Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội - môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước HCM không chỉ tiếp cận đc vs những tư tưởng cơ bản về giải phóng dân tộc mà người còn tiếp cận đc hệ thống tư tưởng mang đậm tính khoa học và nhân văn về một chế độ khoa học xã hội mà ở đó là chế độ sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mn- xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !

Thông tin:
5 trang 4 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội - môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước HCM không chỉ tiếp cận đc vs những tư tưởng cơ bản về giải phóng dân tộc mà người còn tiếp cận đc hệ thống tư tưởng mang đậm tính khoa học và nhân văn về một chế độ khoa học xã hội mà ở đó là chế độ sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mn- xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !

26 13 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 47305584
1.2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:
1.2.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước HCM không chỉ tiếp cận đc vs những tư tưởng cơ bản về giải
phóng dân tộc mà người còn tiếp cận đc hệ thống tư tưởng mang đậm tính khoa học và nhân văn về
một chế độ khoa học xã hội mà ở đó là chế độ sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mn- xã hội cộng sản chủ nghĩa. Người khẳng định mục đích của cách mạng
Việt Nam là hướng đến chủ nghĩa cộng sản. Có 2 giai đoạn: gđ thấp là chủ nghĩa xã hội. Gđ cao là chủ
nghĩa cộng sản, 2 gđ ấy giống nhau ở chỗ sức sản xuất đã phát triển cao nền tảng kinh tế là tư liệu sản
xuất, đã trở thành của chung không còn giai cấp bóc lột. 2 gđ ấy khác nhau ở chỗ CNXH vẫn còn chút
vết tích của XH cũ còn XHCS thì không. Vì vậy muốn tiến lên chủ nghĩa CS trước hết phải xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là
độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Thoát
khỏi cảnh bần cùng và sống 1 đời ấm no hạnh phúc, dân giàu nước mạnh. Đó cũng chính là mục tiêu
tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
- Xã hội hướng đến mục tiêu nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, được tự do, dân giàu, nước mạnh.
- Chế độ do nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hố Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, đồng thời nêu rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta”. Vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống quan điểm
hết sức đặc sắc về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong phương thức tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh có nhiều định nghĩa khác nhau. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
bao gồm:
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân
dân để phát huy được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bạn bè,
là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh
thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không
làm thì không được hưởng; các dân tộc đều được bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để theo kịp miền
xuôi.
Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Vào những năm năm mươi, sáu mươi, khi miền Bắc trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người xác
định rõ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn các nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người:
chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có
công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc; hoặc ở mức độ khái quát cao hơn: mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, cả đời sống vật chất
và cả đời sống tinh thần. Đây là cách diễn đạt Người thường dùng nhất.
- Chủ nghĩa xã hội là 1 chế độ do nhân dân lao động làm chủ lợi ích các nhân nằm trong lợi ích tập thể,
lợi ích tập thể đc bảo đảm thì lợi ích riêng chủa cá nhân mới có điều kiện thỏa mãn.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là khát vọng, mong muốn cháy bỏng mà Hồ Chí Minh hy
sinh cả cuộc đời mình để phấn đấu vươn tới: xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của thế giới.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về khát vọng, về mục tiêu cao cả của chế độ xã hội mới-chủ nghĩa xã
hộirất gần với triết lý nhân sinh của Phật giáo: “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm” (lấy cái tâm của người khác
làm cái tâm của chính mình). Vì thế, cách nói và diễn đạt y dễ đi vào lòng người, dễ được chấp nhận,
bởi nó không hoàn toàn xa lạ với tâm thức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bằng cách xác định
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho thấy, khi đề cập đến một vấn đề hiện đạ, Người vẫn
đứng trên mảnh đất cội rễ truyền thống Việt Nam, tạo nên một dòng chảy văn hoá liền mạch từ q
khứ, qua hiện tại, để hướng tới tương lai theo một hệ chuẩn giá trị nhất quán, nhân văn và nhân đạo.
Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản
và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân
lao động”(1). Hay “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân
dân”(2). Hoặc Người diễn giải mục đích tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể: “Chủ nghĩa xã hội là
làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già
lOMoARcPSD| 47305584
không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội
ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”(3). Nhiều
khi Người nói một cách gián tiếp, không nhắc đến chủ nghĩa xã hội, nhưng xét về bản chất, đó cũng
chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Người. Kết thúc bản Tài liệu tuyệt đối bí
mật (sau gọi là Di chúc), Hồ Chí Minh viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân
chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(4).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ ra 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng, đó là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân các nước trên thế giới.
1.2.1.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
- Theo quan điểm Mác lênin, sự phát triển của xã hội loài người là một tiến trình lịch sử - tự
nhiên với năm hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu
của xã hội loài người.
- Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mac- Lênin, Hồ Chí Minh đưa ra quan
điểm: tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam khi nước đã giành được độc lập
theo cách mạng vô sản.
- Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn
là một nhà nước độc lập, nhân dân được sống ấm no, hạnh phúc, tức là sau khi giành được độc lập dân
tộc, nhân dân sẽ xây dựng một xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Trong lịch sử, sự phát triển của dân tộc
Việt Nam đã được trải nghiệm qua các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Các cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc để xây dựng lại một chế độ mới, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là là độc
lập dân tộc gắn là với chủ nghĩa xã hội.
Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Đi lên CNXH là yêu cầu khách
quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường XHCN.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa
trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
Sở dĩ ông đặt vấn đề này ra là bởi từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp
đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm
điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt.
Phân tích bối cảnh trong nước, quốc tế sau khi Liên Xô tan rã, đề cập những thành tựu to lớn của chủ nghĩa tư
bản, nhất trong lĩnh vực giải phóng phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ, song, qua
các cuộc khủng hoảng tài chính, hay dịch bệnh Covid-19 từ năm 2019 hiện nay cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, người đứng đầu Đảng ta cho rằng: Thực tế đó càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các
thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Dân chủ chỉ là hình thức, không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ.
Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản
lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất,
kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối
toàn xã hội. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ
bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là "tự do", "dân chủ" dù có thể
thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực
tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản.
Từ thực tế trên, Tổng thư cho rằng: Đi lên chnghĩa hội yêu cầu khách quan, con đường tất yếu
của cách mạng Việt Nam. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội
chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước hết, phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức;
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD| 47305584
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, sự quản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát
triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa
dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả
ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý phân phối. Đây không phải nền kinh tế thị trường bản chủ nghĩa và
cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố
phát triển; kinh tế nhân một đng lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế vốn đầu nước ngoài
được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Quan hệ phân phối bảo đảm ng bằng tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác phân
phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản nền kinh tế bằng pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội.
Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường
Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh
tế đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằnghội ngay trong từng bước, từng chính sách trong suốt quá
trình phát triển. Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội
phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá
đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một
yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và
bảo vệ Tổ quốc.
Theo Tổng Bí thư, phải xác định phát triển văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hoá mà
chúng ta xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng,
dựa trên các gtrị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc
trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hnhân loại, phấn đấu xây dựng một hội văn minh,
lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm
mỹ ngày càng cao.
Thứ ba, con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển.
Phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa mục tiêu, vừa động lực của ng cuộc đổi mới. Theo Tổng
thư Nguyễn Phú Trọng, phát triển giáo dục - đào tạo khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo
vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh
phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn
minh.
Xã hội hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của
toàn hội hài hoà với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để
chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận
xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật và hoạt động ca Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm
mục tiêu phấn đấu.
Thứ tư, mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân
dân làm chủ.
lOMoARcPSD| 47305584
Dân chủ bản chất của chế đhội chủ nghĩa, vừa mục tiêu, vừa động lực của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Theo đó, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy
dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Thứ năm, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và
bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổng Bí thư khẳng định, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ
then chốt, ý nghĩa sống còn đối với Đảng chế độ hội chủ nghĩa. Ý thức được nguy đối với đảng
cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hoá v.v..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản
Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa hội, chủ
nghĩa nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hoá v.v... trong nội bĐảng và trong toàn bộ hệ
thống chính trị.
Phân tích những thành quả ý nghĩa sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, phân tích cả những mặt hạn chế
về kinh tế- hội trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, người lãnh đạo cao nhất của Đảng khẳng định: Cả
luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn
không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp
tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường
lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia
tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ng hvà nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy
đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa ca thắng
lợi, của phát triển./.
1.2.1.3. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
- Thứ nhất, về chính trị : CNXH là xã hội do dân làm chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên nền
tảng liên minh công – nông, địa vị cao nhất là nhân dân, nhân dân có quyền quyết định tất cả các vấn
đề của đất nước, mọi hoạt động của nhà nước đều phải hướng tới quyền lợi của nhân dân.
- Thứ hai, về kinh tế: CNXH có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
sử dụng chủ yếu là ‘ sức máy móc, sức điện, sức nguyên tử” và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu. - Thứ ba, về văn hoá, đạo đức và các quan hệ xã hội: CNXH có trình độ phát triển cao v
văn hoá, đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong các quan hệ xã hội.
+ Ta thấy văn hoá đạo đức thể hiện ở tất của các lĩnh vực của đời sống mà trước hết là các quan hệ xã
hội. Xã hội không còn hiện tượng bóc lột, con người được tôn trọng , được bảo đảm đối xử công bằng,
bình đẳng, các dân tộc đoàn kết gắn bó với nhau.
+ Bảo đảm lợi ích cá nhân đúng đắn , mọi người có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát
huy tích cách riêng, sở trường riêng.
+ Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, tiền đề để tiến tới xã hội hoà bình, tự do, ấm no, hạnh phúc, bình đẳng,
không còn phân biệt chủng tộc.
+ Chủ nghĩa xã hội bảo đảm tính công bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội. Đó là xã hội đem lại
quyền bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân, mọi cộng đồng người đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Ai cũng phải lao động và ai cũng có quyền lao động, hưởng thành
quả lao động của mình trên tinh thần làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng
trừ những người chưa có khả năng hoặc không còn khả năng lao động.
- Thứ tư, về chủ thể xây dựng CNXH: CNXH là công trình lập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây
dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Về đặc trưng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”: Đây là đặc trưng bao quát những nội dung
cơ bản nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Các đặc trưng khác chỉ là xác định những mặt,
những lĩnh vực cụ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa như: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế, nền văn hoá,
con người, vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhà nước, quan hệ đối ngoại… trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đặc
trưng này cần phải thể hiện được sự khác biệt và tính ưu việt hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã
hội trước đây. Trong dự thảo Cương lĩnh nêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã thể hiện
khá rõ bản chất của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, nhưng theo tôi cần bổ sung thêm “nhân ái” vào đặc
trưng này làm nổi lên bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Một xã hội mà nhân dân được làm chủ, được đối xử
công bằng, được sống trong một môi trường văn minh nhưng thiếu tình yêu thương giữa con người với con người,
thiếu lòng nhân ái vị tha, khoan dung, thiếu trách nhiệm với đồng loại, thiếu tình yêu đối với thiên nhiên…tiếp thu
xây dựng thành học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó điều cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin như Bác Hồ
kính yêu đã lĩnh hội được và chỉ dạy cho cán bộ, đảng viên: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau
tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa
lOMoARcPSD| 47305584
Mác-Lênin được”. Vì vậy, cần phải bổ sung khái niệm nhân ái” để nhấn mạnh đặc trưng bao trùm của chủ nghĩa
xã hội thành mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta hướng tới.
Về đặc trưng: “Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”: Đặc trưng này thể hiện mặt đời sống tinh thần
của chủ nghĩa xã hội; thể hiện mối quan hệ biện chứng, sự kết hợp hài hoà giữa cái truyền thống và cái hiện đại,
giữa giá trị bản sắc dân tộc với những giá trị văn hoá tinh hoa, tinh tuý của nhân loại trong nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, đặc trưng cốt lõi của chủ nghĩa xã hội là xã hội nhân đạo, vì con người, lấy giải phóng con người
là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy nền văn hoá xã hội chủ nghĩa ngoài những đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc thì cần phải nhấn mạnh một đặc trưng rất nhân đạo, rất chủ nghĩa xã hội đó là nền văn hoá thấm đậm
tính nhân văn (bản thân khái niệm tiên tiến khía cạnh nào đó đã bao hàm nhân văn, nhưng không phải cái gì tiên
tiến cũng là nhân văn; bản sắc dân tộc cũng bao hàm tính nhân văn nhưng không bao quát hết và không thay thế
được khái niệm nhân văn). Như vậy theo tôi, cần bổ sung và diễn đạt lại đặc trưng này thành: “Có một nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và thấm đậm tính nhân văn”.
Về đặc trưng: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”: Đặc trưng
này thể hiện về tiêu chí con người trong chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên trong đặc trưng này mới chỉ thể hiện được
những điều kiện để con người phát triển như: có cuộc sống ấm no, được tự do, có hạnh phúc và các điều kiện khác
để phát triển toàn diện. Trong đặc trưng này chưa phác hoạ được những đặc trưng bản chất của con người trong
chủ nghĩa xã hội như thế nào. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, vấn đề xây dựng con người xã hội chủ nghĩa
được đặt ra từ rất sớm. Bác Hồ kính yêu đã nhiều lần chỉ dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con
người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa là phải đi đến hoàn toàn không có chủ nghĩa cá nhân. Trong
đầu óc mọi người đều có sự đấu tranh giữa cái “thiện” và cái “ác”, hoặc nói theo cách mới là đấu tranh giữa tư
tưởng cộng sản và tư tưởng cá nhân”.Theo tôi, con người xã hội chủ nghĩa phải là con người có ý chí vươn lên, ý
thức tự giác, có tấm lòng vị tha, khoan dung, nhân hậu, có tinh thần trách nhiệm cao với cộng đồng, với Tổ quốc,
đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân-có nghĩa là bản thân con người xã
hội chủ nghĩa đã gột sạch chủ nghĩa cá nhân. Nói tóm lại là: có ý thức tự giác, tính nhân đạo, tinh thần trách
nhiệm cao, hết lòng vì cộng đồng.
| 1/5

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47305584
1.2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:
1.2.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước HCM không chỉ tiếp cận đc vs những tư tưởng cơ bản về giải
phóng dân tộc mà người còn tiếp cận đc hệ thống tư tưởng mang đậm tính khoa học và nhân văn về
một chế độ khoa học xã hội mà ở đó là chế độ sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mn- xã hội cộng sản chủ nghĩa. Người khẳng định mục đích của cách mạng
Việt Nam là hướng đến chủ nghĩa cộng sản. Có 2 giai đoạn: gđ thấp là chủ nghĩa xã hội. Gđ cao là chủ
nghĩa cộng sản, 2 gđ ấy giống nhau ở chỗ sức sản xuất đã phát triển cao nền tảng kinh tế là tư liệu sản
xuất, đã trở thành của chung không còn giai cấp bóc lột. 2 gđ ấy khác nhau ở chỗ CNXH vẫn còn chút
vết tích của XH cũ còn XHCS thì không. Vì vậy muốn tiến lên chủ nghĩa CS trước hết phải xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó là
độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Thoát
khỏi cảnh bần cùng và sống 1 đời ấm no hạnh phúc, dân giàu nước mạnh. Đó cũng chính là mục tiêu
tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
- Xã hội hướng đến mục tiêu nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, được tự do, dân giàu, nước mạnh.
- Chế độ do nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hố Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, đồng thời nêu rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta”. Vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã hình thành một hệ thống quan điểm
hết sức đặc sắc về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong phương thức tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh có nhiều định nghĩa khác nhau. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm:
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân
dân để phát huy được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bạn bè,
là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh
thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không
làm thì không được hưởng; các dân tộc đều được bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để theo kịp miền xuôi.
Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Vào những năm năm mươi, sáu mươi, khi miền Bắc trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người xác
định rõ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn các nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người:
chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có
công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc; hoặc ở mức độ khái quát cao hơn: mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, cả đời sống vật chất
và cả đời sống tinh thần. Đây là cách diễn đạt Người thường dùng nhất.
- Chủ nghĩa xã hội là 1 chế độ do nhân dân lao động làm chủ lợi ích các nhân nằm trong lợi ích tập thể,
lợi ích tập thể đc bảo đảm thì lợi ích riêng chủa cá nhân mới có điều kiện thỏa mãn.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là khát vọng, mong muốn cháy bỏng mà Hồ Chí Minh hy
sinh cả cuộc đời mình để phấn đấu vươn tới: xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của thế giới.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về khát vọng, về mục tiêu cao cả của chế độ xã hội mới-chủ nghĩa xã
hộirất gần với triết lý nhân sinh của Phật giáo: “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm” (lấy cái tâm của người khác
làm cái tâm của chính mình). Vì thế, cách nói và diễn đạt này dễ đi vào lòng người, dễ được chấp nhận,
bởi nó không hoàn toàn xa lạ với tâm thức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bằng cách xác định
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho thấy, khi đề cập đến một vấn đề hiện đạ, Người vẫn
đứng trên mảnh đất cội rễ truyền thống Việt Nam, tạo nên một dòng chảy văn hoá liền mạch từ quá
khứ, qua hiện tại, để hướng tới tương lai theo một hệ chuẩn giá trị nhất quán, nhân văn và nhân đạo.
Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản
và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân
lao động”(1). Hay “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân
dân”(2). Hoặc Người diễn giải mục đích tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể: “Chủ nghĩa xã hội là
làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già lOMoAR cPSD| 47305584
không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội
ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”(3). Nhiều
khi Người nói một cách gián tiếp, không nhắc đến chủ nghĩa xã hội, nhưng xét về bản chất, đó cũng
chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Người. Kết thúc bản Tài liệu tuyệt đối bí
mật (sau gọi là Di chúc), Hồ Chí Minh viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân
chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(4).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ ra 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng, đó là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân các nước trên thế giới.
1.2.1.2. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan -
Theo quan điểm Mác lênin, sự phát triển của xã hội loài người là một tiến trình lịch sử - tự
nhiên với năm hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu
của xã hội loài người. -
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo lý luận Mac- Lênin, Hồ Chí Minh đưa ra quan
điểm: tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam khi nước đã giành được độc lập theo cách mạng vô sản. -
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn
là một nhà nước độc lập, nhân dân được sống ấm no, hạnh phúc, tức là sau khi giành được độc lập dân
tộc, nhân dân sẽ xây dựng một xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Trong lịch sử, sự phát triển của dân tộc
Việt Nam đã được trải nghiệm qua các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Các cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc để xây dựng lại một chế độ mới, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là là độc
lập dân tộc gắn là với chủ nghĩa xã hội.
Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Đi lên CNXH là yêu cầu khách
quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường XHCN.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa
trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
Sở dĩ ông đặt vấn đề này ra là bởi từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp
đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm
điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt.
Phân tích bối cảnh trong nước, quốc tế sau khi Liên Xô tan rã, đề cập những thành tựu to lớn của chủ nghĩa tư
bản, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ, song, qua
các cuộc khủng hoảng tài chính, hay dịch bệnh Covid-19 từ năm 2019 hiện nay và cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, người đứng đầu Đảng ta cho rằng: Thực tế đó càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các
thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Dân chủ chỉ là hình thức, không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ.
Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản
lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất,
kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối
toàn xã hội. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ
bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là "tự do", "dân chủ" dù có thể
thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực
tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản.
Từ thực tế trên, Tổng Bí thư cho rằng: Đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu
của cách mạng Việt Nam. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội
chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước hết, phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức;
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 47305584
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát
triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa
dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả
ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và
cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố
và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân
phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở
Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh
tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá
trình phát triển. Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội
phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá
đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một
yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và
bảo vệ Tổ quốc.
Theo Tổng Bí thư, phải xác định phát triển văn hoá đồng bộ, hài hoà với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công
bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hoá mà
chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng,
dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc
trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hoá nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh,
lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.
Thứ ba, con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển.
Phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Theo Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng, phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo
vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh
phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của
toàn xã hội hài hoà với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để
chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận
xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
Thứ tư, mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. lOMoAR cPSD| 47305584
Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Theo đó, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy
dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Thứ năm, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và
bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổng Bí thư khẳng định, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ
then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Ý thức được nguy cơ đối với đảng
cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hoá v.v..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản
Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ
nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hoá v.v... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Phân tích những thành quả ý nghĩa sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, phân tích cả những mặt hạn chế
về kinh tế- xã hội trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, người lãnh đạo cao nhất của Đảng khẳng định: Cả lý
luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn
không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp
tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường
lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia
tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy
đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển./.
1.2.1.3. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa -
Thứ nhất, về chính trị : CNXH là xã hội do dân làm chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên nền
tảng liên minh công – nông, địa vị cao nhất là nhân dân, nhân dân có quyền quyết định tất cả các vấn
đề của đất nước, mọi hoạt động của nhà nước đều phải hướng tới quyền lợi của nhân dân. -
Thứ hai, về kinh tế: CNXH có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
sử dụng chủ yếu là ‘ sức máy móc, sức điện, sức nguyên tử” và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu. - Thứ ba, về văn hoá, đạo đức và các quan hệ xã hội: CNXH có trình độ phát triển cao về
văn hoá, đạo đức, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong các quan hệ xã hội.
+ Ta thấy văn hoá đạo đức thể hiện ở tất của các lĩnh vực của đời sống mà trước hết là các quan hệ xã
hội. Xã hội không còn hiện tượng bóc lột, con người được tôn trọng , được bảo đảm đối xử công bằng,
bình đẳng, các dân tộc đoàn kết gắn bó với nhau.
+ Bảo đảm lợi ích cá nhân đúng đắn , mọi người có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát
huy tích cách riêng, sở trường riêng.
+ Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, tiền đề để tiến tới xã hội hoà bình, tự do, ấm no, hạnh phúc, bình đẳng,
không còn phân biệt chủng tộc.
+ Chủ nghĩa xã hội bảo đảm tính công bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội. Đó là xã hội đem lại
quyền bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân, mọi cộng đồng người đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Ai cũng phải lao động và ai cũng có quyền lao động, hưởng thành
quả lao động của mình trên tinh thần làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng
trừ những người chưa có khả năng hoặc không còn khả năng lao động.
- Thứ tư, về chủ thể xây dựng CNXH: CNXH là công trình lập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây
dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Về đặc trưng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”: Đây là đặc trưng bao quát những nội dung
cơ bản nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Các đặc trưng khác chỉ là xác định những mặt,
những lĩnh vực cụ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa như: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế, nền văn hoá,
con người, vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhà nước, quan hệ đối ngoại… trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đặc
trưng này cần phải thể hiện được sự khác biệt và tính ưu việt hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã
hội trước đây. Trong dự thảo Cương lĩnh nêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã thể hiện
khá rõ bản chất của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, nhưng theo tôi cần bổ sung thêm “nhân ái” vào đặc
trưng này làm nổi lên bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Một xã hội mà nhân dân được làm chủ, được đối xử
công bằng, được sống trong một môi trường văn minh nhưng thiếu tình yêu thương giữa con người với con người,
thiếu lòng nhân ái vị tha, khoan dung, thiếu trách nhiệm với đồng loại, thiếu tình yêu đối với thiên nhiên…tiếp thu
xây dựng thành học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó điều cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin như Bác Hồ
kính yêu đã lĩnh hội được và chỉ dạy cho cán bộ, đảng viên: “Hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau
tình, có nghĩa
. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa
lOMoAR cPSD| 47305584
Mác-Lênin được”. Vì vậy, cần phải bổ sung khái niệm “nhân ái” để nhấn mạnh đặc trưng bao trùm của chủ nghĩa
xã hội thành mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta hướng tới.
Về đặc trưng: “Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”: Đặc trưng này thể hiện mặt đời sống tinh thần
của chủ nghĩa xã hội; thể hiện mối quan hệ biện chứng, sự kết hợp hài hoà giữa cái truyền thống và cái hiện đại,
giữa giá trị bản sắc dân tộc với những giá trị văn hoá tinh hoa, tinh tuý của nhân loại trong nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, đặc trưng cốt lõi của chủ nghĩa xã hội là xã hội nhân đạo, vì con người, lấy giải phóng con người
là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy nền văn hoá xã hội chủ nghĩa ngoài những đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc thì cần phải nhấn mạnh một đặc trưng rất nhân đạo, rất chủ nghĩa xã hội đó là nền văn hoá thấm đậm
tính nhân văn (bản thân khái niệm tiên tiến khía cạnh nào đó đã bao hàm nhân văn, nhưng không phải cái gì tiên
tiến cũng là nhân văn; bản sắc dân tộc cũng bao hàm tính nhân văn nhưng không bao quát hết và không thay thế
được khái niệm nhân văn). Như vậy theo tôi, cần bổ sung và diễn đạt lại đặc trưng này thành: “Có một nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và thấm đậm tính nhân văn”
.
Về đặc trưng: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”: Đặc trưng
này thể hiện về tiêu chí con người trong chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên trong đặc trưng này mới chỉ thể hiện được
những điều kiện để con người phát triển như: có cuộc sống ấm no, được tự do, có hạnh phúc và các điều kiện khác
để phát triển toàn diện. Trong đặc trưng này chưa phác hoạ được những đặc trưng bản chất của con người trong
chủ nghĩa xã hội như thế nào. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, vấn đề xây dựng con người xã hội chủ nghĩa
được đặt ra từ rất sớm. Bác Hồ kính yêu đã nhiều lần chỉ dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con
người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa là phải đi đến hoàn toàn không có chủ nghĩa cá nhân. Trong
đầu óc mọi người đều có sự đấu tranh giữa cái “thiện” và cái “ác”, hoặc nói theo cách mới là đấu tranh giữa tư
tưởng cộng sản và tư tưởng cá nhân
”.Theo tôi, con người xã hội chủ nghĩa phải là con người có ý chí vươn lên, ý
thức tự giác, có tấm lòng vị tha, khoan dung, nhân hậu, có tinh thần trách nhiệm cao với cộng đồng, với Tổ quốc,
đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân-có nghĩa là bản thân con người xã
hội chủ nghĩa đã gột sạch chủ nghĩa cá nhân. Nói tóm lại là: có ý thức tự giác, tính nhân đạo, tinh thần trách
nhiệm cao, hết lòng vì cộng đồng
.