Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

TƯ TƯỞNG Hồ Chí Minh VỀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội được bắt đầu hình thành từ khi Nguyễn
Ái Quốc phát hiện ra đường lối giải phóng dân tộc, đặt cách mạng Việt Nam vào
quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói con đường hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Viê At
Nam là quá trình nhâ An thBc, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong phương thBc tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có nhiều định nghĩa
khác nhau:
– Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hoàn chỉnh đối lập với chế
độ tư bản chủ nghĩa;
– Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng biệt của nó (về kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hoá, quan hệ quốc tế…);
– Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách nêu bật mục tiêu (tổng quát và cụ thể) của
nó, v.v. Trong các cách tiếp cận đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, theo Người, mục tiêu là sự thể hiện cô đọng nhất các
bản chất đặc trưng, tính ưu việt vốn hàm chBa trong chế độ xã hội tương lai mà
chúng ta xây dựng.
Song tất cả đều hướng đến mục tiêu cơ bản nhất theo Hồ Chí Minh, đó là: “...Chủ
nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm
cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”, là
làm sao cho dân giàu, nước mạnh”.
Ngoài ra, khi so sánh các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử để chỉ ra sự khác
nhau về bản chất giữa chủ nghĩa xã hội và các chế độ khác, Hồ Chí Minh viết: “...
trong chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao
động làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của của tập thể, giữ một vị trí nhất
định và đóng góp một phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm
trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập
thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện được thỏa mãn”
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội ở giai đoạn đầu của chủ
nghĩa cộng sản. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội
không còn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con
người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống
nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan: là bước phát triển thiết
yếu ở Việt Nam sau khi giành độc lập dân tộc
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cB sau
đây:
-Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều
nhất định phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ còn có sự
đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể
nói đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói
chung theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái
lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn
nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về
bản chất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra
trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài.
Nhất là đối với những nước còn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội thì “những cơn đau đẻ” này còn có thể rất dài với nhiều bước
quanh co.
.-Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định
từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa
đối với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ
thuật đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa.Tuy nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất
đại công nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chB
không phải là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có
thời kỳ quá độ của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ
nghĩa. Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên
chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó khăn,
không thể “đốt cháy giai đoạn” được.
-Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo
ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa, dovậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những
quan hệ đó.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn
và phBc tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động không thể ngay lập tBc có thể đảm đương được công việc ấy, nó
cầnphải có thời gian nhất dịnh.Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có
trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài,
ngắn khác nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình
độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn.
Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình,
đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu
thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phBc tạp
Qua sự phân tích trên, ta có thể nhận thấy rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội đã kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – lênin vào thực tiễn đất nước ta. Xã hội chủ nghĩa – xã hội mới theo tư tưởng
Hồ Chí Minh thực sự là một xã hội nhân đạo vì con người, tất cả hạnh phúc của
nhân dân, xóa bỏ mọi áp bBc bóc lột, bất công giữa người với người. Tất cả vì độc
lập vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành kim
chỉ nam cho hành đô Ang của chúng ta để hoàn thành sự nghiê Ap đổi mới của đất nước
ta hiê An nay.
Các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội:
Là xã hội có bản chất khác hẳn các xã hội khác đã tồn tại trong lịch sử, xã hội
xã hội chủ nghĩa có nhiều đặc trưng; song, nếu tiếp cận từ những lĩnh vực lớn của
xã hội, xã hội xã hội chủ nghĩa có một số đặc trưng cơ bản sau:
ThB nhất, về chính trị: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ.
Xã hội xã hội chủ nghĩa trước hết là xã hội do nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ
dưới lãnh đạo của Đảng cộng sản trên nền tảng liên minh công-nông. Trong xã hội
chủ nghĩa, địa vị cao nhất là nhân dân. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Mọi
quyền lợi, quyền lực, quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động xây dựng, bảo
vệ đất nước, bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân.
ThB hai, về kinh tế: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cơ sở
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư
bản nên xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền tảng phát triển kinh tế cao hơn nền kinh
tế của chủ nghĩa tư bản. Đấy là Nền tảng kinh tế dựa trên năng lực sản xuất hiện đại
và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại tại chủ nghĩa xã hội biểu hiện: Công cụ lao động,
phương tiện lao động trong quá trình sản xuất đã “phát triển dần dần đến máy móc,
sBc điện, sBc nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ
Chí Minh diễn đạt: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,… làm chung, là sản phẩm tư
liệu thuộc về nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu tư liệu sản
xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
ThB ba, về văn hóa, đạo đBc và quan hệ xã hội: Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình độ
phát triển cao về văn hóa và đạo đBc, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong quan hệ xã
hội:
Văn hóa, đạo đBc thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống, trước hết là ở các quan
hệ xã hội. Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đBc của xã hội chủ nghĩa có thể thực
hiện: Xã hội không còn hiện tượng người bóc lột, con người được tôn trọng, được
đảm bảo đối xử công bằng, bình đẳng và các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau.
chủ nghĩa xã hội đảm bảo tính công bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội. Xã hội
đem lại quyền bình đẳng trước luật cho mọi công dân, mọi cộng đồng người đoàn
kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về lợi ích và nghĩa vụ, ai cũng phải lao động và ai
cũng có quyền lao động, ai cũng được hưởng thành quả lao động của mình trên
nguyên tắc làm nhiều thì ảnh hưởng nhiều, làm ít thì ảnh hưởng ít, không làm thì sẽ
không hưởng, tất nhiên là trừ những người chưa có khả năng lao động hoặc không có
khả năng lao động.
ThB tư, về việc xây dựng chủ nghĩa xã hội : chủ nghĩa xã hội là công trình của nhân
dân dưới lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh của người lao
động luôn diễn ra ngày quyết liệt nghe nhằm thủ tiêu chế độ người bóc lột người.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa - chế độ của nhân dân, làm nhân dân làm chủ, lợi ích
của cá nhân gắn liền với lợi ích của chế độ xã hội nên nhân dân chính là chủ thể, là
lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và độ bền vững của chủ nghĩa xã hội. Sự thật
xây dựng công việc này, Hồ Chí Minh khẳng định: “Cần có khả năng lãnh đạo của
một đảng cách
mạng chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có lãnh
đạo của một đảng biết vận dụng 1 cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào công cụ
điều kiện của nước mình mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
xã hội chủ nghĩa đến thành công”
LIÊN HỆ THỰC TẾ
Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-
2021), bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2021 - 2026, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết quan trọng:
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam”, trong đó có nhiều nội dung thể hiện tâm khái quát cao về
lý luận, tính thực tiễn và những định hướng đặt ta cho việc bổ sung, phát triển lý luận
về con đường đi lên CNXH tại VN.
Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luận giải và khẳng định: “Ngay
khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng
sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con
đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”, Đến Đại hội XI của Đảng, trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng
của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Về mục tiêu kinh tế nhằm phát triển đời sống nhân dâ. Có thể thấy, công cuộc đổi
mới, kết hợp phát huy sBc mạnh dân tộc với sBc mạnh thời đại cùng các nguồn lực
khác, như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển đổi
cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động,
tích cực tăng cường hợp tác, mở rộng hội nhập quốc tế đã đem lại những thay đổi to
lớn, thành tựu có ý nghĩa lịch sử cho đất nước trong 35 năm thực hiện đường lối đổi
mới, Kết quả, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”…Việt Nam kiên định đi
theo con đường XHCN, là 1 hình mẫu đặc thù của chủ nghĩa xã hội với điểm xuất
phát thấp, cùng với gánh chịu hậu quả chiến tranh nặng nề. Mỗi nhiệm kỳ đại hội của
Đảng là 1 chặng đường, xác định mục tiêu và nhiệm vụ, cũng như kết quả đạt được
của nhiệm kỳ trước để tạo tiền đề phát triển cho nhiệm kỳ sau. Những thành công đó
là do sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố hàng đầu quyết định tính thằng lợi của Cách
Mạng Việt Nam.
Về định hướng lý luận thực tiễn, tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt ra nhiệm vụ đối
với toàn Đảng nói chung và đội ngũ làm công tác lý luận nói riêng là tăng cường
tổng kết thực tiễn để làm rõ hơn nữa lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, dưới tác động của những biến đổi của các nhân tố
thời đại và của thế giới hiện nay. Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là
xu thế lớn, song chúng ta cũng đBng trước nhiều khó khăn, trở ngại. Đó là: Tình hình
chính trị, an ninh, kinh tế thế giới có những biến động lớn, nhanh chóng, phBc tạp,
khó dự báo; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn
ra phBc tạp, quyết liệt; chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, cường quyền
nước lớn trong quan hệ quốc tế gia tăng. Đảng ta đã khẳng định: “Tình hình thế giới
và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thBc đan xen, đặt ra nhiều
vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phBc tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm
chính trị cao… đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, điều hết sBc quan trọng là phải luôn luôn
kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn của đất nước để làm rõ tính đặc thù của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách
có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư
tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn
luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cBng,
trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
| 1/6

Preview text:

TƯ TƯỞNG Hồ Chí Minh VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội được bắt đầu hình thành từ khi Nguyễn
Ái Quốc phát hiện ra đường lối giải phóng dân tộc, đặt cách mạng Việt Nam vào
quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói con đường hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Viê At
Nam là quá trình nhâ An thBc, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong phương thBc tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có nhiều định nghĩa khác nhau:
– Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội hoàn chỉnh đối lập với chế độ tư bản chủ nghĩa;
– Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng biệt của nó (về kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hoá, quan hệ quốc tế…);
– Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách nêu bật mục tiêu (tổng quát và cụ thể) của
nó, v.v. Trong các cách tiếp cận đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, theo Người, mục tiêu là sự thể hiện cô đọng nhất các
bản chất đặc trưng, tính ưu việt vốn hàm chBa trong chế độ xã hội tương lai mà chúng ta xây dựng.
Song tất cả đều hướng đến mục tiêu cơ bản nhất theo Hồ Chí Minh, đó là: “...Chủ
nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm
cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”, là
làm sao cho dân giàu, nước mạnh”.
Ngoài ra, khi so sánh các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử để chỉ ra sự khác
nhau về bản chất giữa chủ nghĩa xã hội và các chế độ khác, Hồ Chí Minh viết: “...
trong chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao
động làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của của tập thể, giữ một vị trí nhất
định và đóng góp một phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm
trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập
thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện được thỏa mãn”
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội ở giai đoạn đầu của chủ
nghĩa cộng sản. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội
không còn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con
người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống
nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.

Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan: là bước phát triển thiết
yếu ở Việt Nam sau khi giành độc lập dân tộc
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cB sau đây:
-Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều
nhất định phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ còn có sự
đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể
nói đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói
chung theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái
lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn
nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về
bản chất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra
trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài.
Nhất là đối với những nước còn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội thì “những cơn đau đẻ” này còn có thể rất dài với nhiều bước quanh co.
.-Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định
từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa
đối với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ
thuật đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ
nghĩa.Tuy nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất
đại công nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chB
không phải là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có
thời kỳ quá độ của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ
nghĩa. Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên
chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó khăn,
không thể “đốt cháy giai đoạn” được.
-Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo
ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa, dovậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn
và phBc tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động không thể ngay lập tBc có thể đảm đương được công việc ấy, nó
cầnphải có thời gian nhất dịnh.Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có
trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài,
ngắn khác nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình
độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn.
Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình,
đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu
thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phBc tạp
Qua sự phân tích trên, ta có thể nhận thấy rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội đã kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – lênin vào thực tiễn đất nước ta. Xã hội chủ nghĩa – xã hội mới theo tư tưởng
Hồ Chí Minh thực sự là một xã hội nhân đạo vì con người, tất cả hạnh phúc của
nhân dân, xóa bỏ mọi áp bBc bóc lột, bất công giữa người với người. Tất cả vì độc
lập vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành kim
chỉ nam cho hành đô Ang của chúng ta để hoàn thành sự nghiê Ap đổi mới của đất nước ta hiê An nay.
Các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội:
Là xã hội có bản chất khác hẳn các xã hội khác đã tồn tại trong lịch sử, xã hội
xã hội chủ nghĩa có nhiều đặc trưng; song, nếu tiếp cận từ những lĩnh vực lớn của
xã hội, xã hội xã hội chủ nghĩa có một số đặc trưng cơ bản sau:
ThB nhất, về chính trị: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ.
Xã hội xã hội chủ nghĩa trước hết là xã hội do nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ
dưới lãnh đạo của Đảng cộng sản trên nền tảng liên minh công-nông. Trong xã hội
chủ nghĩa, địa vị cao nhất là nhân dân. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Mọi
quyền lợi, quyền lực, quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động xây dựng, bảo
vệ đất nước, bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân.
ThB hai, về kinh tế: Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cơ sở
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư
bản nên xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền tảng phát triển kinh tế cao hơn nền kinh
tế của chủ nghĩa tư bản. Đấy là Nền tảng kinh tế dựa trên năng lực sản xuất hiện đại
và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại tại chủ nghĩa xã hội biểu hiện: Công cụ lao động,
phương tiện lao động trong quá trình sản xuất đã “phát triển dần dần đến máy móc,
sBc điện, sBc nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ
Chí Minh diễn đạt: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,… làm chung, là sản phẩm tư
liệu thuộc về nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu tư liệu sản
xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
ThB ba, về văn hóa, đạo đBc và quan hệ xã hội: Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình độ
phát triển cao về văn hóa và đạo đBc, bảo đảm sự công bằng, hợp lý trong quan hệ xã hội:
Văn hóa, đạo đBc thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống, trước hết là ở các quan
hệ xã hội. Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đBc của xã hội chủ nghĩa có thể thực
hiện: Xã hội không còn hiện tượng người bóc lột, con người được tôn trọng, được
đảm bảo đối xử công bằng, bình đẳng và các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau.
chủ nghĩa xã hội đảm bảo tính công bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội. Xã hội
đem lại quyền bình đẳng trước luật cho mọi công dân, mọi cộng đồng người đoàn
kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về lợi ích và nghĩa vụ, ai cũng phải lao động và ai
cũng có quyền lao động, ai cũng được hưởng thành quả lao động của mình trên
nguyên tắc làm nhiều thì ảnh hưởng nhiều, làm ít thì ảnh hưởng ít, không làm thì sẽ
không hưởng, tất nhiên là trừ những người chưa có khả năng lao động hoặc không có khả năng lao động.
ThB tư, về việc xây dựng chủ nghĩa xã hội : chủ nghĩa xã hội là công trình của nhân
dân dưới lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh của người lao
động luôn diễn ra ngày quyết liệt nghe nhằm thủ tiêu chế độ người bóc lột người.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa - chế độ của nhân dân, làm nhân dân làm chủ, lợi ích
của cá nhân gắn liền với lợi ích của chế độ xã hội nên nhân dân chính là chủ thể, là
lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và độ bền vững của chủ nghĩa xã hội. Sự thật
xây dựng công việc này, Hồ Chí Minh khẳng định: “Cần có khả năng lãnh đạo của một đảng cách
mạng chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có lãnh
đạo của một đảng biết vận dụng 1 cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào công cụ
điều kiện của nước mình mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
xã hội chủ nghĩa đến thành công” LIÊN HỆ THỰC TẾ
Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-
2021), bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2021 - 2026, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết quan trọng:
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam”, trong đó có nhiều nội dung thể hiện tâm khái quát cao về
lý luận, tính thực tiễn và những định hướng đặt ta cho việc bổ sung, phát triển lý luận
về con đường đi lên CNXH tại VN.
Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luận giải và khẳng định: “Ngay
khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng
sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con
đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”, Đến Đại hội XI của Đảng, trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát
triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng
của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Về mục tiêu kinh tế nhằm phát triển đời sống nhân dâ. Có thể thấy, công cuộc đổi
mới, kết hợp phát huy sBc mạnh dân tộc với sBc mạnh thời đại cùng các nguồn lực
khác, như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển đổi
cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động,
tích cực tăng cường hợp tác, mở rộng hội nhập quốc tế đã đem lại những thay đổi to
lớn, thành tựu có ý nghĩa lịch sử cho đất nước trong 35 năm thực hiện đường lối đổi
mới, Kết quả, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay
”…Việt Nam kiên định đi
theo con đường XHCN, là 1 hình mẫu đặc thù của chủ nghĩa xã hội với điểm xuất
phát thấp, cùng với gánh chịu hậu quả chiến tranh nặng nề. Mỗi nhiệm kỳ đại hội của
Đảng là 1 chặng đường, xác định mục tiêu và nhiệm vụ, cũng như kết quả đạt được
của nhiệm kỳ trước để tạo tiền đề phát triển cho nhiệm kỳ sau. Những thành công đó
là do sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố hàng đầu quyết định tính thằng lợi của Cách Mạng Việt Nam.
Về định hướng lý luận thực tiễn, tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt ra nhiệm vụ đối
với toàn Đảng nói chung và đội ngũ làm công tác lý luận nói riêng là tăng cường
tổng kết thực tiễn để làm rõ hơn nữa lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, dưới tác động của những biến đổi của các nhân tố
thời đại và của thế giới hiện nay. Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là
xu thế lớn, song chúng ta cũng đBng trước nhiều khó khăn, trở ngại. Đó là: Tình hình
chính trị, an ninh, kinh tế thế giới có những biến động lớn, nhanh chóng, phBc tạp,
khó dự báo; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn
ra phBc tạp, quyết liệt; chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, cường quyền
nước lớn trong quan hệ quốc tế gia tăng. Đảng ta đã khẳng định: “Tình hình thế giới
và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thBc đan xen, đặt ra nhiều
vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phBc tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm
chính trị cao… đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, điều hết sBc quan trọng là phải luôn luôn
kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn của đất nước để làm rõ tính đặc thù của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách
có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư
tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn
luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cBng,
trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.