Tự luận triết cuối kì - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội

Tự luận triết cuối kì - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Câu 1: Quan niệm CNDVBC về vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
BL
a. Quan niệm chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: thế giới sinh ra từ ý thức của một lực lượng
siêu tự nhiên như:
- Ý niệm (Platôn)
- Ý niệm tuyệt đối (Heghen)
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Mọi sự vật hiện tượng tồn tại lệ thuộc vào cảm giác của
con người, một hình thức tồn tại của ý thức
→ Thừa nhận sừ tồn tậi của sừ vật hiện từợng trợng thế giợi nhừng phủ nhận tính tồn tậi khách
qừan của vật chất
Quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật:
- Triết học phương Đông: Trong triết học Trung Hoa thời cổ đại
+ Thuyết Âm Dương cho rằng khởi thủy của mọi vật là Thái cực, từ đó sinh ra mọi vật
(tự nhiên và xã hội), phân tán thì muôn phần khác nhau, thống nhất thì muôn phần là
một
+ Thuyết Ngũ hành coi năm yếu tố Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ là những yếu tố khởi
nguyên tạo nên mọi vật.
- Trong triết học Hy Lạp cổ đại:
+ Thales cho rằng, vật chất là nước, nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi sự
vật trong thế giới.
+ Anaximenes cho rằng, vật chất là không khí
+ Heraclitus cho rằng vật chất là lửa.
+ Phủ nhận quan điểm thực thể thế giới là một chất cụ thể, Empedocles đã coi thực thể
của thế giới là bốn yếu tố: đất, nước, lửa và không khí.
+ Định nghĩa vật chất của nhà triết học Hy Lạp cổ đại Anaximander là bước tiến mới
trên con đường xây dựng quan điểm duy vật về vật chất. Ông cho rằng, cơ sở đầu tiên
của mọi vật trong vũ trụ là một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh
viễn, đó là Apeiron (Apâyrôn).
+ Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghĩa vật chất
của hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại: Leucippus (Lơxíp) and Democritus (Đêmôcrít).
Hai ông định nghĩa vật chất là nguyên tử, căn nguyên của mọi vật là nguyên tử.
+ Ưu và nhược điểm của quan điểm về vật chất trong triết học Hy Lạp cổ đại:
- Ưu điểm: Xuất phát từ chính bản thân thế giới vật chất để giải thích vật chất
- Nhược điểm:
+Do tính trực quan, họ chỉ thấy được cái tồn tại bề ngoài của vật chất
+Đồng nhất vật chất nói chung và những dạng cụ thể của nó
- Trong triết học duy vật thời cận đại: Từ cuối thế kỉ XVI - XVIII, khoa học tự nhiên -
thực nghiệm châu Âu phát triển mạnh mẽ:
+ Vật lý: phát hiện mới về quang, điện và từ
+ Thiên văn học: giải thích cấu tạo hệ mặt trời
+ Sinh học: nghiên cứu đặc điểm cấu tạo của hàng chục ngàn cơ thể sống
→ Quan điểm siêu hình vẫn chi phối quan niệm về vật chất
(vật chất = khối lượng, cơ
học là chân lý)
→ Kế thừa quan điểm nguyên tử luận cổ đại, các nhà triết học duy vật cận đại vẫn coi
nguyên tử là dạng vật chất nhỏ bé nhất, không phân chia được.
b. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sự phá
sản của quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
- Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khoa học tự nhiên mà chủ yếu là vật lý học đã có
một loạt phát minh rất quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết mới về cấu
trúc và tính chất của vật chất trong lĩnh vực vi mô, đã làm thay đổi căn bản quan niệm
cổ truyền về vật chất.
+ Năm 1895: nhà vật lý học Đức Rơngphen phát hiện ra tia X
+ Năm 1896: nhà vật lý học Pháp Beccoren phát hiện được hiện tượng phóng xạ
+ Năm 1897: nhà vật lý học Anh Tomxon phát hiện ra điện tử (electoron)
+ Năm 1901: nhà vật lý học Đức Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử
- Ý nghĩa khoa học và triết học của những phát minh:
+ Hiểu biết mới về thuộc tính và cấu trúc của vật chất
+ Đánh đổ những quan niệm trực quan, siêu hình về vật chất
+ Phát sinh chủ nghĩa duy tâm vật lý với quan niệm vật chất “đang tiêu tan” (nếu
nguyên tử bị phá), vật chất không phải là thực tại khách quan mà tồn tại phục thuộc
kinh nghiệm, vật chất là tổ hợp của các cảm giác
→ Tất cả những phát minh ấy đưa lại cho con người những hiểu biết mới sâu sắc về
nguyên tử rằng, nguyên tử có cấu trúc phức tạp, nó không phải là đơn vị nhỏ nhất, mà nó có
thể bị phân ra và chuyển hoá.
→ Đồng thời, tạo ra cuộc khủng khoảng thế giới quan trong các nhà triết học và khoa
học tự nhiên. V.I.Lênin cho cuộc khủng hoảng đó chỉ là một bước ngoặt nhất thời, là một
thời kỳ ốm đau ngắn ngủi trong lịch sử khoa học, một chứng bệnh của sự trưởng thành.
c. Quan điểm của triết học Mác-Lenin về vật chất
Trong bối cảnh khủng khoảng đã nêu trên, V.I.Lenin đã khẳng định:
- Không phải là vật chất tiêu tan mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất
là tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là giới hạn của sự nhận thức
về vật chất. V.I.Lênin gọi những nhà vật lý suy nghĩ theo lối siêu hình là những nhà
"duy tâm vật lý".
- Không thể bác bỏ được chủ nghĩa duy vật cũng như không thể bác bỏ được sự tồn tại
của thế giới vật chất
- Cái đáng bác bỏ là những giới hạn nhận thức của con người đã bị vượt qua
Vào năm 1908, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất, một định
nghĩa mà cho tới nay các khoa học hiện đại vẫn thừa nhận: *“Vật chất là một phạm
trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”
Ở định nghĩa này, Lenin đã chỉ ra:
- Vật chất là một phạm trù triết học
+ Vật chất được nhìn nhận dưới góc độ triết học
+ Khái niệm rộng, bao quát nhiều đối tượng tồn tại trong thế giới
+ Vật chất khác vật thể:
Vật chất Vật thể
Chỉ vật chất nói chung Chỉ các dạng vật chất cụ thể
Vô hạn, vô tận Có giới hạn
Không sinh ra, không mất đi Có sinh ra và mất đi để chuyển hóa
thành cái khác
- Vật chất có thuộc tính cơ bản nhất, quan trọng nhất là “thực tại khách quan” và “tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”
+ Thực tại khách quan là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại độc lập bên ngoài (không phục
thuộc vào) ý thức con người:
-> Thực tại khách quan đem lại cho con người cảm giác và được cảm giác chép lại, chụp lại,
phản ánh
-> Tồn tại không lệ thuộc và cảm giác
Nội dung định nghĩa của Lenin:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy con người nhận thức được hay chưa nhận thức được
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên
các giác quan của con người
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất
Ý nghĩa khoa học của định nghĩa:
- Bác bỏ quan điểm của CNDT
- Bác bỏ thuyết không thể biết
- Khắc phục được những hạn chết của chủ nghĩa duy vật trước Mác
→ Giải quyết cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng
- Bao quát toàn bộ hiện thực, cả trong tự nhiên và xã hội:
+ Cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội, dạng vật chất tồn tại dưới
dạng vật thể
+ Định hướng cho các khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức
mới của vật chất trong thế giới
d. Quan niệm về vật chất của Angghen:
Vật chất, tồn tại là những yếu tố có trước, sinh ra và quyết định ý thức, tư duy
Thế giới tuy phong phú và đa dạng nhưng được cấu thành từ những phần tử vật chất
nhỏ bé. Bản chất của thế giới là vật chất
Vật chất luôn ở trong trạng thái vận động không ngừng. Vận động là tự thân vận
động. Vận động diễn ra bằng nhiều hình thức.
Vật chất tồn tại trong không gian và thời gian, bản thân không gian, thời gian cũng là
vật chất
e. Các hình thức tồn tại của vật chất
e.1. Vận động và các hình thức biểu hiện của vận động
Phạm trù vận động: Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thường hiểu vận động là sự
di chuyển vị trí của sự vật trong không gian. Tuy nhiên, sự phát triển của thực tiễn và
của nhận thức khoa học cho thấy rằng, nếu hiểu vận động chỉ theo nghĩa như vậy là
hạn hẹp và không đầy đủ.
Theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi nói chung:
- Angghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất…bao gồm tất thảy mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất:
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, thông qua vận động, các dạng vất chất
biểu hiện, bộc lộ sự tồn tại của mình
- Không có vật chất không vận động, không có vận động nằm ngoài vật chất
- Nguồn gốc của vận động nằm bên trong vật chất tức sự tự thân vận động của vật chất
Các hình thức vận động cơ bản của vật chất:
- Vận động cơ học: sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian
- Vận động vật lý: vận động của các điện tử, phân tử, hạt cơ bản, các quá trình nhiệt
điện,…
- Vận động hóa học: vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải
các chất
- Vận động sinh học: trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường
- Vận động xã hội: sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội, các hình thái kinh tế – xã
hội
→ Các hình thức vận động khác nhau về chất nhưng có mối quan hệ hữu cơ với nhau
Vận động và đứng im:
- Trạng thái đặc biệt của vận động, vận động trong cân bằng, nghĩa là những tính chất
của vật chất chưa có sự biến đổi cơ bản, gọi là đứng im.
- Đứng im chỉ là tương đối và tạm thời. Vận động là tuyết đối, vĩnh viễn.
+ Tương đối vì hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong 1 mối quan hệ, với 1 hình thức vận
động, tại 1 thời điểm
+ Tạm thời vì vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, còn vận động nói chung
làm cho tất cả không ngừng biến đổi
e.2. Không gian và thời gian
Khái niệm không gian và thời gian:
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan đồng nhất không gian - thời gian với cảm giác và trạng
thái tâm lý của con người
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình đồng nhất không quan với khối lượng vật thể, tách không
gian - thời gian khỏi vật chất, coi không gian như cái hộp trống rỗng trong đó chứa
đầy sự vật
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin:
- Không gian:
+ Sự tồn tại tách biệt giữa các sự vật
+ Quy mô và mức độ kết cấu của sự vật
+ Vị trí và trật tự phân bố của sự vật trong thế giới và trong một hệ thống vật chất
- Thời gian:
+ Thời gian phản ánh những quá trình kế tiếp nhau của mọi sự vật, hiện tượng, theo trật
tự từ trước tới sau, từ xuất hiện, tồn tại và diệt vong của mọi quá trình vật chất trong
không gian
→ Không thể tách biệt không gian và thời gian thành hai hiện tượng, trạng thái, quá trình
độc lập.
Triết học Mác-Lenin khẳng định:
- Không gian - thời gian - vật chất tồn tại trong sự thống nhất
- Không có vật chất tồn tại ngoài không gian, thời gian và ngược lại; không có không
gian, thời gian phi vật thể
→ Ý là: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận
động không thể vận động ở đâu khác ngoài trong không gian và theo thời gian”
Tính chất của không gian và thời gian:
- Tính khách quan: nghĩa là không gian và thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại
gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không
gian và thời gian tồn tại khách quan
- Tính vĩnh cửu, vô tận: nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả về quá khứ
lẫn tương lai, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về bên phải lẫn bên trái, cả về phía
trên lẫn phía dưới.
- Tính ba chiều của không gian (chiều dài, chiều rộng, chiều cao) và tính một chiều của
thời gian (chiều từ quá khứ đến tương lai)
- Không gian và thời gian mang tính tương đối
f. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới. Tồn tại biểu hiện dưới 2
dạng cơ bản: tồn tại vật chất (khách quan) và tồn tại tinh thần (chủ quan).
Tồn tại của thế giới là cơ sở cho sự thống nhất thế giới, nhưng thế giới không phải
thống nhất ở tính tồn tại mà ở tính vật chất của nó
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có cấu trúc vật chất và đều là những dạng,
những trạng thái biểu hiện khác nhau của vật chất đang vận động, không có vật chất
đứng im tuyệt đối.
Đặc điểm tính thống nhất vật chất của thế giới:
- (1), Chỉ có một thế giới thống nhất duy nhất là thế giới vật chất, thế giới đó tồn tại
khách quan,có trước và độc lập với ý thức con người
- (2), Vạn vật trong thế giới tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau, đều
chịu sự chi phối của quy luật tất yếu khách quan
- (3), Thế giới vật chất không do ai sáng tạo ra và cũng không tự nhiên mất đi mà tồn
tại vô cùng, vô tận, vĩnh viễn
- (4), Con người không thể sáng tạo nên thế giới vật chất bằng ý thức mà phải dựa trên
tiền đề vật chất và thông qua thực tiễn
Câu 2: Quan niệm của CNDVBC về nguồn gốc và bản chất của ý thức
BL
Chủ nghĩa duy tâm khách quan: Ý thức là một thực thể siêu tự nhiên, tồn tại độc lập,
sinh ra và quyết định vật chất
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: đồng nhất ý thức với vật chất, coi vật chất tồn tại lệ
thuộc vào sự cảm nhận của con người
Các nhà thần học Kitô giáo coi con người do Chúa sáng tạo, ý thức là thứ được Chúa
ban cho
CNDV siêu hình coi ý thức như là sản phẩm phái sinh trực tiếp của vật chất (như: mật
được tiết từ gan, rượu cất ra từ gạo, hơi bốc từ nước, lửa đốt lên từ củi,…)
1. Nguồn gốc của ý thức
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức: ý thức xuất phá từ nguồn gốc
tự nhiên và nguồn gốc xã hội
a. Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên: ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là
bộ óc con người
- Bộ óc con người:
+ Là cơ quan vật chất của ý thức.
+ Là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài về mặt sinh học - xã hội
+ Là một tổ chức vật chất sống đặc biệt, bao gồm khoảng 14-15 tỉ tế bào thần kinh
+ Các tế bào thần kinh liên hệ với nhau và với các giác quan tạo thành hệ thống liên hệ
thu - nhận điều khiển hoạt động của cơ thể
- Nhưng tại sao bộ óc con người - một tổ chức vật chất cao - lại có thể sinh ra được ý
thức? Nếu chỉ có riêng bộ óc, không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc
phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Đặc điểm của ý thức là tồn tại
như một đặc tính không thể tách rời khỏi óc người.
+ Mối liên hệ vật chất giữa bộ óc con người với thế giới khách quan đã tạo nên quá
trình phản ánh
+ Ý thức là khái quát và có chọn lọc về thế giới khách quan, nhằm quá trình phản ánh
hình thành trong óc người những quan niệm, tư tưởng
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống
vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng
+ Các hình thức phản ánh: Ý thức > phản ánh sinh học (tính kích thức, tính cảm ứng,
tâm lý) > phản ánh vật lý, hóa học
b. Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội: Xuất phát từ lao động ngôn ngữ
- Lao động: là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào thế giới tự nhiên
nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ cho những nhu cầu của mình
+ Vậy con vật có biết lao động hay không? “Loài vật giỏi lắm thì cũng chỉ biết lượm hái
là cùng, nhưng con người thì biết sản xuất; con người chế tạo ra những tư liệu sinh
sống (theo nghĩa rộng), những tư liệu mà giới tự nhiên không thể tạo ra được nếu
không có con người”
- Vai trò của lao động trong việc hình thành ý thức:
+ Hình thể: dáng đi, cấu trúc cơ thể, bộ não
+ Nhận thức: tư duy, nhận thức quy luật, quan hệ xã hội
- Ngôn ngữ: là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức
+ Ngôn ngữ có nhiều hình thức biểu hiện: cử chỉ, tiếng nói, chữ viết
- Vai trò của ngôn ngữ:
+ Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trong xã hội, đồng thời là công cụ để tư duy nhằm
khái quát hóa, trừu tượng hóa liên tục
+ Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, tri thức
+ Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được
- Trong 2 yếu tố thuộc nguồn gốc xã hội, yếu tố nào giữ vai trò trực tiếp và quan trọng
nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức?
+ Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là
lao động, là trực tiếp xã hội
+ Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội
+ Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn
ngữ và các quan hệ xã hội
2. Bản chất của ý thức
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
- Ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định cả về nội
dung và hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan
mà được cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh
nghiệm, tri thức, nhu cầu…) của con người
- Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc
con người và được cải biến đi trong đó”
Ý thức phản ánh một cách năng động, sáng tạo không phải là sự sao chép đơn giản,
máy móc thế giới khách quan.
- Tính sáng tạo thể hiện ở chỗ ý thức có khả năng phản ánh bản chất, quy luật của sự
vật, hiện tượng
- Ý thức con người có khả năng biến đổi hình ảnh (cảm tính và lý tính) của sự vật trong
đầu óc của mình, tạo ra mô hình để từ đó biển đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn
Ý thức là một hiện tượng lịch sử - xã hội.
- Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, không những chịu tác
động của các quy luật sinh học mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao
tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng
động, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Câu 3: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, ý nghĩa phương pháp luận
BL
Nguyên lý (Principium) tiếng Hi Lạp với nghĩa “đầu tiên nhất” - định đề, khẳng định
để trên cơ sở đó các định luật và lý thuyết khoa học được xây dựng
Nguyên lý triết học là những luận điểm khái quát nhất làm cơ sở rút ra những quy
luật, nguyên tắc, phương pháp...phục vụ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người
Phân loại nguyên lý:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Nguyên lý về sự phát triển
Khái niệm về mối liên hệ: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự ràng buộc, sự quy
định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện
tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến:
- Mọi sự vật, hiện tượng không tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà có mối liên hệ tác
động qua lại lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau: nương tựa, chuyển hóa lẫn nhau,
thúc đẩy hoặc kìm hãi sự phát triển của nhau
- Mối liên hệ phổ biến dùng để tính phổ biến của các MLH (bao quát mọi lĩnh vực),
đồng thời cũng chỉ các MLH tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng trong thế giới
- Những MLH phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng, nó
thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng
Những đặc trưng cơ bản của mối liên hệ:
- Tính khách quan:
+ Mối liên hệ là cái vốn có, bên trong các sự vật, hiện tượng
+ Các sự vật đều là những dạng cụ thể vật chất nên không thể tồn tại biệt lập, tách rời
mà trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau
+ Bản chất của sự vật, hiện tượng bộc lộ thông qua sự tác động giữa các sự vật, hiện
tượng với nhau
- Tính phổ biến:
+ Mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật hiện tượng. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại
tuyệt đối biệt lập mà tồn tồn tại với tư cách là một hệ thống mang tính mở, tồn tại
trong mối liên hệ với hệ thống khác
- Tính đa dạng, phong phú:
+ Mối sự vật, hiện tượng khác nhau, tồn tại nhiều mối liên hệ khác nhau
+ Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ còn thể hiện ở những điều kiện thời
gian, không gian cụ thể
Dựa trên các cơ sở khác nhau để phân chia các mối liên hệ khác nhau:
- Mối liên hệ bên trong - bên ngoài
- Mối liên hệ cơ bản - không cơ bản
- Mối liên hệ bản chất - không bản chất
- Mối liên hệ không gian - thời gian
→ Việc phân chia các mối liên hệ giúp xác định trong từng điều kiện, hoàn cảnh, mối liên
hệ nào là mối liên hệ cơ bản, từ đó có phương pháp tác động đúng đắn, phù hợp, mang lại
hiệu quả cao
Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Quan điểm toàn diện:
+ Nhận thức sự vật hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu
tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với sự vật
khác
+ Khi tác động vào sự vật phải chú ý tới mối liên hệ nội tại của nó, mối liên hệ của sự
vật ấy với sự vật khác và phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện
khác nhau để tác động nhằm đạt hiệu quả nhất
+ Đặt ra câu hỏi: Tại sao cần phải có quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn?
-> Mỗi sự vật, hiện tượng được cấu thành từ nhiều bộ phận khác nhau, có nhiều mối
quan hệ với thế giới
-> Quan điểm toàn diện cho sự xem xét khách quan và thực tiễn về đối tượng, đánh
giá đúng đối tượng
+ Quan điểm toàn diện yêu cầu:
-> (1) Nghiên cứu các yếu tố cấu thành đối tượng, tìm mối liên hệ cơ bản
-> (2) Cần xem xét đối tượng một cách bao quát, nhiều mặt, nhiều góc độ và hoàn
cảnh khác nhau
-> (3) Phải tìm hiểu đầy đủ các mối quan hệ giữa đối tượng với thế giới xung quanh
-> (4) Không nên có tư tưởng giàn đều, cào bằng, bình quân chủ nghĩa
-> (5) Vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu đối tượng (biện chứng, siêu hình,
phân tích tổng hợp, thống kê, mô hình hóa, trừu tượng hóa,…)
-> (6) Khi giải quyết những vấn đề thực tiễn phải biết kết hợp nhiều biện pháp và
phương tiện khác nhau (bạo lực, đàm phán hòa bình) sử dụng nhiều lực lượng khác
nhau
+ Quan điểm toàn diện yêu cầu tránh:
-> Tư tưởng chiết trung
-> Tư tưởng phiến diện
-> Thuật ngụy biện
-> Quan điểm xa rời thực tiễn
+ Sự vận dụng quan điểm toàn diện của Đảng:
-> Trong hai cuộc kháng chiến: Đảng ta vận dụng nhiều phương pháp đấu ranh: vũ
trang, đàm phán hòa bình, tranh thủ dư luận xã hội, chiến tranh nhân dân, nhiều thứ
quân, nhiều loại vũ khí
-> Trong công cuộc đổi mới, Đảng chủ trương đổi mới toàn diện xã hội, ngoại giao đa
phương, phát triển giáo dục, khoa học công nghệ
Câu 4: Nguyên lý về sự phát triển, ý nghĩa phương pháp luận
BL
Nguyên lý (Principium) tiếng Hi Lạp với nghĩa “đầu tiên nhất” - định đề, khẳng định
để trên cơ sở đó các định luật và lý thuyết khoa học được xây dựng
Nguyên lý triết học là những luận điểm khái quát nhất làm cơ sở rút ra những quy
luật, nguyên tắc, phương pháp...phục vụ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người
Phân loại nguyên lý:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Nguyên lý về sự phát triển
Khái niệm phát triển:
- Quan điểm siêu hình:
+ Sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi về lượng, không có sự thay đổi gì về mặt
chất của sự vật
+ Sự phát triển được xem như một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước
quanh co, phức tạp
- Quan điểm biện chứng:
+ Phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra dần dần, vừa
nhảy vọt dẫn tới sự ra đời của cái mới thay cho cái cũ
+ Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có
bước lùi tạm thời
+ Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần về lượng dẫn đến thay đổi dần về
chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy
+ Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi theo chiều hướng đi lên:
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan:
+ Nguồn gốc của sự phát triển là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn bên
trong sự vật, hiện tượng
+ Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn của con người
- Tính phổ biến:
+ Sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy, ở bất cứ sự vật nào, hiện
tượng nào của thế giới khách quan
-> Trong tự nhiên, sự phát triển biểu hiện ra ở khuynh hướng phát triển ngày các phức
tạp của vạn vật, từ vô cơ đến hữu cơ, từ hữu cơ đơn giản đến những tổ chức sống vô
cùng phức tạp, ngày một thích nghi và hoàn thiện trước sự biến đổi của môi trường
-> Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực của con người chinh phục tự
nhiên, cải tạo xã hội đến tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng
con người. Xã hội loại người đó phát triển từ chế độ công xã nguyên thủy, qua các
chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa đến xã hội chủ ngữ
-> Trong tư duy, phát triển là sự vận động, tiến lên không ngừng của các tri thức, khái
niệm, đưa khả năng nhận thức của con người ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn
hơn với hiện thực khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú:
+ Mọi sự vật, hiện tượng có quá trình phát triển khác nhau.
+ Trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu tác động từ các nhân tố khác nhau nên quá
trình phát triển có thể được thúc đẩy hoặc bị kìm hãm, bao hàm những bước thụt lùi
tạm thời
- Tính kế thừa: Các sự vật mới ra đời tiến bộ hơn do kế thừa những yếu tố hợp lý của
cái cũ
Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển:
- Quan điểm phát triển:
+ Khi xem xét bất kỳ sự vật và hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận động và phát
triển
+ Thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi của sự
vật, hiện tượng
+ Khái quát vạch ra khuynh hướng biến đổi của sự vật
- Quan điểm đỏi hỏi:
+ (1) Phải xem xét đối tượng trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển không
ngừng (chú ý đến cả ba thời phát triển của đối tượng: quá khứ, hiện tại, tương lai)
+ (2) Phải nghiên cứu tính tất yếu và logic quá trình phát triển của đối tượng, đặc biệt
trong lĩnh vực xã hội. Nếu phát hiện tính phi logic giữa các giai đoạn phát triển thì cần
đặt vấn đề nghi vấn để tìm hiểu
- Quan điểm phát triển có ý nghĩa:
+ (1) Khắc phục tư tưởng bảo thủ, siêu hình, trì trệ trong cuộc sống và khẳng định sự
thắng lợi tất yếu của cái mới. Cái mới đại diện cho sự phát triển, khi mới ra đười còn
non yếu nên cần phải tích cực bảo vệ, ủng hộ
+ (2) Phát triển là quá trình có khuynh hướng đi lên, bao hàm cả những thụt lùi tạm
thời, vì vậy, cần phải có tinh thần lạc quan trong cuộc sống, không nản chí khi gặp
khó khăn, khi gặp thất bại
- Sự vận dụng quan điểm phát triển của Đảng:
+ Trong hai cuộc chiến tranh: mặc dù gặp muôn vàn khó khăn về mọi phương diện (vũ
khí, đường lối) song Đảng ta vẫn tin tưởng rằng, với phương châm “trường kỳ kháng
chiến” cách mạng sẽ có ngày thắng lợi.
+ Trong công cuộc đổi mới: mặc dù có sự khó khăn song Đảng ta vẫn tin tưởng vào
mục tiêu, lý tưởng, kiên trì lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng lý luận và phương châm hành động.
- Quan điểm lịch sự - củ thể:
+ “Mọi cái tồn tại đều hợp lý, mọi cái hợp lý đều tồn tại”
+ Nghiên cứu về sự vật, hiện tượng đúng với hệ quy chiếu của nó, bối cảnh không gian,
thời gian, lập trường, quan điểm, thời điểm nào để nhìn nhận sự kiện lịch sử đó
- Quan điểm này đòi hỏi:
+ (1) Phải xem xét đối tượng gắn với bối cảnh không gian, thời gian cụ thể để tìm hiểu
nguyên nhân xuất hiện, cơ sở tồn tại, phát triển và lý do diệt vong của đối tượng
+ (2) Mọi chủ trương chính sách phải căn cứ vào các điều kiện lịch sử - cụ thể, tránh
đưa ra các điều luật, các chế định thoát ly hiện thực, bất khả thi
+ (3) Nghiên cứu văn bản phải tìm hiểu bối cảnh cụ thể của văn bản đó. Nếu xa rời văn
bản thì nội dung của câu, từ, thuật ngữ sẽ không phản ánh đúng hàm ý của tác giả
- Sự vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể của Đảng:
+ Phát triển đất nước dựa trên điều kiện lịch sử cụ thể của quốc tế và trong nước, không
thoát ly hiện thực, không tô hồng thực tế, không chạy theo bệnh thành tích.
+ Trong công cuộc đổi mới hiện nay: chính trị thế giới diễn biến phức tạp, song căn cứ
vào tình hình cụ thể của đất nước (tài nguyên thiên nhiên, năng lực con người), Đảng
ta đã đưa ra mục đích xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Câu 5: Cặp phạm trù cái chung cái riêng, ý nghĩa phương pháp luận
BL
Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới. Cặp
phạm trù “cái chung và cái riêng” là một trong những cặp phạm trù cơ bản của Triết học nói
chung và cũng như của phép biện chứng duy vật nói riêng. Cùng với các cặp phạm trù khác,
“cái chung và cái riêng” đã xây dựng cho triết học một nền tảng lý luận vững chắc, cơ bản để
từ đó Triết học giải quyết được nhiều vấn đề khác trong thực tiễn. Để hiểu được nội dung và
ý nghĩa của phương pháp luận cặp phạm trù “cái riêng và cái chung” để vận dụng thực tiễn,
trước tiên cần phải hiểu khái niệm thế nào là cái chung và cái riêng.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng
lẻ, tồn tại dưới dạng một chỉnh thể độc lập tương đối với sự vật khác. Ví dụ, một tác phẩm
văn học cụ thể, chẳng hạn tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình”; một ngôi nhà cụ thể,...
Cái chung là PTTH dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung có nhiều sự vật, hiện
tượng, kết cấu vật chất hay quá trình riêng lẻ. Ví dụ, thuộc tính là trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hóa của cả một quốc gia dân tộc của thủ đô. Thuộc tính này được lặp đi, lặp lại ở tất cả
các thủ đô riêng biệt như Hà Nội,...
Cái đơn nhất là PTTH dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính…chỉ có ở một sự vật, hiện
tượng nhất định mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng khác. Ví dụ, vân tay của mỗi người, số
điện thoại, mã vùng, mã nước luôn là đơn nhất.
Có thể thấy, giữa cái riêng và cái chung có mối quan hệ biện chứng với nhau:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng biểu hiện sự tồn tại của
mình. Không có cái chung trừu tượng và cái chung không tồn tại độc lập, tách rời cái riêng.
Ví dụ, trên cơ sở khảo sát tình hình hoạt động cụ thể của một số doanh nghiệp có thể rút ra
kết luận về tình trạng chung của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Thứ hai, cái riêng tồn tại trong mối quan hệ dẫn tới cái chung, không có cái riêng tồn tại độc
lập tuyệt đối tách rời cái chung. Ví dụ, không có doanh nghiệp nào tồn tại với tư cách doanh
nghiệp mà lại không tuân theo các quy tắc chung của thị trường (ví dụ quy tắc cạnh tranh...).
Nếu doanh nghiệp nào đó bất chấp các nguyên tắc chung đó thì nó không thể tồn tại trong
nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, cái chung là cái bộ phận, sâu sắc, bản chất. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú. Cái
riêng không phản ánh hết trong cái chung bởi cái riêng còn bao hàm cái đặc thù (đơn nhất).
Ví dụ, khi vận dụng những nguyên lý chung của khoa học vào việc giải quyết mỗi vấn đề
riêng cần phải xét đến những điểu kiện lịch sử, cụ thể tạo nên cái đơn nhất (đặc thù) của nó.
Cần tránh thái độ chung chung, trừu tượng khi giải quyết mỗi vấn đề riêng.
Thứ tư, tùy thuộc vào từng điều kiện và hoàn cảnh nhất định mà cái đơn nhất có thể chuyển
thành cái chung và ngược lại, cái chung có thể chuyển thành cái đơn nhất. Cái chung được
biểu hiện đa dạng thông qua cái riêng tạo nên tính đa dạng trong sự thống nhất của giống,
loài. Ví dụ: một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng sáng
kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, có thể thông qua các tổ chức trao
đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái chung, cái phổ biến - khi đó cái đơn nhất đã
trở thành cái chung…
Từ cặp phạm trù “cái chung và cái riêng”, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp
luận như sau.
Thứ nhất, cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng biểu hiện sự tồn tại nên muốn
nhận thức cái chung phải xuất phát từ cái riêng. Đây là cơ sở của phương pháp quy nạp.
Thứ hai, vì cái riêng tồn tại dẫn tới cái chung nên muốn nhận thức cái riêng phải xuất phát từ
những tri thức chung. Đây là cơ sơ của phương pháp diễn dịch.
Thứ ba, vì cái chung là bộ phận của cái riêng nên trong nhận thức không thể áp dụng nguyên
xi cái chung vào cái riêng mà cần tính đến hoàn cảnh lịch sử - cụ thể
Thứ tư, trong xã hội, mỗi cá nhân (cái riêng) có xu hướng thể hiện bản chất (cái chung) khác
nhau nên cần tông trọng cá tính.
Cuối cùng, cần nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng để giải
quyết hài hòa các mối quan hệ: quốc gia - quốc tế, giai cấp - dân tộc - cá nhân - tập thể, văn
hóa, tránh các xu hướng cực đoan như quốc tế chủ nghĩa, dân tộc chủ nghĩa, địa phương chủ
nghĩa, cá nhân chủ nghĩa.
Câu 6: Cặp phạm trù nguyên nhân kết quả, ý nghĩa phương pháp luận:
BL
Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới. Cặp
phạm trù “nguyên nhân và kết quả” là một trong những cặp phạm trù cơ bản của Triết học nói
chung và cũng như của phép biện chứng duy vật nói riêng. Cùng với các cặp phạm trù khác,
“nguyên nhân và kết quả” đã xây dựng cho triết học một nền tảng lý luận vững chắc, cơ bản
để từ đó Triết học giải quyết được nhiều vấn đề khác trong thực tiễn. Phạm trù “Nguyên nhân
- kết quả” phản ánh mối quan hệ sản sinh ra nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực
khách quan.
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa
các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Trong khi đó, kết quả là phạm trù
triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra. Chẳng hạn, không phải nguồn điện là nguyên
nhân làm bóng đèn phát sáng mà chỉ là tương tác của dòng điện với dây dẫn; trong trường
hợp này, dây tóc của bóng đèn mới thực sự là nguyên nhân làm cho bóng đèn phát sáng.
Nguyên nhân phải là sự tác động qua lại giữa các yếu tố, không có sự tác động thì không thể
gọi là nguyên nhân. Cần phải phân biệt được nguyên nhân với điều kiện và nguyên cớ.
Nguyên cớ là những sự vật hiện tượng xuất hiện đồng thời với nguyên nhân, nhưng nó chỉ là
quan hệ bề ngoài, ngẫu nhiên chứ không sinh ra kết quả. Điều kiện là môi trường để nguyên
nhân xảy ra, những sự vật hiện tượng gắn liền với nguyên nhân tác động vào nguyên nhân,
làm cho nguyên nhân phát huy tác động, nhưng điều kiện không trực tiếp sinh ra kết quả. Ví
dụ, chất xúc tác chỉ là điều kiện để các chất hóa học tác động lẫn nhau tạo nên phản ứng hóa
học.
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có tính tất yếu, khách quan và tính
phổ biến. Tính tất yếu, khách quan thể hiện ở chỗ, mối liên hệ nhân quả là vốn có của sự vật,
tác động độc lập, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Con người không thể
bằng ý thức của mình để tạo nên quan hệ nhân quả. Tính tất yếu, khách quan của quan hệ
nhân quả thể hiện: nguyên nhân nào thì kết quả đó. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ: mọi sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Bên cạnh đó,
không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận
thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con người về mối liên hệ
nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả có thể được khái quát thành
những vấn đề sau đây.
Thứ nhất, nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết
quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện. Đây là quan hệ có tính nối tiếp
và sinh sản. Tuy nhiên, không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời gian cũng là
quan hệ nhân quả. Ví dụ, ngày kế tiếp đêm, mùa hè kế tiếp mùa xuân…nhưng đêm không
phải là nguyên nhân của ngày cũng như mùa xuân không phải nguyên nhân của mùa hè. Cái
phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ kế tiếp về mặt thời gian là ở chỗ: nguyên nhân và kết
quả có quan hệ sản sinh ra nhau. Nguyên nhân của ngày và đêm là do sự quay quanh trục của
Trái Đất. Nguyên nhân sinh ra các mùa trong năm là do trái đất quay quanh trục theo một độ
nghiêng không đổi.
Thứ hai, nguyên nhân và kết quả mang tính đa dạng, phức tạp. Một kết quả có thể được tạo
nên bởi nhiều nguyên nhân tác động độc lập hoặc cùng chiều, cùng lúc. Căn cứ vào tính chất
và vai trò của nguyên nhân dẫn tới kết quả, nguyên nhân có thể được chia thành các dạng:
Nguyên nhân chủ yếu và thứ yếu, nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp, bên trong và bên ngoài,
khách quan và chủ quan,... Ví dụ, nguyên nhân của mất mùa có thể là do hạn hán, lũ lụt, sâu
bệnh, có thể do chăm bón không đúng kỹ thuật. Mặt khác, một nguyên nhân có thể phát sinh
nhiều kết quả tùy thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh và mục đích nhất định. Ví dụ như,
cùng là một người thầy dạy, nhưng kết quả ở mỗi học sinh lại là khác nhau. Nếu nhiều
nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều trong một sự vật thì chúng sẽ gây ảnh
hưởng cùng chiều đến sự hình thành kết quả, làm cho kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược
lại, nếu nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng khác nhau, thì sẽ cản trở tác dụng
của nhau, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau, điều đó sẽ ngăn cản sự xuất hiện của kết quả.
Thứ ba, nguyên nhân và kết quả có thể đổi vị trí cho nhau. Điều này có nghĩa là một sự vật,
hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại
là kết quả và ngược lại. Ví dụ: Ô nhiễm môi trường làm cho trái đất nóng lên, trái đất nóng
lên khiến cho băng tan, băng tan khiến cho lũ lụt nhiều hơn. Vì vậy, các chuỗi nhân quả là
không đầu, không đuôi và một hiện tượng nào đó được coi là nguyên nhân hay kết quả bao
giờ cũng ở trong một quan hệ xác định, cụ thể.
Thứ tư, nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng kết quả không hoàn toàn thụ động, nó vẫn có khả
năng tác động trở lại nguyên nhân. Sự tác động đó có thể diễn ra theo hai hướng: thúc đẩy sự
hoạt động của nguyên nhân (hướng tích cực) hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân
(hướng tiêu cực). Ví dụ, nghèo đói, thất học làm gia tăng dân số; đến lượt nó, gia tăng dân số
lại làm tăng nghèo đói, thất học,...
Từ đó, Thứ nhất, vì nhân quả mang ta đưa ra ý nghĩa về mặt phương pháp luận như sau.
tính tất yếu, khách quan nên muốn nhận kết quả tốt, phải xuất phát từ nguyên nhân. Thứ hai,
vì nhân quả mang tính phổ biến nên khi nhận thức kết quả phải tìm đúng nguyên nhân (phân
loại nguyên nhân). Quán triệt nguyên tắc này, cần chống lại Thuyết định mệnh và Mục đích
luận. Thứ ba, muốn có kết quả tốt, cần phát huy những nguyên nhân tích cực, muốn loại bỏ
hậu quả phải loại bỏ các nguyên nhân sinh ra nó. Thứ tư, chống lối suy diễn chủ quan, lấy
nguyên cớ thay cho nguyên nhân, hoặc khi hậu quả xảy ra thì đổ lỗi cho hoàn cảnh. Cuối
cùng, trong thực tiễn, cần chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh, nhân tố để thúc đẩy hoặc kìm hãm
nguyên nhân nhằm thu được kết quả mong muốn.
Câu 7: Cặp phạm trù nội dung và hình thức, ý nghĩa phương pháp luận
BL
Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới. Cặp
phạm trù “nội dung và hình thức” là một trong những cặp phạm trù cơ bản của Triết học nói
chung và cũng như của phép biện chứng duy vật nói riêng. Cùng với các cặp phạm trù khác,
“nội dung và hình thức” đã xây dựng cho triết học một nền tảng lý luận vững chắc, cơ bản để
từ đó Triết học giải quyết được nhiều vấn đề khác trong thực tiễn.
Nội dung là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả các mặt, các yếu tố, các quá trình tạo
nên sự vật, hiện tượng. Khi xác định nội dung của đối tượng, sự vật, hiện tượng, nhận thức trả
lời cho câu hỏi “đối tượng là gì?”.
Hình thức là phạm trù dùng để biểu thị phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ
thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố trong sự vật đó, là cách thức tổ
chức và kết cấu của sự vật. Khi xác định hình thức của đối tượng, sự vật, hiện tượng nào đó,
nhận thức trả lời cho câu hỏi “đối tượng là như thế nào?”.
Phân biệt giữa hình thức và cái bề ngoài: Hình thức trong phạm trù nội dung - hình thức:
không phải hình thức bề ngoài, cái bao bọc bên ngoài nội dung, bên ngoài sự vật, mà là cái
hình thức bên trong sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội dung.
Để làm rõ 2 phạm trù trên, ta cùng tìm hiểu một số ví dụ. Ví dụ, ở thực vật (cây), nội dung ở
đây là các bộ phận như lá, rễ, quả,...các quá trình hô hấp, quang hợp…; hình thức thể hiện ở
chỗ rễ cây gồm 3 loại: rễ cọc, rễ chùm, rễ củ. Hoặc là, khi phân tích mỗi phân tử nước (H20)
đã cho thấy: nội dung là các yếu tố vật chất làm cơ sở cấu thành nên nó, gồm 2 nguyên từ
hydro và 1 nguyên tử oxy; hình thức là cách thức liên kết hóa học của chúng, đó là liên kết
H-O-H.
Từ cặp phạm trù “Nội dung và hình thức”, mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và
hình thức có thể khái quát một số vấn đề sau.
Thứ nhất, nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong đó, không có nội dung
nào nằm ngoài hình thức cũng không có hình thức nào không chứa nội dung. Các yếu tố tạo
thành sự vật vừa góp phần tạo nên nội dung, vừa tham gia tạo nên hình thức. Ví dụ như, trong
một phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất (người lao động, tư liệu sản xuất, khoa học -
công nghệ) đóng vai trò là nội dung, còn quan hệ sản xuất (hình thức sở hữu tư liệu sản xuất,
trình độ tổ chức quản lý sản xuất, cách thức phân phối sản phẩm lao động) đóng vai trò là
hình thức.
Thứ hai, nội dung và hình thức chỉ phù hợp một cách tương đối. Một nội dung có thể biểu
hiện qua nhiều hình thức; ví dụ như, thi kết thúc nội dung môn Triết học có thể sử dụng nhiều
hình thức như: thi viết, thi vấn đáp, thi trắc nghiệm…Hay là, một hình thức có thể chứa nhiều
nội dung khác nhau; ví dụ như, hình thức lễ hội (chọi trâu, đâm lợn,...) diễn tả nhiều nội dung
như: sự phong phú, đa dạng về văn hóa của các địa phương…Bên cạnh đó, nội dung giữ vai
trò quyết định so với hình thức; do đó, nếu nắm chắc nội dung của bài học Triết, thì dù hình
thức thi là tự luận hay trắc nghiệm thì cũng không sợ và lo lắng. Cuối cùng, nội dung là yếu
tố động, luôn luôn thay đổi, còn hình thức mang tính ổn định, khi nội dung thay đổi sớm
muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của hình thức; ví dụ như, kinh tế thay đổi thì lối sống (phong
tục, tập toán, cách ăn mặc, sinh hoạt,...) cũng thay đổi theo.
Thứ ba, nội dung giữ vai trò quyết định hình thức trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật. Trong quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức.
Nội dung biến đổi nhanh, hình thức thường biến đổi chậm hơn nội dung. Do vậy, hình thức
khi ấy sẽ trở nên lạc hậu so với nội dung và kìm hãm nội dung phát triển. Hình thức sẽ phải
thay đổi cho phù hợp với nội dung. Khi nội dung thay đổi thì sớm hay muộn hình thức cũng
thay đổi theo. Ví dụ, lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
của lực lượng sản xuất. Do vậy, khi lực lượng sản xuất thay đổi thì sớm hay muộn quan hệ
sản xuất phải thay đổi theo cho phù hợp với lực lượng sản xuất.
Thứ tư, hình thức tác động trở lại nội dung. Hình thức do nội dung quyết định nhưng hình
thức có tính độc lập tương đối và tác động ngược trở lại nội dung. Sự tác động của hình thức
đến nội dung thể hiện ở chỗ: Nếu hình thức phù hợp với nội dung thì sẽ thúc đẩy nội dung
phát triển. Nếu hình thức không phù hợp (tân tiến quá hay lạc hậu quá) so với nội dung thì sẽ
cản trở sự phát triển của nội dung. Ví dụ như, trong các hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp
đối kháng, lúc đầu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, là hình thức phát triển
của nó. Nhưng do lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản
xuất trở thành lạc hậu không còn phù hợp với lực lượng sản xuất và bắt đầu kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Từ đó, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận như sau.
Vì nội dung quyết định hình thức, nên trong nhận thức và hành động, phải dựa trên nội dung,
thay đổi hình thức từ nội dung. Chống chủ nghĩa hình thức, đặc biệt trong nghiên cứu khoa
học, giáo dục, lối sống,…
Vì một nội dung có thể biểu hiện qua nhiều hình thức khác nhau, bởi vậy cần sử dụng sự đa
dạng về hình thức để chuyển tải nội dung. Chống chủ nghĩa bảo thủ, bệnh giáo điều trong
nhận thức và thực tiễn.
Vì hình thức tác động trở lại nội dung, nên cần chú ý đến sự phù hợp giữa nội dung và hình
thức. Khi nội dung thay đổi, cần năng động thay đổi hình thức, chống lại thái độ bảo thủ, trì
trệ. Đồng thời cũng chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, trọng hình thức, coi nhẹ nội dung.
Câu 8: Nội dung quy luật lượng chất, ý nghĩa phương pháp luận
BL
Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, những mối liên hệ “quy luật” là sự phản ánh
chung, tất yếu, khách quan mang tính bản chất được lặp đi lặp lại giữa các sự vật và hiện
tượng thế giới, hoặc giữa các thuộc tính, yếu tố trong lòng mỗi sự vật, hiện tượng. Các quy
luật đều mang tính khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa dạng.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại (quy luật lượng - chất) là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật. Quy luật này chỉ ra phương thức, cách thức của sự vận động và phát triển của sự
vật, hiện tượng. Để tìm hiểu rõ quy luật này, ta cần phải làm rõ một số khái niệm.
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác. Ví
dụ: Nguyên tố sắt (Fe) có nguyên tử khối là 26 đvC, nhiệt độ nóng chảy là 1538 độ C…
Những tính chất này phân biệt nó với các kim loại khác. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt
chẽ không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan, không thể tồn tại sự vật không có chất
và không thể có chất nằm ngoài sự vật.
Đặc điểm cơ bản của chất là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng,
nghĩa là khi nó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay
đổi. Mọi sự vật có nhiều thuộc tính, trong đó chỉ những thuộc tính đặc trưng cho sự vật mới
được gọi là chất. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Thuộc tính cơ bản quy định chất của sự vật. Ví dụ: Con người khác với động vật chính là nhờ
những tính quy định vốn có của con người: khả năng chế tạo vũ khí, máy móc và khả năng sử
dụng công cụ, tư duy….Nếu thuộc tính cơ bản mất đi thì chất của sự vật thay đổi. Còn thuộc
tính không cơ bản thì trong quá trình tồn tại của sự vật, có những thuộc tính không cơ bản
mới nảy sinh, cũng có những thuộc tính không cơ bản mất đi nhưng chất của sự vật không
thay đổi.
Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của nguyên tố tạo thành mà còn bởi
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện
thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác nhau.
Có thể thấy rõ, kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học là nguyên tố Cacbon
tạo nên, nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tố Cacbon là khác nhau nên chất của
chúng hoàn toàn khác nhau dẫn đến kim cương rất cứng còn than thì mềm.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ thuộc tính vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy
mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng bao giờ cũng là lượng của một chất xác định, không có lượng thuần túy. Lượng của sự
vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Ví dụ như: đơn vị đo lường cụ thể như
vận tốc ánh sáng là 300.000km trong 1 giây…Bên cạnh đó, lượng chỉ có thể biểu hiện dưới
dạng trừu tượng và khái quát (ví dụ như: trình độ nhận thức của một người, ý thức trách
nhiệm cao hay thấp của một công dân…). Lượng còn biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự
vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hóa học…) hoặc có những lượng còn vạch ra
yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Phân biệt lượng và chất chỉ mang tính tương đối. Điều này phụ thuộc vào từng mối quan hệ
xác định. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối
quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. Ví dụ: Xét con số 16 có nhiều cách
xác định khác nhau: tích của 2 nhân 8, bình phương của 4, 16 tổng khác nhau,...
Sự vật, hiện tượng có sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng. Chúng luôn có sự quy định,
tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau. Mọi thay đổi về lượng đều ảnh hưởng tới chất và
ngược lại. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất.
Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là . là một phạm trù độ Độ
triết học dùng để chỉ khoảng thời gian trong đó có sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm
thay đổi căn bản chất của sự vật. Độ là mối liên hệ thống nhất giữa lượng và chất của sự vật,
trong đó sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành cái khác.
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi
lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới
hạn đó chính là . Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện điểm nút
nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới (sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút).
Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển
của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau,
được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Căn cứ vào nhịp điệu
của bước nhảy, các hình thức cơ bản của bước nhảy bao gồm bước nhảy đột biến, tức thực
hiện trong thời gian ngắn, làm thay đổi toàn bộ kết cấu của sự vật; và bước nhảy dần dần, tức
thực hiện từ từ bằng cách tích lũy dần những yếu tố của chất mới. Căn cứ vào quy mô, ta có
bước nhảy toàn bộ, tức làm thay đổi toàn bộ các yếu tố cấu thành sự vật và bước nhảy cục bộ,
tức làm thay đổi các yếu tố riêng lẻ cấu thành sự vật.
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng
của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp
điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Lấy ví dụ dễ hiểu, nếu chúng ta tăng
thời gian tự học ở nhà, giảm thời gian chơi game thì sẽ thu nhận được nhiều kiến thức hơn,
làm bài sẽ đạt được điểm cao hơn.
Nói tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về
chất thông qua bước nhảy. Bước nhảy diễn ra làm cho chất mới ra đời. Lượng mới và chất
mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật ấy. Quá trình
đó diễn ra liên tiếp trong sự vật là cho sự vật luôn phát triển.
Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta
xem xét các sự vật, hiện tượng, . Trong mọi hoạt ta rút ra được phương pháp luận như sau
động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải từng bước tích lũy về lượng để làm
biến đổi về chất, tránh tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, đốt cháy giai đoạn, muốn thực
hiện những bước nhảy liên tục (tả khuynh). Khi đã tích lũy đủ về lượng phải có quyết tâm
thực hiện bước nhảy, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ (hữu khuynh). Vận dụng linh hoạt
các hình thức của bước nhảy. Cần phải chống lại quan điểm phiến diện, giản đơn cho rằng cứ
thay đổi về lượng là thay đổi về chất. Trong đời sống xã hội, tư tưởng này biểu hiện thành
bệnh thành tích, coi trọng số lượng mà không để ý đến chất lượng. Bên cạnh đó, sự biến đổi
về chất còn có nhiều cách thức khác như thay đổi cấu trúc, phương thức liên kết, thay đổi
hoàn cảnh. Do vậy, cần sử dụng nhiều phương thức làm cho sự vật biến đổi về chất, chứ
không phải một chiều duy nhất là thay đổi lượng.
Câu 9: Quy luật mâu thuẫn, ý nghĩa phương pháp luận
BL
Quy luật là sự phản ánh những mối liên hệ chung, tất yếu, khách quan mang tính bản chất
được lặp đi lặp lại giữa các sự vật và hiện tượng thế giới, hoặc giữa các thuộc tính, yếu tố
trong lòng mỗi sự vật, hiện tượng.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy luật mâu
thuẫn, là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là hạt nhân của phép
biện chứng duy vật. Quy luật vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển của sự
vật, hiện tượng; khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại những mặt đối lập, mâu thuẫn
bên trong. Đồng thời nó là chìa khóa cơ sở giúp chúng ta nắm vững thực chất của tất cả các
quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có
khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. Ví dụ như sự sống và cái chết hay cái thiện và cái ác.
Hay trong cơ thể con người, có hoạt động ăn và hoạt động bài tiết; trong nguyên tử, có điện
tích âm và điện tích dương.
Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất đấu tranh và chuyển hóa các mặt
đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
Mâu thuẫn có mang tính khách quan. Mọi sự vật trong thế giới hiện thực không phải là cái
gì hoàn toàn thuần nhất mà là một hệ thống các yếu tố, các mặt vừa liên hệ với nhau, vừa có
khuynh hướng trái ngược nhau tạo nên mâu thuẫn vốn có của sự vật. Do đó, mâu thuẫn
không do ai sáng tạo ra và cũng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Ví dụ,
trong con người chúng ta luôn tồn tại các yếu tố trái ngược nhau như cái thiện với cái ác,
thông minh và đần độn, dũng cảm và hèn nhát,...
Mâu thuẫn mang tính phổ biến bởi mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi kết thúc. Mọi sự vật, hiện
tượng đều tồn tại mâu thuẫn, mâu thuẫn này được giải quyết thì mâu thuẫn khác lại nảy sinh.
Ví dụ như trong vật lý, mâu thuẫn giữa lực hút và đẩy giữa các phân tử, các vật thể,...
Mâu thuẫn còn có tính đa dạng và phong phú bởi mâu thuẫn biểu hiện khác nhau ở mỗi sự
vật, hiện tượng. Trong những điều kiện cụ thể khác nhau, mâu thuẫn thể hiện ra ở nhiều hình
thức đa dạng và phong phú khác nhau: mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản
và không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu, mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Sự vận động và phát triển bao giờ
cũng xuất phát từ mâu thuẫn trong lòng sự vật. Các mặt đối lập của mâu thuẫn vừa thống nhất
vừa đấu tranh với nhau. Các mặt đối lập có sự thống nhất bởi sự cùng tồn tại, làm tiền đề cho
nhau, nương tựa vào nhau, không có sự thống nhất của các mặt đối lập thì không tạo ra sự
vật. Giữa các mặt đối lập, sự thống nhất là tạm thời, tương đối, còn sự đấu tranh chỉ mang
tính tuyệt đối.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập diễn ra liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật
kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như khi chuyển hóa nhảy vọt về chết. Sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập là động lực của sự phát triển. Qua đấu tranh, mâu thuẫn được giải quyết,
sự vật phát triển từ hình thái thấp lên hình thái cao. Lenin nhận định: “sự phát triển là một
cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển, làm cho sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra
đời.
Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động thực tiễn, cần chú ý phát hiện mâu thuẫn của
sự vật vì mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến. Vì mâu thuẫn là động lực của sự
phát triển nên muốn thúc đẩy sự phát triển cần phải phân tích mâu thuẫn, xác định vị trí, vai
trò của từng loại mâu thuẫn để có biện pháp giải quyết phù hợp. Vì mọi mâu thuẫn đều có
quá trình phát sinh, phát triển và biến hóa do đó mâu thuẫn phải được giải quyết bằng con
đường đấu tranh, tránh khuynh hướng thủ tiêu mâu thuẫn hoặc điều hòa mâu thuẫn.
Từ đó, đề ra những phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn cần giải quyết kịp thời,
tránh tư tưởng tả khuynh (chủ quan, nóng vội) giải quyết mâu thuẫn khi chưa tới độ chín
muồi và chưa chuẩn bị đủ điều kiện vật chất để giải quyết. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết
bằng biện pháp đấu tranh chứ không dung hòa giữa các mặt đối lập. Chống quan điểm hữu
khuynh, dĩ hòa vi quý, tư tưởng cải lương, nửa vời, trốn tránh hoặc thủ tiêu đấu tranh. Mâu
thuẫn phải được giải quyết một cách nhanh gọn, cụ thể, đúng người, đúng việc. Tránh thái độ
dây dưa, quan liêu đại khái và thờ ơ, thụ động.
Sự vận động quy luật mâu thuẫn của Đảng:
- Trong kháng chiến, Đảng ta đã xác định đúng những mâu thuẫn của thời đại, của dân
tộc đề ra những phương pháp, phương tiện, thời điểm giải quyết thích hợp và tranh
thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới hướng tới sự nghiệp giải phóng dân tộc,
xây dựng kinh tế
- Hiện nay, Đảng ta đã nhận thức đúng và đề ra những cách thức phù hợp để giải
quyết những mâu thuẫn của thời đại như:
+ Xung đột lợi ích giữa các nước lớn, giữa các khối kinh tế.
+ Phát triển kinh tế với ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên.
+ Vấn đề phân hóa giàu nghèo, bùng nổ dân số.
+ Những ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa đối với các nước nghèo, v.v.
Những mâu thuẫn tồn tại hiện nay:
- Phát triển kinh tế với bảo tồn bản sắc văn hóa.
- Hoàn thiện, phát triển cơ chế kinh tế thị trường với sự định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền với lối sống trọng lệ hơn luật.
- Mâu thuẫn giữa lợi ích quốc gia và lợi ích nhóm.
- Mâu thuẫn giữa các bên trong xung đột biển đông.
- Tệ nạn tham nhũng, tệ nạn xã hội với lối sống lành mạnh.
- -> Việc giải quyết các mâu thuẫn trên đòi hỏi kết hợp nhiều biện pháp, nhiều lực
lượng và phương tiện khác nhau để hướng tới mục đích tiến bộ xã hội.
Câu 10: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
BL
Trong tác phẩm Bút ký triết học, Lenin khái quát con đường biện chứng của sự nhận
thức như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện
thực khách quan
Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp, trong đó bao gồm nhiều
giai doạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau; chúng có nội dung cũng nhưu
vai trò, ý nghĩa khác nhau trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của chủ
thể
Giai đoạn “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” được gọi là giai đoạn hình
thành tri thức
1. Nhận thức cảm tính (Trực quan sinh động)
Khái niệm: Là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào sự
vật nhằm tìm hiểu các sự vật ấy. Trực quan sinh động bao gồm 3 hình thức là: cảm
giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác:
- Là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất ở giai đoạn nhận thức cảm tính
- Là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác
động trực tiếp vào các giác quan con người
- Đặc trưng của cảm giác:
+ Mang tính trực tiếp, đơn lẻ
+ Là tri thức về cái bề ngoài của đối tượng
+ Chưa được biểu đạt bằng hình thái ngôn ngữ
- Nếu chỉ dừng lại ở cảm giác thì nhận thức mới chỉ hiểu được từng thuộc tính riêng lẻ
của các sự vật, hiện tượng. Điều đó là không đủ. Vì thế, nhận thức không dừng lại ở
cảm giác mà phải tiến lên tri giác.
Tri giác:
- Là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động vào các
giác quan. Là sự tổng hợp của nhiều cảm giác
- Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác
- So với cảm giác, tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn
về sự vật, Nhưng đến tri giác, con người mới chỉ có được hình ảnh trực quan và tương
đối hoàn chỉnh về đối tượng.
- Ví dụ: Khi tri giác bông hoa hồng, ta không chỉ thu được cảm giác nhìn, ngửi riêng
biệt mà còn là sự kết hợp phức tạp tạo nên hình ảnh bông hồng với màu sắc và hương
thơm của nó
- Đặc trưng của tri giác:
+ Là hiểu biết tương đối hoàn chỉnh về đối tượng
+ Mang tính trực tiếp
+ Là tri thức về cái bề ngoài của đối tượng
+ Chưa được biểu đạt bằng hình thái ngôn ngữ
Biểu tượng:
- Là hình ảnh tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc khi sự vật không còn trực
tiếp tác động vào các giác quan
- Được hình thành nhờ sự phối hợp, bổ sung cho nhau bởi các giác quan
- Có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp và ít nhiều mang tính trừu tượng
hóa
- Đặc trưng của biểu tượng:
+ Là hình ảnh tương đối toàn vẹn về đối tượng
+ Mang tính trực tiếp
+ Là tri thức về cái bề ngoài của đối tượng
+ Chưa được biểu đạt bằng hình thái ngôn ngữ
→ Cảm giác, tri giác, biểu tượng là những hình thức kế tiếp nhau của giai đoạn nhận thức
cảm tính
→ Ở giai đoạn này, những tri thức con người đạt được mới chỉ là những tri thức cảm tính,
kinh nghiệm về sự vật
2. Giai đoạn nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng)
Khái niệm: Là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, nó phản ánh giao tiếp, trừu
tượng và khái quát những thuộc tính, đặc điểm bản chất của đối tượng
Nhận thức lý tính được thể hiện ở 3 hình thức của tư duy là: khái niệm, suy đoán, suy
luận
a. Khái niệm
Là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự
vật
Là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính cơ bản,
chung nhất của sự vật hay một lớp sự vật
Giúp chúng ta phân biệt sự vật này với sự vật khác
Phân loại khái niệm:
- Nội hàm: những dấu hiệu mang tính bản chất của đối tượng
- Ngoại diện: tập hợp những đối tượng chứa dấu hiệu bản chất được phản ánh bởi nội
hàm
Đặc trưng của khái niệm:
- Phản ánh được bản chất của đối tượng
- Được biểu đạt bằng hình thức ngôn ngữ là từ, nhóm từ
- Nội hàm của khái niệm không bất biến mà luôn vận động
Khái niệm cũng chính là “điểm nút” của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình
thành phán đoán.
b. Phán đoán
Là hình thức của tư duy thể hiện sự liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định
hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng
Cấu trúc của phán đoán: gồm ba thành phần là chủ từ (S) - hệ từ (-) - vị từ (P)
- VD:Nếu tôi không nhầm người vừa đi vào cửa hàng (S) là (liên từ) giáo viên cũ của
tôi (P)
Phân loại phán đoán:
- Phán đoán đơn nhất (VD: đồng dẫn điện)
- Phân đoán đặc thù (VD: đồng là kim loại)
- Phân đoán phổ biến (VD: mọi kim loại đều dẫn điện)
c. Suy luận
Là sự liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra phán đoán mới, tri thức mới. Nói
cách khác, suy luận là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những phán đoán tiền
đề.
Do nhiều phán đoán hợp thành, kết hợp theo nguyên tắc từ những phán đoán tiền đề,
người ta rút ra phán đoán kết luận
→ Toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy luận và nhờ có suy luận mà con
người ngày càng nhận thứ sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan.
BẢNG SO SÁNH NHẬN THỨC CẢM TÍNH VÀ NHẬN THỨC LÝ TÍNH
Về thứ tự Nhận thức cảm tính Nhận thức lý tính
Cơ sở, công cụ - Các sự vật hiện
tượng cụ thể
- Các giác quan (chủ
yếu)
- Cảm giác, tri giác,
biểu tượng
- Bộ não người (chủ
yếu)
Cơ chế thực hiện Biến đổi năng lượng kích
thích thành xung lượng thần
kinh
Phân tích, tổng hợp, trừu
tượng hóa, khái quát hóa,
phán đoán suy luận
Tính chất phản ánh Trực tiếp, cụ thể, sinh động Gián tiếp, trừu tượng, khái
quát
Nội dung phản ánh Bề ngoài, riêng lẻ, ngẫu
nhiên
Bên trong, chung, bản chất,
quy luật
Kết quả phản ánh Tri thức kinh nghiệm, cảm
tính (cảm giác, tri giác biểu
tượng)
Tri thức, lý tính, mối liên hệ,
bản chất, quy luật
Đánh giá - Ưu điểm: cung cấp
thông tin trực tiếp, cơ
sở để hình thành tri
thức con người
- Hạn chế: tri thức, bề
ngoài, cảm tính, chưa
chỉ ra bên trong sự
vật hiện tượng
- Ưu điểm: khái quát
bản chất, quy luật
của sự vật, hiện
tượng, tạo nên chiều
sâu, tinh tế của tri
thức
- Hạn chế: bỏ qua cái
phong phú, sinh động
của sự vật, hiện
tượng
Câu 11: Vai trò của sản xuất vật chất trong đời sống
BL
Khái niệm sản xuất vật chất
- Thứ nhất, sản xuất ra tư liệu sinh hoạt
- Thứ hai, quá trình tạo ra bản thân con người
Vai trò của sản xuất vật chất
- Hành vi lịch sử đầu tiên của con người
- Tất yếu khách quan của sự sinh tồn và phát triển xã hội
- Cơ sở hình thành các quan hệ xã hội
- Cơ sở của mọi sự tiến bộ
Câu 12: Quy luật QHSX phù hợp với trình độ LLSX. Lấy ví dụ vận dụng xem xét vấn
đề thực tiễn ở nước ta
BL
LLSX là sự tổng hợp tất cả mọi yếu tố vật chất mà con người sử dụng để sản xuất ra
của cải vật chất
QHSX là quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất
Trong một phương thức sản xuất:
- Lực lượng sản xuất đóng vai trò như là nội dung
- Quan hệ sản xuất đóng vai trò như là hình thức tồn tại và phát triển của nội dung đó
- Sự tác động qua lại giữa chúng tạo nên quy luật vận động cơ bản của xã hội
1. Nội dung của quy luật
LLSX và QHSX thống nhất biện chứng với nhau trong đó LLSX quyết định QHSX
QHSX có tính độc lập tương đối tác động trở lại LLSX
LLSX là yếu tố động, biến đổi nhanh còn QHSX là yếu tố tĩnh, thay đổi chậm. Từ chỗ
là địa bàn thuận lợi cho sự phát triển của LLSX, quan hệ sản xuất trở nên xiềng xích
trói buộc nó. Tất yếu dẫn tới QHSX cũ bị phá bỏ, QHSX mới được thiết lập để phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Ý nghĩa quy luật đối với Việt Nam:
- Thế giới: quy luật có ý nghĩa lớn trong nghiên cứu tiến trình phát triển xã hội
- Việt Nam: trước đổi mới, do chủ quan duy ý chí, Đảng ta vận dụng chưa hợp lý quy
luật
- Bản chất công cuộc đổi mới là đổi mới quan hệ sản xuất: Đa dạng hóa hình thức sở
hữu và thành phần kinh tế địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng
suất lao động, phát triển xã hội
Câu 13: Phạm trù hình thái KT - XH. Sự phát triển của các hình thái KT - XH là quá
trình lịch sử - tự nhiên. Liên hệ quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
BL
a. Khái niệm
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù dùng đẻ chỉ một kiểu hay mô hình xã hội có
tính xác định về chất và tồn tại cụ thể ở từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội:
- Lực lượng sản xuất
- Quan hệ sản xuất
- Kiến trúc thượng tầng
b. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
Trong “tư bản”, khi phân tích sự vận động của lịch sử nhân loại, Mác viết: “Tôi coi sự
phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”
Quá trình lịch sử tự nhiên:
- Lịch sử xã hội tuân theo các quy luật tất yếu khách quan:
+ Quy luật LLSX - QHSX
+ Đấu tranh giai cấp
+ CSHT - KTTT
- Hình thái kinh tế xã hội thay đổi: LLSX >< QHSX → mâu thuẫn giai cấp → cách
mạng xã hội
- Sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội: CSNT -> CHNL -> PK -> TBCN -> CSCN
-> Quá trình phát triển của lịch sử có tính đa dạng. Các yếu tố đặc thù mà một số quốc gia có
thể “bỏ qua” một hay một vài hình thái xã hội (đã lạc hậu) để xây dựng một hình thái kinh tế
- xã hội tân tiến hơn
c. Giá trị khoa học bền vững của học thuyết và sự vận dụng
Thứ nhất: Sự sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, PTSXVC quyết định mọi
phương diện khác của đời sống xã hội
Thứ hai: Xã hội không phải sự kết hợp ngẫu nhiên của các cá nhân mà là một cơ thể
sinh động. QHSX là quan hệ kinh tế cơ bản quyết định bản chất xã hội, là tiêu chuẩn
để đánh giá chế độ xã hội, là cơ sở phân định các thời kỳ lịch sử.
Thứ ba: Lịch sử xã hội phát triển theo quy luật tất yếu khách quan, do vậy, muốn nhận
thức đúng đời sống xã hội phải tìm hiểu các quy luật vận động của xã hội.
Thứ tư: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chỉ rõ nguồn gốc, động lực và khuynh
hướng phát triển của lịch sử xã hội.
Vận dụng học thuyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
- Đảng ta xác định đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xa hội bỏ qua giai đoạn phát triên tư
bản chủ nghĩa (luận điểm sáng tạo). Xây dựng nền KTTT định hướng xã hội chủ
nghĩa
- Đẩy mạnh CNH - HĐH, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân và vai trò phản biện xã hội của các đoàn thể quần chúng
- Xây dựng văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển giáo dục toàn diện,
nâng cao dân trí, đào tạo, nguồn nhân lực để hội nhập kinh tế quốc tế và hòa chung
vào làn sóng của toàn cầu hóa.
Câu 14: Quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
BL
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội
nhất định
Cơ sở hạ tầng bao gồm:
- Quan hệ sản xuất thống trị
- Quan hệ sản xuất tàn dư
- Quan hệ sản xuất mầm mống
Cơ sở hạ tầng khác cơ sở vật chất kỹ thuật
1. Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội như chính trị,
pháp luật, tôn giáo, văn hóa - nghệ thuật, khoa học. Tương ứng với các hình thái ý
thức xã hội đó là các thiết chế xã hội như Đảng phái, Nhà nước, Giáo hội, các Hiệp
hội nghề nghiệp, Viện nghiên cứu chuyên ngành
Trong các thiết chế xã hội, Nhà nước (đại diện cho pháp luật) và Đảng phái (đại diện
cho chính trị) đóng vai trò quan trọng, quyết định tính chất của hình thái ý thức xã hội
khác
Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì kiến trúc thượng tầng mang tính đối kháng,
nghĩa là có hệ tư tưởng của giai cấp thống trị và hệ tư tưởng của giai cấp bị trị. Trong
đó hệ tư tưởng của giai cấp thống trị luôn giữ vị trí chủ đạo.
2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng tác động trở lại
cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
- (1) Kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên nền tảng cơ sở hạ tầng tương ứng
- (2) Cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng
- (3) Mọi mâu thuẫn phát sinh trong kiến trúc thượng tầng đều có nguồn gốc từ cơ sở hạ
tầng
- (4) Cơ sở hạ tầng thay đổi, kiến trúc thượng tầng sớm muộn sẽ thay đổi theo
Câu 15: Nguồn gốc hình thành giai cấp. Vai trò của đấu tranh giai cấp
BL
1. Định nghĩa và nguồn gốc của giai cấp
Lenin: “Giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong một
hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với
những TLSX (thường được pháp luật quy định và thừa nhận), về vai trò của họ trong
tổ chức lao động xã hội, và do đó khác nhau về cách thức hưởng thụ và phần của cải
xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập
đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa
vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”
Định nghĩa giai cấp của Lenin có ý nghĩa:
- Tiêu chí phân biệt giai cấp: Kinh tế
- Khác biệt về kinh tế dẫn tới khác biệt về mọi mặt của đời sống xã hội
- Phê phán quan điểm muốn xóa nhòa ranh giới giai cấp, cho rằng xã hội phân chia theo
tầng lớp.
Tầng lớp xã hội:
- Sự phân nhóm những người trong cùng một giai cấp có sự khác biệt bởi những tiêu
chí nhất định (Công nhân: lao động đơn giản, lao động phức tạp,…)
- Những nhóm người ngoài kết cấu giai cấp trong một xã hội nhất định (tầng lớp tri
thức, tầng lớp công chức…)
Nguồn gốc giai cấp:
- Nguyên nhân sâu xa: Trình độ phát triển của LLSX chưa đạt tới trình độ xã hội hóa
cao
- Nguyên nhân trực tiếp: Chế độ tư hữu về TLSX
- LLSX phát triển → NSLĐ tăng, có của cải dư thiệu → Chế độ tư hữu về TLSX →
Mâu thuẫn giữa các tập đoàn người → Giai cấp
Con đường hình thành giai cấp:
- Một là, do nhân tố bạo lực. Từ binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết
mà được sử dụng làm nô lệ cho những người giàu và có địa vị trong xã hội
- Hai là, do sự tác động của các quy luật kinh tế phân hóa những người sản xuất hàng
hóa trong nội bộ cộng đồng xã hội
Các thành phần kết cấu giai cấp:
- Kết cấu giai cấp
- Giai cấp cơ bản
- Giai cấp không cơ bản
- Tầng lớp trung gian
Hiện nay Việt Nam, phân hóa giai cấp phức tạp:
- Quá trình CNH - HĐH: nông dân → CN, dịch vụ.
- Doanh nghiệp cổ phần: xuất hiện tư sản, tiểu tư sản
- Giáo dục: gia tăng tầng lớp tri thức
- Tự do tín ngưỡng, tôn giáo: gia tăng tầng lớp tăng lữ
2. Đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp:
- Là hiện tượng tất yếu của xã hội có giai cấp đối kháng
- Đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng có quyền lợi đối lập nhau
- Đấu tranh giai cấp diễn ra do nguyên nhân kinh tế và quyền lợi chính trị giữa các giai
cấp đối lập nhau
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử:
- Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử
- Qua đấu tranh, các giai cấp tham gia trưởng thành hơn, ý thức giai cấp được củng cố
- Đấu tranh giai cấp: bạo lực hoặc phi bạo lực tiếng nói, tổ chức: chính đảng, công
đoàn, các hiệp hội nghề nghiệp) → mâu thuẫn xã hội được giải quyết, thúc đẩy tiến bộ
xã hội
Hiện nay, thời đại “chung sống hòa bình”, chuyển đối đầu thành đối ngoại, chiến
trường thành thị trường, động lực thúc đẩy xã hội còn có văn hóa và khoa học công
nghệ. Do vậy, quốc gia nào có văn hóa cao, làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến sẽ
có cơ hội phát triển
Câu 16: Nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới,
liên hệ với nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
BL
Nguồn gốc Nhà nước:
o Nhà nước là một phạm trù lịch sử, trong thời đại Công xã nguyên thủy chưa có
Nhà nước, xã hội tồn tại theo hình thức tự quản
o Khi giai cấp xuất hiện, phát sinh đấu tranh giai cấp. Các giai cấp nguy
thu tiêu nhau. Từ đó, một quan trung gian hòa giải hình thành, gọi Nhà
nước.
o Lênin: “Nhà nước là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với một
giai cấp khác”
→ Nhà nước không phải là tổ chức có sẵn, không phải được thiết lập do ý chí chủ
quan của bất kỳ giai cấp nào, sự ra đời tồn tại của Nhà nước xuất phát từ
nhu cầu tất yếu khách quan của lịch sử - đósự kiềm chế đối lập giai cấp, là
việc bảo vệ quyền lợi cua giai cấp thống trị cũng như duy trì trật tự xã hội nói
chung.
Bản chất của Nhà nước:
o Bản chất giai cấp của Nhà nước:
Lúc mới xuất hiện, Nhà nước là cơ quan hòa giải trung gian, nhưng sau
đó, những người nắm bộ máy Nhà nước đã biến nó thành công cụ trấn
áp nhân dân lao động.
Không có Nhà nước đứng trên giai cấp, ngoài giai cấp.
o Bản chất hội của Nhà nước: Bảo vệ an ninh quốc phòng, giữ gìn trật tự
hội, quản lý kinh tế
| 1/34

Preview text:

Câu 1: Quan niệm CNDVBC về vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất BL
a. Quan niệm chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất

● Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: thế giới sinh ra từ ý thức của một lực lượng siêu tự nhiên như: - Ý niệm (Platôn) -
Ý niệm tuyệt đối (Heghen)
● Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Mọi sự vật hiện tượng tồn tại lệ thuộc vào cảm giác của
con người, một hình thức tồn tại của ý thức
→ Thừa nhận sừ tồn tậi của sừ vật hiện từợng trợng thế giợi nhừng phủ nhận tính tồn tậi khách
qừan của vật chất

● Quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật: -
Triết học phương Đông: Trong triết học Trung Hoa thời cổ đại
+ Thuyết Âm Dương cho rằng khởi thủy của mọi vật là Thái cực, từ đó sinh ra mọi vật
(tự nhiên và xã hội), phân tán thì muôn phần khác nhau, thống nhất thì muôn phần là một
+ Thuyết Ngũ hành coi năm yếu tố Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ là những yếu tố khởi
nguyên tạo nên mọi vật. -
Trong triết học Hy Lạp cổ đại:
+ Thales cho rằng, vật chất là nước, nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi sự vật trong thế giới.
+ Anaximenes cho rằng, vật chất là không khí
+ Heraclitus cho rằng vật chất là lửa.
+ Phủ nhận quan điểm thực thể thế giới là một chất cụ thể, Empedocles đã coi thực thể
của thế giới là bốn yếu tố: đất, nước, lửa và không khí.
+ Định nghĩa vật chất của nhà triết học Hy Lạp cổ đại Anaximander là bước tiến mới
trên con đường xây dựng quan điểm duy vật về vật chất. Ông cho rằng, cơ sở đầu tiên
của mọi vật trong vũ trụ là một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn và tồn tại vĩnh
viễn, đó là Apeiron (Apâyrôn).
+ Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghĩa vật chất
của hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại: Leucippus (Lơxíp) and Democritus (Đêmôcrít).
Hai ông định nghĩa vật chất là nguyên tử, căn nguyên của mọi vật là nguyên tử.
+ Ưu và nhược điểm của quan điểm về vật chất trong triết học Hy Lạp cổ đại:
- Ưu điểm: Xuất phát từ chính bản thân thế giới vật chất để giải thích vật chất - Nhược điểm:
+Do tính trực quan, họ chỉ thấy được cái tồn tại bề ngoài của vật chất
+Đồng nhất vật chất nói chung và những dạng cụ thể của nó -
Trong triết học duy vật thời cận đại: Từ cuối thế kỉ XVI - XVIII, khoa học tự nhiên -
thực nghiệm châu Âu phát triển mạnh mẽ:
+ Vật lý: phát hiện mới về quang, điện và từ
+ Thiên văn học: giải thích cấu tạo hệ mặt trời
+ Sinh học: nghiên cứu đặc điểm cấu tạo của hàng chục ngàn cơ thể sống
→ Quan điểm siêu hình vẫn chi phối quan niệm về vật chất (vật chất = khối lượng, cơ học là chân lý)
→ Kế thừa quan điểm nguyên tử luận cổ đại, các nhà triết học duy vật cận đại vẫn coi
nguyên tử là dạng vật chất nhỏ bé nhất, không phân chia được.

b. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sự phá
sản của quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
-
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khoa học tự nhiên mà chủ yếu là vật lý học đã có
một loạt phát minh rất quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết mới về cấu
trúc và tính chất của vật chất trong lĩnh vực vi mô, đã làm thay đổi căn bản quan niệm
cổ truyền về vật chất.
+ Năm 1895: nhà vật lý học Đức Rơngphen phát hiện ra tia X
+ Năm 1896: nhà vật lý học Pháp Beccoren phát hiện được hiện tượng phóng xạ
+ Năm 1897: nhà vật lý học Anh Tomxon phát hiện ra điện tử (electoron)
+ Năm 1901: nhà vật lý học Đức Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử -
Ý nghĩa khoa học và triết học của những phát minh:
+ Hiểu biết mới về thuộc tính và cấu trúc của vật chất
+ Đánh đổ những quan niệm trực quan, siêu hình về vật chất
+ Phát sinh chủ nghĩa duy tâm vật lý với quan niệm vật chất “đang tiêu tan” (nếu
nguyên tử bị phá), vật chất không phải là thực tại khách quan mà tồn tại phục thuộc
kinh nghiệm, vật chất là tổ hợp của các cảm giác
→ Tất cả những phát minh ấy đưa lại cho con người những hiểu biết mới sâu sắc về
nguyên tử rằng, nguyên tử có cấu trúc phức tạp, nó không phải là đơn vị nhỏ nhất, mà nó có
thể bị phân ra và chuyển hoá.
→ Đồng thời, tạo ra cuộc khủng khoảng thế giới quan trong các nhà triết học và khoa
học tự nhiên. V.I.Lênin cho cuộc khủng hoảng đó chỉ là một bước ngoặt nhất thời, là một
thời kỳ ốm đau ngắn ngủi trong lịch sử khoa học, một chứng bệnh của sự trưởng thành.

c. Quan điểm của triết học Mác-Lenin về vật chất
● Trong bối cảnh khủng khoảng đã nêu trên, V.I.Lenin đã khẳng định: -
Không phải là vật chất tiêu tan mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về vật chất
là tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là giới hạn của sự nhận thức
về vật chất. V.I.Lênin gọi những nhà vật lý suy nghĩ theo lối siêu hình là những nhà "duy tâm vật lý". -
Không thể bác bỏ được chủ nghĩa duy vật cũng như không thể bác bỏ được sự tồn tại
của thế giới vật chất -
Cái đáng bác bỏ là những giới hạn nhận thức của con người đã bị vượt qua
● Vào năm 1908, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, Lênin đã đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất, một định
nghĩa mà cho tới nay các khoa học hiện đại vẫn thừa nhận: *“Vật chất là một phạm
trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
● Ở định nghĩa này, Lenin đã chỉ ra: -
Vật chất là một phạm trù triết học
+ Vật chất được nhìn nhận dưới góc độ triết học
+ Khái niệm rộng, bao quát nhiều đối tượng tồn tại trong thế giới
+ Vật chất khác vật thể: Vật chất Vật thể Chỉ vật chất nói chung
Chỉ các dạng vật chất cụ thể Vô hạn, vô tận Có giới hạn
Không sinh ra, không mất đi
Có sinh ra và mất đi để chuyển hóa thành cái khác -
Vật chất có thuộc tính cơ bản nhất, quan trọng nhất là “thực tại khách quan” và “tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”
+ Thực tại khách quan là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại độc lập bên ngoài (không phục
thuộc vào) ý thức con người:
-> Thực tại khách quan đem lại cho con người cảm giác và được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh
-> Tồn tại không lệ thuộc và cảm giác
● Nội dung định nghĩa của Lenin: -
Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy con người nhận thức được hay chưa nhận thức được -
Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên
các giác quan của con người -
Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất
● Ý nghĩa khoa học của định nghĩa: -
Bác bỏ quan điểm của CNDT -
Bác bỏ thuyết không thể biết -
Khắc phục được những hạn chết của chủ nghĩa duy vật trước Mác
→ Giải quyết cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng -
Bao quát toàn bộ hiện thực, cả trong tự nhiên và xã hội:
+ Cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội, dạng vật chất tồn tại dưới dạng vật thể
+ Định hướng cho các khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức
mới của vật chất trong thế giới
d. Quan niệm về vật chất của Angghen:
● Vật chất, tồn tại là những yếu tố có trước, sinh ra và quyết định ý thức, tư duy
● Thế giới tuy phong phú và đa dạng nhưng được cấu thành từ những phần tử vật chất
nhỏ bé. Bản chất của thế giới là vật chất
● Vật chất luôn ở trong trạng thái vận động không ngừng. Vận động là tự thân vận
động. Vận động diễn ra bằng nhiều hình thức.
● Vật chất tồn tại trong không gian và thời gian, bản thân không gian, thời gian cũng là vật chất
e. Các hình thức tồn tại của vật chất
e.1. Vận động và các hình thức biểu hiện của vận động
● Phạm trù vận động: Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thường hiểu vận động là sự
di chuyển vị trí của sự vật trong không gian. Tuy nhiên, sự phát triển của thực tiễn và
của nhận thức khoa học cho thấy rằng, nếu hiểu vận động chỉ theo nghĩa như vậy là
hạn hẹp và không đầy đủ.
● Theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi nói chung: -
Angghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất…bao gồm tất thảy mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
● Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất: -
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, thông qua vận động, các dạng vất chất
biểu hiện, bộc lộ sự tồn tại của mình -
Không có vật chất không vận động, không có vận động nằm ngoài vật chất -
Nguồn gốc của vận động nằm bên trong vật chất tức sự tự thân vận động của vật chất
● Các hình thức vận động cơ bản của vật chất: -
Vận động cơ học: sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian -
Vận động vật lý: vận động của các điện tử, phân tử, hạt cơ bản, các quá trình nhiệt điện,… -
Vận động hóa học: vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất -
Vận động sinh học: trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường -
Vận động xã hội: sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội, các hình thái kinh tế – xã hội
→ Các hình thức vận động khác nhau về chất nhưng có mối quan hệ hữu cơ với nhau
● Vận động và đứng im: -
Trạng thái đặc biệt của vận động, vận động trong cân bằng, nghĩa là những tính chất
của vật chất chưa có sự biến đổi cơ bản, gọi là đứng im. -
Đứng im chỉ là tương đối và tạm thời. Vận động là tuyết đối, vĩnh viễn.
+ Tương đối vì hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong 1 mối quan hệ, với 1 hình thức vận
động, tại 1 thời điểm
+ Tạm thời vì vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, còn vận động nói chung
làm cho tất cả không ngừng biến đổi
e.2. Không gian và thời gian
● Khái niệm không gian và thời gian: -
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan đồng nhất không gian - thời gian với cảm giác và trạng
thái tâm lý của con người -
Chủ nghĩa duy vật siêu hình đồng nhất không quan với khối lượng vật thể, tách không
gian - thời gian khỏi vật chất, coi không gian như cái hộp trống rỗng trong đó chứa đầy sự vật
● Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin: - Không gian:
+ Sự tồn tại tách biệt giữa các sự vật
+ Quy mô và mức độ kết cấu của sự vật
+ Vị trí và trật tự phân bố của sự vật trong thế giới và trong một hệ thống vật chất - Thời gian:
+ Thời gian phản ánh những quá trình kế tiếp nhau của mọi sự vật, hiện tượng, theo trật
tự từ trước tới sau, từ xuất hiện, tồn tại và diệt vong của mọi quá trình vật chất trong không gian
→ Không thể tách biệt không gian và thời gian thành hai hiện tượng, trạng thái, quá trình độc lập.
● Triết học Mác-Lenin khẳng định: -
Không gian - thời gian - vật chất tồn tại trong sự thống nhất -
Không có vật chất tồn tại ngoài không gian, thời gian và ngược lại; không có không
gian, thời gian phi vật thể
→ Ý là: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận
động không thể vận động ở đâu khác ngoài trong không gian và theo thời gian”

● Tính chất của không gian và thời gian: -
Tính khách quan: nghĩa là không gian và thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại
gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không
gian và thời gian tồn tại khách quan -
Tính vĩnh cửu, vô tận: nghĩa là không có tận cùng về một phía nào cả, cả về quá khứ
lẫn tương lai, cả về đằng trước lẫn đằng sau, cả về bên phải lẫn bên trái, cả về phía trên lẫn phía dưới. -
Tính ba chiều của không gian (chiều dài, chiều rộng, chiều cao) và tính một chiều của
thời gian (chiều từ quá khứ đến tương lai) -
Không gian và thời gian mang tính tương đối
f. Tính thống nhất vật chất của thế giới
● Tồn tại của thế giới là tiền đề cho sự thống nhất của thế giới. Tồn tại biểu hiện dưới 2
dạng cơ bản: tồn tại vật chất (khách quan) và tồn tại tinh thần (chủ quan).
● Tồn tại của thế giới là cơ sở cho sự thống nhất thế giới, nhưng thế giới không phải
thống nhất ở tính tồn tại mà ở tính vật chất của nó
● Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có cấu trúc vật chất và đều là những dạng,
những trạng thái biểu hiện khác nhau của vật chất đang vận động, không có vật chất đứng im tuyệt đối.
● Đặc điểm tính thống nhất vật chất của thế giới: -
(1), Chỉ có một thế giới thống nhất duy nhất là thế giới vật chất, thế giới đó tồn tại
khách quan,có trước và độc lập với ý thức con người -
(2), Vạn vật trong thế giới tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau, đều
chịu sự chi phối của quy luật tất yếu khách quan -
(3), Thế giới vật chất không do ai sáng tạo ra và cũng không tự nhiên mất đi mà tồn
tại vô cùng, vô tận, vĩnh viễn -
(4), Con người không thể sáng tạo nên thế giới vật chất bằng ý thức mà phải dựa trên
tiền đề vật chất và thông qua thực tiễn
Câu 2: Quan niệm của CNDVBC về nguồn gốc và bản chất của ý thức BL
● Chủ nghĩa duy tâm khách quan: Ý thức là một thực thể siêu tự nhiên, tồn tại độc lập,
sinh ra và quyết định vật chất
● Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: đồng nhất ý thức với vật chất, coi vật chất tồn tại lệ
thuộc vào sự cảm nhận của con người
● Các nhà thần học Kitô giáo coi con người do Chúa sáng tạo, ý thức là thứ được Chúa ban cho
● CNDV siêu hình coi ý thức như là sản phẩm phái sinh trực tiếp của vật chất (như: mật
được tiết từ gan, rượu cất ra từ gạo, hơi bốc từ nước, lửa đốt lên từ củi,…)
1. Nguồn gốc của ý thức
● Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức: ý thức xuất phá từ nguồn gốc
tự nhiên và nguồn gốc xã hội
a. Nguồn gốc tự nhiên
● Nguồn gốc tự nhiên: ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người - Bộ óc con người:
+ Là cơ quan vật chất của ý thức.
+ Là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài về mặt sinh học - xã hội
+ Là một tổ chức vật chất sống đặc biệt, bao gồm khoảng 14-15 tỉ tế bào thần kinh
+ Các tế bào thần kinh liên hệ với nhau và với các giác quan tạo thành hệ thống liên hệ
thu - nhận điều khiển hoạt động của cơ thể -
Nhưng tại sao bộ óc con người - một tổ chức vật chất cao - lại có thể sinh ra được ý
thức? Nếu chỉ có riêng bộ óc, không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc
phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Đặc điểm của ý thức là tồn tại
như một đặc tính không thể tách rời khỏi óc người.

+ Mối liên hệ vật chất giữa bộ óc con người với thế giới khách quan đã tạo nên quá trình phản ánh
+ Ý thức là quá trình phản ánh khái quát và có chọn lọc về thế giới khách quan, nhằm
hình thành trong óc người những quan niệm, tư tưởng
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống
vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng
+ Các hình thức phản ánh: Ý thức > phản ánh sinh học (tính kích thức, tính cảm ứng,
tâm lý) > phản ánh vật lý, hóa học
b. Nguồn gốc xã hội
● Nguồn gốc xã hội: Xuất phát từ lao độngngôn ngữ -
Lao động: là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào thế giới tự nhiên
nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ cho những nhu cầu của mình

+ Vậy con vật có biết lao động hay không? “Loài vật giỏi lắm thì cũng chỉ biết lượm hái
là cùng, nhưng con người thì biết sản xuất; con người chế tạo ra những tư liệu sinh
sống (theo nghĩa rộng), những tư liệu mà giới tự nhiên không thể tạo ra được nếu không có con người” -
Vai trò của lao động trong việc hình thành ý thức:
+ Hình thể: dáng đi, cấu trúc cơ thể, bộ não
+ Nhận thức: tư duy, nhận thức quy luật, quan hệ xã hội -
Ngôn ngữ: là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức
+ Ngôn ngữ có nhiều hình thức biểu hiện: cử chỉ, tiếng nói, chữ viết - Vai trò của ngôn ngữ:
+ Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trong xã hội, đồng thời là công cụ để tư duy nhằm
khái quát hóa, trừu tượng hóa liên tục
+ Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, tri thức
+ Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được -
Trong 2 yếu tố thuộc nguồn gốc xã hội, yếu tố nào giữ vai trò trực tiếp và quan trọng
nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức?

+ Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là
lao động, là trực tiếp xã hội
+ Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội
+ Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn
ngữ và các quan hệ xã hội
2. Bản chất của ý thức
● Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan -
Ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định cả về nội
dung và hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan
mà được cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh
nghiệm, tri thức, nhu cầu…) của con người -
Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc
con người và được cải biến đi trong đó”
● Ý thức phản ánh một cách năng động, sáng tạo không phải là sự sao chép đơn giản,
máy móc thế giới khách quan. -
Tính sáng tạo thể hiện ở chỗ ý thức có khả năng phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng -
Ý thức con người có khả năng biến đổi hình ảnh (cảm tính và lý tính) của sự vật trong
đầu óc của mình, tạo ra mô hình để từ đó biển đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn
● Ý thức là một hiện tượng lịch sử - xã hội. -
Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, không những chịu tác
động của các quy luật sinh học mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao
tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng
động, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Câu 3: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, ý nghĩa phương pháp luận BL
● Nguyên lý (Principium) tiếng Hi Lạp với nghĩa “đầu tiên nhất” - định đề, khẳng định
để trên cơ sở đó các định luật và lý thuyết khoa học được xây dựng
● Nguyên lý triết học là những luận điểm khái quát nhất làm cơ sở rút ra những quy
luật, nguyên tắc, phương pháp...phục vụ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người ● Phân loại nguyên lý: -
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến -
Nguyên lý về sự phát triển
Khái niệm về mối liên hệ: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự ràng buộc, sự quy
định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện
tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến: -
Mọi sự vật, hiện tượng không tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà có mối liên hệ tác
động qua lại lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau: nương tựa, chuyển hóa lẫn nhau,
thúc đẩy hoặc kìm hãi sự phát triển của nhau -
Mối liên hệ phổ biến dùng để tính phổ biến của các MLH (bao quát mọi lĩnh vực),
đồng thời cũng chỉ các MLH tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng trong thế giới -
Những MLH phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng, nó
thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng
Những đặc trưng cơ bản của mối liên hệ: - Tính khách quan:
+ Mối liên hệ là cái vốn có, bên trong các sự vật, hiện tượng
+ Các sự vật đều là những dạng cụ thể vật chất nên không thể tồn tại biệt lập, tách rời
mà trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau
+ Bản chất của sự vật, hiện tượng bộc lộ thông qua sự tác động giữa các sự vật, hiện tượng với nhau - Tính phổ biến:
+ Mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật hiện tượng. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại
tuyệt đối biệt lập mà tồn tồn tại với tư cách là một hệ thống mang tính mở, tồn tại
trong mối liên hệ với hệ thống khác - Tính đa dạng, phong phú:
+ Mối sự vật, hiện tượng khác nhau, tồn tại nhiều mối liên hệ khác nhau
+ Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ còn thể hiện ở những điều kiện thời gian, không gian cụ thể
● Dựa trên các cơ sở khác nhau để phân chia các mối liên hệ khác nhau: -
Mối liên hệ bên trong - bên ngoài -
Mối liên hệ cơ bản - không cơ bản -
Mối liên hệ bản chất - không bản chất -
Mối liên hệ không gian - thời gian
→ Việc phân chia các mối liên hệ giúp xác định trong từng điều kiện, hoàn cảnh, mối liên
hệ nào là mối liên hệ cơ bản, từ đó có phương pháp tác động đúng đắn, phù hợp, mang lại hiệu quả cao
● Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - Quan điểm toàn diện:
+ Nhận thức sự vật hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu
tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác
+ Khi tác động vào sự vật phải chú ý tới mối liên hệ nội tại của nó, mối liên hệ của sự
vật ấy với sự vật khác và phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện
khác nhau để tác động nhằm đạt hiệu quả nhất
+ Đặt ra câu hỏi: Tại sao cần phải có quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn?
-> Mỗi sự vật, hiện tượng được cấu thành từ nhiều bộ phận khác nhau, có nhiều mối quan hệ với thế giới
-> Quan điểm toàn diện cho sự xem xét khách quan và thực tiễn về đối tượng, đánh giá đúng đối tượng
+ Quan điểm toàn diện yêu cầu:
-> (1) Nghiên cứu các yếu tố cấu thành đối tượng, tìm mối liên hệ cơ bản
-> (2) Cần xem xét đối tượng một cách bao quát, nhiều mặt, nhiều góc độ và hoàn cảnh khác nhau
-> (3) Phải tìm hiểu đầy đủ các mối quan hệ giữa đối tượng với thế giới xung quanh
-> (4) Không nên có tư tưởng giàn đều, cào bằng, bình quân chủ nghĩa
-> (5) Vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu đối tượng (biện chứng, siêu hình,
phân tích tổng hợp, thống kê, mô hình hóa, trừu tượng hóa,…)
-> (6) Khi giải quyết những vấn đề thực tiễn phải biết kết hợp nhiều biện pháp và
phương tiện khác nhau (bạo lực, đàm phán hòa bình) sử dụng nhiều lực lượng khác nhau
+ Quan điểm toàn diện yêu cầu tránh:
-> Tư tưởng chiết trung
-> Tư tưởng phiến diện -> Thuật ngụy biện
-> Quan điểm xa rời thực tiễn
+ Sự vận dụng quan điểm toàn diện của Đảng:
-> Trong hai cuộc kháng chiến: Đảng ta vận dụng nhiều phương pháp đấu ranh: vũ
trang, đàm phán hòa bình, tranh thủ dư luận xã hội, chiến tranh nhân dân, nhiều thứ quân, nhiều loại vũ khí
-> Trong công cuộc đổi mới, Đảng chủ trương đổi mới toàn diện xã hội, ngoại giao đa
phương, phát triển giáo dục, khoa học công nghệ
Câu 4: Nguyên lý về sự phát triển, ý nghĩa phương pháp luận BL
● Nguyên lý (Principium) tiếng Hi Lạp với nghĩa “đầu tiên nhất” - định đề, khẳng định
để trên cơ sở đó các định luật và lý thuyết khoa học được xây dựng
● Nguyên lý triết học là những luận điểm khái quát nhất làm cơ sở rút ra những quy
luật, nguyên tắc, phương pháp...phục vụ hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người ● Phân loại nguyên lý: -
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến -
Nguyên lý về sự phát triển
● Khái niệm phát triển: -
Quan điểm siêu hình:
+ Sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi về lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật
+ Sự phát triển được xem như một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, phức tạp -
Quan điểm biện chứng:
+ Phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra dần dần, vừa
nhảy vọt dẫn tới sự ra đời của cái mới thay cho cái cũ
+ Sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có bước lùi tạm thời
+ Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần về lượng dẫn đến thay đổi dần về
chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy
+ Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi theo chiều hướng đi lên:
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
● Tính chất của sự phát triển: - Tính khách quan:
+ Nguồn gốc của sự phát triển là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn bên
trong sự vật, hiện tượng
+ Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn của con người - Tính phổ biến:
+ Sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy, ở bất cứ sự vật nào, hiện
tượng nào của thế giới khách quan
-> Trong tự nhiên, sự phát triển biểu hiện ra ở khuynh hướng phát triển ngày các phức
tạp của vạn vật, từ vô cơ đến hữu cơ, từ hữu cơ đơn giản đến những tổ chức sống vô
cùng phức tạp, ngày một thích nghi và hoàn thiện trước sự biến đổi của môi trường
-> Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực của con người chinh phục tự
nhiên, cải tạo xã hội đến tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng
con người. Xã hội loại người đó phát triển từ chế độ công xã nguyên thủy, qua các
chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa đến xã hội chủ ngữ
-> Trong tư duy, phát triển là sự vận động, tiến lên không ngừng của các tri thức, khái
niệm, đưa khả năng nhận thức của con người ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn
hơn với hiện thực khách quan. -
Tính đa dạng, phong phú:
+ Mọi sự vật, hiện tượng có quá trình phát triển khác nhau.
+ Trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu tác động từ các nhân tố khác nhau nên quá
trình phát triển có thể được thúc đẩy hoặc bị kìm hãm, bao hàm những bước thụt lùi tạm thời -
Tính kế thừa: Các sự vật mới ra đời tiến bộ hơn do kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ
● Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển: -
Quan điểm phát triển:
+ Khi xem xét bất kỳ sự vật và hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận động và phát triển
+ Thấy được những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi của sự vật, hiện tượng
+ Khái quát vạch ra khuynh hướng biến đổi của sự vật -
Quan điểm đỏi hỏi:
+ (1) Phải xem xét đối tượng trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển không
ngừng (chú ý đến cả ba thời phát triển của đối tượng: quá khứ, hiện tại, tương lai)
+ (2) Phải nghiên cứu tính tất yếu và logic quá trình phát triển của đối tượng, đặc biệt
trong lĩnh vực xã hội. Nếu phát hiện tính phi logic giữa các giai đoạn phát triển thì cần
đặt vấn đề nghi vấn để tìm hiểu -
Quan điểm phát triển có ý nghĩa:
+ (1) Khắc phục tư tưởng bảo thủ, siêu hình, trì trệ trong cuộc sống và khẳng định sự
thắng lợi tất yếu của cái mới. Cái mới đại diện cho sự phát triển, khi mới ra đười còn
non yếu nên cần phải tích cực bảo vệ, ủng hộ
+ (2) Phát triển là quá trình có khuynh hướng đi lên, bao hàm cả những thụt lùi tạm
thời, vì vậy, cần phải có tinh thần lạc quan trong cuộc sống, không nản chí khi gặp
khó khăn, khi gặp thất bại -
Sự vận dụng quan điểm phát triển của Đảng:
+ Trong hai cuộc chiến tranh: mặc dù gặp muôn vàn khó khăn về mọi phương diện (vũ
khí, đường lối) song Đảng ta vẫn tin tưởng rằng, với phương châm “trường kỳ kháng
chiến” cách mạng sẽ có ngày thắng lợi.
+ Trong công cuộc đổi mới: mặc dù có sự khó khăn song Đảng ta vẫn tin tưởng vào
mục tiêu, lý tưởng, kiên trì lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng lý luận và phương châm hành động. -
Quan điểm lịch sự - củ thể:
+ “Mọi cái tồn tại đều hợp lý, mọi cái hợp lý đều tồn tại”
+ Nghiên cứu về sự vật, hiện tượng đúng với hệ quy chiếu của nó, bối cảnh không gian,
thời gian, lập trường, quan điểm, thời điểm nào để nhìn nhận sự kiện lịch sử đó -
Quan điểm này đòi hỏi:
+ (1) Phải xem xét đối tượng gắn với bối cảnh không gian, thời gian cụ thể để tìm hiểu
nguyên nhân xuất hiện, cơ sở tồn tại, phát triển và lý do diệt vong của đối tượng
+ (2) Mọi chủ trương chính sách phải căn cứ vào các điều kiện lịch sử - cụ thể, tránh
đưa ra các điều luật, các chế định thoát ly hiện thực, bất khả thi
+ (3) Nghiên cứu văn bản phải tìm hiểu bối cảnh cụ thể của văn bản đó. Nếu xa rời văn
bản thì nội dung của câu, từ, thuật ngữ sẽ không phản ánh đúng hàm ý của tác giả -
Sự vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể của Đảng:
+ Phát triển đất nước dựa trên điều kiện lịch sử cụ thể của quốc tế và trong nước, không
thoát ly hiện thực, không tô hồng thực tế, không chạy theo bệnh thành tích.
+ Trong công cuộc đổi mới hiện nay: chính trị thế giới diễn biến phức tạp, song căn cứ
vào tình hình cụ thể của đất nước (tài nguyên thiên nhiên, năng lực con người), Đảng
ta đã đưa ra mục đích xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Câu 5: Cặp phạm trù cái chung cái riêng, ý nghĩa phương pháp luận BL
Phạm trù triết học là những khái niệm
chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới. Cặp
phạm trù “cái chung và cái riêng” là một trong những cặp phạm trù cơ bản của Triết học nói
chung và cũng như của phép biện chứng duy vật nói riêng. Cùng với các cặp phạm trù khác,
“cái chung và cái riêng” đã xây dựng cho triết học một nền tảng lý luận vững chắc, cơ bản để
từ đó Triết học giải quyết được nhiều vấn đề khác trong thực tiễn. Để hiểu được nội dung và
ý nghĩa của phương pháp luận cặp phạm trù “cái riêng và cái chung” để vận dụng thực tiễn,
trước tiên cần phải hiểu khái niệm thế nào là cái chung và cái riêng.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng
lẻ, tồn tại dưới dạng một chỉnh thể độc lập tương đối với sự vật khác. Ví dụ, một tác phẩm
văn học cụ thể, chẳng hạn tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình”; một ngôi nhà cụ thể,...
Cái chung là PTTH dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung có nhiều sự vật, hiện
tượng, kết cấu vật chất hay quá trình riêng lẻ. Ví dụ, thuộc tính là trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hóa của cả một quốc gia dân tộc của thủ đô. Thuộc tính này được lặp đi, lặp lại ở tất cả
các thủ đô riêng biệt như Hà Nội,...
Cái đơn nhất là PTTH dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính…chỉ có ở một sự vật, hiện
tượng nhất định mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng khác. Ví dụ, vân tay của mỗi người, số
điện thoại, mã vùng, mã nước luôn là đơn nhất.
Có thể thấy, giữa cái riêng và cái chung có mối quan hệ biện chứng với nhau:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng biểu hiện sự tồn tại của
mình. Không có cái chung trừu tượng và cái chung không tồn tại độc lập, tách rời cái riêng.
Ví dụ, trên cơ sở khảo sát tình hình hoạt động cụ thể của một số doanh nghiệp có thể rút ra
kết luận về tình trạng chung của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Thứ hai, cái riêng tồn tại trong mối quan hệ dẫn tới cái chung, không có cái riêng tồn tại độc
lập tuyệt đối tách rời cái chung. Ví dụ, không có doanh nghiệp nào tồn tại với tư cách doanh
nghiệp mà lại không tuân theo các quy tắc chung của thị trường (ví dụ quy tắc cạnh tranh...).
Nếu doanh nghiệp nào đó bất chấp các nguyên tắc chung đó thì nó không thể tồn tại trong
nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, cái chung là cái bộ phận, sâu sắc, bản chất. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú. Cái
riêng không phản ánh hết trong cái chung bởi cái riêng còn bao hàm cái đặc thù (đơn nhất).
Ví dụ, khi vận dụng những nguyên lý chung của khoa học vào việc giải quyết mỗi vấn đề
riêng cần phải xét đến những điểu kiện lịch sử, cụ thể tạo nên cái đơn nhất (đặc thù) của nó.
Cần tránh thái độ chung chung, trừu tượng khi giải quyết mỗi vấn đề riêng.
Thứ tư, tùy thuộc vào từng điều kiện và hoàn cảnh nhất định mà cái đơn nhất có thể chuyển
thành cái chung và ngược lại, cái chung có thể chuyển thành cái đơn nhất. Cái chung được
biểu hiện đa dạng thông qua cái riêng tạo nên tính đa dạng trong sự thống nhất của giống,
loài. Ví dụ: một sáng kiến khi mới ra đời - nó là cái đơn nhất. Với mục đích nhân rộng sáng
kiến đó áp dụng trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, có thể thông qua các tổ chức trao
đổi, học tập để phổ biến sáng kiến đó thành cái chung, cái phổ biến - khi đó cái đơn nhất đã trở thành cái chung…
Từ cặp phạm trù “cái chung và cái riêng”, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận như sau.
Thứ nhất, cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng biểu hiện sự tồn tại nên muốn
nhận thức cái chung phải xuất phát từ cái riêng. Đây là cơ sở của phương pháp quy nạp.
Thứ hai, vì cái riêng tồn tại dẫn tới cái chung nên muốn nhận thức cái riêng phải xuất phát từ
những tri thức chung. Đây là cơ sơ của phương pháp diễn dịch.
Thứ ba, vì cái chung là bộ phận của cái riêng nên trong nhận thức không thể áp dụng nguyên
xi cái chung vào cái riêng mà cần tính đến hoàn cảnh lịch sử - cụ thể
Thứ tư, trong xã hội, mỗi cá nhân (cái riêng) có xu hướng thể hiện bản chất (cái chung) khác
nhau nên cần tông trọng cá tính.
Cuối cùng, cần nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng để giải
quyết hài hòa các mối quan hệ: quốc gia - quốc tế, giai cấp - dân tộc - cá nhân - tập thể, văn
hóa, tránh các xu hướng cực đoan như quốc tế chủ nghĩa, dân tộc chủ nghĩa, địa phương chủ
nghĩa, cá nhân chủ nghĩa.
Câu 6: Cặp phạm trù nguyên nhân kết quả, ý nghĩa phương pháp luận: BL
Phạm trù triết học
là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới. Cặp
phạm trù “nguyên nhân và kết quả” là một trong những cặp phạm trù cơ bản của Triết học nói
chung và cũng như của phép biện chứng duy vật nói riêng. Cùng với các cặp phạm trù khác,
“nguyên nhân và kết quả” đã xây dựng cho triết học một nền tảng lý luận vững chắc, cơ bản
để từ đó Triết học giải quyết được nhiều vấn đề khác trong thực tiễn. Phạm trù “Nguyên nhân
- kết quả” phản ánh mối quan hệ sản sinh ra nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa
các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Trong khi đó, kết quả là phạm trù
triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra. Chẳng hạn, không phải nguồn điện là nguyên
nhân làm bóng đèn phát sáng mà chỉ là tương tác của dòng điện với dây dẫn; trong trường
hợp này, dây tóc của bóng đèn mới thực sự là nguyên nhân làm cho bóng đèn phát sáng.
Nguyên nhân phải là sự tác động qua lại giữa các yếu tố, không có sự tác động thì không thể
gọi là nguyên nhân. Cần phải phân biệt được nguyên nhân với điều kiện và nguyên cớ.
Nguyên cớ là những sự vật hiện tượng xuất hiện đồng thời với nguyên nhân, nhưng nó chỉ là
quan hệ bề ngoài, ngẫu nhiên chứ không sinh ra kết quả. Điều kiện là môi trường để nguyên
nhân xảy ra, những sự vật hiện tượng gắn liền với nguyên nhân tác động vào nguyên nhân,
làm cho nguyên nhân phát huy tác động, nhưng điều kiện không trực tiếp sinh ra kết quả. Ví
dụ, chất xúc tác chỉ là điều kiện để các chất hóa học tác động lẫn nhau tạo nên phản ứng hóa học.
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có tính tất yếu, khách quan và tính
phổ biến. Tính tất yếu, khách quan thể hiện ở chỗ, mối liên hệ nhân quả là vốn có của sự vật,
tác động độc lập, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Con người không thể
bằng ý thức của mình để tạo nên quan hệ nhân quả. Tính tất yếu, khách quan của quan hệ
nhân quả thể hiện: nguyên nhân nào thì kết quả đó. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ: mọi sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Bên cạnh đó,
không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận
thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con người về mối liên hệ
nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả có thể được khái quát thành
những vấn đề sau đây.

Thứ nhất, nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết
quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện. Đây là quan hệ có tính nối tiếp
và sinh sản. Tuy nhiên, không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời gian cũng là
quan hệ nhân quả. Ví dụ, ngày kế tiếp đêm, mùa hè kế tiếp mùa xuân…nhưng đêm không
phải là nguyên nhân của ngày cũng như mùa xuân không phải nguyên nhân của mùa hè. Cái
phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ kế tiếp về mặt thời gian là ở chỗ: nguyên nhân và kết
quả có quan hệ sản sinh ra nhau. Nguyên nhân của ngày và đêm là do sự quay quanh trục của
Trái Đất. Nguyên nhân sinh ra các mùa trong năm là do trái đất quay quanh trục theo một độ nghiêng không đổi.
Thứ hai, nguyên nhân và kết quả mang tính đa dạng, phức tạp. Một kết quả có thể được tạo
nên bởi nhiều nguyên nhân tác động độc lập hoặc cùng chiều, cùng lúc. Căn cứ vào tính chất
và vai trò của nguyên nhân dẫn tới kết quả, nguyên nhân có thể được chia thành các dạng:
Nguyên nhân chủ yếu và thứ yếu, nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp, bên trong và bên ngoài,
khách quan và chủ quan,... Ví dụ, nguyên nhân của mất mùa có thể là do hạn hán, lũ lụt, sâu
bệnh, có thể do chăm bón không đúng kỹ thuật. Mặt khác, một nguyên nhân có thể phát sinh
nhiều kết quả tùy thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh và mục đích nhất định. Ví dụ như,
cùng là một người thầy dạy, nhưng kết quả ở mỗi học sinh lại là khác nhau. Nếu nhiều
nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều trong một sự vật thì chúng sẽ gây ảnh
hưởng cùng chiều đến sự hình thành kết quả, làm cho kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược
lại, nếu nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng khác nhau, thì sẽ cản trở tác dụng
của nhau, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau, điều đó sẽ ngăn cản sự xuất hiện của kết quả.
Thứ ba, nguyên nhân và kết quả có thể đổi vị trí cho nhau. Điều này có nghĩa là một sự vật,
hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại
là kết quả và ngược lại. Ví dụ: Ô nhiễm môi trường làm cho trái đất nóng lên, trái đất nóng
lên khiến cho băng tan, băng tan khiến cho lũ lụt nhiều hơn. Vì vậy, các chuỗi nhân quả là
không đầu, không đuôi và một hiện tượng nào đó được coi là nguyên nhân hay kết quả bao
giờ cũng ở trong một quan hệ xác định, cụ thể.
Thứ tư, nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng kết quả không hoàn toàn thụ động, nó vẫn có khả
năng tác động trở lại nguyên nhân. Sự tác động đó có thể diễn ra theo hai hướng: thúc đẩy sự
hoạt động của nguyên nhân (hướng tích cực) hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân
(hướng tiêu cực). Ví dụ, nghèo đói, thất học làm gia tăng dân số; đến lượt nó, gia tăng dân số
lại làm tăng nghèo đói, thất học,...
Từ đó, ta đưa ra ý nghĩa về mặt phương pháp luận như sau. Thứ nhất, vì nhân quả mang
tính tất yếu, khách quan nên muốn nhận kết quả tốt, phải xuất phát từ nguyên nhân. Thứ hai,
vì nhân quả mang tính phổ biến nên khi nhận thức kết quả phải tìm đúng nguyên nhân (phân
loại nguyên nhân). Quán triệt nguyên tắc này, cần chống lại Thuyết định mệnh và Mục đích
luận. Thứ ba, muốn có kết quả tốt, cần phát huy những nguyên nhân tích cực, muốn loại bỏ
hậu quả phải loại bỏ các nguyên nhân sinh ra nó. Thứ tư, chống lối suy diễn chủ quan, lấy
nguyên cớ thay cho nguyên nhân, hoặc khi hậu quả xảy ra thì đổ lỗi cho hoàn cảnh. Cuối
cùng, trong thực tiễn, cần chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh, nhân tố để thúc đẩy hoặc kìm hãm
nguyên nhân nhằm thu được kết quả mong muốn.
Câu 7: Cặp phạm trù nội dung và hình thức, ý nghĩa phương pháp luận BL
Phạm trù triết học
là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới. Cặp
phạm trù “nội dung và hình thức” là một trong những cặp phạm trù cơ bản của Triết học nói
chung và cũng như của phép biện chứng duy vật nói riêng. Cùng với các cặp phạm trù khác,
“nội dung và hình thức” đã xây dựng cho triết học một nền tảng lý luận vững chắc, cơ bản để
từ đó Triết học giải quyết được nhiều vấn đề khác trong thực tiễn.
Nội dung là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả các mặt, các yếu tố, các quá trình tạo
nên sự vật, hiện tượng. Khi xác định nội dung của đối tượng, sự vật, hiện tượng, nhận thức trả
lời cho câu hỏi “đối tượng là gì?”.
Hình thức là phạm trù dùng để biểu thị phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ
thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố trong sự vật đó, là cách thức tổ
chức và kết cấu của sự vật. Khi xác định hình thức của đối tượng, sự vật, hiện tượng nào đó,
nhận thức trả lời cho câu hỏi “đối tượng là như thế nào?”.
Phân biệt giữa hình thức và cái bề ngoài: Hình thức trong phạm trù nội dung - hình thức:
không phải hình thức bề ngoài, cái bao bọc bên ngoài nội dung, bên ngoài sự vật, mà là cái
hình thức bên trong sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội dung.
Để làm rõ 2 phạm trù trên, ta cùng tìm hiểu một số ví dụ. Ví dụ, ở thực vật (cây), nội dung ở
đây là các bộ phận như lá, rễ, quả,...các quá trình hô hấp, quang hợp…; hình thức thể hiện ở
chỗ rễ cây gồm 3 loại: rễ cọc, rễ chùm, rễ củ. Hoặc là, khi phân tích mỗi phân tử nước (H20)
đã cho thấy: nội dung là các yếu tố vật chất làm cơ sở cấu thành nên nó, gồm 2 nguyên từ
hydro và 1 nguyên tử oxy; hình thức là cách thức liên kết hóa học của chúng, đó là liên kết H-O-H.
Từ cặp phạm trù “Nội dung và hình thức”, mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và
hình thức có thể khái quát một số vấn đề sau.

Thứ nhất, nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong đó, không có nội dung
nào nằm ngoài hình thức cũng không có hình thức nào không chứa nội dung. Các yếu tố tạo
thành sự vật vừa góp phần tạo nên nội dung, vừa tham gia tạo nên hình thức. Ví dụ như, trong
một phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất (người lao động, tư liệu sản xuất, khoa học -
công nghệ) đóng vai trò là nội dung, còn quan hệ sản xuất (hình thức sở hữu tư liệu sản xuất,
trình độ tổ chức quản lý sản xuất, cách thức phân phối sản phẩm lao động) đóng vai trò là hình thức.
Thứ hai, nội dung và hình thức chỉ phù hợp một cách tương đối. Một nội dung có thể biểu
hiện qua nhiều hình thức; ví dụ như, thi kết thúc nội dung môn Triết học có thể sử dụng nhiều
hình thức như: thi viết, thi vấn đáp, thi trắc nghiệm…Hay là, một hình thức có thể chứa nhiều
nội dung khác nhau; ví dụ như, hình thức lễ hội (chọi trâu, đâm lợn,...) diễn tả nhiều nội dung
như: sự phong phú, đa dạng về văn hóa của các địa phương…Bên cạnh đó, nội dung giữ vai
trò quyết định so với hình thức; do đó, nếu nắm chắc nội dung của bài học Triết, thì dù hình
thức thi là tự luận hay trắc nghiệm thì cũng không sợ và lo lắng. Cuối cùng, nội dung là yếu
tố động, luôn luôn thay đổi, còn hình thức mang tính ổn định, khi nội dung thay đổi sớm
muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của hình thức; ví dụ như, kinh tế thay đổi thì lối sống (phong
tục, tập toán, cách ăn mặc, sinh hoạt,...) cũng thay đổi theo.
Thứ ba, nội dung giữ vai trò quyết định hình thức trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật. Trong quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức.
Nội dung biến đổi nhanh, hình thức thường biến đổi chậm hơn nội dung. Do vậy, hình thức
khi ấy sẽ trở nên lạc hậu so với nội dung và kìm hãm nội dung phát triển. Hình thức sẽ phải
thay đổi cho phù hợp với nội dung. Khi nội dung thay đổi thì sớm hay muộn hình thức cũng
thay đổi theo. Ví dụ, lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
của lực lượng sản xuất. Do vậy, khi lực lượng sản xuất thay đổi thì sớm hay muộn quan hệ
sản xuất phải thay đổi theo cho phù hợp với lực lượng sản xuất.
Thứ tư, hình thức tác động trở lại nội dung. Hình thức do nội dung quyết định nhưng hình
thức có tính độc lập tương đối và tác động ngược trở lại nội dung. Sự tác động của hình thức
đến nội dung thể hiện ở chỗ: Nếu hình thức phù hợp với nội dung thì sẽ thúc đẩy nội dung
phát triển. Nếu hình thức không phù hợp (tân tiến quá hay lạc hậu quá) so với nội dung thì sẽ
cản trở sự phát triển của nội dung. Ví dụ như, trong các hình thái kinh tế – xã hội có giai cấp
đối kháng, lúc đầu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, là hình thức phát triển
của nó. Nhưng do lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản
xuất trở thành lạc hậu không còn phù hợp với lực lượng sản xuất và bắt đầu kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Từ đó, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận như sau.
Vì nội dung quyết định hình thức, nên trong nhận thức và hành động, phải dựa trên nội dung,
thay đổi hình thức từ nội dung. Chống chủ nghĩa hình thức, đặc biệt trong nghiên cứu khoa
học, giáo dục, lối sống,…
Vì một nội dung có thể biểu hiện qua nhiều hình thức khác nhau, bởi vậy cần sử dụng sự đa
dạng về hình thức để chuyển tải nội dung. Chống chủ nghĩa bảo thủ, bệnh giáo điều trong
nhận thức và thực tiễn.
Vì hình thức tác động trở lại nội dung, nên cần chú ý đến sự phù hợp giữa nội dung và hình
thức. Khi nội dung thay đổi, cần năng động thay đổi hình thức, chống lại thái độ bảo thủ, trì
trệ. Đồng thời cũng chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, trọng hình thức, coi nhẹ nội dung.
Câu 8: Nội dung quy luật lượng chất, ý nghĩa phương pháp luận BL
Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, những mối liên hệ
“quy luật” là sự phản ánh
chung, tất yếu, khách quan mang tính bản chất được lặp đi lặp lại giữa các sự vật và hiện
tượng thế giới, hoặc giữa các thuộc tính, yếu tố trong lòng mỗi sự vật, hiện tượng. Các quy
luật đều mang tính khách quan, tính phổ biến và tính phong phú, đa dạng.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại (quy luật lượng - chất) là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật. Quy luật này chỉ ra phương thức, cách thức của sự vận động và phát triển của sự
vật, hiện tượng. Để tìm hiểu rõ quy luật này, ta cần phải làm rõ một số khái niệm.
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác. Ví
dụ: Nguyên tố sắt (Fe) có nguyên tử khối là 26 đvC, nhiệt độ nóng chảy là 1538 độ C…
Những tính chất này phân biệt nó với các kim loại khác. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt
chẽ không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan, không thể tồn tại sự vật không có chất
và không thể có chất nằm ngoài sự vật.
Đặc điểm cơ bản của chất là nó thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng,
nghĩa là khi nó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay
đổi. Mọi sự vật có nhiều thuộc tính, trong đó chỉ những thuộc tính đặc trưng cho sự vật mới
được gọi là chất. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Thuộc tính cơ bản quy định chất của sự vật. Ví dụ: Con người khác với động vật chính là nhờ
những tính quy định vốn có của con người: khả năng chế tạo vũ khí, máy móc và khả năng sử
dụng công cụ, tư duy….Nếu thuộc tính cơ bản mất đi thì chất của sự vật thay đổi. Còn thuộc
tính không cơ bản thì trong quá trình tồn tại của sự vật, có những thuộc tính không cơ bản
mới nảy sinh, cũng có những thuộc tính không cơ bản mất đi nhưng chất của sự vật không thay đổi.
Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của nguyên tố tạo thành mà còn bởi
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện
thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác nhau.
Có thể thấy rõ, kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học là nguyên tố Cacbon
tạo nên, nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tố Cacbon là khác nhau nên chất của
chúng hoàn toàn khác nhau dẫn đến kim cương rất cứng còn than thì mềm.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ thuộc tính vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy
mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng bao giờ cũng là lượng của một chất xác định, không có lượng thuần túy. Lượng của sự
vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Ví dụ như: đơn vị đo lường cụ thể như
vận tốc ánh sáng là 300.000km trong 1 giây…Bên cạnh đó, lượng chỉ có thể biểu hiện dưới
dạng trừu tượng và khái quát (ví dụ như: trình độ nhận thức của một người, ý thức trách
nhiệm cao hay thấp của một công dân…). Lượng còn biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự
vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hóa học…) hoặc có những lượng còn vạch ra
yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Phân biệt lượng và chất chỉ mang tính tương đối. Điều này phụ thuộc vào từng mối quan hệ
xác định. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối
quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. Ví dụ: Xét con số 16 có nhiều cách
xác định khác nhau: tích của 2 nhân 8, bình phương của 4, 16 tổng khác nhau,...
Sự vật, hiện tượng có sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng. Chúng luôn có sự quy định,
tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau. Mọi thay đổi về lượng đều ảnh hưởng tới chất và
ngược lại. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất.
Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ. Độ là một phạm trù
triết học dùng để chỉ khoảng thời gian trong đó có sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm
thay đổi căn bản chất của sự vật. Độ là mối liên hệ thống nhất giữa lượng và chất của sự vật,
trong đó sự vật vẫn còn là nó chứ chưa biến thành cái khác.
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi
lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới
hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện
nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới (sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút).
Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển
của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau,
được quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Căn cứ vào nhịp điệu
của bước nhảy, các hình thức cơ bản của bước nhảy bao gồm bước nhảy đột biến, tức thực
hiện trong thời gian ngắn, làm thay đổi toàn bộ kết cấu của sự vật; và bước nhảy dần dần, tức
thực hiện từ từ bằng cách tích lũy dần những yếu tố của chất mới. Căn cứ vào quy mô, ta có
bước nhảy toàn bộ, tức làm thay đổi toàn bộ các yếu tố cấu thành sự vật và bước nhảy cục bộ,
tức làm thay đổi các yếu tố riêng lẻ cấu thành sự vật.
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng
của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp
điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Lấy ví dụ dễ hiểu, nếu chúng ta tăng
thời gian tự học ở nhà, giảm thời gian chơi game thì sẽ thu nhận được nhiều kiến thức hơn,
làm bài sẽ đạt được điểm cao hơn.
Nói tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về
chất thông qua bước nhảy. Bước nhảy diễn ra làm cho chất mới ra đời. Lượng mới và chất
mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật ấy. Quá trình
đó diễn ra liên tiếp trong sự vật là cho sự vật luôn phát triển.
Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta
xem xét các sự vật, hiện tượng, . Trong mọi
ta rút ra được phương pháp luận như sau hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải từng bước tích lũy về lượng để làm
biến đổi về chất, tránh tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, đốt cháy giai đoạn, muốn thực
hiện những bước nhảy liên tục (tả khuynh). Khi đã tích lũy đủ về lượng phải có quyết tâm
thực hiện bước nhảy, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ (hữu khuynh). Vận dụng linh hoạt
các hình thức của bước nhảy. Cần phải chống lại quan điểm phiến diện, giản đơn cho rằng cứ
thay đổi về lượng là thay đổi về chất. Trong đời sống xã hội, tư tưởng này biểu hiện thành
bệnh thành tích, coi trọng số lượng mà không để ý đến chất lượng. Bên cạnh đó, sự biến đổi
về chất còn có nhiều cách thức khác như thay đổi cấu trúc, phương thức liên kết, thay đổi
hoàn cảnh. Do vậy, cần sử dụng nhiều phương thức làm cho sự vật biến đổi về chất, chứ
không phải một chiều duy nhất là thay đổi lượng.
Câu 9: Quy luật mâu thuẫn, ý nghĩa phương pháp luận BL
Quy luật
là sự phản ánh những mối liên hệ chung, tất yếu, khách quan mang tính bản chất
được lặp đi lặp lại giữa các sự vật và hiện tượng thế giới, hoặc giữa các thuộc tính, yếu tố
trong lòng mỗi sự vật, hiện tượng.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy luật mâu
thuẫn
, là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là hạt nhân của phép
biện chứng duy vật. Quy luật vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển của sự
vật, hiện tượng; khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại những mặt đối lập, mâu thuẫn
bên trong. Đồng thời nó là chìa khóa cơ sở giúp chúng ta nắm vững thực chất của tất cả các
quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có
khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. Ví dụ như sự sống và cái chết hay cái thiện và cái ác.
Hay trong cơ thể con người, có hoạt động ăn và hoạt động bài tiết; trong nguyên tử, có điện
tích âm và điện tích dương.
Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất đấu tranh và chuyển hóa các mặt
đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
Mâu thuẫn có mang tính khách quan. Mọi sự vật trong thế giới hiện thực không phải là cái
gì hoàn toàn thuần nhất mà là một hệ thống các yếu tố, các mặt vừa liên hệ với nhau, vừa có
khuynh hướng trái ngược nhau tạo nên mâu thuẫn vốn có của sự vật. Do đó, mâu thuẫn
không do ai sáng tạo ra và cũng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Ví dụ,
trong con người chúng ta luôn tồn tại các yếu tố trái ngược nhau như cái thiện với cái ác,
thông minh và đần độn, dũng cảm và hèn nhát,...
Mâu thuẫn mang tính phổ biến bởi mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi kết thúc. Mọi sự vật, hiện
tượng đều tồn tại mâu thuẫn, mâu thuẫn này được giải quyết thì mâu thuẫn khác lại nảy sinh.
Ví dụ như trong vật lý, mâu thuẫn giữa lực hút và đẩy giữa các phân tử, các vật thể,...
Mâu thuẫn còn có tính đa dạng và phong phú bởi mâu thuẫn biểu hiện khác nhau ở mỗi sự
vật, hiện tượng. Trong những điều kiện cụ thể khác nhau, mâu thuẫn thể hiện ra ở nhiều hình
thức đa dạng và phong phú khác nhau: mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản
và không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu, mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Sự vận động và phát triển bao giờ
cũng xuất phát từ mâu thuẫn trong lòng sự vật. Các mặt đối lập của mâu thuẫn vừa thống nhất
vừa đấu tranh với nhau. Các mặt đối lập có sự thống nhất bởi sự cùng tồn tại, làm tiền đề cho
nhau, nương tựa vào nhau, không có sự thống nhất của các mặt đối lập thì không tạo ra sự
vật. Giữa các mặt đối lập, sự thống nhất là tạm thời, tương đối, còn sự đấu tranh chỉ mang tính tuyệt đối.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập diễn ra liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật
kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như khi chuyển hóa nhảy vọt về chết. Sự đấu tranh
giữa các mặt đối lập là động lực của sự phát triển. Qua đấu tranh, mâu thuẫn được giải quyết,
sự vật phát triển từ hình thái thấp lên hình thái cao. Lenin nhận định: “sự phát triển là một
cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển, làm cho sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động thực tiễn, cần chú ý phát hiện mâu thuẫn của
sự vật vì mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến. Vì mâu thuẫn là động lực của sự
phát triển nên muốn thúc đẩy sự phát triển cần phải phân tích mâu thuẫn, xác định vị trí, vai
trò của từng loại mâu thuẫn để có biện pháp giải quyết phù hợp. Vì mọi mâu thuẫn đều có
quá trình phát sinh, phát triển và biến hóa do đó mâu thuẫn phải được giải quyết bằng con
đường đấu tranh, tránh khuynh hướng thủ tiêu mâu thuẫn hoặc điều hòa mâu thuẫn.
Từ đó, đề ra những phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn cần giải quyết kịp thời,
tránh tư tưởng tả khuynh (chủ quan, nóng vội) giải quyết mâu thuẫn khi chưa tới độ chín
muồi và chưa chuẩn bị đủ điều kiện vật chất để giải quyết. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết
bằng biện pháp đấu tranh chứ không dung hòa giữa các mặt đối lập. Chống quan điểm hữu
khuynh, dĩ hòa vi quý, tư tưởng cải lương, nửa vời, trốn tránh hoặc thủ tiêu đấu tranh. Mâu
thuẫn phải được giải quyết một cách nhanh gọn, cụ thể, đúng người, đúng việc. Tránh thái độ
dây dưa, quan liêu đại khái và thờ ơ, thụ động.
● Sự vận động quy luật mâu thuẫn của Đảng: -
Trong kháng chiến, Đảng ta đã xác định đúng những mâu thuẫn của thời đại, của dân
tộc đề ra những phương pháp, phương tiện, thời điểm giải quyết thích hợp và tranh
thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới hướng tới sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng kinh tế -
Hiện nay, Đảng ta đã nhận thức đúng và đề ra những cách thức phù hợp để giải
quyết những mâu thuẫn của thời đại như:
+ Xung đột lợi ích giữa các nước lớn, giữa các khối kinh tế.
+ Phát triển kinh tế với ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên.
+ Vấn đề phân hóa giàu nghèo, bùng nổ dân số.
+ Những ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa đối với các nước nghèo, v.v.
● Những mâu thuẫn tồn tại hiện nay: -
Phát triển kinh tế với bảo tồn bản sắc văn hóa. -
Hoàn thiện, phát triển cơ chế kinh tế thị trường với sự định hướng xã hội chủ nghĩa. -
Xây dựng nhà nước pháp quyền với lối sống trọng lệ hơn luật. -
Mâu thuẫn giữa lợi ích quốc gia và lợi ích nhóm. -
Mâu thuẫn giữa các bên trong xung đột biển đông. -
Tệ nạn tham nhũng, tệ nạn xã hội với lối sống lành mạnh. -
-> Việc giải quyết các mâu thuẫn trên đòi hỏi kết hợp nhiều biện pháp, nhiều lực
lượng và phương tiện khác nhau để hướng tới mục đích tiến bộ xã hội.
Câu 10: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính BL
● Trong tác phẩm Bút ký triết học, Lenin khái quát con đường biện chứng của sự nhận
thức như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan

● Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất phức tạp, trong đó bao gồm nhiều
giai doạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác nhau; chúng có nội dung cũng nhưu
vai trò, ý nghĩa khác nhau trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của chủ thể
● Giai đoạn “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” được gọi là giai đoạn hình thành tri thức
1. Nhận thức cảm tính (Trực quan sinh động)
● Khái niệm: Là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào sự
vật nhằm tìm hiểu các sự vật ấy. Trực quan sinh động bao gồm 3 hình thức là: cảm
giác, tri giác và biểu tượng. ● Cảm giác: -
Là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất ở giai đoạn nhận thức cảm tính -
Là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác
động trực tiếp vào các giác quan con người -
Đặc trưng của cảm giác:
+ Mang tính trực tiếp, đơn lẻ
+ Là tri thức về cái bề ngoài của đối tượng
+ Chưa được biểu đạt bằng hình thái ngôn ngữ -
Nếu chỉ dừng lại ở cảm giác thì nhận thức mới chỉ hiểu được từng thuộc tính riêng lẻ
của các sự vật, hiện tượng. Điều đó là không đủ. Vì thế, nhận thức không dừng lại ở
cảm giác mà phải tiến lên tri giác. ● Tri giác: -
Là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động vào các
giác quan. Là sự tổng hợp của nhiều cảm giác -
Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác -
So với cảm giác, tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn
về sự vật, Nhưng đến tri giác, con người mới chỉ có được hình ảnh trực quan và tương
đối hoàn chỉnh về đối tượng. -
Ví dụ: Khi tri giác bông hoa hồng, ta không chỉ thu được cảm giác nhìn, ngửi riêng
biệt mà còn là sự kết hợp phức tạp tạo nên hình ảnh bông hồng với màu sắc và hương thơm của nó - Đặc trưng của tri giác:
+ Là hiểu biết tương đối hoàn chỉnh về đối tượng + Mang tính trực tiếp
+ Là tri thức về cái bề ngoài của đối tượng
+ Chưa được biểu đạt bằng hình thái ngôn ngữ ● Biểu tượng: -
Là hình ảnh tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc khi sự vật không còn trực
tiếp tác động vào các giác quan -
Được hình thành nhờ sự phối hợp, bổ sung cho nhau bởi các giác quan -
Có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp và ít nhiều mang tính trừu tượng hóa -
Đặc trưng của biểu tượng:
+ Là hình ảnh tương đối toàn vẹn về đối tượng + Mang tính trực tiếp
+ Là tri thức về cái bề ngoài của đối tượng
+ Chưa được biểu đạt bằng hình thái ngôn ngữ
→ Cảm giác, tri giác, biểu tượng là những hình thức kế tiếp nhau của giai đoạn nhận thức cảm tính
→ Ở giai đoạn này, những tri thức con người đạt được mới chỉ là những tri thức cảm tính, kinh nghiệm về sự vật
2. Giai đoạn nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng)
● Khái niệm: Là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, nó phản ánh giao tiếp, trừu
tượng và khái quát những thuộc tính, đặc điểm bản chất của đối tượng
● Nhận thức lý tính được thể hiện ở 3 hình thức của tư duy là: khái niệm, suy đoán, suy luận a. Khái niệm
● Là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật
● Là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính cơ bản,
chung nhất của sự vật hay một lớp sự vật
● Giúp chúng ta phân biệt sự vật này với sự vật khác ● Phân loại khái niệm: -
Nội hàm: những dấu hiệu mang tính bản chất của đối tượng -
Ngoại diện: tập hợp những đối tượng chứa dấu hiệu bản chất được phản ánh bởi nội hàm
● Đặc trưng của khái niệm: -
Phản ánh được bản chất của đối tượng -
Được biểu đạt bằng hình thức ngôn ngữ là từ, nhóm từ -
Nội hàm của khái niệm không bất biến mà luôn vận động
● Khái niệm cũng chính là “điểm nút” của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đoán. b. Phán đoán
● Là hình thức của tư duy thể hiện sự liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định
hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng
● Cấu trúc của phán đoán: gồm ba thành phần là chủ từ (S) - hệ từ (-) - vị từ (P) -
VD:Nếu tôi không nhầm người vừa đi vào cửa hàng (S) là (liên từ) giáo viên cũ của tôi (P) ● Phân loại phán đoán: -
Phán đoán đơn nhất (VD: đồng dẫn điện) -
Phân đoán đặc thù (VD: đồng là kim loại) -
Phân đoán phổ biến (VD: mọi kim loại đều dẫn điện) c. Suy luận
● Là sự liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra phán đoán mới, tri thức mới. Nói
cách khác, suy luận là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề.
● Do nhiều phán đoán hợp thành, kết hợp theo nguyên tắc từ những phán đoán tiền đề,
người ta rút ra phán đoán kết luận
→ Toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy luận và nhờ có suy luận mà con
người ngày càng nhận thứ sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan.

BẢNG SO SÁNH NHẬN THỨC CẢM TÍNH VÀ NHẬN THỨC LÝ TÍNH Về thứ tự
Nhận thức cảm tính Nhận thức lý tính Cơ sở, công cụ - Các sự vật hiện - Cảm giác, tri giác, tượng cụ thể biểu tượng - Các giác quan (chủ - Bộ não người (chủ yếu) yếu) Cơ chế thực hiện
Biến đổi năng lượng kích
Phân tích, tổng hợp, trừu
thích thành xung lượng thần tượng hóa, khái quát hóa, kinh phán đoán suy luận
Tính chất phản ánh
Trực tiếp, cụ thể, sinh động
Gián tiếp, trừu tượng, khái quát Nội dung phản ánh
Bề ngoài, riêng lẻ, ngẫu
Bên trong, chung, bản chất, nhiên quy luật Kết quả phản ánh
Tri thức kinh nghiệm, cảm
Tri thức, lý tính, mối liên hệ,
tính (cảm giác, tri giác biểu bản chất, quy luật tượng) Đánh giá - Ưu điểm: cung cấp - Ưu điểm: khái quát thông tin trực tiếp, cơ bản chất, quy luật sở để hình thành tri của sự vật, hiện thức con người tượng, tạo nên chiều - Hạn chế: tri thức, bề sâu, tinh tế của tri ngoài, cảm tính, chưa thức chỉ ra bên trong sự - Hạn chế: bỏ qua cái vật hiện tượng phong phú, sinh động của sự vật, hiện tượng
Câu 11: Vai trò của sản xuất vật chất trong đời sống BL
● Khái niệm sản xuất vật chất -
Thứ nhất, sản xuất ra tư liệu sinh hoạt -
Thứ hai, quá trình tạo ra bản thân con người
● Vai trò của sản xuất vật chất -
Hành vi lịch sử đầu tiên của con người -
Tất yếu khách quan của sự sinh tồn và phát triển xã hội -
Cơ sở hình thành các quan hệ xã hội -
Cơ sở của mọi sự tiến bộ
Câu 12: Quy luật QHSX phù hợp với trình độ LLSX. Lấy ví dụ vận dụng xem xét vấn
đề thực tiễn ở nước ta
BL
● LLSX là sự tổng hợp tất cả mọi yếu tố vật chất mà con người sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất
QHSX là quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất
● Trong một phương thức sản xuất: -
Lực lượng sản xuất đóng vai trò như là nội dung -
Quan hệ sản xuất đóng vai trò như là hình thức tồn tại và phát triển của nội dung đó -
Sự tác động qua lại giữa chúng tạo nên quy luật vận động cơ bản của xã hội
1. Nội dung của quy luật
● LLSX và QHSX thống nhất biện chứng với nhau trong đó LLSX quyết định QHSX
● QHSX có tính độc lập tương đối tác động trở lại LLSX
● LLSX là yếu tố động, biến đổi nhanh còn QHSX là yếu tố tĩnh, thay đổi chậm. Từ chỗ
là địa bàn thuận lợi cho sự phát triển của LLSX, quan hệ sản xuất trở nên xiềng xích
trói buộc nó. Tất yếu dẫn tới QHSX cũ bị phá bỏ, QHSX mới được thiết lập để phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
● Ý nghĩa quy luật đối với Việt Nam: -
Thế giới: quy luật có ý nghĩa lớn trong nghiên cứu tiến trình phát triển xã hội -
Việt Nam: trước đổi mới, do chủ quan duy ý chí, Đảng ta vận dụng chưa hợp lý quy luật -
Bản chất công cuộc đổi mới là đổi mới quan hệ sản xuất: Đa dạng hóa hình thức sở
hữu và thành phần kinh tế địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng
suất lao động, phát triển xã hội
Câu 13: Phạm trù hình thái KT - XH. Sự phát triển của các hình thái KT - XH là quá
trình lịch sử - tự nhiên. Liên hệ quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
BL a. Khái niệm
● Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù dùng đẻ chỉ một kiểu hay mô hình xã hội có
tính xác định về chất và tồn tại cụ thể ở từng giai đoạn lịch sử nhất định.
● Cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội: - Lực lượng sản xuất - Quan hệ sản xuất - Kiến trúc thượng tầng
b. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
● Trong “tư bản”, khi phân tích sự vận động của lịch sử nhân loại, Mác viết: “Tôi coi sự
phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”
● Quá trình lịch sử tự nhiên: -
Lịch sử xã hội tuân theo các quy luật tất yếu khách quan: + Quy luật LLSX - QHSX + Đấu tranh giai cấp + CSHT - KTTT -
Hình thái kinh tế xã hội thay đổi: LLSX >< QHSX → mâu thuẫn giai cấp → cách mạng xã hội -
Sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội: CSNT -> CHNL -> PK -> TBCN -> CSCN
-> Quá trình phát triển của lịch sử có tính đa dạng. Các yếu tố đặc thù mà một số quốc gia có
thể “bỏ qua” một hay một vài hình thái xã hội (đã lạc hậu) để xây dựng một hình thái kinh tế - xã hội tân tiến hơn
c. Giá trị khoa học bền vững của học thuyết và sự vận dụng
● Thứ nhất: Sự sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, PTSXVC quyết định mọi
phương diện khác của đời sống xã hội
● Thứ hai: Xã hội không phải sự kết hợp ngẫu nhiên của các cá nhân mà là một cơ thể
sinh động. QHSX là quan hệ kinh tế cơ bản quyết định bản chất xã hội, là tiêu chuẩn
để đánh giá chế độ xã hội, là cơ sở phân định các thời kỳ lịch sử.
● Thứ ba: Lịch sử xã hội phát triển theo quy luật tất yếu khách quan, do vậy, muốn nhận
thức đúng đời sống xã hội phải tìm hiểu các quy luật vận động của xã hội.
● Thứ tư: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chỉ rõ nguồn gốc, động lực và khuynh
hướng phát triển của lịch sử xã hội.
● Vận dụng học thuyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: -
Đảng ta xác định đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xa hội bỏ qua giai đoạn phát triên tư
bản chủ nghĩa (luận điểm sáng tạo). Xây dựng nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa -
Đẩy mạnh CNH - HĐH, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân và vai trò phản biện xã hội của các đoàn thể quần chúng -
Xây dựng văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển giáo dục toàn diện,
nâng cao dân trí, đào tạo, nguồn nhân lực để hội nhập kinh tế quốc tế và hòa chung
vào làn sóng của toàn cầu hóa.
Câu 14: Quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng BL
● Cơ sở hạ tầng là toàn bộ quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định
● Cơ sở hạ tầng bao gồm: -
Quan hệ sản xuất thống trị -
Quan hệ sản xuất tàn dư -
Quan hệ sản xuất mầm mống
● Cơ sở hạ tầng khác cơ sở vật chất kỹ thuật
1. Khái niệm kiến trúc thượng tầng
● Kiến trúc thượng tầng là hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội như chính trị,
pháp luật, tôn giáo, văn hóa - nghệ thuật, khoa học. Tương ứng với các hình thái ý
thức xã hội đó là các thiết chế xã hội như Đảng phái, Nhà nước, Giáo hội, các Hiệp
hội nghề nghiệp, Viện nghiên cứu chuyên ngành
● Trong các thiết chế xã hội, Nhà nước (đại diện cho pháp luật) và Đảng phái (đại diện
cho chính trị) đóng vai trò quan trọng, quyết định tính chất của hình thái ý thức xã hội khác
● Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì kiến trúc thượng tầng mang tính đối kháng,
nghĩa là có hệ tư tưởng của giai cấp thống trị và hệ tư tưởng của giai cấp bị trị. Trong
đó hệ tư tưởng của giai cấp thống trị luôn giữ vị trí chủ đạo.
2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
● Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng
● Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng: -
(1) Kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên nền tảng cơ sở hạ tầng tương ứng -
(2) Cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng -
(3) Mọi mâu thuẫn phát sinh trong kiến trúc thượng tầng đều có nguồn gốc từ cơ sở hạ tầng -
(4) Cơ sở hạ tầng thay đổi, kiến trúc thượng tầng sớm muộn sẽ thay đổi theo
Câu 15: Nguồn gốc hình thành giai cấp. Vai trò của đấu tranh giai cấp BL
1. Định nghĩa và nguồn gốc của giai cấp
● Lenin: “Giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong một
hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với
những TLSX (thường được pháp luật quy định và thừa nhận), về vai trò của họ trong
tổ chức lao động xã hội, và do đó khác nhau về cách thức hưởng thụ và phần của cải
xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập
đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa
vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”
Định nghĩa giai cấp của Lenin có ý nghĩa: -
Tiêu chí phân biệt giai cấp: Kinh tế -
Khác biệt về kinh tế dẫn tới khác biệt về mọi mặt của đời sống xã hội -
Phê phán quan điểm muốn xóa nhòa ranh giới giai cấp, cho rằng xã hội phân chia theo tầng lớp.
Tầng lớp xã hội: -
Sự phân nhóm những người trong cùng một giai cấp có sự khác biệt bởi những tiêu
chí nhất định (Công nhân: lao động đơn giản, lao động phức tạp,…) -
Những nhóm người ngoài kết cấu giai cấp trong một xã hội nhất định (tầng lớp tri
thức, tầng lớp công chức…)
Nguồn gốc giai cấp: -
Nguyên nhân sâu xa: Trình độ phát triển của LLSX chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao -
Nguyên nhân trực tiếp: Chế độ tư hữu về TLSX -
LLSX phát triển → NSLĐ tăng, có của cải dư thiệu → Chế độ tư hữu về TLSX →
Mâu thuẫn giữa các tập đoàn người → Giai cấp
Con đường hình thành giai cấp: -
Một là, do nhân tố bạo lực. Từ binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết
mà được sử dụng làm nô lệ cho những người giàu và có địa vị trong xã hội -
Hai là, do sự tác động của các quy luật kinh tế phân hóa những người sản xuất hàng
hóa trong nội bộ cộng đồng xã hội
Các thành phần kết cấu giai cấp: - Kết cấu giai cấp - Giai cấp cơ bản - Giai cấp không cơ bản - Tầng lớp trung gian
Hiện nay Việt Nam, phân hóa giai cấp phức tạp: -
Quá trình CNH - HĐH: nông dân → CN, dịch vụ. -
Doanh nghiệp cổ phần: xuất hiện tư sản, tiểu tư sản -
Giáo dục: gia tăng tầng lớp tri thức -
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo: gia tăng tầng lớp tăng lữ
2. Đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp: -
Là hiện tượng tất yếu của xã hội có giai cấp đối kháng -
Đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng có quyền lợi đối lập nhau -
Đấu tranh giai cấp diễn ra do nguyên nhân kinh tế và quyền lợi chính trị giữa các giai cấp đối lập nhau
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử: -
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử -
Qua đấu tranh, các giai cấp tham gia trưởng thành hơn, ý thức giai cấp được củng cố -
Đấu tranh giai cấp: bạo lực hoặc phi bạo lực tiếng nói, tổ chức: chính đảng, công
đoàn, các hiệp hội nghề nghiệp) → mâu thuẫn xã hội được giải quyết, thúc đẩy tiến bộ xã hội
● Hiện nay, thời đại “chung sống hòa bình”, chuyển đối đầu thành đối ngoại, chiến
trường thành thị trường, động lực thúc đẩy xã hội còn có văn hóa và khoa học công
nghệ. Do vậy, quốc gia nào có văn hóa cao, làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến sẽ có cơ hội phát triển
Câu 16: Nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới,
liên hệ với nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. BL
● Nguồn gốc Nhà nước:
o Nhà nước là một phạm trù lịch sử, trong thời đại Công xã nguyên thủy chưa có
Nhà nước, xã hội tồn tại theo hình thức tự quản
o Khi giai cấp xuất hiện, phát sinh đấu tranh giai cấp. Các giai cấp có nguy cơ
thu tiêu nhau. Từ đó, một cơ quan trung gian hòa giải hình thành, gọi là Nhà nước.
o Lênin: “Nhà nước là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với một giai cấp khác”
→ Nhà nước không phải là tổ chức có sẵn, không phải được thiết lập do ý chí chủ
quan của bất kỳ giai cấp nào, sự ra đời và tồn tại của Nhà nước xuất phát từ
nhu cầu tất yếu khách quan của lịch sử - đó là sự kiềm chế đối lập giai cấp, là
việc bảo vệ quyền lợi cua giai cấp thống trị cũng như duy trì trật tự xã hội nói chung.
● Bản chất của Nhà nước:
o Bản chất giai cấp của Nhà nước:
▪ Lúc mới xuất hiện, Nhà nước là cơ quan hòa giải trung gian, nhưng sau
đó, những người nắm bộ máy Nhà nước đã biến nó thành công cụ trấn áp nhân dân lao động.
▪ Không có Nhà nước đứng trên giai cấp, ngoài giai cấp.
o Bản chất xã hội của Nhà nước: Bảo vệ an ninh quốc phòng, giữ gìn trật tự xã hội, quản lý kinh tế