


Preview text:
lOMoAR cPSD| 59994889
Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu đề tài:
Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta. Người đã ra đi tìm đường cứu nước, chèo lái
con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Người đã để lại cho dân tộc ta không chỉ là
tấm gương suốt đời đấu tranh cho hạnh phúc của nhân dân, mà còn là một hình tượng đạo đức
mẫu mực và một kho tàng lí luận sắc sảo soi đường cho Cách mạng Việt Nam, trong đó, nổi bật
có tư tưởng về độc lập dân tộc. Vậy Người có quan niệm thế nào về độc lập dân tộc? Xuất phát
từ những cơ sở nào mà Người hình thành những tư tưởng đó? Quá trình hình thành và phát triển
của nó ra sao? Sinh viên chúng ta có thể áp dụng cũng như phát triển những tư tưởng đó cho bản
thân, xã hội như thế nào? ..Để giải quyết những thắc mắc trên,,đồng thời để nắm bắt được những
trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân về vấn đề độc lập dân tộc ở bối cảnh hiện đại, trong khuôn
khổ môn học “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “ Anh (chị) hãy
phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Liên hệ với trách nhiệm của sinh viên hiện nay?”
I/ Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
1) Vấn đề độc lập dân tộc:
a) Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc và
là khát vọng lớn nhất của dân tộc Việt Nam.
Ta có thể khẳng định: Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến của toàn nhân loại.
Đặc biệt, đối với dân tộc Việt Nam ta, khát vọng được độc lập, tự do cũng chính là nỗi khát khao
mãnh liệt nhất, cháy bỏng nhất trong mỗi con người Việt Nam lúc bấy giờ. Trải qua hơn 4000
năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã trải qua biết bao nhiêu cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm, biết bao nhiêu người đã hi sinh,chiến đấu cho tự do, cho độc lập của bản thân, dân
tộc. Những đau thương, mất mát ấy đã góp công tạo nên những trang sử vàng cho dân tộc, đồng
thời hun đúc nên trong lòng những con người Việt Nam một lòng yêu nước, một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt.
- Vấn đề độc lập dân tộc trong hướng tiếp cận từ quyền con người:
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước,
người đã tìm hiểu, khai thác và tiếp thu các nhân tố về quyền con người thông qua nội dung của
hai bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của
Cách mạng Pháp như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc. Người khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nêu lên chân lý bất diệt về quyền cơ bản
của các dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ: “Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, khi
chưa có độc lập thì phải quyết tâm đấu tranh để giành độc lập dân tộc.
Năm 1919, nhân cơ hội các nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
họp tại hội nghị Versailles( Pháp) mà ở đó Tổng thống Mỹ V. Wilson đã kêu gọi trao quyền tự
quyết cho các dân tộc trên thế giới, vận dụng các nguyên tắc đó, thay mặt những người Việt Nam
yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm tám
điểm đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý và các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân
Việt Nam. Đây là hình thức thử nghiệm đầu tiên của Hồ Chí Minh về sử dụng pháp lý tư sản để
đấu tranh với chủ nghĩa tư bản. Bản yêu sách tập trung vào hai nội dung cơ bản là đòi quyền bình
đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Mặc dù bản yêu sách đã
không được để ý đến và thông qua, nhưng cũng từ đây, Người đã rút ra được bài học vô giá: lOMoAR cPSD| 59994889
“Muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể tự trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị
của Đảng là: Đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập.
Như vậy, tư tưởng độc lập dân tộc đã phát triển trở thành mục tiêu chính trị của Đảng.
Tháng 5/1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
viết thư Kính cáo đồng bào: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy.
Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi
nước sôi lửa nóng” . Người chỉ đạo thành lâp Mặ t trậ n Việ t Nam độ c lậ p đ ̣
ồng minh ra báo Viêt ̣ Nam đôc lậ
p, tḥ ảo 10 chính sách của Viêt Minh trong đ ̣ ó mục
tiêu đầu tiên là “cờ treo đôc lập ̣ nền xây bình quyền”.
Năm 1945, tình hình chiến tranh Thế giới chuyển biến mau lẹ, theo hướng có lợi cho cách
mạng nước ta. Trong nước, tình hình nhân dân ta khổ cực hơn bao giờ hết, phải chịu ách “một cổ
hai tròng”. Trong bối cảnh đó, tháng 8/1945, Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc
lập, tự do của dân tộc, Người nói: “Dù hi sinh tới đau, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Như vậy, lúc này trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập,
tự do đã trở thành quyết tâm của cả dân tộc.
- Khi đã giành độc lập, tự do, phải kiên quyết giữ vững quyền độc lập, tự do ấy
Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, đọc Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố với thế giới và đồng bào
nhân dân cả nước: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Ý chí và quyết tâm trên tiếp tục phát triển và hoàn thiện trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ. Trong các thư và điện văn gửi Liên hợp quốc và Chính phủ các nước sau Cách
mạng Tháng Tám, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong
muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những
quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
Khi thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/
12/ 1946, Người ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm bằng được nền độc lập dân tộc – giá trị
thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Năm 1966, khi quân viễn chinh
Mỹ và chư hầu ồ ạt vào miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, với quy
mô ngày càng ác liệt, Hồ Chí Minh tiếp tục kêu gọi toàn dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, trong đó đã nêu cao chân lý lớn nhất của thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân
tộc khát khao nền độc lập, tự do trên thế giới: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, lúc này, tư
tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh đã hoàn thiện. Với tư tưởng trên, nhân dân Việt Nam đã
anh dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Paris,
cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước
b) Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người đánh
giá cao học thuyết “tam dân" của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh
hạnh phúc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập, Hồ Chí Minh
tiếp tục khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” . Dân chúng chỉ cảm nhận được những lOMoAR cPSD| 59994889
giá trị thực sự của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc ấm, được học hành để phát triển, có
hiểu biết để thực hành dân chủ, quyền và nghĩa vụ của người công dân. Ngay sau khi cách mạng
Tháng Tám năm 1945 trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, khi mà đất nước chúng ta phải
đối mặt với “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”, Hồ Chí Minh yêu cầu Chính phủ phải: “Làm
cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”.
Tóm lại, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn coi độc lập
gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người đã từng bộc bạch đầy tâm huyết:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó là một
sự ham muốn đầy tính nhân văn và thấm đượm tình thương yêu dân tộc và đó cũng là mục tiêu
tối thượng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.