Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đạo đức vàxây dựng con người - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường Đại Học Duy Tân
Trong cuộc sống hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đểxây dựng đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng.Bác nói rất nhiều về đạo đức, văn hóa cũng như về xây dựng con người trong thời chiếncũng như thời bình theo nhiều cách khác nhau. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (POS 361)
Trường: Đại học Duy Tân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA: KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÀI TIỂU LUẬN
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đạo đức và xây dựng con người mới
GVHD: Ths. Nguyễn Tấn Tài Lớp: POS 361 D Thành viên nhóm: Nguyễn Duy Long - 4419 Trần Xuân Mỹ - 6074
Đà Nẵng, tháng 03 năm 2023 1 MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................... 2
A. LỜI MỞ ĐẦU:....................................................................................................... 3
B. NỘI DUNG:............................................................................................................3
1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh:................................................ 3
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực
khác:.................................................................................................................. 4
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa:................................ 6
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới:.................... 6
2. Tư tưởng Hồ Chí minh về đạo đức:................................................................ 6
2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng:.... 7
2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng:.........8
2.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách
mạng:............................................................................................................... 12
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người:...........................................................13
3.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người:.............................................13
3.2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người:............................15
3.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới:............................16
C. Vận dụng:............................................................................................................. 18
1. Thực trạng văn hóa, đạo đức, con người Việt Nam Hiện nay:..........................18
2. Một số nội dung xây dựng văn hóa, đạo đức con người Việt Nam Hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh:..................................................................................20
D. Kết luận:............................................................................................................... 22
E. Nguồn tham khảo:................................................................................................22 2 A. LỜI MỞ ĐẦU:
Trong cuộc sống hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn để
xây dựng đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng.
Bác nói rất nhiều về đạo đức, văn hóa cũng như về xây dựng con người trong thời chiến
cũng như thời bình theo nhiều cách khác nhau. Những hành động cử chỉ của Bác, lời nói
đã để lại nhiều bài học cho chúng ta học hỏi. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như
việc vận dụng tư tưởng của Người trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng Việt
Nam, với sự đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cách mạng cũng như những con người
Việt Nam mới luôn là vấn đề thời sự, thể hiện tính cần thiết, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng
viên phải tiếp tục đào sâu suy nghĩ, kiên trì phấn đấu và noi theo. Đó là sự nghiệp của
toàn Đảng, của hệ thống chính trị, nhằm góp phần xây dựng thành công một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Trong giai đoạn hiện nay, một phần cán bộ Đảng viên, các thanh thiếu niên đã sai
lầm với những chuẩn mực đạo đức, văn hóa suy đồi gây tác hại không nhỏ đến người
khác và sự vững chắc cũng như làm lung lay long tin vào Đảng trong toàn thể nhân dân.
Vì vậy giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ và cán bộ Đảng viên đồng thời không ngừng nâng
cao trình độ văn hóa không nằm ngoài mục đích xây dựng con người mới xã hội mới đưa
đất nước đi lên dân giàu nước mạnh.
Ý nghĩa của bài tiểu luận “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa đạo đức và xây
dựng con người mới ” soi rõ con đường mà Đảng và nhân dân ta đã và đang đi, đề cao
nhiệm vụ xây dựng đất nước, nâng cao tư duy lí luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng
cao đạo đức cách mạng năng lực công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng đại của Đảng và nhà nước ta. B. NỘI DUNG:
1. Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
Khái niệm văn hóa có nội hàm phong phú và ngoại diên rất rộng, vì vậy có rất nhiều
định nghĩa khác nhau về văn hóa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được
hiểu theo cả ba nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp. 3
Theo nghĩa rộng, Hồ Chí Minh nêu văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh
tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống loài người. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh đã khắc
phục được những quan niệm phiến diện về văn hóa trong lịch sử và hiện tại.
Theo nghĩa hẹp, Người viết: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề
cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”. Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa đơn giản
là trình độ học vấn của con người, thể hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải
đi học “văn hóa”, xóa mù chữ,…
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác:
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn hóa được Hồ Chí Minh xác định là
đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hóa có mối quan hệ
mật thiết với kinh tế, chính trị, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội
và được nhận thức như sau:
Trong quan hệ văn hóa với chính trị: Dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân
ta bị nô lệ, bị đàn áp, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, không thể phát triển. Theo Hồ Chí
Minh, phải tiến hành cách mạng chính trị trước mà cụ thể ở Việt Nam là tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội,
từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. Quan điểm của Hồ Chí
Minh đã được thực tiễn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Để văn hoá phát triển tự do thì phải làm cách mạng chính trị trước. Ở Việt Nam, tiến
hành cách mạng chính trị, thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để
giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hoá, mở
đường cho văn hoá phát triển. 4
Tuy nhiên, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong chính trị, tức là văn hóa
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng thời mọi hoạt động của tổ chức và nhà chính trị
phải có hàm lượng văn hóa. "Văn hóa ở trong chính trị" tức văn hóa phải tham gia vào
nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ
Chí Minh nêu rõ: "Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa", hoặc đường lối
kháng chiến toàn diện, thi đua trên mọi lĩnh vực,... là với ý nghĩa như vậy. Theo đó, một
phong trào văn hóa cách mạng, văn hóa kháng chiến đã diễn ra rất sôi động, góp phần
đắc lực vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Tóm lại, Hồ Chí Minh cho rằng, nước Việt Nam thuộc địa, trước hết phải giải phóng
dân tộc, giành độc lập dân tộc, thiết lập nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó chính là sự
giải phóng chính trị để mở đường cho văn hóa phát triển.
Trong quan hệ với kinh tế: Từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn
hóa, xây dựng kiến trúc thượng tầng. Người cho rằng, "cơ sở hạ tầng xã hội có kiến thiết
rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được". Trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã tổng kết: Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát
triển kinh tế và văn hóa... để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta".
Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế, văn hóa không hoàn toàn phụ
thuộc vào kinh tế, mà có vai trò tác động tích cực trở lại kinh tế.
Tóm lại, sự phát triển của chinh trị, kinh tế, xã hội, sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển;
ngược lại, mỗi bước phát triển kinh tế, chính trị, xã hội đều có sự khai sáng của văn hóa.
Quan hệ văn hoá với xã hội: Theo Hồ Chí Minh, xã hội có được giải phóng thì văn
hoá mới được giải phóng. Chính trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hoá phát triển.
Người nói: “xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy”. Văn học nghệ thuật của dân tộc Việt Nam
rất phong phú, nhưng chế độ nô lệ của kẻ áp bức, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn
không thể phát triển được. Phải làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền về
tay nhân dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên
địa vị cầm quyền, thì mới giải phóng được văn hóa.
Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại: Bản sắc văn hóa dân
tộc là những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là thành quả
của quá trình lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu của con người Việt Nam. Hồ Chí
Minh chú trọng chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Theo Người, mục đích tiếp thu văn 5
hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa:
Văn hóa là đời sống tinh thần, thuộc kiến trúc thượng tầng. Hồ Chí Minh đặt văn hóa
ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã
hội. Bốn vấn đề này phải được coi trọng như nhau:
Trong quan hệ với chính trị: Hồ Chí Minh cho rằng chính trị, xã hội có được giải phóng
thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hóa phát triển.
Trong quan hệ kinh tế: Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng
của việc xây dựng văn hóa.
Nhìn chung, Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải
phục vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính
trị, có nghĩa là văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây
dựng và phát triển kinh tế.Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, điều đó cũng có
nghĩa là kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa.
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới:
Theo Hồ Chí Minh, nền văn hóa dân tộc phải được xây dựng trên năm điểm lớn sau đây:
Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
Xây dựng chính trị: dân quyền. Xây dựng kinh tế.
Theo lý tưởng cao cả của của Người, muốn xây dựng nền văn hóa dân tộc theo tư
tưởng Hồ Chí Minh thì phải xây dựng trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý con người.
2. Tư tưởng Hồ Chí minh về đạo đức: 6
2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng:
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết hợp đạo đức truyền thống của dân tộc với
tinh hoa đạo đức của nhân loại, giữa phương Đông với phương Tây, được hình thành và
phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.. Tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh ngày càng giữ vị trí nổi bật trong công cuộc xây dựng đời sống tinh thần của
xã hội, góp phần quan trọng để điều chỉnh hành vi con người, xây dựng đạo đức mới,
con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh là một lãnh tụ đặc biệt quan tâm tới đạo đức cách mạng, Người là hiện
thân của đạo đức cách mạng, nêu gương cho toàn Đảng, toàn dân ta. Đạo đức được Hồ
Chí Minh xem xét toàn diện bao gồm đạo đức công dân, cán bộ, đảng viên, người đứng
đầu, chủ chốt. Đạo đức được nhận diện từ môi trường gia đình, công sở, xã hội; trong
các mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đạo đức Hồ Chí Minh có giá trị dân tộc
và nhân loại, có ý nghĩa lịch sử, hiện tại và tương lai.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng: Người coi đạo
đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của
sông suối. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân. Người từng nói “Cũng như sông thì có nguồn mới
có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là
một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ
hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”.
Đạo đức là sức mạnh của con người. Làm cách mạng là một việc lớn nên càng phải
có sức mạnh. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một
sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất
phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang”. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ
nghĩa xã hội, có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ
sệt, rụt rè, lùi bước. Khi cần, thì sẵn sàng hi sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc.
Có đạo đức cách mạng thì gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ,
chất phác khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho
tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu 7
ngạo, không hủ hóa. Hồ Chí Minh chỉ rõ "tuy năng lực và công việc của mỗi người khác
nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng".
Trên cơ sở xác định vai trò to lớn của đạo đức cách mạng, Người yêu cầu mỗi cán bộ
đảng viên phải không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức. Theo Người, yêu
cầu đạo đức người cán bộ cần có là trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư; thương yêu con người, sống có tình nghĩa; tinh thần quốc tế trong sáng.
Người đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa
xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Đạo đức là một đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa, là sức mạnh trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, liên quan đến sự thành bại của cách mạng. Xác định
được vai trò to lớn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh
cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị
to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức,
phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã
hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, vì Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng:
“Trung với nước, hiếu với dân”
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân,
với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam
và phương Đông, song có nội dung hạn hẹp. Trung với vua, hiếu với cha mẹ, phản ánh
bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận dụng và đưa vào 8
nội dung, mới đạo đức cách mạng: Trung với nước hiếu với dân, đồng thời người đã loại
bỏ đi những yếu tố hạn chế của đạo đức cũ.
Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của
dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Trung với
nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị đạo đức cho mỗi người Việt Nam.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là
điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với dân,
phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh
đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân
tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết
Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung của hiếu với dân là:
Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Mọi đường lối, chính sách đều phục vụ lợi ích của nhân dân
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Khổng Tử đã từng nêu lên những khái niệm về cần, kiệm, liêm, chính tuy nhiên ông
cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính do “thiên phú”. Tuy nhiên, khi vận
dụng những khái niệm này của đạo đức cũ Người lại cho rằng cần, kiệm, liêm, chính
không phải do thiên phú mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên, cho nên Người đã khẳng
định: đạo đức cách mạng không phải tự trên trời sa xuống mà do sự rèn luyện bền bỉ mà
nên. Theo Người, cần, kiệm, lêm, chính là tứ đức không thể thiếu được đối với mỗi con
người giống như trời có bốn mùa, đất có bốn phương 9
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao;
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của
đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; Không xa xỉ, không hoang
phí, không bừa bãi, theo Hồ Chí Minh Cần
phải đi liền với Kiệm, cần mà không kiệm
cũng giống như gió vào nhà trống, thùng không đáy, và một dân tộc biết cần, biết kiệm là
một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, một dân tộc văn minh tiến bộ.
Liêm là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng
xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền
của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham
làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là:… cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của
dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của
mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham uý
lạo. Cụ Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng
tham lợi thì nước sẽ nguy.
Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình, với người, với việc.
Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm
điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ
chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không
ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người. Hồ Chí Minh viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người.” 10
Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng viên
mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiệm,
liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh
của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể,
phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì
Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách mạng. Thực hành chí công vô tư là
quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. “phải lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Chủ nghĩa cá nhân
chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn
cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày
hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu
mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Hồ
Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chí công vô tư là tính tốt
có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử thách : Giàu sang không quyến
rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục.
“Yêu thương con người, sống có tình nghĩa”
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với
chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ,
qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức,
bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được tự
do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu
thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những
ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con
người. Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc
tự phê bình và phê bình chân thành. Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè,
đồng chí, có thái độ tôn trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.
“Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung” 11
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần đoàn
kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn kết
của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, công lý
và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của thời đại hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng:
Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, tư tưởng về con người là một nội dung lớn,
cơ bản, phong phú và toàn diện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hình thành rất sớm, liên
“Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.”
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm, trước hết là
sự nêu gương tốt Sự tiêu gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, lãnh đạo với nhân
viên... Đảng viên phải nêu gương trước quần chúng. Người nói: ‘Trước mặt quần chúng,
không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm
mực thước cho người ta bắt chước”.
“Hai là, xây đi đôi với chống.”
Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết
phải chống những biểu hiện đạo đức sai trái, xấu xa, không phù hợp với những yêu cầu
của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích
xây. Xây dựng đạo đức mới trước hết phải đẩy mạnh việc giáo dục, từ trong gia đình
đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể
hóa sát hợp với từng tầng lớp, đối tượng. Trong các bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã
nêu rất cụ thể các phẩm chất đạo đức cơ bản đổi với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và
nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành
mạnh trong mỗi người, để mỗi người nhận thức được và tự giác thực hiện. Trong đấu
tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu phải phát hiện sớm phải chú ý phòng ngừa, ngăn
chặn. Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần
chúng rộng rãi biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua “3
xây. 3 chống”, viết sách “người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức lối sống.
“Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.”
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới
thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong”. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày
mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa
vào chủ nghĩa cá nhân”. Trong rèn luyện đạo đức, Hồ Chí Minh coi tự rèn luyện có vai 12
trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ
xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con
người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc, thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy
và thấy rõ cái dở, cái xấu. cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện
trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ của mình, trong như trong sinh
hoạt cộng đồng. Không thể là chiến sĩ thi đua ở nơi công tác khi về nhà lại mắng vợ chửi
đời, đánh con. Những người như thế không phải là người có đạo đức cách mạng.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người:
3.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người:
Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, tư tưởng về con người là một nội dung lớn,
cơ bản, phong phú và toàn diện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hình thành rất
sớm, liên tục phát triển với tất cả sự trong sáng, cao cả và nhân văn, bao gồm nhiều nội
dung phong phú, cả một quá trình phát triển từ thấp đến cao và ngày càng được hoàn
thiện thêm từ phạm vi dân tộc vươn tới nhân loại, hướng tới việc giải phóng con người
và mưu cầu hạnh phúc cho mọi người. Tư tưởng đó xuất phát từ cội nguồn quốc gia và
quốc tế, từ môi trường văn hóa gia đình, quê hương, dân tộc; toát ra từ toàn bộ thực tiễn
hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực tiễn phong trào cách mạng Việt
Nam và cách mạng thế giới.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản thể luận
có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó là nhân
dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống
trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân;
và mở rộng hơn nữa là những "người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lôgíc phát
triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy, khái
niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản cách mạng".
Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai
cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức
một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức.
Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của
Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức
cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục
con người v.v...) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người
của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng
của nó, thể hiện sự đa dạng trong quan hệ xã hội (dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí,
đồng bào); đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, con người được nhìn nhận như một chỉnh thể thống nhất cả về tâm lực, thể
lực, luôn vươn tới Chân – Thiện – Mỹ. Bằng phương pháp luận khoa học, Hồ Chí Minh
nhìn nhận con người một cách cụ thể, khoa học, Người phân loại rõ về giới tính, lứa tuổi,
nghề nghiệp trong khối thống nhất cộng đồng dân tộc (Sĩ, Nông, Công, Thương); trong 13
quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vô sản), Đồng
thời, Hồ Chí Minh cũng nhìn nhận con người qua bản chất con người mang tính xã hội
(Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất; con người là sản phẩm của xã hội). Từ
đó, có cách nhìn con người thông qua các quan hệ anh em, họ hàng, bầu bạn; đồng bào, loài người.
Hồ Chí Minh ngay từ những năm 20, nhờ mục kích cuộc sống của nhân dân các dân
tộc thuộc địa dưới ách kìm kẹp của chủ nghĩa đế quốc, nên có sự phân biệt rạch ròi giữa
một bên là đế quốc, thực dân tàn bạo, độc ác và bên kia là những người lao động bị bóc
lột, áp bức nặng nề. Người đã kết luận sâu sắc: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này
chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Cuối những năm
40, liền mạch suy nghĩ về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh viết: “Trên quả đất, có hàng
muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia thành hai hạng người Thiện và người
Ác”. Rồi Người lại ghép “bọn Việt gian bán nước,… bọn phát xít thực dân, là những ác
quỷ ma tà” vào một nhóm; còn “tất cả những người khác” vào một nhóm khác. Sở dĩ
chia con người ra từng hạng khác nhau như vậy, theo Hồ Chí Minh là để “thực hành chữ
BÁC - ÁI, thực hành “đại đoàn kết” và “giúp người tiến tới”. Người cho rằng những
người bị bóc lột, những người đi theo điều thiện thì dù màu da, tiếng nói có khác nhau,
có thể coi nhau như anh em một nhà, có thể “đại đoàn kết”, “đại hòa hợp” trong một “thế giới đại đồng”.
Theo Hồ Chí Minh, người ta mới sinh ra đều vốn tốt cả, nhưng về sau do ảnh hưởng
của bố mẹ, bạn bè, xã hội mà dần dần mỗi người một khác. Đồng thời, “ngay trong mỗi
con người đều có thiện và ác ở trong lòng”. Vì vậy: “Ta phải biết làm cho phần tốt ở
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi... Đối với
những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng
phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi
phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”.
Để làm rõ mối quan hệ “mình đối với người”, năm 1949, Hồ Chí Minh nêu ra định
nghĩa: “Chữ người nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng
bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Tuy nhiên, chữ “người” mà Hồ Chí Minh quan
tâm trước hết và hơn cả là bao gồm tuyệt đại bộ phận dân tộc và các thành phần chủ yếu
là Nhân dân lao động. Nó gần với hai chữ “đồng bào” khi Hồ Chí Minh nói “giải phóng
đồng bào”. Và khi Hồ Chí Minh viết trong Di Chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con
người” thì Người đã gửi gắm tất cả tâm tư, tình cảm và bộc lộ tư tưởng của mình đối với
Nhân dân, với đồng chí, đồng bào.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách
mạng. Nhưng không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con
người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được
nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc
Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi họ hoạt động có tổ chức, có lãnh
đạo. Và, đương nhiên đối với người dân Việt Nam cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 14
Tóm lại: Quan niệm về con người; coi con người là một thực thể thống nhất của “cái
cá nhân” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân
và cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở
con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã
hội và giải phóng chính bản thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư
tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong
quá trình lãnh đạo Nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết sức thương yêu, quý trọng dân , biết tổ
chức và phát huy sức mạnh của Nhân dân. Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh
thông qua thực tiễn cách mạng của Người đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và
là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.
3.2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người:
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của con người, Hồ Chí
Minh đã sớm khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng
con người là sự nghiệp của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, với
tinh thần "phải đem sức ta mà giải phóng cho ta". Hồ Chí Minh nhìn thấy sức mạnh của
giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam không chỉ với những gì đã
được bộc lộ, mà còn ở những điều tiềm ẩn bên trong những lực lượng to lớn ấy. Người
tin tưởng sâu sắc rằng khi giai cấp vô sản, nhân dân lao động các dân tộc thuộc địa trên
thế giới thức tỉnh, tổ chức và đấu tranh theo đường lối đúng đắn thì sức mạnh sẽ trở
thành vô địch và nhất định sẽ giành được thắng lợi trong cuộc cách mạng độc lập dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Người luôn khẳng định một vai trò nòng cốt của con người. Hồ Chí Minh khẳng
định, con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng. Theo Người, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Con người là mục tiêu
của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì
lợi ích chính đáng của con người, có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả
dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Con người là động lực của
cách mạng, nhưng đó phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí
tuệ, bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và
văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam... Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực
cơ bản trong động lực con người. Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi họ
hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Hồ Chí Minh đã đi đến tổng kết, một dân tộc dù nhỏ bé sẽ không bị một dân tộc lớn
gấp hàng chục lần thôn tính và đồng hóa nếu dân tộc ấy phát huy được sức mạnh con
người với những phẩm chất tinh thần, tư tưởng và văn hóa. Ðối với dân tộc Việt Nam,
con người làm ra lịch sử, nhân dân là chủ thể của lịch sử, là chân lý cụ thể, sinh động đã
được Hồ Chí Minh củng cố và nâng cao thành triết lý nhân sinh. Triết lý nhân sinh này
đã được phát huy và đã được chứng minh hùng hồn trong lịch sử hiện đại của dân tộc.
Phải đương đầu với hai đế quốc to, trong khi lực lượng ta yếu về nhiều mặt, nhưng Hồ 15
Chí Minh vững tin ở nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sẽ biến ít thành nhiều, nhỏ
thành lớn, yếu thành mạnh, tạo được cả thế và lực để giành thắng lợi.
3.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới:
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa
lâu dài của cách mạng: Con người phải được đặt vào vị trí trọng tâm của sự phát triển,
vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa
nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp…
Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những
con người xã hội chủ nghĩa”. Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ
xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ
nghĩa, làm gương lôi cuốn xã hội. Đây là một quá trình lâu dài, phải không ngừng hoàn
thiện, nâng cao. Đây cũng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình và của chính bản thân mỗi người.
Con người mới xã hội chủ nghĩa gồm hai mặt gắn bó với nhau. Một là, kế thừa
những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và Phương Đông). Hai là,
hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội
chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên…);
có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. Có thể nói, chiến lược
“trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội. Hồ Chí Minh thường nói đến câu nói của người Trung Quốc “Vì lợi ích mười
năm phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm phải trồng người” để chỉ đạo chiến lược “trồng
người” của Việt Nam theo cách của Việt Nam. Để thực hiện chiến lược “trồng người”
cần có nhiều biện pháp đồng bộ, nhưng giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc
nhất. Bởi lẽ, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên.
Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đoàn
viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại
khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ,
đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Theo Hồ Chí Minh, vấn đề quan tâm hàng đầu của bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Đối với thanh niên, Người căn
dặn thêm phải có sáu cái yêu: yêu Tổ quốc; yêu Nhân dân; yêu xã hội chủ nghĩa; yêu lao
động; yêu khoa học và yêu kỷ luật. Đối với thiếu niên, nhi đồng, Người căn dặn thiết thực bằng năm điều:
“Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt , lao động tốt
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
Giữ gìn vệ sinh thật tốt
Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.” 16
Để xây dựng con người mới phát triển toàn diện thì cần phải sử dụng đồng bộ nhiều
biện pháp, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định. Tựu trung lại, trong sự nghiệp
cao cả ấy có thể khái quát thành những biện pháp cụ thể chủ yếu sau đây:
Xây dựng con người mới phát triển toàn diện phải mang tính chủ động, tích cực.
Muốn có những con người như vậy xuất hiện trong công nhân, nông dân, trí thức và các
tầng lớp xã hội khác, theo Hồ Chí Minh, cần phải chủ động xây dựng nó. Người viết: “Ta
xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc. Định xây dựng ngôi
nhà như thế nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi, cát, tre, gỗ… mà xây nên”.
Phát triển giáo dục để xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Tri thức là sức
mạnh của mỗi con người và của cả dân tộc, vì vậy muốn tạo nên sức mạnh ấy thì phải
thông qua giáo dục. Xuất phát từ tinh thần hiếu học của dân tộc và từ yêu cầu mới của
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vấn đề phát triển giáo dục, nâng cao dân
trí vừa là vấn đề thời sự, vừa là vấn đề lâu dài của tiến trình xây dựng và phát triển con
người Việt Nam mới. Vì lẽ ấy, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí là một bộ phận quan
trọng hợp thành chiến lược xây dựng con người Việt Nam mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phát triển các phong trào thi đua yêu nước để xây dựng con người mới phát triển
toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn làm cho cả dân tộc Việt Nam là một rừng
hoa, phải xây dựng mỗi tập thể là một vườn hoa đẹp, mỗi con người là một bông hoa đẹp
để cho rừng hoa dân tộc ngày càng đẹp. Muốn làm được điều đó, theo Người, phải thông
qua phong trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất, chiến đấu công tác để tạo nên ngày
càng nhiều chiến sĩ thi đua, những anh hùng, dũng sĩ. Họ là những con người mới, những
người luôn luôn cố gắng thực hành cần, kiệm, liêm, chính: là những người tôi của nhân
dân, con hiếu của Tổ quốc.
Chống chủ nghĩa cá nhân; chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Suốt cuộc đời của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thương yêu, quý trọng con người, thương yêu, quý trọng
nhân dân, đem hết sức mình phục vụ lợi ích của nhân dân. Việc gì có lợi cho nhân dân dù
nhỏ cũng làm, trái lại, những gì có hại cho nhân dân dù nhỏ cũng tránh, không làm.
Người luôn thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và động viên, cổ vũ mọi
người thực hiện những đức tính tốt đẹp đó, nhất là cán bộ, đảng viên cần phải gương
mẫu để quần chúng noi theo. Người đề cao chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân,
coi chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc đẻ ra trăm thứ bệnh, là trở ngại cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Người, tham ô, lãng phí, quan liêu là những căn bệnh có
nguồn gốc từ chủ nghĩa cá nhân. Nó là kẻ thù của nhân dân, là thứ giặc ở trong lòng, là
kẻ thù nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm ngay trong các tổ
chức của ta. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chống tham ô, lãng phí và bệnh
quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư
tưởng và chính trị. Cũng như ở các mặt trận khác, muốn thắng ở mặt trận này, ắt phải
chuẩn bị kế hoạch tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên”]. Người chỉ rõ “chống
tham ô, lãng phí, quan liêu là cách mạng. Cách mạng là tiêu diệt những cái gì xấu, xây
dựng những cái gì tốt”. Đồng thời, Người cũng khẳng định: “Chống tham ô, lãng phí,
quan liêu là dân chủ. Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần
chúng. Cho nên phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng
quần chúng thì mới thành công” 17 C. Vận dụng:
1. Thực trạng văn hóa, đạo đức, con người Việt Nam Hiện nay:
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Trong thế giới cái gì cũng biến hóa, tư tưởng
con người cũng biến hoá. Có cái thì biến hóa tiến bộ lên, tức là phát triển; có cái thì biến
hóa lạc hậu đi, tức là suy thoái. Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là sự
giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động về chính trị, sa sút phẩm chất đạo
đức, xuống cấp về lối sống. Cũng như phát triển, suy thoái bao giờ cũng mang tính bản
chất, tính tổng thể của sự vật, hiện tượng, quá trình hay con người và tổ chức của con người.
“Nói về đạo đức”
Hiện nay, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống biểu hiện tính chất,
mức độ khác nhau, diễn ra ở các đối tượng khác nhau, từ đảng viên không giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý – đảng viên thường, đến đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả cán bộ cao cấp.
Và cũng đang có một thực tế báo động về việc suy thoái đạo đức, lối sống của một
bộ phận giới trẻ. Một số biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống trong một bộ phận giới trẻ
hiện nay là: Thiếu lý tưởng, không có động lực phấn đấu cụ thể và rõ ràng cho bản thân.
Thói dối trá, không trung thực, không tuân theo những chuẩn mực đạo đức mà xã hội
quy định. Không chuyên tâm vào việc nâng cao năng lực trình độ bản thân, có ý ỷ lại
người khác. Không chịu rèn luyện, cống hiến, lao động mà chỉ muốn sung sướng.
Trong vòng một vài năm trở lại đây, các phương tiện truyền thông đã nêu lên khá
nhiều biểu hiện “chưa từng có” so với trước ở xã hội chúng ta - về của sự xuống cấp đạo
đức, với chiều hướng ngày càng gia tăng, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Trước tiên là
lĩnh vực kinh tế. Nhờ vận động theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa từ bao năm nay, nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế và an sinh xã
hội, đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể so với trước. Nhưng sự xuống cấp về
đạo đức thể hiện rất rõ trong lĩnh vực này qua những đại án hình sự và nhiều vụ án kinh
tế mà nhiều người chịu sự trừng phạt của pháp luật lại nằm trong “bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”.
“Nói về văn hóa”
Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng
thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân
chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại
lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Còn ít
những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số
tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý
luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác.
Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một
chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học,
gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền 18
thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích. Cơ chế, chính sách về kinh
tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa
chưa cụ thể, rõ ràng. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt
động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng thấp.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế, bất cập. Tình trạng nhập khẩu, quảng
bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến
đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
Hưởng thụ văn hóa giữa đô thị với nông thôn, giữa đồng bằng, trung du với khu vực
vùng sâu, vùng xa còn chênh lệch. Tệ nạn xã hội, tội phạm còn phức tạp, tồn tại nhiều
hiện tượng trái với thuần phong, mỹ tục, làm cho môi trường văn hóa chưa thật lành
mạnh. Những kết quả trong hoạt động văn học, nghệ thuật, trong bảo tồn, phát huy giá trị
di sản văn hóa, chưa theo kịp yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Hệ thống thông tin đại
chúng phát triển nhanh nhưng chưa hợp lý; còn có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn
chỉ, mục đích trong một số cơ quan, đơn vị; công tác quản lý các phương tiện truyền
thông mới chưa chặt chẽ, nhiều thông tin tiêu cực, sai trái trên mạng in-tơ-nét và các
kênh truyền thông xã hội gây nhiễu loạn nhận thức, bức xúc cho người dân. Đấu tranh
phản bác các tư tưởng sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, các truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc còn nhiều hạn chế. Nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng
cao cho lĩnh vực văn hóa còn nhiều hạn chế, bất cập. Hợp tác quốc tế về văn hóa hiệu
quả chưa cao, chưa theo kịp yêu cầu phát triển.
“Nói về con người”
Con người Việt Nam đã làm nên lịch sử nghìn năm kiên cường, bền bỉ và chính lịch
sử đó đã tạo nên đặc trưng con người Việt Nam, cả mặt mạnh và cả những hạn chế. Hai
nhân tố đó đang ẩn sâu trong hiện tại qua một tiến trình tiếp nhận, chọn lọc phức tạp và đang biến đổi.
Con người và văn hóa sẽ đi theo kinh tế, cho nên chúng ta phát triển văn hóa-con
người thì kinh tế sẽ càng phát triển. Bởi con người là một yếu tố chung, gắn bó giữa kinh
tế-văn hóa-xã hội Văn hóa - nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, thấm
sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực, trở thành sức mạnh nội
sinh, động lực đột phá cho phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Tiến sĩ Nguyễn Viết
Chức, Phó Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn Văn hóa - Xã hội, Uỷ ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam khẳng định: Văn hóa ở đây chính là xây dựng hình mẫu con người
mới xã hội chủ nghĩa có tri thức, đạo đức, lối sống và thẩm mỹ cao.
Nhìn trên tổng thể xã hội, nhân sinh quan truyền thống của người Việt có nhiều điểm
tích cực cần được tiếp tục duy trì và phát huy: Một là, tinh thần hiếu học là một trong
những giá trị truyền thống quý báu được hình thành và hun đúc từ dòng chảy lịch sử
ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Hai là, lối sống cần cù, tiết kiệm của người Việt đã được
coi là một trong những đức tính điển hình. Ba là, lối sống đề cao tính tập thể, cộng đồng
của người Việt có mặt tích cực là coi trọng tình làng nghĩa xóm, đề cao tinh thần đoàn
kết, hòa thuận, tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, không chấp nhận lối sống hờ
hững, vô trách nhiệm. Bốn là, trong đời sống tinh thần xã hội, người Việt truyền thống 19
coi trọng chữ “Tình”, đề cao ân nghĩa,… đôi khi, chữ “Tình” đã v ượt lên trên cả lý lẽ, luật pháp.
Nhân sinh quan mới của con người Việt Nam hiện nay không chỉ là sự kế thừa và
phát huy nhân sinh quan truyền thống. Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch
sử, đã hình thành nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp, sự tồn tại của chúng trong lối sống
hiện đại thể hiện tính liên tục của nhân sinh quan và bản sắc văn hóa của con người Việt
Nam. Hơn nữa, trong lối sống của con người Việt Nam mà chúng ta xây dựng để đáp
ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập phải là: dân tộc, hiện đại, văn minh. Để làm được điều
đó, chúng ta phải biết khơi dậy và phát huy hiệu quả những giá trị tích cực của nhân sinh
quan truyền thống như: truyền thống hiếu học, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái,
trọng tình trọng nghĩa, lối sống cần cù, tiết kiệm,…
2. Một số nội dung xây dựng văn hóa, đạo đức con người Việt Nam Hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người nói chung, về xây dựng con người mới phát
triển toàn diện nói riêng là cơ sở khoa học cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước.
Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải thực sự coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển xã hội; cần phải chú trọng phát triển con người Việt Nam một
cách toàn diện, cần phải nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và bồi
dưỡng nhân tài, phát triển nhân cách con người Việt Nam vừa “hồng thắm” vừa “chuyên
sâu”. Không phải ngẫu nhiên, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng
mới với những đức tính sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân
thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn
trọng kỉ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, năng suất cao
vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mĩ và thể lực”.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược
phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân
dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao 20