng tính của thực tại
ngay nơi người khác chỉ thấy
độc thoại, tính đơn giọng tính
đồng nhất. Còn L.Tônxtôi lại khả
năng thể hiện phép biện chứng tâm
hồn,
Chính vậy, không nên đồng
nhất c.t.s.t. trong nghệ thuật với
tính sáng tạo trong đời sống,
người khả năng giải quyết các
khó khăn do hoàn cảnh đặt ra hoặc
tự biểu hiện mình một cách độc đáo
trong sinh hoạt.
c.t.s.t. sở của phong
cách* nghệ thuật, nhân tố không
thể thiếu của quá trình văn học*.
Cái bi
Phạm trù học phản ánh một
hiện tượng tính quy luật của thực
tế đời sống hội thường diễn ra
trong cuộc đấu tranh không ngang
sức giữa cái thiện với cái ác, cái mới
với cái cũ, cái tiến bộ với cái phản
động... trong điều kiện những cái sau
còn mạnh hơn những cái trước. Đó
sự trả giá tự nguyện cho những
chiến thắng sự bất tử về tinh thần
bằng nỗi đau cái chết của nhân
vật chính diện, c.b. tạo ra một cảm
xúc thẩm phức hợp bao hàm cả
nỗi xót đau, niềm hân hoan lẫn nỗi
sợ hãi khủng khiếp, c.b. thường đi
liền với nỗi đau cái chết, song
bản thân nỗi đau cái chết chưa
phải c.b. Chúng chỉ trở thành c.b.
khi hướng tới khẳng định cái bất
tử về mặt tinh thần của con người,
c.b. sở quy định đặc trưng của
xung đột* nghệ thuật trong thể loại
bi kịch*. Đó loại xung đột được
tạo nên bởi hành động tự do của
nhân vật trong việc thực hiện cái tất
yếu tự thấy trước không
tránh khỏi bị giết chết như nhân vật
trong bi kịch anh hùng hoặc không
thấy trước như trong bi kịch về sự
lầm lạc.
Bi kịch, về bản chất ca ngợi,
khẳng định s bất tử của con người
phát hiện những phẩm chất cao
đẹp, anh hùng của nó. Hêghen cho
rằng, trong bi kịch cái chết không
chỉ sự huỷ diệt. còn nghĩa
sự bảo tồn dưới hình thức biến
dạng cái trong hình thức sẵn
cần phải bị tiêu vong. Ăngghen thì
cho rằng cội nguồn của c.b. xung
đột giữa đòi hỏi tất yếu về mặt lịch
sử với tình trạng không thể thực hiện
được nó trong thực tiễn".
Trong văn học - nghệ thuật, c.b.
qua mỗi thời đại vừa không thay đổi
(v.d. cảm hứng duy nhất về mặt loại
hình), lại vừa dễ thay đổi (về mặt
bản chất hội - lịch sử thể hiện
tính chất, hình thái xung đột).
Chẳng hạn trong bi kịch của
Sêcxpia, c.b. cái xung đột giữa ý
thức nhân của con người với thời
đại thiết chế hội cũng như
chính bản thân mình. Còn trong bi
kịch của chủ nghĩa cổ điển* thì
lại xung đột giữa dục vọng, khát
vọng nhân với tinh thần nghĩa vụ
quốc gia.
Trong văn học - nghệ thuật ngày
nay, c.b. được khám phá thể hiện
trên nhiều khía cạnh từ trong cội
nguồn lịch sử - xã hội của nó. Ờ đây,
cái bất tử của nhân vật được thực
hiện trong cái bất tử của nhân dân, vì
thế c.b. mang tính chất lạc quan lịch
sử.
Cái cao cả
Phạm trù học phản ánh một
thuộc tính thẩm mỹ khách quan vốn
của những hiện tượng khách
thể ý nghĩa hội tích cực,
ảnh hưởng đến đời sống tinh thần
của các đản tộc hoặc toàn nhân loại.
Thuộc tính ấy tính đại, tính ưu
việt như một sức mạnh tiềm tàng
lớn.
Secnưsepxki định nghĩa: "Cái
cao cả cái lớn hơn, mạnh hơn rất
nhiều những hiện tượng mà chúng ta
so sánh".
Về nhận thức thuyết. thời cổ
Hy Lạp, khái niệm c.c.c. chưa được
coi một
phạm trù học. chỉ
một hình thức biểu hiện của
phong cách thuộc tu từ học.
Về sau. khi người ta phát hiện
ra nguồn gốc tinh thần quan trọng
nhất của c.c.c. những tưởng
khát vọng khác thường và khi vẻ đẹp
của lời nói hoà hợp với những
tưởng đại, thì nội dung của khái
niệm này mới được mở rộng sang
phạm trù mĩ học.
Thời Trung cổ, các nhà thờ kiểu
Gôtích biểu trưng của c.c.c. như
một phạm trù học, Bằng những
đường nét kiến trúc vươn thẳng lên,
các nhà thờ ấy đã thể hiện vẻ đẹp
của sức mạnh khát vọng lớn lao
của con người, nhưng đồng thời
cũng thể hiện quan niệm tôn giáo
cho rằng mọi ước vọng của con
người gắn liền với bầu trời
thượng giới.
Thời Phục Hưng, c.c.c. được
Mikenlăng thể hiện một cách hoàn
hảo qua bức tượng Đavit nổi tiếng
của ông. đây, bằng ngôn ngữ điêu
khắc, tác giả muốn nói rằng con
người hùng mạnh, vạn năng,
những khả năng tiềm ẩn trong sẽ
trỗi dậy tuôn trào vào hành động
sáng tạo thế giới theo quy luật của
con người.
Trong văn học - nghệ thuật cổ
điển chủ nghĩa.*, c.c.c. được đặc
biệt coi trọng thể hiện tập trung
nhất các thể loại bi kịch tụng
ca. Hêghen coi c.c.c. một giai
đoạn vận động của ý niệm tuyệt đối
trong nghệ thuật, đó giai đoạn
lãng mạn khi tinh thần nội
dung trội hơn vật chất và hình thức.
học phương Tây hiện đại
cho rằng c.c.c. cái đẹp* một.
C.c.c. theo họ, chính cái đẹp đang
đi tìm gặp những nhu cầu của con
người trong cái đại, cái ưu việt
nào đó.
Các nhà học Mác-xít xem
c.c.c. như một phạm trù bên cạnh
cái đẹp. Khác với cái đẹp, C.C.C.
phản ánh đặc tính của những đối
tượng, hiện tượng ý nghĩa đặc
biệt tích cực đối với đời sống hội
hàm chứa trong bản thân những
sức mạnh tiềm tàng to lớn.
hai kiểu cao cả. cái cao
cả làm vẻ vang sức mạnh, lực lượng
của con người cái cao chế
áp nó. Sự nhận thức - cảm thụ c.c.c.
thường diễn ra trong quá trình. Do
tầm vóc to lớn sức mạnh tiềm ẩn
đại của chúng, những hiện tượng
cao cả thường không dễ nắm bắt
hoàn toàn ngay một lúc được.
Cái đẹp
Phạm trù học xác định các
hiện tượng theo quan điểm về sự
hoàn thiện, xem các hiện tượng đó
như giá trị thẩm cao nhất.
thể xem các hiện tượng đẹp
khi với tính toàn vẹn cụ thể cảm tính
của chúng thể hiện những giá trị
nhân bản, hội, do sự khẳng định
giá trị của con người trong thế giới,
chứng tỏ sự mở rộng giới hạn tự do
của xã hội và con người, thúc đẩy sự
phát triển hài hoà của nhân cách,
làm nảy sinh bộc lộ ngày càng
đầy đủ những sức mạnh năng lực
của con người. Bởi vậy. việc cảm
thụ c.đ. thức tỉnh niềm vui sướng,
tình yêu tư, cảm giác tự do, xác
nhận làm giàu tưởng thẩm mĩ*.
Trong lịch sử mĩ học. c.đ. sự cảm
thụ c.đ. được xem xét bình diện
mối quan hệ giữa cái tinh thần và cái
vật chất, cái khách quan cái chủ
quan, cái tự nhiên và cái xã hội, giữa
nội dung hình thức. Đặc trưng
của c.đ. được xác định thông qua
mối quan hệ của nỏ với các loại hình
giá trị khác: giá trị thực dụng (lợi
ích), giá trị nhận thức (chân lí), giá
trị đạo đức (cái thiện). Đối với vấn
đề c.đ thuộc tính khách quan hay
chỉ vấn đề chủ quan, các khuynh
hướng, học thuyết học khác nhau
những cách giải quyết khác nhau,
tuỳ thuộc vào phương pháp luận triết
học, trước hết cách giải quyết vấn
đề cơ bản của triết học. Mĩ học Mác-
xít nhấn mạnh sự liên hệ tính quy
luật giữa c.đ hoạt động lao động
của con người, coi hoạt động này
sở nảy sinh cảm quan thẩm mĩ.
Mĩ học Mác-xít coi c.đ. là thuộc tính
khách quan bởi giá trị nhân
bản - hội được tạo ra trong sự tác
động qua lại của tự nhiên hội,
của con người con người trong
quá trình thực tiễn xã hội lịch sử. Sự
đánh giá c.đ. (bộc lộ qua tình cảm
thẩm mĩ, tưởng thẩm mĩ*) lại
tính chất chủ quan, thể chân
thực hoặc giả dối tùy theo chỗ
tương ứng hay không tương ứng với
c.đ. như giá trị khách quan.
học Mác-xít cũng nhấn mạnh sự liên
hệ biện chứng giữa cái hữu ích với
cái đẹp cái thiện, trong khi nhiều
học thuyết học khác đem đối lập
cái đẹp với cái hữu ích với sự
nhận thức.
Nghệ thuật lĩnh vực đặc
biệt của việc sáng tạo thể hiện
c.đ., nhưng các tác phẩm nghệ
thuật chỉ đẹp, tức giá trị nghệ
thuật khi thể hiện chân thực đời
sống trong mọi biểu hiện thẩm
của nỏ thông qua lăng kính của
tưởng nhân đạo, thể hiện được sự
phong phú về tinh thần của cá nhân
con người, dưới một hình thức
hoàn thiện bậc thầy.
Cái hài
Phạm trù học phản ánh một
hiện tượng phổ biến của thực tế đời
sống vốn khả năng tạo ra tiếng
cười những cung bậc sắc thái
khác nhau. Đó sự mâu thuẫn, sự
không tương xứng người ta
thể cảm nhận được về phương diện
hội - thẩm (chẳng hạn hình
thức với nội dung, hành động với
tình huống, mục đích phương
tiện, bản chất biểu hiện V.V...).
Trong đó, hoặc chính bản thân
mâu thuẫn một trong những mặt
của đối lập với những tưởng
thẩm mĩ* cao đẹp.
Secnưsepxki, nhà văn, nhà
tưởng Nga định nghĩa: "Cái hài
sự trống rỗng sự nghĩa bên
trong được che đậy bằng một cái vỏ
huênh hoang tự cho rằng nội
dung và ý nghĩa thực sự".
c.h. gắn với cái buồn cười,
nhưng không phải cái buồn cười nào
cũng trở thành c.h.
c.h. bao hàm một ý nghĩa
hội gắn liền với sự khẳng định thẩm
cao cả. sự phê phán mang
tính cảm xúc sáng tạo tích cực, và có
sức công phá mạnh mẽ đối với
những cái xấu xa lỗi thời. Sức mạnh
phê phán của vừa tính phủ
định lại vừa mang tính khẳng định.
Nó phủ định cái lỗi thời xấu xa nhân
danh cái cao đẹp.
c.h. sở quy định đặc trưng
của xung đột nghệ thuật trong thể
loại hài kịch. Đó loại xung đột
giữa cái vốn hiện tượng của đời
sống thực tế với cái (hiện
tượng) cố ý làm ra thế, muốn tỏ ra,
muốn giả bộ thế.
Trong văn học, nghệ thuật,
tiếng cười thường nhiều cung bậc
mang những sắc thái khác nhau.
Người ta thường coi umua, hài
hước* cung bậc đầu tiên châm
biếm* cung bậc cuối cùng. Trong
umua, phép biện chứng của trí tưởng
tượng phóng khoáng mở cho ta
thấy đằng sau cái tầm thường cái
cao quý, sau cái điên rồ cái anh
minh, sau cái buồn cười là nỗi đau.
Trái lại trong châm biếm, đối
tượng của tiếng cười thói tật
xấu, nên nổi bật lên cái giọng đả
kích, phủ định, tố cáo. Tiếng cười
còn mang những sắc thái phong phú
đa dạng: cười khinh bỉ, cười thiện
cảm, cười nghiêm khắc, cười chua
chát v.v...
Đối với c.h., cung bậc nào
của tiếng cười cũng cần ba yếu tố
tạo thành sau đây- Một là, bản chất
mang tính hài hước của đối tượng
ai cũng dễ dàng cảm nhận được.
Đây yếu tố bản. Hai là, sự
cường điệu những đường nét. kích
thước những liên hệ của chúng
trong việc mô tả đối tượng. Ba là, sự
sắc bén. ý nhị, hóm hỉnh của người
thể hiện nhằm làm tăng thêm hiệu
quả của tiếng cười.
Cái hùng
Phạm trù học nhằm khám
phá toàn bộ giá trị của những hành
động ý nghĩa hội, đòi hỏi một
con người hoặc một tập thể người
(nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc) phải
gồng lên mức cao nhất những sức
lực thể chất tinh thần, lòng dũng
cảm, hy sinh. một trong những
dạng thức của cái cao cả*, c.h. gắn
mật thiết với cái bi*. Bản chất
của cái hùng khắc phục những
mâu thuẫn gay gắt, không điều hòa,
để khắc phục chúng nhiều khi
phải trả giá bằng sinh mạng. Trong
nghệ thuật., c.h. thể hiện trong việc
khẳng định một tưởng thẩm
cao. trước hết thông qua hình
tượng người anh hùng, những biểu
hiện anh hùng. Những hình tượng đó
thường hiện thân của xu thế tiến
bộ hội, của skiên cường về đạo
đức, sự lớn lao của tinh thần. Xây
dựng nhân vật là phương thức chính,
tuy không phải duy nhất, để thể hiện
c.h. bằng nghệ thuật, c.h. cũng còn
được biểu hiện thông qua lập trường
tích cực của tác giả (v.d. trong thể
loại châm biếm, trào lộng). Các hình
thức thẩm mĩ thể hiện c.h. phụ thuộc
vào loại hình, thể loại nghệ thuật,
vào phương pháp nghệ thuật
nghệ sĩ lựa chọn.
Cách luật
Toàn bộ những quy tắc tổ chức
ngôn từ thơ ca được cố định lại
thành một thể thức nhất định, lặp đi
lặp lại trong các tác phẩm.
Nền tảng của c.l. các quy tắc
tổ chức ngôn từ về mặt âm thanh,
gieo vần, ngắt nhịp, đối thanh (luật
bằng trắc), số dòng, số tiếng trong
một dòng v.v... (X.Lục bát*, song
thất lục bát*, thơ Đường luật*).
Nhưng đối với một số thể thơ
nhất định, như các thể thơ cổ điển,
cấu trúc chặt chẽ thì các yếu tố
nghĩa cũng thể tham gia tạo nên
c.l. v.d. sự bắt buộc đối ý đối lời
trong các cặp câu thực luận
trong thể thơ Đường thất ngôn bát
cú:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ
mấy nhà,
Nhớ nước đau lòng con
quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng
cái gia gia.'
(Bà huyện Thanh Quan
- Qua đèo Ngang)
Cách ngôn
Loại câu nói ngắn gọn, súc tích
ý nghĩa giáo dục đạo đức,
tưởng, được nhiều người coi
chuẩn mực, khuôn thước để làm
theo vươn tới. c.ng. cũng thể
được rút ra trong kho tàng tục ngữ
của nhân dân hoặc từ những trước
tác, những lời nói của các lãnh tụ,
các học giả, các nhà văn học lớn.
v.d:
- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng
- Thương người như thể thương thân.
- Không pháp thuật nào mạnh hơn pháp
thuật của lời nói.
(A.Phrăng)
• • * •
- Con người làm sao thì họ sẽ tranh luận
với nhau làm vậy.
(F.Angghen)
Cảm hứng chủ đạo
Trạng thái tình cảm mãnh liệt,
say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ
thuật, gắn liền với một tưởng xác
định, một sự đánh giá nhất định, gây
tác động đến cảm xúc của những
người tiếp nhận tác phẩm. Bêlinxki
coi c.h.ch.đ. điều kiện không thể
thiếu của việc tạo ra những tác phẩm
đích thực, bởi nó "biến sự chiếm lĩnh
thuần tuý trí óc đối với tưởng
thành tình yêu đối với tưởng, một
tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng
nhiệt thành".
Thuật ngữ c.h.ch.đ. lúc đầu chỉ
yếu tố nhiệt tình say sưa diễn thuyết,
sau chỉ trạng thái đắm khi xuất
hiện tứ thơ. Về sau luận văn học
xem c.h.ch.đ. một yếu tố của bản
thân nội dung nghệ thuật, của thái độ
tưởng xúc cảm nghệ đối với
thế giới được mô tả. Theo nghĩa này.
c.h. ch.đ. thống nhất với đề tài
tưởng của tác phẩm. C.h.ch.đ. đem
lại cho tác phẩm một không khí xúc
cảm tinh thần nhất định, thống nhất
tất cả các cấp độ yếu tố của nội
dung tác phẩm. Đây cái mức căng
thẳng cảm xúc nhờ đó nghệ
khẳng định các nguyên tắc thế giới
quan của mình trong tác phẩm.
Trong nghiên cứu văn học*
hiện đại, người phân loại
c.h.ch.đ.: bi kịch*, chính kịch*, anh
hùng*, cảm thương, lãng mạn*, trữ
tình*, trào lộng*, châm biếm* (dùng
như những định ngữ). thể gọi tắt
những c.h.ch.đ. "cảm hứng", v.d.:
cảm hứng anh hùng, cảm hứng trào
lộng v.v... nhưng c.h.ch.đ. trong tác
phẩm cụ thể một hiện tượng độc
đáo không lắp lại, gắn với tình cảm
của tác giả.
Cáo
Một thể văn thư nhà vua dùng
để ban bố cho thần dân nhằm trình
bày chủ trương, công bố kết quả một
sự nghiệp.
Bài c. lớn nhất, tiêu biểu
giá trị nhất ở nước ta là Bình ngô đại
cáo do Nguyễn Trãi viết năm 1428
theo lệnh của Lợi. c. thể được
viết bằng văn xuôi (tản văn) nhưng
phần nhiều được viết theo thể văn
biền ngẫu*.
Câu đố
Một thể loại văn học dân gian
chức năng chủ yếu phản ánh sự vật
hiện tượng bằng phương pháp giấu tên
nghệ thuật chuyển hoá (chuyển vật
nọ thành vật kia), được nhân dân dùng
trong sinh hoạt tập thể để thử tài suy
đoán, kiểm tra sự hiểu biết mua vui,
giải trí.
Đơn vị tác phẩm của thể loại này
được gọi câu, đều rất ngắn,
tương tự như những câu tục ngữ ca
dao, v.d.:
- Anh lớn mặc áo đỏ. Em nhỏ mặc áo xanh
(Quà ớt)
- Một đàn cò trắng phau phau
Ăn no tắm mát rủ nhau đi
nằm.
(Những cái bát ăn cơm)
Nhưng cũng không ít những c.đ. dài
(tương tự như một bài ca dao hay một bài
thơ), v.d.:
Con hai đứa hai nơi
Gặp nhau một chỗ cùng chơi một phòng
Không may nhà sập thì chồng
Tan xương nát thịt máu hồng chứa chan.
(Trầu cau và việc ăn trầu)
Tuy có nhiều tác dụng khác
nhau (như đức dục, mĩ dục...) nhưng tác
dụng chủ yếu của câu đố là trí dục. Lối ẩn
dụ trong câu đố là một lối ẩn dụ riêng,
khác với lối ẩn dụ thông dụng trong văn
học nghệ thuật (cái ẩn trong câu đố là cái
hoàn toàn vô định, không nhất thiết phải
là cái thuộc về con người trong văn học
nghệ thuật). Dựa vào những biểu hiện
khác nhau về nội dung, hình thức, người
ta còn chia c.đ. thành các loại, các nhóm
khác nhau, như loại đố tục giảng thanh,
loại đố chữ, loại đố nói và đố giảng v.v...
Câu đốì
Một thể văn đặc biệt có quy mô nhỏ,
mỗi đơn vị tác phẩm (được gọi là câu) gồm
hai vế (thực chất là hai câu) đối xứng với
nhau về từ loại, âm thanh và ý nghĩa, dùng
để biểu lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ trước
một con người, một sự việc hoặc một cảnh
vật; một đối tượng nào đó
chú thể (tác giả) quan tâm chú
ý. Câu đối dùng để đọc, hoặc dán.
khấc (trang trí ở nơi trang trọng) để
tỏ chí, đối đáp, chúc mừng, ghi
công, viếng người chết, hoặc đùa
vui, cười nhạo... Sức mạnh của c.đ.
tính khái quát cao, súc tích, v.d,
câu đối tuyệt mệnh của Trần Hữu
Lực:
Non sông đã chết, ta lại sống
thừa, từ mười năm rửa kiếm mài
dao, chí mạnh những mong phò Tổ
quốc.
Lông cánh chưa thành, việc
bỗng đâu hóa hỏng, dưới chính
suối điều binh khiển tướng, hồn
nhiên ngầm giúp bọn thiếu niên
(Tôn Quang Phiệt
dịch từ nguyên bản Hán văn)
Trong nhà trường cũ, dựa vào
cách làm, người ta phán c.đ. thành
ba loại: câu đối sách (lấy nghĩa
hoặc chữ trong sách đối), câu
đối tức cảnh (thấy cảnh thì làm
câu đối về cảnh ấy), câu đối chiết
tự ("bẻ chữ’ ra mà đối, chữ ở đây lã
chữ Hán bao gồm cả hình nét
nội dung ý nghĩa của chữ).
Dựa vào hình thức tổ chức
ngôn từ, c.đ cũng được phân
thành ba dạng; câu tiểu đối (câu
đối nhỏ, mỗi vế từ ba đến sáu
tiếng), câu đối thơ ( câu đối đặt
theo lối thơ thất ngôn), câu đối
phú (câu đối được làm theo thể
văn phú, như song quan, cách cú,
gối hạc. Mỗi vế dài từ 8 tiếng trở
lên, thể dài tới mấy chục
tiếng).
c.đ. thể loại văn học Trung Quốc
du nhập vào Việt Nam từ lâu đời. Đặc
điểm của tiếng Việt về ngữ âm, ngữ pháp
từ vựng rất thuận lợi cho việc làm c.đ. trở
thành phương thức phổ biến của cả văn
học viết lẫn văn học truyền miệng, một
món ăn tinh thần truyền thống, một thú
chơi tao nhã, phù hợp với nhiều trường
hợp, hoàn cảnh sinh hoạt hội khác
nhau.
c.đ. hay bất luận ngắn hay dài.
Nôm hay chữ (chữ Hán) đều cốt
sự mới mẻ. sâu sắc về nội dung
hoàn thiện, độc đáo về hình thức.
Cấu trúc của tác phẩm
Tổ chức nội tại. mối quan hệ
qua lại của các yếu tố của tác phẩm
sự biến đổi một yếu tố nào
trong đó sẽ kéo theo sự biến đổi
của các yếu tố khác. Từ xưa người
ta đã biết đến c.tr.c.t.ph. văn học,
nhưng chỉ hiểu khía cạnh hoà
hợp hài hoà đối xứng. Nghiên cứu
văn học từ những năm 20 thế kỉ
này hiểu c.rr.c.t.ph. văn học kết
cấu*, cấu tạo mối quan hệ qua
lại của nhân vật với các hình tượng
khác, quan hệ giữa các lớp
tưởng chủ đề lớp tạo hình, tổ
chức lời văn.
Ngày nay, c.tr.c.t ph. văn học
là một khái niệm được sử dụng phổ
biến được hiểu như mối quan
hệ qua lại của các hiệu thẩm
đặc thù bởi tác phẩm một thông
báo bằng một ngôn ngữ đặc biệt.
Khác với ngôn ngữ tự nhiên, các
yếu tố c.tr.c.t.ph đều ý nghĩa
riêng, v.d. một câu tục ngữ như:
"Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng
, thì cả mực đen, đèn sáng.
trong cấu trúc của câu tục ngữ đều
hàm chứa những nội dung
những chữ ấy thông thường tách
riêng ra không thể được. Do đó
muốn hiểu tác phẩm văn học ta
phải tìm hiểu cấu trúc của nó, đặt
các yếu tố trong cấu trúc của nó.
Tác phẩm văn học một cấu
trúc phức tạp. Hiện vẫn chưa
một quan niệm thỏa mãn được mọi
người. Tuy vậy nhìn chung, khái
niệm c.tr c.t.ph. thể hình dung
đại thể như sau: xét từ lí luận chính
thể. C-tr.c.t.ph. bao gồm các yếu tố
được đặt trong trật tự (cấp độ) phụ
thuộc vào nhau sau đây: tưởng
chủ đề (gồm cả đề tài), hệ thống
hình tượng (có thể bao gồm cả cốt
truyện*), kết cấu*, ngôn từ. Cũng
có ý kiến xem nội
dung tưởng - chủ đề yếu tố ưu trội,
quy định cả hệ thống tác phẩm, còn cấu
trúc đích thực của tác phẩm chỉ bao gồm
hai yếu tố: ngôn từ, cốt truyện, được tổ
chức với nhau bằng kết cấu. Yếu tố kết
cấu* là đặc trưng cho bản chất nghệ thuật
nói chung của văn học, tạo ra nhịp
điệu chung cho tác phẩm cho từng bộ
phận. Yếu tố cốt truyện đặc trưng cho tác
phẩm cho từng bộ phận. Yếu tố cốt
truyện đặc trưng cho văn học với cách
nghệ thuật thời gian, gắn với xuất
hiện con người, không gian, thời gian,
xung đột. biến cố. Yếu tố ngôn ngữ tiêu
biểu cho đặc trưng nghệ thuật ngôn từ.
Sự thống nhất các yếu tố (cấp độ) này tạo
ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Trên cấp độ chủ đề*, cốt truyện*,
người ta chỉ ra các câu. các từ ngữ chìa
khóa ý nghĩa đặc biệt như các chủ
đề nhỏ. Các môtip*. Cốt truyện được
hiếu như là tổng
Thể của các môtip và tiếp theo, chỉ
ra các cốt truyện "di chuyển", các chủ đề
"vĩnh cửu" (thiên nhiên, tình yêu. cái
chết...) Trên cấp độ hình tượng, người ta
chia ra hình tượng ngôn từ (các phép
chuyển nghĩa), các hình tượng nhân vật,
phong cảnh, chân dung, nội tâm (chiếm
một phần văn bản), các hình tượng về thế
giới, không gian, thời gian (chiếm toàn
văn bản). Trên cấp độ thời gian, người ta
chia các yếu tố dòng thơ, khổ thơ, văn
bản thơ. Trên cấp độ ngôn ngữ, người ta
phân biệt ngữ âm, hình thái, cú pháp, yếu
tố trên câu. toàn văn bản, liên văn bản.
Toàn bộ các yếu tố vừa kể trên ở các cấp
độ đều tham gia vào c.tr.c.t.ph. nhằm tạo
ra một hình thái về mối quan hệ thẩm mĩ
giữa chủ thể và thế giới.
Tính lặp lại và vững bền của các yếu
tố thuộc các cấp độ cấu trúc tối cao. cho
phép nghĩ đến các mẫu gốc* của tư
duy nghệ thuật. Tính ổn định của
các cấp độ cấu trúc siêu văn bản cho
phép nói đến cấu trúc của tình
huống văn học sử của thời đại. Một
trong những đặc điểm quan trọng
của tính ổn định của cấu trúc là kí ức
của thể loại* tức hình của thể
văn học.
Cấu tứ
Xét trong quá trình sáng tác,
hoạt động duy để sáng tạo ra
hình tượng nghệ thuật. Trong thiên
Thần tứ, nhà luận văn học
Trung Quốc Lưu Hiệp (≈465 -
532) nói: "Cái kỳ diệu của cấu tứ
làm cho tinh thần nhà văn gặp
gỡ với sự vật khách quan", "hình
ý gặp nhau". Các nhà văn
thường nói "tình tứ", "cấu tứ" tác
phẩm là như vậy.
Xét như một thành quả sáng
tạo, c.t. sự cắt nghĩa, giải khái
quát hiện tượng đời sống bằng một
hình tượng tổng quát sức chi
phối toàn bộ cảm thụ, suy tưởng và
miêu tả nghệ thuật trong tác phẩm.
Chẳng hạn trong bài Lệ, Xuân
Diệu xem "trái đất ba phần
nước mắt" một giọt lệ lớn đi
giữa không trung, hoặc trong bài
Hồ Chí Minh (1946) Tố Hữu hình
dung Hồ Chủ tịch qua hình ảnh
"Người lính già" đi tiên phong
quyết chiến, hi sinh.
thể xem c.t. linh hồn của
tác phẩm, cung cấp một thế đứng,
thế nhìn, cách cảm nhận để thâm
nhập vào thế giới nghệ thuật của tác
phẩm, c.t. hình nghệ thuật của
tác phẩm, quan niệm nghệ thuật
về thế giới và con người của nó.
c.t. không phải chỉ trong thơ
trữ tình hoặc trong một tác phẩm
cả trong mọi tác phẩm nghệ thuật
loại khác như tiểu thuyết*, kịch*,
kí*, tản văn*, trong sáng tác của một
tác giả hoặc một loại văn học.
Chẳng hạn "đa thanh” (polyphonie)
một c.r nghệ thuật của
Đôxtôiepxki để phản ánh cái phẩm
chất chưa hoàn thành của đời sống.
Miêu tả con người như đồ vật (chân
dung thằng ăn cắp. phán
Tuyên...) một nét đáng chú ý
trong c.t. nghệ thuật của truyện ngắn
trào phúng của Nguyễn Công Hoan.
Châm biếm
Một dạng của văn học trào
phúng*. dùng lời lẽ sắc sảo. cay độc,
thâm thuý để vạch trần thực chất xấu
xa của những đối tượng những
hiện tượng này hay hiện tượng khác
trong hội Ch.b. gắn liền với tình
cảm hội như yêu nước, yêu lẽ
phải, tình yêu con người.
Ch.b. khác với umua, hài
hước mức độ gay gắt của sự phê
phán ý nghĩa sâu sắc của hình
tượng nghệ thuật.
Về phương diện hội. phần
lớn những tác phẩm ch.b. thường
chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của nhân
dân, của tưởng tiến bộ trong lịch
sử. Các nhà văn, nhà thơ trào phúng
thường tài ch.b. đã viết những
tác phẩm giá trị đả kích bọn
thống trị tàn bạo, khắc, bọn xâm
lược và bè lũ phản bội, bán nước cầu
vinh...
Châm ngôn
Lời nói để răn đời. ngăn ngừa
sai trái, có tác dụng hướng dẫn về
tưởng đạo đức, cách sống. Chẳng
hạn: "Kỉ s bất dục vật thi ư nhân"
(Điều mình không muốn thì chớ làm
cho người khác). Mở rộng ra. ch.ng.
cũng như cách ngón lời đúc kết
cách sống. Với hình thức ngắn gọn,
dễ nhớ. (câu) ch.ng thường được rút
ra từ tục ngữ* hoặc từ lời nói của
các lãnh tụ, các nhà tưởng, các
nhà văn hoá lớn. Chẳng hạn nhiều
câu nói của Khổng Tử, Hồ Chí
Minh, Lênin đã được coi là ch.ng
Ch.ng. còn một thể văn trong
văn cổ gọi bài chăm hay chàm từ.
Chẳng hạn, bài Cừu mục châm của
Dương Hùng. Nữ châm của
Trương Hoa (Trung Quốc).
Chân dung văn học
Thể loại văn học đặc thù
nhiệm vụ tương tự như thể loại chân
dung trong hội họa điêu khắc,
diễn tả diện mạo của một con người
cụ thể, thật, sao cho truyền được
thần thái sống động của người đó,
phát hiện đặc điểm riêng, nhân,
độc đáo. không lặp lại của một nhân
cách với thế giới tinh thần của nó.
Khác với hồi tưởng, ghi chép
về một con người cụ thể với
cách một thể loại văn học.
ch.d.v.h. miêu tả con người cụ thể
với một quan niệm xác định về
nhân cách.
Phương pháp của ch.d.v.h.
phương pháp của thể kí. không
thiên về cốt truyện*. Nhà văn phát
huy sở trường quan sát. lựa chọn chi
tiết, cử chỉ, ngôn luận, kể cả tác
phẩm, thế, hồi tưởng để dựng lại
bộ mặt tinh thần của một con người,
thường nhà văn. nghệ hoặc các
nhà hoạt động hội nổi tiếng.
L.Tônxtôi. V.I.Lênin của M. Gorki.
Bandăc, Đickenx của X.Xvai
những ch.d.v.h. nổi tiếng
Chân lí nghệ thuật
Một trong những phạm trù
học trung tâm. Nhằm nêu lên đặc
trưng nhận thức luận của nghệ thuật.
Các khái niệm về sự giống thực, về
sự trung thành với "sự thật của đời
sống" của các hình thức nghệ
thuật*, đều chưa bộc lộ hết ý nghĩa
của ch.l.ng.th. Để đạt tới ch.l.ng.th.
cần phải vai trò của tưởng tượng,
của tính sáng tạo* của nghệ sĩ,
của việc sử dụng các phương thức
tạo hìnhbiểu hiện trong phản ánh
nghệ thuật
| 1/240

Preview text:

Anh hùng ca (X. Sử thi*). Ảnh hưởng văn học
Hỏi thăm cô ấy chửa hay đà...
Mối quan hệ tác động qua lại
Hình dung yểu điệu in như
giữa các nhà văn, các tác phẩm và thể... các nền văn học.
Diện mạo phương phi ngỡ
Mô phỏng, đồng nguồn, vay tưởng là...
mượn, phổ biến, đều có quan hệ với (Thơ khuyết danh)
ảnh hưởng nhưng chưa phải đã là
hoặc như phần thơ yết hậu (để
ảnh hưởng thật sự. Sự mô phỏng tự trống phần sau):
nó chỉ mới chứng tỏ sự lặp lại, chạy Chơi xuân kẻo nữa già.
theo con đường của người khác. Sự Lâu nay vẫn muốn mà,
vay mượn cốt truyện, sử dụng tư “Mời vãi vào nhà hậu.
liệu, ngôn ngữ cũng chưa phải là ảnh Ta…!
hưởng. A.h.v.h chỉ xảy ra trong điều (Thơ khuyết danh)
kiện có tiếp nhận và sáng tạo và chủ
Â.ng. còn có nghĩa là lời nói
yếu thể hiện trong phương diện sáng
kín chỉ người trong cuộc hiểu không
tạo, làm ra tác phẩm mới, là cái tác
cho người ngoài hiểu. Loại này sử
động đem lại sự phong phú hay biến
dụng các thứ tiếng lóng, ám thị.
đổi về quan điểm thẩm mỹ hay các
tư duy nghệ thuật mà truyền thông Bản chính
văn học dân tộc của nhà văn không
Văn bản được dùng làm đối
có, hoặc sự phát triển tự nhiên của
tượng chính để nghiên cứu trong
tài năng nhà văn không dẫn đến.
trường hợp tác phẩm ấy có nhiều dị
Chẳng hạn, ảnh hưởng của chủ bản*.
nghĩa lãng mạn Pháp, đặc biệt là chủ
B.ch. có thể là bản gốc*, có
nghĩa tượng trưng Pháp đã góp phần
thể là bản sao của bản gốc hoặc một
tạo thành những sáng tác Thơ mới
dị bản được xem là gần với bản gốc 1932 - 1945 ở Việt Nam. nhất.
A.h.v.h là một quá trình, có
Thuật ngữ b.ch. cũng có lúc
thể tác động tới các khâu khác nhau
được dùng để chỉ bản gốc.
trong quá trình ảnh hưởng như gợi ý, Bản dịch
thúc đẩy, làm cho giống, tiêu hoá
Văn bản tác phẩm trên một
biến dạng, thay đổi biểu hiện nghệ
ngôn ngữ khác với nguyên bản. thuật... Có a.h.v.h diễn v.d: Tác phẩm Ngục trung
Lại đến Oran (tức vấn đáp) là
nhật ký (Nhật kí trong tù) của Chủ bước khó,
tịch Hồ Chí Minh, nguyên văn bằng
Mình ơi ta bảo "Có thi thì..."
chữ Hán, được chuyển sang dịch chỗ â.ng. trong văn bản
bằng tiếng Việt và phổ biến rộng rãi.
thường thể hiện thành chấm lửng
Một tác phẩm có thể có nhiều
(...), người đọc dựa vào ngữ cảnh mà
b.d khác nhau (bài thơ Thu hứng của nhận ra.
Đỗ Phủ có hai bản dịch: một của
Â.ng. thường được sử dụng
Tản Đà và một của Nguyễn Công
để thể hiện sự nghẹn ngào, e thẹn,
Trứ. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần
hoặc đùa vui, gây bất ngờ dí dỏm.
Côn có ít nhất bốn bản dịch ra chữ
Có kiểu thơ, lối nói chuyện khai thác
Nôm...). Các b.d. có thể đạt trình độ
đặc điểm â.ng. như thơ tiệt hạ (cắt
nghệ thuật cũng như mức độ trung
bỏ phần tiếp theo), chẳng hạn:
thành với nguyên nhân không đồng Thấy gái hồng nhan bỗng đều nhau. chốc mà...
B.d. lược bỏ bớt một số phần,
B.th. là tư liệu quan trọng để
một số đoạn không quan trọng, hoặc
nghiên cứu quá trình lao động của
dịch không theo sát nguyên văn của
nhà văn, lịch sử hình thành tác
nguyên bản gọi là bán lược dịch hay phẩm. phóng dịch. Bản xuất bản
Bản thảo* đã qua biên tập và Bản gốc
được nhà xuất bản công bố.
Văn bản tác phẩm* từ đó
Về nguyên tắc b.x.b. (dưới
người ta tiến hành sao chép hoặc
các hình thức in khác nhau) thống phiên âm, phiên dịch.
nhất với bản bên tập. Nhưng trên
Khi công bố các văn bản sao,
thực tế cũng có những trường hợp có
bản phiên âm, phiên dịch, cần thiết
sự xê dịch: hoặc là do khâu in (sai
phải nói rõ b.g. của nó.
sót), hoặc do khâu kiểm duyệt.
Trong b.x.b. người ta chú ý Bản sao
giới thiệu những chi tiết cần thiết về
Văn bản tác phẩm* có được
cơ quan xuất bản, năm, nơi xuất bản,
bằng cách sao chép lại (chép tay, số lượng bản in...
đánh máy hoặc photocopy) từ một Bạt
văn bản có trước của tác phẩm.
Con được gọi là hậu tự, hậu Bản tái bản
kí. B. là thành phần nằm ngoài văn
Văn bản tác phẩm* được công
bản* của một tác phẩm, được trình
bố lại trên cơ sở văn bản tác phẩm
bày sau tác phẩm (cuối cuốn sách),
đã được xuất bản lần trước.
khác với tựa* thường nằm ở đầu
Một tác phẩm có thể được tái cuốn sách.
bản nhiều lần có sửa chữa hoặc
Nội dung của bạt nhằm thuyết
không sửa chữa so với nguyên bản
minh thêm về cuốn sách, về những
hoặc bản xuất bản trước, v.d.: b.t.b.
gì mà bài tựa chưa nói tới hoặc chưa
năm 1955 cuốn tiểu thuyết Bước
nói hết. Những lời thuyết minh thêm
đường cùng của Nguyễn Công Hoan
này rất quan trọng, giúp người đọc
so với xuất bản lần đầu năm 1938 có
hiểu cuốn sách không kém gì lời tựa.
một số chi tiết thay đổi. Trong khi
V.d. bài b. Sống với ca dao dân ca
đó b.t.b lần thứ sáu, 1984 cuốn tiểu
miền Nam Trung bộ của Xuân Diệu
thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố lại
in ở cuối tuyển tập Dân ca miền
không có gì khác so với bản xuất
Nam Trung bộ đã khơi dậy cả một bản đầu tiên.
nguồn ca dao trong ký ức tác giả với
Việc xem xét các b.t.b. có thể
tất cả bối cảnh sinh hoạt và thiên
góp phần tìm hiểu lịch sử văn bản.
nhiên mơ mộng cùng tâm tình thiết Bản thảo
tha, sầu kín của con người. Đọc
Văn bản* tác giả viết ra trong
xong lời b. người đọc hiểu thêm về
quá trình hình thành tác phẩm.
dân ca Nam Trung bộ, nghĩa là hiểu
Có thể phân biệt hai loại: loại
sâu thêm về phần văn bản chính của
do chính tay tác giả viết, chữ viết
cuốn sách đã được trình bày. Nội
trong b.th. là chữ tác giả: loại khác
dung lời b. nói chung, tương đối tự
do tác giả đọc cho người khác viết do. hoặc đánh máy.
B. có khi do chính tác giả viết
Có thể có nhiều b.th. khác
(gọi là lời tự bạt). Một số nhà viết
nhau do sự sửa chữa, bổ sung nhiều
tiểu thuyết trên thế giới hay có lời tự lần của tác giả.
b. sau tác phẩm của mình.
B.th. cuối cùng được gọi là Bi ca định cảo.
Thể thơ trữ tình có quy mô
trung bình, nội dung giàu chất trầm
tư hoặc cảm xúc, thường là buồn
(còn gọi là kịch dram). Cơ sở xã hội
thảm, được diễn đạt phần lớn bằng
- thẩm mĩ của sự hình thành b.h.k. -
ngôi thứ nhất và kết cấu không theo
là cảm giác về tính tương đối trong một khuôn mẫu rõ ràng.
sự cảm thụ thực khách quan của nhà
B.c. ra đời ở Hy Lạp vào thế
văn. Nó thường nảy sinh vào những
kỉ VII trước C.N., lúc đầu có nội
thời điểm bước ngoặt của lịch sử và
dung chính trị đạo đức là chủ yếu.
được coi là dấu hiệu của sự khủng
Về sau trong thơ ca Hy Lạp và La
hoảng tinh thần. Khái niệm b.h.k.
Mã (kể riêng b.c.) để tài tình yêu
lần đầu tiên được nhà viết kịch La chiếm ưu thế.
Mã cổ đại Plot sử dụng với ý nghĩa
Hình thức b.c. cổ đại là thơ
là trong số các nhân vật hài kịch của
hai câu Trong thời trung cổ và Phục
ông sẽ có cả các vị thần vốn thường
Hưng, b.c. viết bằng tiếng La Tinh
chỉ xuất hiện trong các bi kịch. Đến
cúng bắt chước khuôn mẫu này. Đến
thời Phục Hưng, nội dung khái niệm
thế kỉ XVI - XVIII, b.c. được viết
này được mở rộng hơn. Tất cả các
bằng ngôn ngữ mới của các dân tộc
vở kịch trong đó có sự phá vỡ các
châu Âu và có những tác giả nổi
quy tắc định sẵn của bi kịch hoặc hài
tiếng như Rôngxar (1524 - 1585,
kịch cổ đại, chẳng hạn có sự pha Pháp), Xpenxer (1552 - 1599.
trộn các nhân vật cao cả với thấp
Anh)... Tuy vậy, trong suốt một thời
hèn, sự xen kẽ giữa pha nghiêm túc
gian dài. b c. vẫn bị coi là thể loại
với buồn cười, hoặc hành động bi
hạng nhì. Bước sang thời tiền lãng
kịch được kết thúc có hậu (và đây là
mạn và lãng mạn. b.c. mới đạt đến
nét duy nhất bắt buộc phải có), đều
độ phát triển cao, gắn liền với tên
được gọi là b.h.k. Cách hiểu này đến
tuổi nhiều nhà thơ lớn như Gớt
thế kỉ XVI còn được áp dụng. Vì thế
(1749 - 1832, Đức), Lamactin (1790
năm 1636, Cornây đã gọi vở kịch
- 1896. Pháp), Giucốpxki (1783 -
LơXit của mình là b.h.k bởi lẽ đó là
1852) và A.Puskin (1799 - 1837.
một vở bi kịch điển hình nhưng lại
Nga). Nhưng rồi sau đó b.c. mất dần
kết thúc có hậu. Từ thế kỉ XVII trở
tính chất đặc trưng về mặt hình thức
đi, yếu tố b.h.k. chỉ biểu hiện một
thể loại, nhưng đặc trưng nội dung
cách ngẫu nhiên, không còn là
vẫn còn xác định, nên thuật ngữ b.c.
những nét đặc trưng bền vững của
còn sử dụng để chỉ một truyền thống
tác phẩm thuộc một thể loại "thuần
nội dung vào nửa sau thế kỉ XIX và
tuý” độc lập nữa. Đến cuối thế kỉ
thế kỉ XX. thuật ngữ "bi ca" chỉ
XIX đầu thế kỷ XX nguyên lý b.h.k
dùng như tên gọi của một "chùm"
lại bắt đầu chiếm ưu thế trên kịch
(hoặc hệ) bài thơ nào đó, hoặc
trường châu Âu với các tác phẩm
những bài thơ riêng lẻ có nội dung
xuất sắc của Ipxen (1828 - 1906, Na buồn thảm.
Uy) và Sêkhôp (1860 - 1904, Nga)
Ở Việt Nam, có thể tìm thấy
như Con vịt giời, Cậu Vania, Vườn
chất bi ca trong các khúc "ngâm",
anh đào... chúng được coi là cội
"vãn" và nhiều bài thơ mới lãng mạn
nguồn của b.h.k. hiện đại. B.h.k.
của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Huy
hiện đại chú trọng vào việc tạo ra Cận...
trạng thái xúc động mang tính bi hài Bi hài kịch
kịch dựa trên cơ sở không tương
Thể loại văn học - sân khấu
xứng giữa nhân vật với tình huống.
mà tác phẩm của nó mang những nét
Tình huống trong b.h.k. phần lớn là
đặc trưng vừa của bi kịch*, vừa chứa
bi còn nhân vật lại không đạt tới tính
hài kịch*. Nó là hình thức trung gian
hoàn thiện và chủ nghĩa cực đoan
giữa bi kịch và hài kịch, nhưng về
của nhân vật bi kịch, thậm chí nhiều
mặt thể loại* khác với chính kịch
khi trở thành nhân vật hài kịch nữa.
Nhân vật chính của b.h.k. phụ thuộc
Kết thúc bi thảm của số phận nhân
vào hoàn cảnh và thường đóng vật
vật b.k. thường có ý nghĩa thức tỉnh,
hy sinh của biến cố và số mệnh.
dự báo về một cái gì tốt đẹp hơn sẽ
Trong b.h.k. hiện đại ít gặp trường
nảy sinh trong cuộc sống và mỗi con
hợp ngược lại là nhân vật bi kịch với
người. Trong b.k. qua cái chết của tình huống hài kịch.
nhân vật chính, người ta tìm thấy cái
Xung đột trong b.h.k thường
thiêng liêng vô giá của sự sống chân
bắt nguồn từ tính không quyết đoán
chính và cái bất tử của cộng đồng.
bên trong của nhân vật, vở kịch
Vì thế nhân vật chính của b.k.
thường kết thúc không đứt điểm và
thường là những nhân vật anh hùng
buộc khán giả phải suy nghĩ tiếp đến
với ý nghĩa tích cực cao cả. cùng.
B.k. ra đời rất sớm ở Hy Lạp
Ở nước ta, chưa thấy có một
cổ đại, bắt nguồn từ những nghi lễ
vở kịch nào được xây dựng theo
thờ cúng thần rượu nho Đionidốt ở
đúng những nguyên tắc thi pháp trên
đây, vào thế kỷ V trước C.N., b.k. đã
đây của b.h.k. như một thể loại
là một thể loại sân khấu rất thịnh “thuần tuý" độc lập.
hành với những tác giả nổi tiếng như Bi kịch
Etsilơ, Xôphôclơ, ơripit và những
Một thể loại kịch*, thường
tác phẩm bất hủ còn lưu giữ được
được coi như là đối lập với hài
đến ngày nay như Prômêtê bị xiềng, kịch*.
Antigôn, Orext v.v... Từ bấy đến B.k. phản ánh không phải
nay, b.k. đã trải qua nhiều bước
bằng tự sự mà bằng hành động của
thăng trầm và không ngừng đổi mới
nhân vật chính, mối xung đột không
về hình thức và nội dung nghệ thuật
thể điều hoà được giữa cái thiện và
để ngày một hoàn thiện hơn về mặt
cái ác, cái cao cả* và cái thấp hèn
thể loại và đáp ứng được ngày một
v.v... diễn ra trong một tình huống
tốt hơn nhu cầu xã hội - thẩm mỹ
cực kỳ căng thẳng mà nhân vật
của công chúng ở các thời đại khác
thường chỉ thoát ra khỏi nó bằng cái nhau.
chết bi thảm gây nên những suy tư
Vào các thế kỉ XVI - XVII. ờ
và xúc động mạnh mẽ đối với công
một số nước châu Âu như Anh, Pháp
chúng. Theo Arixtốt (384 - 322
V.V.... b.k. là thể loại văn học - sân
trước C.N.), b.k. là "Sự bắt chước
khấu rất thịnh hành gắn liền với tên
hành động hệ trọng và trọn vẹn"
tuổi các tác giả lớn như Sêcxpia
nhằm "dùng hành động chứ không
(1564 - 1616). Cornây (1606 - 1699)
phải bằng kể chuyện, bằng cách gây
và những tác phẩm tiêu biểu như:
nỗi xót thương và nỗi sợ hãi để thực
Hăm lét, Ôtelô, Lơ xít, Oraxơ,
hiện sự thanh lọc những nỗi xúc
Anđrômac v.v... Từ thế kỉ XVIII trở
động tương tự" (Nghệ thuật thi ca -
đi b.k. phát triển theo chiều hướng
chương 6). Như vậy, b.k. sẽ không
khác nhau và không còn bị ràng
còn là b.k. nữa nếu người xem
buộc chặt chẽ với những nguyên tắc
không bị rung động bởi hành động
thi pháp* cổ điển của nó nữa. Ở Việt
của nhân vật và nếu toàn bộ nỗi xúc
Nam, không có b.k. như một thể loại
động và khiếp sợ không dẫn đến
văn học - sân khấu theo quan niệm
được một giải quyết nào đó về tình
cổ điển, mà chỉ có một số vở tuồng
cảm theo hướng tích cực. Nhân loại
hoặc kịch hiện đại mà nội dung tư
tìm thấy ở tác phẩm b.k. những cái
tưởng nghệ thuật có chứa đựng yếu
gì khủng khiếp mà cái ác có thể gieo
tố b.k. Có thể coi vở Vũ Như Tô của
rắc, áp đặt cho mình, do đó không
Nguyễn Huy Tưởng là một ví dụ.
thể bàng quan và chịu khuất phục Biền ngẫu
trước sức mạnh tàn bạo của nó được.
Hình thức cấu trúc của một
nhất của nó là rất gò bó trong việc
loại văn chương cổ xưa ở phương
diễn tả tư tưởng, tình cảm. Tuy
Đông (được gọi là biền văn), trong
nhiên, đối với những cây bút lão
đó lấy đối làm nguyên tắc cơ bản,
luyện, với cảm xúc mãnh liệt, cũng
tạo cho lời vàn sự nhịp nhàng cân
có thể tạo ra những bài văn hay như đối.
Biệt phú của Giang Yêm. Vu thành
Theo nghĩa từ nguyên, biên là
phú của Bão Chiếu... thời Nam Bắc
hai con ngựa chạy song song với
triều ở Trung Quốc. Bạch Đằng
nhau và ngẫu là chẵn đôi. B.ng. là
giang phú của Trương Hán Siêu,
cách nói hình tượng hoá, chỉ câu văn
Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi,...
có các vế sóng đôi đối nhau từng
thời Trần, Lê ở Việt Nam.
cặp. Nguyên tắc đối trong b.ng. có
Biện pháp nghệ thuật
những yêu cầu rất chặt chẽ và phức
Những nguyên tắc thi pháp tạp.
trong việc tổ chức một phát ngôn -
Đối ý: Phải tìm được
nghệ thuật (nguyên tắc xây dựng cốt
hai ý có liên quan với nhau nhưng
truyện, quy tắc thể loại*, nguyên tắc
lại đối nhau để đặt thành hai vế
phong cách*, thể thức câu thơ). Tuy
trong câu, hai ý này có thể trái
nhiên trong nghiên cứu văn học*,
ngược hoặc thuận chiều với nhau,
người ta thường nói đến b.ph.ngh.th. v.d.:
khi xác định những hình thức mới - Đến nay nước sông tuy
hoặc khi nói đến việc sử dụng các vẫn chảy hoài
b.ph.ng.th. đã ổn định, cố định vào
Mà nhục quân thù không rửa
mục đích mới. Do đó b.ph.ngh.th. nổi
nào nổi bật sẽ có ý nghĩa đáng kể, (đối tương phản)
v.d.: việc đưa các yếu tố kỳ ảo và - Thuyền bè muôn đội,
nghịch dị* vào cốt truyện "giống tinh kỳ phấp phới.
như thật" của tác phẩm hiện thực
Hùng hổ ba quân, giáo gươm
chủ nghĩa, toàn bộ các b.ph.ng.th,
sáng chói (Trương Hán Siêu - Bạch
đặc thù của văn học "dòng ý thức",
đằng giang phú dịch từ nguyên tác
việc sử dụng một cách khác thường hán văn;
các hình thức cú pháp và nhịp điệu - Đố thanh: nghịch đối
trong thơ vào văn xuôi (V.d.: cách (trắc đối với bằng).
dùng từ độc đáo. "lệch chuẩn" trong
- Đối từ: đối theo nghĩa
tùy bút Nguyễn Tuân) v.v...
(cũng có nghịch đối và thuận đối).
Bên cạnh những b.ph.ngh.th
- Đối từ loại: thực từ đối
độc đáo của một tác giả hoặc một
với thực từ, hư từ đối với hư từ. thời đại văn học nào
Văn b.ng. có quá trình phát
đó, còn có những b.ph.ngh.th.
triển lâu dài ở Trung Quốc. Thời
sáo mòn mà nhà văn thường muốn
Ngụy Tấn Nam Bắc triều (220-589) khắc phục.
là thời kì thịnh đạt của b.ng. Đặc
Tuy vậy trong văn học vừa có
biệt thời Nam Bắc triều, biền văn
việc cải biến một cách có ý thức các
chiếm một vị trí rất quan trọng trong
b.ph.ngh.th. truyền thống, lại vừa có
văn học, lấn át các loại văn khác như
việc kế thừa chúng, cả ở cấp độ
tản văn. Thời đó b.ng. được coi là
phong cách cá nhân, cả ở cấp độ
thể tứ lục, vì mỗi câu có hai vế, vế
"phong cách lớn" của một thời đại,
trên bốn chữ, vế dưới sáu chữ. Các
v.d.: ở chủ nghĩa cổ điển* việc bắt
thể văn như phú*, cáo*, hịch*, văn
chước các mẫu mực được coi là tất
tế* v.v... đều được viết theo lối b.ng.
yếu, làm khác đi sẽ bị coi là sai trái.
Nhìn chung văn b.ng. chỉ chú
Sự ổn định của các b.ph.ngh.th. - nét
trọng về hình thức. Nhược điểm lớn
đặc thù của một thời đại văn học -
dẫn đến việc tạo nên các khuôn mẫu
ngược lại. Tất nhiên, đối với những
sẽ đưa tới thói học đòi. Các
thiên tài, khi cố tình vi phạm luật thơ
b.ph.ngh.th. khuôn mẫu vốn có chức
lại gây được hiệu quả nghệ thuật độc
năng đặc biệt, đáng kể về mặt thẩm đáo.
mỹ trong sáng tác dân gian. Biểu Biến thể
Thể văn thư bề tôi viết đưa
Hình thức phi chuẩn của bài
lên nhà vua để bày tỏ một điều gì
thơ luật mà một vài yếu tố bên trong
với lời lẽ cung kính dựa vào nội
của nó đã vượt ra ngoài quy tắc
dung và chủ đề*, người ta chia b.
thông thường của thể thơ đó, nhưng
thành các loại nhỏ, như tạ biểu (biểu
vẫn duy trì các nguyên tắc chủ yếu,
tạ ơn), hạ biểu (biểu chúc mừng),
không dẫn đến việc biến thành một
trần tình biểu (biểu trình bày sự việc, thể thơ khác.
tình cảm), v.d.: Biểu tạ ơn của
Chẳng hạn "lục bát gián thất"
Nguyễn Trãi khi được nhà vua
do hai câu bảy chữ được đưa lui sau
phong chức Gián nghị đại phu kiêm
hai câu sáu tám. Thể lục bát có các
hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ tri tam
biến thể do thay đổi cách gieo vần
quán sự. Biểu trần tình của Lí Mật.
bằng bằng vần trắc như: Bút danh Tò vò mà nuôi con nhện
Tên tác giả được dùng để
Đến khi nó lớn nó quện nhau
công bố các tác phẩm thay thế tên đi
thật. Chẳng hạn, Chế Lan Viên là (ca dao)
b.d. của Phan Ngọc Hoan, Nam Cao
hoặc thay đổi vị trí gieo vần:
là b.d. của Trần Hữu Tri, Tố Hữu là Núi cao chi lắm núi ơi
b.d. của Nguyễn Kim Thành... sử
Núi che mặt trời không thấy
dụng b.d. là hiện tượng phổ biến người thương
trong văn học toàn thế giới thuộc (Ca dao)
mọi thời đại, đặc biệt là ở phương
B.th. còn được xây dựng do Đông.
việc thay đổi số chữ trong câu so với
Có rất nhiều kiểu đặt b.d. Có
quy định, v.d.: thể thơ Đường luật*
b.d. chỉ là những chữ cái, có b.d.
thường có bảy chữ trong câu. Nhưng
được đặt theo chữ lót và tên thật của
b.th. của nó có thể chen vào một câu
nhà văn, như Huy Thông (Phạm Huy sáu chữ:
Thông), Xuân Diệu (Ngô Xuân Rồi, hóng mát thuở ngày
Diệu), Huy Cận (Cù Huy Cận), Tế trường
Hanh (Trần Tế Hanh)... Lại có người
Hòe lục đùn đùn, tán rợp
lấy chữ lót và họ thật làm b.d. như giương... Nguyễn Bính (Nguyễn Bính (Nguyễn Trãi)
Thuyết). B.d. Thế Lữ do chữ lót và
Việc thay đổi nhịp điệu khác
tên thật của nhà thơ nói lái lại với
thường trong câu thơ cũng có thể tạo
nhau mà thành (Nguyễn Thứ Lễ).
ra b.th., tuy nhiên trường hợp này
Nhiều nhà văn dùng các bút danh không tiêu biểu.
mang ý nghĩa tượng trưng nhằm làm
Như vậy, b.th. thường gắn với
cho người đọc chú ý đến một đặc
những thể thơ có quy định tương đối
điểm tính cách nào đó hoặc ý đồ
chặt chẽ về vần*, luật. Thể thơ tự
sáng tác của mình, chẳng hạn Tú do* không có b.th.
Mỡ, Thợ Rèn,... lại có những nhà
Cần phân biệt hiện tượng b.th.
văn vừa kí b.d. vừa ký tên thật.
và hiện tượng vi phạm luật thơ. B.th. Bút kí
là hiện tượng được mọi người thừa
Thể loại thuộc loại hình kí
nhận, được phổ biến và có giá trị
thướng có quy mô tương ứng với
thẩm mỹ, còn vi phạm luật thơ thì
truyện ngắn*. B.k khác truyện ngắn
ở chỗ b.k. không sử dụng hư cấu*
Trong văn học b.ph.. là cách
vào việc phản ánh hiện thực.
thức hành văn, dùng chữ, bố cục,
B.k. ghi lại những con người
cách sử dụng các phương tiện biểu
và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu
hiện để tạo thành một hình thức
nghiên cứu cùng với những cảm
nghệ thuật nào đó. Ở đây b.ph. cũng
nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư
tức là cách viết, lối viết.
tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết
Người ta thường nói: b.ph.
phục của b.k. tùy thuộc vào tài năng
trào lộng, b.ph trữ tình, b.ph. cổ
trình độ quan sát, nghiên cứu khám
kính... là do sử dụng các biện pháp
phá, diễn đạt của tác giả đối với các
trào lộng, trữ tình hay từ cổ, cách
sự kiện được đề cập đến nhằm khám
diễn đạt cổ mà nên v.d.: "Bút pháp
phá ra những khía cạnh “có vấn đề",
sở trường của Chủ tịch Hồ Chí Minh
những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc trong
trang truyện và kí là châm biếm"
va chạm giữa tính cách và hoàn
(Phạm Huy Thông). "Trong thơ trữ
cảnh, cá nhân và môi trường. Nói
tình, Bác thường dùng bút pháp hiện
cách khác, giá trị hàng đầu của b.k.
thực và bút pháp tượng trưng" là giá trị nhận thức. (Nguyễn Đăng Mạnh).
B.k. có thể thuộc về vần học
Khái niệm b.ph. do trực tiếp
cũng có thể thuộc về báo chí tuỳ
gián với cách viết, lối viết, nên có
theo mức độ biểu hiện cái riêng của
phấn tương đồng với khái niệm
tác giả và mức độ sử dụng các biện
phong cách*, văn phong*. Bởi chữ
pháp nghệ thuật cùng tính chất tác
phong cách trong tiếng Hy Lạp,
động của nó đối với công chúng.
Latinh lúc đầu cũng có nghĩa là cây
B.k. có thể thiên về khái quát
bút, sau mở rộng thành chữ viết,
các hiện tượng đời sống có vấn đề,
cách viết. Tuy nhiên nội dung khái
hoặc thiên về chính luận. Nếu ở loại
niệm phong cách nay được hiểu rộng
trên, tác giả chú ý nhiều đến việc
hơn, có tính hệ thống hơn. còn b.ph.
điển hình hóa những tính cách* bằng
thường chỉ yếu tố của phong cách.
nhiều biện pháp nghệ thuật như: xây
dựng cốt truyện* (tuy không chặt Bút tích
chẽ như trong truyện ngắn, nhất là
Chữ do tác giả viết được lưu
không có xung đột duy nhất), sử giữ lại.
dụng các yếu tố liên tưởng, trữ
tình..., thì trường b.k. chính luận
thường nổi lên những hiện tượng của
đời sống xã hội mà tác giả nắm bắt Ca dao
được cái thực chất bên trong của
chúng mà mô tả nó một cách chính
Còn gọi là phong dao.
xác, sinh động, có kèm theo những
Thuật ngữ c.đ. được dùng với
nhận xét riêng của mình hoặc của
nhân vật, phân tích đánh giá cuộc
nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau.
sống được mô tả. Ở đây yếu tố nghị
Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát
luận, châm biếm, hài hước thường
có khúc điệu, dao là bài hát không
được sử dụng nhiều hơn. Bút pháp có khúc điệu.
Vốn là thuật ngữ của thư pháp
c.d. là danh từ chung chỉ toàn
- nghệ thuật viết chữ Nho, chỉ cách
bộ những bài hát lưu hành phổ biến
cầm bút, cách đưa đẩy nét bút để tạo
trong dân gian có hoặc không có
dáng chữ đẹp. Chẳng hạn: "Khen
khúc điệu. Trong trường hợp này
rằng bút pháp đã tinh” (Truyện
c.d. đồng nghĩa với dân ca*. Kiều).
Do tác động của hoạt động sưu
tượng mới mà chưa từng có trong
tầm, nghiên cứu văn học dân gian,
lịch sử ca dao trước Cách mạng
c.d. đã dần dần chuyển nghĩa. Từ tháng Tám (1945).
một thế kỉ nay, các nhà nghiên cứu
Dựa vào chức năng kết hợp với
văn học dân gian Việt Nam đã dùng
hệ thống đề tài, có thể phân ca dao
danh từ c.d. để chia riêng thành phần
cổ (hay ca dao cổ truyền) thành
nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ)
những loại ca dao khác nhau, như ca
của dán ca (không kể những tiếng
dao ru con. ca dao tình yêu, ca dao
đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi). Với
về tình cảm gia đình, ca dao than
nghĩa này. c.d. là thơ dân gian
thân, ca dao trào phúng v.v... truyền thống Ca trù v.d. câu ca dao:
Còn gọi là hát ả đào hay hát
Làm trai quyết chí tu thân cô đầu.
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Một loại ca nhạc thính phòng
Vốn được rút ra từ bài dân ca
thịnh hành trong giới nho sĩ miền
hát cách với những tiếng đệm. tiếng
Bắc (từ Nghệ Tĩnh trở ra) dưới thời láy, tiếng đưa hơi như
phong kiến (từ khoảng thế kỉ XV sau:
đến đầu thế kỉ XX), đặc biệt là ở các
Làm trai- quyết chí (mà) tu (ý)
đô thị (Hà Nội, Nam Định...). Gọi là
thân. Công danh (là công danh) chớ
c.tr. vì khi ca người nghe dùng "trù"
vội (chớ đả), nợ nần (mà nợ nần)
(cái thẻ tre) để thưởng những chỗ
chớ lo (ý y y ý y)...
hát hay, cuối cùng đếm thẻ để bình
giá và thưởng tiền. Hát c.tr. có cả
Từ sau Cách mạng tháng Tám
đào lẫn kép nhưng đào là chủ yếu
(1945) trên sách báo nước ra đã xuất
nên được gọi là hát ả đào, (về sau,
hiện danh từ ca dao mới để phân
đầu thế kỉ XX mới gọi là hát cô đầu,
biệt ca dao cổ (hay cao dao cổ
hát nhà trò), c.tr. vốn có nguồn gốc truyền).
từ lối hát cửa đình (hát thề. hát tế
Ca dao mới khác với ca dao
thần phổ biến ở nước ta từ thời
cổ về khá nhiều phương diện (về
Trần), qua hình thức hát cửa quyền,
thời gian, hoàn cảnh, lực lượng sáng
hát hoá, thiếu khái quát hoá thì
tác, hệ thống đề tài, chủ đề, phương
c.t.h.n.v. trở nên vô nghĩa, nhưng
thức và phương tiện lưu truyền, phổ
không có c.t.h. n.v. thì cũng không
biến...). Ngoài phương thức sáng tác
thể thực hiện điển hình hoá được.
và lưu truyền bằng miệng của nhân
dân ca dao mới còn được sáng tác và
c.t.h.n.v đòi hỏi nhà văn phải có
phổ biến bằng văn tự của các văn
một vốn sống phong phú, một sự
nghệ sĩ chuyên nghiệp hoặc nghiệp
hiểu biết sâu sắc và một năng lực
dư. Những tập ca dao thành văn khái quát.
được xuất bản trong mấy chục năm
qua (như ca dao kháng chiến, ca dao Cá tính sáng tạo
chống Mĩ, ca dao chống hạn...) thiên
Các đặc điểm phẩm chất toàn
về tuyên truyền chính trị là một hiện
vẹn của một nghệ sĩ bao gồm các
mặt triết học, mĩ học, tâm lí xã
hội, thị hiếu, phong cách, ngôn
tự biểu hiện mình một cách độc đáo ngữ nghệ thuật... trong sinh hoạt.
c.t.s.t. là’ biểu hiện rực rỡ
c.t.s.t. là cơ sở của phong
của các phạm trù cái chủ quan,
cách* nghệ thuật, là nhân tố không
cái cá biệt, cái không lặp- lại
thể thiếu của quá trình văn học*.
trong tài năng của nghệ sĩ. Nó
không mâu thuẫn với các phạm
trù cái khách quan, cái chung,
cái điển hình, cái lặp lại, mà Cái bi
ngược lại, nó gắn bó hữu cơ với
Phạm trù mĩ học phản ánh một
chúng, và cũng chỉ trong sự
hiện tượng có tính quy luật của thực
thống nhất đó thì nghệ sĩ mới
tế đời sống xã hội thường diễn ra
khám phá được cái mới trong
trong cuộc đấu tranh không ngang lĩnh vực nghệ thuật.
sức giữa cái thiện với cái ác, cái mới
c.t.s.t. biểu hiện tập trung ở cái
với cái cũ, cái tiến bộ với cái phản
nhìn nghệ thuật độc đáo, ở cách cảm
động... trong điều kiện những cái sau
nghĩ của nhà văn có khả năng đề
còn mạnh hơn những cái trước. Đó
xuất những nguyên tắc, biện pháp
là sự trả giá tự nguyện cho những
nghệ thuật mới mẻ, tạo thành một
chiến thắng và sự bất tử về tinh thần
ngôn ngữ nghệ thuật mới trong việc
bằng nỗi đau và cái chết của nhân
biểu hiện những nội dung mới của
vật chính diện, c.b. tạo ra một cảm
đời sống và tư tưởng. Chẳng hạn
xúc thẩm mĩ phức hợp bao hàm cả
Nguyễn Du có con mắt tinh đời
nỗi xót đau, niềm hân hoan lẫn nỗi
trong việc biểu hiện các ngõ ngách
sợ hãi khủng khiếp, c.b. thường đi
liền với nỗi đau và cái chết, song
phức tạp của cuộc sống con người,
bản thân nỗi đau và cái chết chưa
lại có biệt tài nắm bắt và miêu tả
phải là c.b. Chúng chỉ trở thành c.b.
chính xác một cách thần tình các
khi hướng tới và khẳng định cái bất
tâm trạng, thần thái nhân vật chỉ qua
tử về mặt tinh thần của con người,
vài nét, ông là người có khả năng sử
c.b. là cơ sở quy định đặc trưng của
dụng tiếng Việt một cách uyển
xung đột* nghệ thuật trong thể loại
chuyển, mềm mại, tạo thành điển
bi kịch*. Đó là loại xung đột được
phạm của ngôn từ nghệ thuật. Nhà
tạo nên bởi hành động tự do của
văn Nga F.Đôtxtôiépxki có thể nắm
nhân vật trong việc thực hiện cái tất
bắt những cuộc đối thoại của thời
yếu mà nó tự thấy trước là không
đại, tính nhiều tiếng nói của cuộc
tránh khỏi bị giết chết như nhân vật
sống, tính lưỡng tính của thực tại
trong bi kịch anh hùng hoặc không
ngay ở nơi mà người khác chỉ thấy
thấy trước như trong bi kịch về sự
có độc thoại, tính đơn giọng và tính lầm lạc.
đồng nhất. Còn L.Tônxtôi lại có khả
Bi kịch, về bản chất là ca ngợi,
năng thể hiện phép biện chứng tâm
khẳng định sự bất tử của con người hồn,
và phát hiện những phẩm chất cao
Chính vì vậy, không nên đồng
đẹp, anh hùng của nó. Hêghen cho
nhất c.t.s.t. trong nghệ thuật với cá
rằng, trong bi kịch cái chết không
tính sáng tạo trong đời sống, là
chỉ là sự huỷ diệt. Nó còn có nghĩa
người có khả năng giải quyết các
là sự bảo tồn dưới hình thức biến
khó khăn do hoàn cảnh đặt ra hoặc
dạng cái mà trong hình thức có sẵn
cần phải bị tiêu vong. Ăngghen thì
Về nhận thức lý thuyết. thời cổ
cho rằng cội nguồn của c.b. là xung
Hy Lạp, khái niệm c.c.c. chưa được
đột giữa đòi hỏi tất yếu về mặt lịch
coi là một phạm trù mĩ học. mà chỉ
sử với tình trạng không thể thực hiện
là một hình thức biểu hiện của
được nó trong thực tiễn".
phong cách thuộc tu từ học.
Trong văn học - nghệ thuật, c.b.
Về sau. khi người ta phát hiện
qua mỗi thời đại vừa không thay đổi
ra nguồn gốc tinh thần quan trọng
(v.d. cảm hứng duy nhất về mặt loại
nhất của c.c.c. là những tư tưởng và
hình), lại vừa dễ thay đổi (về mặt
khát vọng khác thường và khi vẻ đẹp
bản chất xã hội - lịch sử thể hiện ở
của lời nói hoà hợp với những tư
tính chất, hình thái xung đột).
tưởng vĩ đại, thì nội dung của khái
Chẳng hạn trong bi kịch của
niệm này mới được mở rộng sang
Sêcxpia, c.b. là cái xung đột giữa ý phạm trù mĩ học.
thức cá nhân của con người với thời
Thời Trung cổ, các nhà thờ kiểu
đại và thiết chế xã hội cũng như
Gôtích là biểu trưng của c.c.c. như
chính bản thân mình. Còn trong bi
một phạm trù mĩ học, Bằng những
kịch của chủ nghĩa cổ điển* thì nó
đường nét kiến trúc vươn thẳng lên,
lại là xung đột giữa dục vọng, khát
các nhà thờ ấy đã thể hiện vẻ đẹp
vọng cá nhân với tinh thần nghĩa vụ
của sức mạnh và khát vọng lớn lao quốc gia.
của con người, nhưng đồng thời
Trong văn học - nghệ thuật ngày
cũng thể hiện quan niệm tôn giáo
nay, c.b. được khám phá và thể hiện
cho rằng mọi ước vọng của con
trên nhiều khía cạnh và từ trong cội
người gắn liền với bầu trời và
nguồn lịch sử - xã hội của nó. Ờ đây,
cái bất tử của nhân vật được thực thượng giới.
hiện trong cái bất tử của nhân dân, vì
Thời Phục Hưng, c.c.c. được
thế c.b. mang tính chất lạc quan lịch
Mikenlăng thể hiện một cách hoàn sử.
hảo qua bức tượng Đavit nổi tiếng
của ông. Ở đây, bằng ngôn ngữ điêu
khắc, tác giả muốn nói rằng con Cái cao cả
người là hùng mạnh, là vạn năng, và
Phạm trù mĩ học phản ánh một
những khả năng tiềm ẩn trong nó sẽ
thuộc tính thẩm mỹ khách quan vốn
trỗi dậy và tuôn trào vào hành động
có của những hiện tượng và khách
sáng tạo thế giới theo quy luật của
thể có ý nghĩa xã hội tích cực, có con người.
ảnh hưởng đến đời sống tinh thần
Trong văn học - nghệ thuật cổ
của các đản tộc hoặc toàn nhân loại.
điển chủ nghĩa.*, c.c.c. được đặc
Thuộc tính ấy là tính vĩ đại, tính ưu
biệt coi trọng và thể hiện tập trung
việt như một sức mạnh tiềm tàng
nhất ở các thể loại bi kịch và tụng lớn.
ca. Hêghen coi c.c.c. là một giai
Secnưsepxki định nghĩa: "Cái
đoạn vận động của ý niệm tuyệt đối
cao cả là cái lớn hơn, mạnh hơn rất
trong nghệ thuật, đó là giai đoạn
nhiều những hiện tượng mà chúng ta
lãng mạn khi mà tinh thần và nội so sánh".
dung trội hơn vật chất và hình thức.
Mĩ học phương Tây hiện đại
nhận và làm giàu lí tưởng thẩm mĩ*.
cho rằng c.c.c. và cái đẹp* là một.
Trong lịch sử mĩ học. c.đ. và sự cảm
C.c.c. theo họ, chính là cái đẹp đang
thụ c.đ. được xem xét ở bình diện
đi tìm gặp những nhu cầu của con
mối quan hệ giữa cái tinh thần và cái
người trong cái vĩ đại, cái ưu việt
vật chất, cái khách quan và cái chủ nào đó.
quan, cái tự nhiên và cái xã hội, giữa
Các nhà mĩ học Mác-xít xem
nội dung và hình thức. Đặc trưng
c.c.c. như là một phạm trù bên cạnh
của c.đ. được xác định thông qua
cái đẹp. Khác với cái đẹp, C.C.C.
mối quan hệ của nỏ với các loại hình
phản ánh đặc tính của những đối
giá trị khác: giá trị thực dụng (lợi
tượng, hiện tượng có ý nghĩa đặc
ích), giá trị nhận thức (chân lí), giá
biệt tích cực đối với đời sống xã hội
trị đạo đức (cái thiện). Đối với vấn
và hàm chứa trong bản thân những
đề c.đ là thuộc tính khách quan hay
sức mạnh tiềm tàng to lớn.
chỉ là vấn đề chủ quan, các khuynh
Có hai kiểu cao cả. Có cái cao
hướng, học thuyết mĩ học khác nhau
cả làm vẻ vang sức mạnh, lực lượng
có những cách giải quyết khác nhau,
của con người và có cái cao cà chế
tuỳ thuộc vào phương pháp luận triết
áp nó. Sự nhận thức - cảm thụ c.c.c.
học, trước hết là cách giải quyết vấn
thường diễn ra trong quá trình. Do
đề cơ bản của triết học. Mĩ học Mác-
tầm vóc to lớn và sức mạnh tiềm ẩn
xít nhấn mạnh sự liên hệ có tính quy
vĩ đại của chúng, những hiện tượng
luật giữa c.đ và hoạt động lao động
cao cả thường không dễ nắm bắt
của con người, coi hoạt động này là
hoàn toàn ngay một lúc được.
cơ sở nảy sinh cảm quan thẩm mĩ.
Mĩ học Mác-xít coi c.đ. là thuộc tính
khách quan bởi vì nó là giá trị nhân Cái đẹp
bản - xã hội được tạo ra trong sự tác
động qua lại của tự nhiên và xã hội,
Phạm trù mĩ học xác định các
của con người và con người trong
hiện tượng theo quan điểm về sự
quá trình thực tiễn xã hội lịch sử. Sự
hoàn thiện, xem các hiện tượng đó
đánh giá c.đ. (bộc lộ qua tình cảm
như là có giá trị thẩm mĩ cao nhất.
thẩm mĩ, lí tưởng thẩm mĩ*) lại có
Có thể xem các hiện tượng là đẹp
tính chất chủ quan, và có thể chân
khi với tính toàn vẹn cụ thể cảm tính
thực hoặc giả dối tùy theo chỗ nó
của chúng thể hiện những giá trị
tương ứng hay không tương ứng với
nhân bản, xã hội, do sự khẳng định
c.đ. như là giá trị khách quan. Mĩ
giá trị của con người trong thế giới,
học Mác-xít cũng nhấn mạnh sự liên
chứng tỏ sự mở rộng giới hạn tự do
hệ biện chứng giữa cái hữu ích với
của xã hội và con người, thúc đẩy sự
cái đẹp và cái thiện, trong khi nhiều
phát triển hài hoà của nhân cách,
học thuyết mĩ học khác đem đối lập
làm nảy sinh và bộc lộ ngày càng
cái đẹp với cái hữu ích và với sự
đầy đủ những sức mạnh và năng lực nhận thức.
của con người. Bởi vậy. việc cảm
Nghệ thuật là lĩnh vực đặc
thụ c.đ. thức tỉnh niềm vui sướng,
biệt của việc sáng tạo và thể hiện
tình yêu vô tư, cảm giác tự do, xác
c.đ., nhưng các tác phẩm nghệ
thuật chỉ đẹp, tức là có giá trị nghệ
Nó phủ định cái lỗi thời xấu xa nhân
thuật khi nó thể hiện chân thực đời danh cái cao đẹp.
sống trong mọi biểu hiện thẩm mĩ
của nỏ thông qua lăng kính của lí
c.h. là cơ sở quy định đặc trưng
tưởng nhân đạo, thể hiện được sự
của xung đột nghệ thuật trong thể
phong phú về tinh thần của cá nhân
loại hài kịch. Đó là loại xung đột
con người, và dưới một hình thức
giữa cái vốn là hiện tượng của đời hoàn thiện bậc thầy.
sống thực tế với cái mà nó (hiện
tượng) cố ý làm ra thế, muốn tỏ ra, muốn giả bộ thế. Cái hài
Trong văn học, nghệ thuật,
Phạm trù mĩ học phản ánh một
tiếng cười thường có nhiều cung bậc
hiện tượng phổ biến của thực tế đời
và mang những sắc thái khác nhau.
sống vốn có khả năng tạo ra tiếng
Người ta thường coi umua, hài
cười ở những cung bậc và sắc thái
hước* là cung bậc đầu tiên và châm
khác nhau. Đó là sự mâu thuẫn, sự
biếm* là cung bậc cuối cùng. Trong
không tương xứng mà người ta có
umua, phép biện chứng của trí tưởng
thể cảm nhận được về phương diện
tượng phóng khoáng hé mở cho ta
xã hội - thẩm mĩ (chẳng hạn hình
thấy đằng sau cái tầm thường là cái
thức với nội dung, hành động với
cao quý, sau cái điên rồ là cái anh
tình huống, mục đích và phương
minh, sau cái buồn cười là nỗi đau.
tiện, bản chất và biểu hiện V.V...).
Trong đó, hoặc là chính bản thân
Trái lại trong châm biếm, đối
mâu thuẫn là một trong những mặt
tượng của tiếng cười là thói hư tật
của nó đối lập với những lí tưởng
xấu, nên nổi bật lên cái giọng đả thẩm mĩ* cao đẹp.
kích, phủ định, tố cáo. Tiếng cười
còn mang những sắc thái phong phú
Secnưsepxki, nhà văn, nhà tư
đa dạng: cười khinh bỉ, cười thiện
tưởng Nga định nghĩa: "Cái hài là
cảm, cười nghiêm khắc, cười chua
sự trống rỗng và sự vô nghĩa bên chát v.v...
trong được che đậy bằng một cái vỏ
Đối với c.h., dù ở cung bậc nào
huênh hoang tự cho rằng có nội
của tiếng cười cũng cần có ba yếu tố
dung và ý nghĩa thực sự".
tạo thành sau đây- Một là, bản chất
c.h. gắn với cái buồn cười,
mang tính hài hước của đối tượng
nhưng không phải cái buồn cười nào
mà ai cũng dễ dàng cảm nhận được. cũng trở thành c.h.
Đây là yếu tố cơ bản. Hai là, sự
cường điệu những đường nét. kích
c.h. bao hàm một ý nghĩa xã
thước và những liên hệ của chúng
hội gắn liền với sự khẳng định thẩm
trong việc mô tả đối tượng. Ba là, sự
mĩ cao cả. Nó là sự phê phán mang
sắc bén. ý nhị, hóm hỉnh của người
tính cảm xúc sáng tạo tích cực, và có
thể hiện nhằm làm tăng thêm hiệu
sức công phá mạnh mẽ đối với quả của tiếng cười.
những cái xấu xa lỗi thời. Sức mạnh
phê phán của nó vừa có tính phủ
định lại vừa mang tính khẳng định. Cái hùng
Phạm trù mĩ học nhằm khám
Nhưng đối với một số thể thơ
phá toàn bộ giá trị của những hành
nhất định, như các thể thơ cổ điển,
động có ý nghĩa xã hội, đòi hỏi một
cấu trúc chặt chẽ thì các yếu tố
con người hoặc một tập thể người
nghĩa cũng có thể tham gia tạo nên
(nhóm xã hội, giai cấp, dân tộc) phải
c.l. v.d. sự bắt buộc đối ý đối lời
gồng lên mức cao nhất những sức
trong các cặp câu thực và luận
lực thể chất và tinh thần, lòng dũng
trong thể thơ Đường thất ngôn bát
cảm, hy sinh. Là một trong những cú:
dạng thức của cái cao cả*, c.h. gắn
bó mật thiết với cái bi*. Bản chất
Lom khom dưới núi tiều vài chú
của cái hùng là khắc phục những
Lác đác bên sông chợ
mâu thuẫn gay gắt, không điều hòa, mấy nhà,
và để khắc phục chúng nhiều khi
phải trả giá bằng sinh mạng. Trong
Nhớ nước đau lòng con
nghệ thuật., c.h. thể hiện trong việc quốc quốc,
khẳng định một lí tưởng thẩm mĩ
Thương nhà mỏi miệng
cao. trước hết là thông qua hình
tượng người anh hùng, những biểu cái gia gia.'
hiện anh hùng. Những hình tượng đó (Bà huyện Thanh Quan
thường là hiện thân của xu thế tiến - Qua đèo Ngang)
bộ xã hội, của sự kiên cường về đạo
đức, sự lớn lao của tinh thần. Xây
dựng nhân vật là phương thức chính,
tuy không phải duy nhất, để thể hiện Cách ngôn
c.h. bằng nghệ thuật, c.h. cũng còn
Loại câu nói ngắn gọn, súc tích
được biểu hiện thông qua lập trường
có ý nghĩa giáo dục đạo đức, tư
tích cực của tác giả (v.d. trong thể
tưởng, được nhiều người coi là
loại châm biếm, trào lộng). Các hình
chuẩn mực, khuôn thước để làm
thức thẩm mĩ thể hiện c.h. phụ thuộc
theo và vươn tới. c.ng. cũng có thể
vào loại hình, thể loại nghệ thuật,
được rút ra trong kho tàng tục ngữ
vào phương pháp nghệ thuật mà
của nhân dân hoặc từ những trước nghệ sĩ lựa chọn.
tác, những lời nói của các lãnh tụ,
các học giả, các nhà văn học lớn. v.d: Cách luật
- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng
- Thương người như thể thương thân.
Toàn bộ những quy tắc tổ chức
ngôn từ thơ ca được cố định lại
thành một thể thức nhất định, lặp đi
- Không pháp thuật nào mạnh hơn pháp
lặp lại trong các tác phẩm.
thuật của lời nói.
Nền tảng của c.l. là các quy tắc (A.Phrăng) • • * •
tổ chức ngôn từ về mặt âm thanh,
gieo vần, ngắt nhịp, đối thanh (luật
- Con người làm sao thì họ sẽ tranh luận
bằng trắc), số dòng, số tiếng trong với nhau làm vậy.
một dòng v.v... (X.Lục bát*, song (F.Angghen)
thất lục bát*, thơ Đường luật*).
Cảm hứng chủ đạo Cáo
Trạng thái tình cảm mãnh liệt,
say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ
Một thể văn thư nhà vua dùng
thuật, gắn liền với một tư tưởng xác
để ban bố cho thần dân nhằm trình
định, một sự đánh giá nhất định, gây
bày chủ trương, công bố kết quả một
tác động đến cảm xúc của những sự nghiệp.
người tiếp nhận tác phẩm. Bêlinxki
coi c.h.ch.đ. là điều kiện không thể
Bài c. lớn nhất, tiêu biểu và có
thiếu của việc tạo ra những tác phẩm
giá trị nhất ở nước ta là Bình ngô đại
đích thực, bởi nó "biến sự chiếm lĩnh
cáo do Nguyễn Trãi viết năm 1428
thuần tuý trí óc đối với tư tưởng
thành tình yêu đối với tư tưởng, một
theo lệnh của Lê Lợi. c. có thể được
tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng
viết bằng văn xuôi (tản văn) nhưng nhiệt thành".
phần nhiều được viết theo thể văn
Thuật ngữ c.h.ch.đ. lúc đầu chỉ biền ngẫu*.
yếu tố nhiệt tình say sưa diễn thuyết,
sau chỉ trạng thái mê đắm khi xuất
hiện tứ thơ. Về sau lý luận văn học
xem c.h.ch.đ. là một yếu tố của bản
thân nội dung nghệ thuật, của thái độ
tư tưởng xúc cảm ở nghệ sĩ đối với
thế giới được mô tả. Theo nghĩa này.
c.h. ch.đ. thống nhất với đề tài và tư
tưởng của tác phẩm. C.h.ch.đ. đem
lại cho tác phẩm một không khí xúc
cảm tinh thần nhất định, thống nhất
tất cả các cấp độ và yếu tố của nội
dung tác phẩm. Đây là cái mức căng
thẳng cảm xúc mà nhờ đó nghệ sĩ
khẳng định các nguyên tắc thế giới
quan của mình trong tác phẩm.
Trong nghiên cứu văn học*
hiện đại, có người phân loại
c.h.ch.đ.: bi kịch*, chính kịch*, anh
hùng*, cảm thương, lãng mạn*, trữ
tình*, trào lộng*, châm biếm*
(dùng
như những định ngữ). Có thể gọi tắt
những c.h.ch.đ. là "cảm hứng", v.d.:
cảm hứng anh hùng, cảm hứng trào
lộng v.v... nhưng c.h.ch.đ. trong tác
phẩm cụ thể là một hiện tượng độc
đáo không lắp lại, gắn với tình cảm của tác giả.
Tuy có nhiều tác dụng khác Câu đố
nhau (như đức dục, mĩ dục...) nhưng tác
Một thể loại văn học dân gian mà
dụng chủ yếu của câu đố là trí dục. Lối ẩn
chức năng chủ yếu là phản ánh sự vật
dụ trong câu đố là một lối ẩn dụ riêng,
hiện tượng bằng phương pháp giấu tên
khác với lối ẩn dụ thông dụng trong văn
và nghệ thuật chuyển hoá (chuyển vật
học nghệ thuật (cái ẩn trong câu đố là cái
nọ thành vật kia), được nhân dân dùng
hoàn toàn vô định, không nhất thiết phải
trong sinh hoạt tập thể để thử tài suy
là cái thuộc về con người trong văn học
đoán, kiểm tra sự hiểu biết và mua vui,
nghệ thuật). Dựa vào những biểu hiện giải trí.
khác nhau về nội dung, hình thức, người
ta còn chia c.đ. thành các loại, các nhóm
Đơn vị tác phẩm của thể loại này
khác nhau, như loại đố tục giảng thanh,
được gọi là câu, vì nó đều rất ngắn,
loại đố chữ, loại đố nói và đố giảng v.v...
tương tự như những câu tục ngữ và ca dao, v.d.:
- Anh lớn mặc áo đỏ. Em nhỏ mặc áo xanh (Quà ớt) Câu đốì
Một thể văn đặc biệt có quy mô nhỏ,
- Một đàn cò trắng phau phau
mỗi đơn vị tác phẩm (được gọi là câu) gồm
Ăn no tắm mát rủ nhau đi
hai vế (thực chất là hai câu) đối xứng với nằm.
nhau về từ loại, âm thanh và ý nghĩa, dùng
để biểu lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ trước (Những cái bát ăn cơm)
một con người, một sự việc hoặc một cảnh
Nhưng cũng không ít những c.đ. dài
(tương tự như một bài ca dao hay một bài thơ), v.d.: Con hai đứa hai nơi
Gặp nhau một chỗ cùng chơi một phòng
Không may nhà sập thì chồng
Tan xương nát thịt máu hồng chứa chan.

(Trầu cau và việc ăn trầu)
vật; một đối tượng nào đó
điểm của tiếng Việt về ngữ âm, ngữ pháp
mà chú thể (tác giả) quan tâm chú
từ vựng rất thuận lợi cho việc làm c.đ. trở
thành phương thức phổ biến của cả văn
ý. Câu đối dùng để đọc, hoặc dán.
học viết lẫn văn học truyền miệng, là một
khấc (trang trí ở nơi trang trọng) để
món ăn tinh thần truyền thống, một thú
chơi tao nhã, phù hợp với nhiều trường
tỏ chí, đối đáp, chúc mừng, ghi
hợp, hoàn cảnh và sinh hoạt xã hội khác
công, viếng người chết, hoặc đùa
nhau.c.đ. hay bất luận ngắn hay dài.
vui, cười nhạo... Sức mạnh của c.đ.
Nôm hay chữ (chữ Hán) đều cốt ở
là tính khái quát cao, súc tích, v.d,
sự mới mẻ. sâu sắc về nội dung và
câu đối tuyệt mệnh của Trần Hữu
hoàn thiện, độc đáo về hình thức. Lực:
Non sông đã chết, ta há lại sống
thừa, từ mười năm rửa kiếm mài
Cấu trúc của tác phẩm
dao, chí mạnh những mong phò Tổ
Tổ chức nội tại. mối quan hệ
quốc. Lông cánh chưa thành, việc
qua lại của các yếu tố của tác phẩm
bỗng đâu hóa hỏng, dưới chính
mà sự biến đổi một yếu tố nào
suối điều binh khiển tướng, hồn
trong đó sẽ kéo theo sự biến đổi
nhiên ngầm giúp bọn thiếu niên
của các yếu tố khác. Từ xưa người (Tôn Quang Phiệt
ta đã biết đến c.tr.c.t.ph. văn học,
dịch từ nguyên bản Hán văn)
nhưng chỉ hiểu ở khía cạnh hoà
hợp hài hoà đối xứng. Nghiên cứu
Trong nhà trường cũ, dựa vào
văn học từ những năm 20 thế kỉ
cách làm, người ta phán c.đ. thành
này hiểu c.rr.c.t.ph. văn học là kết
ba loại: câu đối sách (lấy nghĩa
cấu*, cấu tạo và mối quan hệ qua
hoặc chữ trong sách mà đối), câu
lại của nhân vật với các hình tượng
đối tức cảnh (thấy cảnh gì thì làm
khác, quan hệ giữa các lớp tư
câu đối về cảnh ấy), câu đối chiết
tưởng chủ đề và lớp tạo hình, tổ
tự ("bẻ chữ’ ra mà đối, chữ ở đây lã chức lời văn.
chữ Hán bao gồm cả hình nét và
Ngày nay, c.tr.c.t ph. văn học
nội dung ý nghĩa của chữ).
là một khái niệm được sử dụng phổ
Dựa vào hình thức tổ chức
biến và được hiểu như là mối quan
ngôn từ, c.đ cũng được phân
hệ qua lại của các kí hiệu thẩm mĩ
thành ba dạng; câu tiểu đối (câu
đặc thù bởi tác phẩm là một thông
đối nhỏ, mỗi vế từ ba đến sáu
báo bằng một ngôn ngữ đặc biệt.
tiếng), câu đối thơ ( câu đối đặt
Khác với ngôn ngữ tự nhiên, các
theo lối thơ thất ngôn), câu đối
yếu tố c.tr.c.t.ph đều có ý nghĩa
phú (câu đối được làm theo thể
riêng, v.d. một câu tục ngữ như:
văn phú, như song quan, cách cú,
"Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng
gối hạc. Mỗi vế dài từ 8 tiếng trở
, thì cả mựcđen, đènsáng.
lên, có thể dài tới mấy chục
trong cấu trúc của câu tục ngữ đều tiếng).
hàm chứa những nội dung mà
những chữ ấy thông thường tách
c.đ. là thể loại văn học Trung Quốc
du nhập vào Việt Nam từ lâu đời. Đặc
riêng ra không thể có được. Do đó
muốn hiểu tác phẩm văn học ta
phải tìm hiểu cấu trúc của nó, đặt
các yếu tố trong cấu trúc của nó.
Tác phẩm văn học là một cấu
trúc phức tạp. Hiện vẫn chưa có
một quan niệm thỏa mãn được mọi
người. Tuy vậy nhìn chung, khái
niệm c.tr c.t.ph. có thể hình dung
đại thể như sau: xét từ lí luận chính
thể. C-tr.c.t.ph. bao gồm các yếu tố
được đặt trong trật tự (cấp độ) phụ
thuộc vào nhau sau đây: tư tưởng –
chủ đề (gồm cả đề tài), hệ thống
hình tượng (có thể bao gồm cả cốt
truyện*), kết cấu*, ngôn từ. Cũng có ý kiến xem nội
dung tư tưởng - chủ đề là yếu tố ưu trội,
quy định cả hệ thống tác phẩm, còn cấu
Thể của các môtip và tiếp theo, chỉ
ra các cốt truyện "di chuyển", các chủ đề
trúc đích thực của tác phẩm chỉ bao gồm
"vĩnh cửu" (thiên nhiên, tình yêu. cái
hai yếu tố: ngôn từ, cốt truyện, được tổ
chết...) Trên cấp độ hình tượng, người ta
chức với nhau bằng kết cấu. Yếu tố kết
chia ra hình tượng ngôn từ (các phép
cấu* là đặc trưng cho bản chất nghệ thuật
chuyển nghĩa), các hình tượng nhân vật,
nói chung của văn học, nó tạo ra nhịp
phong cảnh, chân dung, nội tâm (chiếm
điệu chung cho tác phẩm và cho từng bộ
một phần văn bản), các hình tượng về thế
phận. Yếu tố cốt truyện đặc trưng cho tác
giới, không gian, thời gian (chiếm toàn
phẩm và cho từng bộ phận. Yếu tố cốt
văn bản). Trên cấp độ thời gian, người ta
truyện đặc trưng cho văn học với tư cách
chia các yếu tố dòng thơ, khổ thơ, văn
là nghệ thuật thời gian, gắn với nó xuất
bản thơ. Trên cấp độ ngôn ngữ, người ta
hiện con người, không gian, thời gian,
phân biệt ngữ âm, hình thái, cú pháp, yếu
xung đột. biến cố. Yếu tố ngôn ngữ tiêu
tố trên câu. toàn văn bản, liên văn bản.
biểu cho đặc trưng nghệ thuật ngôn từ.
Toàn bộ các yếu tố vừa kể trên ở các cấp
Sự thống nhất các yếu tố (cấp độ) này tạo
độ đều tham gia vào c.tr.c.t.ph. nhằm tạo
ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
ra một hình thái về mối quan hệ thẩm mĩ
Trên cấp độ chủ đề*, cốt truyện*,
giữa chủ thể và thế giới.
người ta chỉ ra các câu. các từ ngữ chìa
Tính lặp lại và vững bền của các yếu
khóa có ý nghĩa đặc biệt như là các chủ
tố thuộc các cấp độ cấu trúc tối cao. cho
đề nhỏ. Các môtip*. Cốt truyện được
phép nghĩ đến các mẫu gốc* của tư hiếu như là tổng
duy nghệ thuật. Tính ổn định của
c.t. không phải chỉ có trong thơ
các cấp độ cấu trúc siêu văn bản cho
trữ tình hoặc trong một tác phẩm mà
phép nói đến cấu trúc của tình
có cả trong mọi tác phẩm nghệ thuật
huống văn học sử của thời đại. Một
loại khác như tiểu thuyết*, kịch*,
trong những đặc điểm quan trọng
kí*, tản văn*, trong sáng tác của một
của tính ổn định của cấu trúc là kí ức
tác giả hoặc một loại văn học.
của thể loại* tức là mô hình của thể
Chẳng hạn "đa thanh” (polyphonie) văn học.
là một c.r nghệ thuật của
Đôxtôiepxki để phản ánh cái phẩm
chất chưa hoàn thành của đời sống. Cấu tứ
Miêu tả con người như đồ vật (chân
Xét trong quá trình sáng tác, là
dung thằng ăn cắp. bà phán
hoạt động tư duy để sáng tạo ra
Tuyên...) là một nét đáng chú ý
trong c.t. nghệ thuật của truyện ngắn
hình tượng nghệ thuật. Trong thiên
trào phúng của Nguyễn Công Hoan.
Thần tứ, nhà lý luận văn học
Trung Quốc Lưu Hiệp (≈465 - ≈ Châm biếm
532) nói: "Cái kỳ diệu của cấu tứ
là làm cho tinh thần nhà văn gặp
Một dạng của văn học trào
gỡ với sự vật khách quan", "hình
phúng*. dùng lời lẽ sắc sảo. cay độc,
và ý gặp nhau". Các nhà văn
thâm thuý để vạch trần thực chất xấu
thường nói "tình tứ", "cấu tứ" tác
xa của những đối tượng và những phẩm là như vậy.
hiện tượng này hay hiện tượng khác
Xét như một thành quả sáng
trong xã hội Ch.b. gắn liền với tình
tạo, c.t. là sự cắt nghĩa, lí giải khái
cảm xã hội như yêu nước, yêu lẽ
quát hiện tượng đời sống bằng một
phải, tình yêu con người.
hình tượng tổng quát có sức chi Ch.b. khác với umua, hài
phối toàn bộ cảm thụ, suy tưởng và
hước ở mức độ gay gắt của sự phê
miêu tả nghệ thuật trong tác phẩm.
Chẳng hạn trong bài Lệ, Xuân
phán và ý nghĩa sâu sắc của hình
Diệu xem "trái đất ba phần tư tượng nghệ thuật.
nước mắt" là một giọt lệ lớn đi
Về phương diện xã hội. phần
giữa không trung, hoặc trong bài
lớn những tác phẩm ch.b. thường
Hồ Chí Minh (1946) Tố Hữu hình
chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của nhân
dung Hồ Chủ tịch qua hình ảnh
dân, của tư tưởng tiến bộ trong lịch
"Người lính già" đi tiên phong quyết chiến, hi sinh.
sử. Các nhà văn, nhà thơ trào phúng
Có thể xem c.t. là linh hồn của
thường có tài ch.b. và đã viết những
tác phẩm, cung cấp một thế đứng,
tác phẩm có giá trị đả kích bọn
thế nhìn, cách cảm nhận để thâm
thống trị tàn bạo, hà khắc, bọn xâm
nhập vào thế giới nghệ thuật của tác
lược và bè lũ phản bội, bán nước cầu
phẩm, c.t. là mô hình nghệ thuật của vinh...
tác phẩm, là quan niệm nghệ thuật
về thế giới và con người của nó.
Phương pháp của ch.d.v.h. là
phương pháp của thể kí. Nó không
thiên về cốt truyện*. Nhà văn phát Châm ngôn
huy sở trường quan sát. lựa chọn chi
Lời nói để răn đời. ngăn ngừa
tiết, cử chỉ, ngôn luận, kể cả tác
phẩm, tư thế, hồi tưởng để dựng lại
sai trái, có tác dụng hướng dẫn về tư
bộ mặt tinh thần của một con người,
tưởng đạo đức, cách sống. Chẳng
thường là nhà văn. nghệ sĩ hoặc các
hạn: "Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân"
nhà hoạt động xã hội nổi tiếng.
(Điều mình không muốn thì chớ làm
L.Tônxtôi. V.I.Lênin của M. Gorki.
cho người khác). Mở rộng ra. ch.ng.
Bandăc, Đickenx của X.Xvai là
cũng như cách ngón là lời đúc kết
những ch.d.v.h. nổi tiếng
cách sống. Với hình thức ngắn gọn,
Chân lí nghệ thuật
dễ nhớ. (câu) ch.ng thường được rút
ra từ tục ngữ* hoặc từ lời nói của
Một trong những phạm trù mĩ
các lãnh tụ, các nhà tư tưởng, các
học trung tâm. Nhằm nêu lên đặc
nhà văn hoá lớn. Chẳng hạn nhiều
trưng nhận thức luận của nghệ thuật.
câu nói của Khổng Tử, Hồ Chí
Các khái niệm về sự giống thực, về
Minh, Lênin đã được coi là ch.ng
sự trung thành với "sự thật của đời
sống" của các hình thức nghệ
Ch.ng. còn là một thể văn trong
thuật*, đều chưa bộc lộ hết ý nghĩa
của ch.l.ng.th. Để đạt tới ch.l.ng.th.
văn cổ gọi là bài chăm hay chàm từ.
cần phải có vai trò của tưởng tượng,
Chẳng hạn, bài Cừu mục châm của
của cá tính sáng tạo* của nghệ sĩ,
Dương Hùng. Nữ sư châm của
của việc sử dụng các phương thức Trương Hoa (Trung Quốc).
tạo hình và biểu hiện trong phản ánh nghệ thuật Chân dung văn học
Thể loại văn học đặc thù có
nhiệm vụ tương tự như thể loại chân
dung trong hội họa và điêu khắc,
diễn tả diện mạo của một con người
cụ thể, có thật, sao cho truyền được
thần thái sống động của người đó,
phát hiện đặc điểm riêng, cá nhân,
độc đáo. không lặp lại của một nhân
cách với thế giới tinh thần của nó.
Khác với hồi tưởng, ghi chép
về một con người cụ thể với tư
cách là một thể loại văn học.
ch.d.v.h. miêu tả con người cụ thể
với một quan niệm xác định về nhân cách.