Tư tưởng triết học chính trị Hy Lạp cổ đại | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Tư tưởng triết học chính trị Hy Lạp cổ đại | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

99
Tư tưởng triết học chính trị Hy Lạp cổ đại
Nguyễn Thị Thanh Huyền
1
1
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Email: thanhhuyen.khxhnv@gmail.com
Nhận ngày 26 tháng 5 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 5 tháng 7 năm 2017.
Tóm tắt:tưởng triết học chính trị Hy Lạp cổ đại đạt đến sự phát triển cực thịnh vào thế kỷ V
trước Công nguyên (TCN) với tên tuổi của Platon Aristotle. tưởng đó dựa trên quan niệm
cho rằng con người là thực thể xã hội, không thể sống bên ngoài xã hội, cần tham gia vào các hoạt
động cộng đồng. Ở thế kỷ IV TCN, quan niệm đó bị thay thế bởi quan niệm đề cao con người
nhân. Tiêu biểu cho quan niệm đề cao con người cá nhân là Epicurus và trường phái khắc kỷ. Theo
quan niệm này, con người về bản chất không thích nghi với việc sống trong cộng đồng. Cuộc sống
công cộng không phải cuộc sống của nhân. Hạnh phúc của cá nhân nào, do chính người đó
quyết định. Con người cần tránh xa đời sống công cộng, rút lui vào đời sống nội tâm, tìm đến sự
bình thản trong tâm hồn.
Từ khóa: Triết học chính trị, Hy Lạp cổ đại, con người.
Phân loại ngành: Triết học
Abstract: The ancient Greek political philosophy reached its peak in the 5
th
century BC, with great
names of Platon and Aristotle. It was based on the notion that human beings were social entities, so they
could not live outside the society, but needed to participate in community activities. In the 4
th
century
BC, the view was replaced by one upholding human beings as individuals, represented by Epicurus and
Stoicism. The view considers human beings, in their nature, not adaptive to living in the community.
Public life is not that of an individual. The happiness of an individual is determined by him/herself.
People need to stay away from public life, retreating into inner life, seeking peace of mind.
Keywords: Political philosophy, ancient Greece, human beings.
Subject classification: Philosophy
1. Mở đầu
Triết học chính trị cổ đại phương Tây dựa
trên quan điểm coi con người nhận thức
mang tính hội. Dựa trên nền tảng
quan niệm đó thì “Lý thuyết chính trị là thứ
thuyết về việc con người hành vi ra
sao đối với nhau đặc biệt việc tại sao
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2018
100
một người nào đó lại phải tuân theo một
người nào đó khác thay chiều theo ý
thích của mình
[3, tr.276-277]. Quan niệm
con người là thực thể xã hội chính là trụ cột
cơ bản của triết học chính trị Hy Lạp cổ đại.
Quan điểm về con người như một thực thể
mang tính hội nội tại quan điểm
thuyết chính trị như thuyết luận giải
những vấn đề về nhà nước, xã hội xuất phát
từ cách luận giải vấn đề bản chất con người
là gì đã bị rơi vào khủng hoảng vào cuối thế
kỷ IV TCN. Bài viết phân tích nội dung
tưởng triết học chính trị của một số nhà triết
học và trường phái trong thời kỳ Hy Lạp cổ
đại, cụ thể tư tưởng của Socrates, Platon,
Aristotle, Epicurus và phái khắc kỷ.
2. tưởng triết học chính trị của
Socrates, Platon, Aristotle
2.1. tưởng triết học chính trị của
Socrates
Socrates tưởng đặc sắc về triết học
chính trị. Theo những tài liệu để lại, Socrates
là người tuân thủ luật pháp và hoàn tất nghĩa
vụ quân sự xuất sắc, nhưng ông đã tránh xa
chính trị. Ông bị kết án tử hình vi phạm
pháp luật Athens. Một khi luật pháp đã được
đặt ra thì nghĩa vụ công dân là phải tuân
theo. Công dân có đức hạnh thì phải tuân thủ
luật pháp. Đạo đức hợp nhất con người với
hội, con người không được phá hủy luật
pháp. Quyền của kết cấu hội tối
thượng. Chính vì vậy, khi bị luật pháp kết tội
tử hình, Socrates đã chấp nhận điều đó
ông là một công dân Athens.
2.2. Tư tưởng triết học chính trị của Platon
Đối với Platon, chính trị một học thuyết
không phải về các phương tiện, về mục
đích. Cuộc sống xứng đáng với con người
cuộc sống thành bang. Con người sống
trong hội giữa những con người. Trong
hình dung của ông, con người giữa
những con người. Platon cho rằng cuộc
sống trầm cuộc sống cao nhất con
người thể sống. Nhưng nhà triết học
không rút lui khỏi thế giới, không sống
tịch để suy niệm, dấn thân vào thế
giới, trong ba lĩnh vực: chính trị, giáo dục
tình yêu. Các nhà triết học hiểu biết về
thế giới ý niệm, đặc biệt ý niệm thiện, vì
vậy họ yêu mến nó. điều đó khiến họ
mong ước thế giới thường ngày phải giống
các ý niệm cao nhất. Cũng như vậy, các nhà
triết học hiểu thế o công bằng, vậy
họ thấy có nghĩa vụ góp phần thiết lập sự
công bằng trên thế giới, tham gia vào đời
sống chính trị tham gia sự cai trtrong
nhà nước tưởng. Con người trong quan
niệm của Platon có sự hài hòa cả về thể lực
trí lực. Điều đó được nhờ nền giáo
dục do nhà nước đảm nhiệm. Nhà ớc
một thể chế giáo dục nhằm mục đích thực
hiện sự công bằng cái thiện trên trần
gian. nhân chỉ thể vừa sống tốt, vừa
sống hạnh phúc trong nhà nước - xã hội.
2.3. Tư tưởng triết học chính trị của Aristotle
Aristotle đưa ra định nghĩa nổi tiếng về con
người như sau: “con người, là một động vật
do bản nh tự nhiên phải sống trong
một nhà nước
[1, tr.46-47]. Cá nhân không
thể một cuộc sống lành mạnh tốt đẹp
bên ngoài xã hội. Con người là một sinh vật
chính trị; cao hơn các loài sống bầy đàn
khác, con người sinh vật duy nhất
được ban cho tiếng nói. “Ngôn ngữ của con
người dùng để chỉ ra điều lợi, điều hại,
cũng tương tự như thế điều gì là công chính
thế nào bất công. Đặc biệt hơn nữa,
Nguyễn Thị Thanh Huyền
101
chỉ con người mới có ý thức về thiện và ác,
về công bằng bất công, về các đức
tính khác nữa. Sự phối hợp của các sinh vật
có ý thức này tạo nên gia đình và nhà nước
[1, tr.47]. Con người động vật tốt đẹp nhất
khi sống trong cộng đồng, nếu bch ly khỏi
luật pháp và ng chính, strthành động
vật xấu xa nhất. Theo Aristotle, con người tự
liên kết lại với nhau không phải xuất phát từ
mong muốn của họ để dẫn đến xây dựng một
nnước nhân tạo, mà xuất phát từ việc nhân
loại tuân thủ một quy trình cơ bản của bản chất
con người. Từ trong cấu trúc ca tồn tại người,
c sự tồn tại dưới hình thức thể, hay gia
đình, con người theo bản tính tự nhiên hướng
tới thiết lập nhà nước.
Đối với Aristotle, hạnh phúc của nhân
ch thể có được khi sống trong cộng đồng.
Con người muốn sống hạnh phúc trước hết
phải đức hạnh. Những đức hạnh
Aistotle nói đến phần lớn là những đặc trưng
của con người trong giao tiếp hội. Ông
viết: “Con người về bản chất được sinh ra để
sống trong một polis” (khái niệm để chỉ lối tổ
chức nhà ớc độc đáo của người Hy Lạp,
vào thời Homere, nó được hiểu như một cụm
n , sống có tổ chức, được thành lũy kiên
cố xung quanh bao bọc). Aristotle khẳng định
con người nhân để một đời sống hạnh
phúc trọn vẹn, cần sống trong cộng đồng nhà
ớc. Đối với ông, chính trị học là sự tiếp nối
của đạo đức học và con người xã hội là khâu
gắn kết sự thống nhất giữa hai nh vực này,
đạo đức có thể được sinh ra từ chính trị, hạnh
phúc trọn vẹn của nhân được thực hiện
trong c polis; con người được đảm bảo tự
do nhân trong khuôn khổ của luật pháp.
Trong quan niệm của Aristotle, ng dân
cộng đồng mối quan hệ chặt chẽ như một
chỉnh thể thống nhất, công dân thành viên
của một cộng đồng. Cộng đồng này chính
cấu chính trị. Nhà nước tiền đề để các
ng dân tự do trưởng thành về nhân cách mà
không rơi vào chủ nghĩa nhân. Mỗi
nhân muốn đức hạnh cần phải được giáo
dục sự thực hành để trở thành thói quen
tốt. Giáo dục thuộc về trách nhiệm quốc gia.
Giáo dục cần đồng nhất cho tất cmọi người
và đó nền giáo dục công lập do nhà ớc
đảm nhiệm. Để thể thực hành đức hạnh
như một thói quen tốt, cần luật pháp. Sự
tuân thủ luật pháp sẽ giúp con người hình
thành nên những thói quen tốt. Từ đó, theo
Aristotle: “Đứcnh của công dân, do đó, phải
liên quan đến cơ cấu chính trị mà họ là thành
viên
[1, tr.55].
thể thấy, trong học thuyết chính trị
của các nhà triết học Hy Lạp thế kỷ V TCN,
con người được quan niệm một thực thể
xã hội, vì vậy, con người không sống ngoài
nhà ớc. Cả phẩm hạnh, năng lực, hạnh
phúc của nhân chỉ thể đạt được trong
hội. Con người nhân chưa được đề
cao. Theo đánh giá của I. Berlin: “Không có
dấu vết nào đây của chủ nghĩa nhân
đích thực, i học thuyết cho rằng
những giá trị nhân - niềm vui, hay hiểu
biết, hay tình bạn, hay đức hạnh, hay tự thể
hiện mình trong nghệ thuật, hay trong cuộc
sống - c xếp đặt chính trị hội
phải được xem thứ yếu, bởi chính
những giá trị ấy mà các xếp đặt tạo ra một
bệ đỡ, một phương tiện không thể thay
thế được nữa, nhưng vẫn chỉ phương
tiện
[3, tr.293-294].
3. tưởng triết học chính trị của
Epicurus và trường pi khắc kỷ
3.1. Tư tưởng của Epicurus
Đối với Epicurus, nhà nước hầu như không
tồn tại. Đối với ông, vấn đề m sao con
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2018
102
người thể tránh khỏi bị tổn thương, làm
sao tránh khỏi bị khổ đau. Theo ông, hiện
thực tự nhiên được chi phối bởi các định
luật sắt đá mà con người không thể thay đổi
được. Con người không thể phá hủy hay
tránh được tự nhiên, nhưng thể tránh va
chạm với tự nhiên một cách không cần
thiết. Epicurus quan tâm vấn đề: điều m
cho con nời bị bất hạnh? Theo ông, đó
chính sự sợ hãi thần linh, sợ hãi cái chết,
thành kiến, sợ đau đớn; đấy cũng chính là
nhữngdo sinh ra tôn giáo. Đối với Epicurus,
vũ trụ tự thân hoạt động, thần thánh có tồn tại,
nhưng một thế giới xa xôi, không can thiệp
vào chuyện của loài người, con người không
phải sợ thần linh, nhưng cũng không trông chờ
gì thần linh. Con người phải nhận biết
tự tìm hiểu để biết rằng, linh hồn được
tạo nên bởi các nguyên tử, n linh hồn
hữu hình, không thể tồn tại lâu hơn thân
xác, con người được tạo thành từ những
nguyên tử, khi sống đương nhiên ta không
biết đến cái chết, còn khi chết, ấy là lúc các
nguyên t phân tán trong chân không,
như vậy ta không còn ta, cái chết không
đáng sợ. Còn đối với những đau đớn thì
một ứng xử khôn khéo, thành thạo cũng làm
nó biến mất. Nếu đau đớn quá mạnh thì cái
chết sẽ giải thoát cho con người. Bằng cách
sống thận trọng theo sự hướng dẫn của tự
nhiên, con người sẽ tránh được đau đớn
bệnh tật. Đối với con người, vấn đề còn lại
là hạnh phúc, bình an, hài hòa nội tâm. Làm
thế nào để được những cái đó? Theo
Epicurus, con người đạt đến điều đó không
phải bằng sự giàu sang, bằng quyền lực,
danh tiếng. Cuộc sống công cộng đem đến
cho con người nhiều đau đớn hơn niềm vui
sướng, chỉ nhân lên những mối lo lắng. Con
người nên tránh xa những tình huống khiến
mình thể bị đau đớn. Con người có thể
thực hiện điều này bằng cách tránh
những hình thức cam kết. Epicurus chống
lại thái độ say chính trị, quá nhiệt nh,
hăng say với chính trị. Theo ông, mỗi người
hãy giống như một diễn viên, đóng vai diễn
dành cho mình, nhưng không đồng nhất hóa
với vai diễn. Mỗi người m đầy đủ nghĩa
vụ tối thiểu của mình như bầu cử, tham gia
đóng thuế, tuân thủ trật tự, nhưng hãy rút
lui vào đời sống nội m của mình, tìm đến
niềm vui của riêng mình và với nhóm người
giống mình. Con người về bản chất không
thích nghi với việc sống trong cộng đồng
thành bang. Cuộc sống công cộng cạm
bẫy, con người chỉ nên tham gia cuộc sống
công cộng khi cần thiết để tránh khỏi đau
đớn. Người hiểu biết không nên tích cực
tham gia vào đời sống công cộng. Ông viết:
“Chúng ta hãy cố gắng hy sinh bản thân
một chút để có những thái độ, hành vi đúng
đắn thể hiện sự tôn trọng tập tục, luật lệ
một số nơi cũng như chấp nhận những niềm
tin chung phổ biến về những liên quan
đến sự cao quí thiêng liêng của con
người, không nên tự gây phiền phức cho
chính mình. Hơn nữa đừng dính vào việc
xem xét ý kiến của họ. Thực hiện những
điều này thì một người có thể sống hòa hợp
với xung quanh” [8, tr.336]. Chỉ có một con
đường đi đến tự do, đó coi khinh những
gì ở ngoài quyền lực của chúng ta. Tình yêu
bạn nguồn gốc xác thực của niềm
vui, những vui sướng của cuộc sống riêng
tư. Còn đời sống hội không phải con
đường dẫn đến hạnh phúc. Con đường để
con người tìm kiếm hạnh phúc là rút lui vào
thành trì nội tâm của tâm hồn nhân, sao
cho tâm hồn chúng ta không bị xáo trộn,
mất cân bằng, đạt đến sự ưu nhất. Điều
thiện cao nhất của con người sự vui thú,
cao nhất của sự vui thú sự thanh thản
Nguyễn Thị Thanh Huyền
103
trong tâm hồn, không nỗi đau khổ của
thể xác tinh thần. Muốn đạt được cách
sống trên đây, con người cần đến tri thức, vì
chỉ tri thức, con người mới biết nên làm
nên tránh điều nếu muốn đạt được
bình an thỏa mãn. Cuộc sống công cộng
không phải cuộc sống của nhân. Nhà
nước chỉ phương tiện, chứ không phải
mục đích. Hạnh phúc của cá nhân nào do
chính người đó quyết định.
3.2. Tư tưởng của trường phái khắc kỷ
Trường phái khắc kỷ (mà người sáng lập là
Zeno) cho rằng, tự nhiên tuân theo các qui
luật của lý tính, mọi cái trong tự nhiên đều
tuân theo tính tất yếu. Con người một
bộ phận của tự nhiên, con người chỉ cần
trí để thấu hiểu sự vật chính mình.
Mọi người về bản đều như nhau con
người thrèn luyện trí bên trong để
thấu hiểu những định luật vĩnh cửu của thế
giới. Điều chúng ta nên m hòa hợp
chính mình với thế giới, phục ng trật t
của trụ. Con người đức hạnh sáng
suốt phải học để không quan tâm đến bão tố
của cuộc sống công cộng, thoát vào bên
trong bản thân mình, bỏ qua những thứ
công cộng chẳng mấy quan trọng. Chỉ
cuộc sống nội tâm mới là cuộc sống đích
thực, những thứ ngoại tại là thứ mong manh
phù du.
Cũng như trường phái khoái lạc, trường
phái khắc kỷ chỉ quan tâm đến điều tốt đẹp
của nhân. Trường phái khắc kỷ quan
niệm cho rằng, con người một phần của
tự nhiên, sau khi chết sẽ trở về với tự nhiên,
không một thế giới siêu nhiên hay địa
ngục chờ đợi con người. Tự nhiên bị chi
phối bởi những nguyên dựa trên trí,
nên chúng ta không thể thay đổi được nó.
Vậy nên, trước cái chết hay thảm kịch
nhân, chúng ta phải có thái độ chấp nhận,
điềm tĩnh.
Những người theo trường phái khắc kỷ
khả năng chịu đựng nỗi thăng trầm của
cuộc đời với tất cả sự điềm tĩnh phẩm
cách chịu đựng nghịch cảnh mà không phàn
nàn. Nếu trong trường hợp phải chịu đựng
quá sức, họ có thể chấm dứt cuộc sống bằng
tự sát. Tinh thần khắc kỷ là: “Khi anh chấp
nhận một cuộc sống đơn giản, thì đừng tự
hào về điều này, nếu anh người kiêng
rượu thì đừng luôn mồm nói tôi người
kiêng rượu
”,
nếu có lúc nào đó, anh muốn
rèn luyện một cách chăm chỉ, hãy giữ kín
điều đó đừng phô bày nó. Đừng ôm
những bức tượng. Nếu anh rất khát nước t
hãy uống nhiều nước lạnh sau đó rửa miệng
đừng nói với ai cả
[7, tr.363]. Đối với
người khắc kỷ, người đang đạt được tiến bộ
thì không đổ lỗi cho ai, không ca ngợi ai,
không phàn nàn ai, không kết tội ai, không
bao giờ nói về chính mình như một người
nào đó, hoặc như người không biết bất cứ
điều gì.
Trường phái khắc kỷ quan niệm rằng,
cuộc đời con người phải hài hòa với tự
nhiên, nếu tuân theo quy luật trí t
con người sẽ tìm được hạnh phúc; “người
tuân theo sự cần thiết một cách đúng đắn
kẻ khéo léo khôn ngoan
[7, tr.366].
Hạnh phúc duy nhất chỉ thể tìm trong
đức hạnh. Đức hạnh lại chính tuân theo
quy luật, ý thức bổn phận, vượt qua từ
chối, luôn nghiêm khắc kỷ cương với
chính bản thân mình. Con người chấp
nhận hay chống đối số phận thì vẫn không
thắng được số phận. Nhiệm vụ quan trọng
nhất của con người phục tùng trật tự của
trụ, nói cách khác nhẫn nhục chịu
đựng số phận càng nhiều ng tốt. Thông
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2018
104
qua hành động như vậy, con người sẽ được
hạnh phúc cao nhất, bao gồm sự thanh thản
trong tâm hồn. Điều thiện cao nhất gồm sự
thanh thản trong tâm hồn. tưởng sống
của nhà khắc kỷ cảm xúc. Nhà thông
thái khắc kỷ không cảm xúc, khô khan,
không thiên kiến, không thể bị tổn thương.
Những lợi ích bên ngoài cũng như những
cám dỗ vật chất bên ngoài đều nghĩa.
Danh giá và ô nhục, ham muốn và đau đớn,
giàu nghèo, sức khỏe bệnh tật, sự
sống cái chết cũng không quan
trọng. Người đức hạnh chối bỏ chúng,
thậm cthể chối bỏ cả cuộc đời mình.
Quan niệm này của các nhà khắc kỷ khác
với trường phái khoái lạc khi hcoi mục
đích cuộc đời con người là ham muốn
(khoái lạc), đối với các nhà khắc kỷ thì
chính ý nghĩa khách quan về trật tự tự nhiên
chỉ dẫn đường đi cho con người.
Như vậy, trong triết học chính trị thời kỳ
Hy Lạp hóa, người ta không quan tâm đến
cuộc sống công cộng, nếu thì nhà nước
cũng chỉ phương tiện không phải mục
đích. Vấn đtrọng tâm của triết học chính
trị thời kỳ này là đạo đức cá nhân. Giờ đây,
con người nhân được đề cao, đạo đức
đạo đức nhân thể đạt được thông
qua con đường tự nhận thức. Cuộc sống
công cộng không đem đến hạnh phúc cho
nhân, vậy nhân tìm đến sự bình
thản trong tâm hồn, tránh xa cuộc sống
công cộng và rút lui vào đời sống nội tâm.
4. Kết luận
Xuất phát từ quan niệm cho rằng con người là
thực thxã hội, không thsống bên ngi
hội, Platon, Aristotle đã đề ra các mô hình n
nước lý tưởng. Epicurus và các nhà khắc ktừ
bquan niệm đề cao con người hội, quay
v quan niệm đề cao con người nhân,
không quan m đến phúc lợi hội, chỉ
quan tâm đến điều tốt đẹp của cá nn. Đây có
thể coi là một giá trị to lớn của triết học thời kỳ
Hy Lạp a. Việc rút lui khỏi cuộc sống ng
cộng, quay về thành trì nội m để m kiếm
cuộc sống yên bình, một mặt thể hiện sự bất
lực của con người trước thực tiễn hội, mặt
khác thhiện nỗ lực không mệt mỏi của con
người trong hành trình kiếm tìm hạnh pc
của nhân. Cho dù dưới nh thức nào, c
nhà triết học chính trị Hy Lạp cổ đại đều muốn
con người có một cuộc sống tự do, ng bằng
và hạnh phúc. Đó chính là giá trị nhân văn của
tư tưởng triết học chính trị Hy Lạp cổ đại.
Tài liệu tham khảo
[1] Aristotle (2013), , Nxb Thế giới, Chính trị luận
Hà Nội.
[2] Edward McNall Burns (2008), Văn minh
phương Tây - lịch sử và văn hóa, Nxb Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
[3] I. Berlin (2014), Bốn tiểu luận về tự do, Nxb
Tri thức, Hà Nội.
[4] I. Berlin (2015), Tất định luận tự do lựa
chọn, Nxb Tri thức, Hà Nội.
[5] Plato (2008),
Cộng hòa”, , Plato chuyên khảo
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
[6] Plato (2008),
Luật pháp”, , Plato chuyên khảo
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
[7] Saxe Commins, Robert N. Linscott (2005),
Quyển ch của Epictetus”, Mối quan hệ
giữa người với người, Nxb n a Thông
tin, Nội.
[8] Saxe Commins, Robert N. Linscott (2005),
“Các học thuyết chính”, Mối quan h giữa
người với người, Nxb Văn a Thông tin,
Nội.
Nguyễn Thị Thanh Huyền
105
| 1/7

Preview text:

Tư tưởng triết học chính trị Hy Lạp cổ đại
Nguyễn Thị Thanh Huyền1
1 Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Email: thanhhuyen.khxhnv@gmail.com
Nhận ngày 26 tháng 5 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 5 tháng 7 năm 2017.
Tóm tắt: Tư tưởng triết học chính trị Hy Lạp cổ đại đạt đến sự phát triển cực thịnh vào thế kỷ V
trước Công nguyên (TCN) với tên tuổi của Platon và Aristotle. Tư tưởng đó dựa trên quan niệm
cho rằng con người là thực thể xã hội, không thể sống bên ngoài xã hội, cần tham gia vào các hoạt
động cộng đồng. Ở thế kỷ IV TCN, quan niệm đó bị thay thế bởi quan niệm đề cao con người cá
nhân. Tiêu biểu cho quan niệm đề cao con người cá nhân là Epicurus và trường phái khắc kỷ. Theo
quan niệm này, con người về bản chất không thích nghi với việc sống trong cộng đồng. Cuộc sống
công cộng không phải là cuộc sống của cá nhân. Hạnh phúc của cá nhân nào, do chính người đó
quyết định. Con người cần tránh xa đời sống công cộng, rút lui vào đời sống nội tâm, tìm đến sự
bình thản trong tâm hồn.
Từ khóa: Triết học chính trị, Hy Lạp cổ đại, con người.
Phân loại ngành: Triết học
Abstract: The ancient Greek political philosophy reached its peak in the 5th century BC, with great
names of Platon and Aristotle. It was based on the notion that human beings were social entities, so they
could not live outside the society, but needed to participate in community activities. In the 4th century
BC, the view was replaced by one upholding human beings as individuals, represented by Epicurus and
Stoicism. The view considers human beings, in their nature, not adaptive to living in the community.
Public life is not that of an individual. The happiness of an individual is determined by him/herself.
People need to stay away from public life, retreating into inner life, seeking peace of mind.
Keywords: Political philosophy, ancient Greece, human beings.
Subject classification: Philosophy 1. Mở đầu
và mang tính xã hội. Dựa trên nền tảng
quan niệm đó thì “Lý thuyết chính trị là thứ
Triết học chính trị cổ đại phương Tây dựa lý thuyết về việc con người có hành vi ra
trên quan điểm coi con người có nhận thức sao đối với nhau và đặc biệt là việc tại sao 99
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2018
một người nào đó lại phải tuân theo một đích. Cuộc sống xứng đáng với con người
người nào đó khác thay vì chiều theo ý là cuộc sống thành bang. Con người sống
thích của mình” [3, tr.276-277]. Quan niệm trong xã hội giữa những con người. Trong
con người là thực thể xã hội chính là trụ cột hình dung của ông, con người là ở giữa
cơ bản của triết học chính trị Hy Lạp cổ đại. những con người. Platon cho rằng cuộc
Quan điểm về con người như một thực thể sống trầm tư là cuộc sống cao nhất mà con
mang tính xã hội nội tại và quan điểm lý người có thể sống. Nhưng nhà triết học
thuyết chính trị như lý thuyết luận giải không rút lui khỏi thế giới, không sống cô
những vấn đề về nhà nước, xã hội xuất phát tịch để suy niệm, mà là dấn thân vào thế
từ cách luận giải vấn đề bản chất con người giới, trong ba lĩnh vực: chính trị, giáo dục
là gì đã bị rơi vào khủng hoảng vào cuối thế và tình yêu. Các nhà triết học hiểu biết về
kỷ IV TCN. Bài viết phân tích nội dung tư thế giới ý niệm, đặc biệt là ý niệm thiện, vì
tưởng triết học chính trị của một số nhà triết vậy họ yêu mến nó. Và điều đó khiến họ
học và trường phái trong thời kỳ Hy Lạp cổ mong ước thế giới thường ngày phải giống
các ý niệm cao nhất. Cũng như vậy, các nhà
đại, cụ thể là tư tưởng của Socrates, Platon, triết học hiểu thế nào là công bằng, vì vậy
Aristotle, Epicurus và phái khắc kỷ.
họ thấy có nghĩa vụ góp phần thiết lập sự
công bằng trên thế giới, tham gia vào đời
2. Tư tưởng triết học chính trị của sống chính trị và tham gia sự cai trị trong
Socrates, Platon, Aristotle
nhà nước lý tưởng. Con người trong quan
niệm của Platon có sự hài hòa cả về thể lực
2.1. Tư tưởng triết học chính trị của và trí lực. Điều đó có được nhờ nền giáo Socrates
dục do nhà nước đảm nhiệm. Nhà nước là
một thể chế giáo dục nhằm mục đích thực
Socrates có tư tưởng đặc sắc về triết học hiện sự công bằng và cái thiện trên trần
chính trị. Theo những tài liệu để lại, Socrates gian. Cá nhân chỉ có thể vừa sống tốt, vừa
là người tuân thủ luật pháp và hoàn tất nghĩa sống hạnh phúc trong nhà nước - xã hội.
vụ quân sự xuất sắc, nhưng ông đã tránh xa
chính trị. Ông bị kết án tử hình vì vi phạm 2.3. Tư tưởng triết học chính trị của Aristotle
pháp luật Athens. Một khi luật pháp đã được
đặt ra thì nghĩa vụ công dân là phải tuân Aristotle đưa ra định nghĩa nổi tiếng về con
theo. Công dân có đức hạnh thì phải tuân thủ người như sau: “con người, là một động vật
luật pháp. Đạo đức hợp nhất con người với mà do bản tính tự nhiên phải sống trong
xã hội, con người không được phá hủy luật một nhà nước
pháp. Quyền của kết cấu xã hội là tối
” [1, tr.46-47]. Cá nhân không
thượng. Chính vì vậy, khi bị luật pháp kết tội thể có một cuộc sống lành mạnh và tốt đẹp
tử hình, Socrates đã chấp nhận điều đó vì bên ngoài xã hội. Con người là một sinh vật
ông là một công dân Athens.
chính trị; cao hơn các loài sống bầy đàn
khác, vì con người là sinh vật duy nhất
2.2. Tư tưởng triết học chính trị của Platon
được ban cho tiếng nói. “Ngôn ngữ của con
người dùng để chỉ ra điều lợi, điều hại, và
Đối với Platon, chính trị là một học thuyết cũng tương tự như thế điều gì là công chính
không phải về các phương tiện, mà về mục và thế nào là bất công. Đặc biệt hơn nữa, 100 Nguyễn Thị Thanh Huyền
chỉ con người mới có ý thức về thiện và ác, công dân tự do trưởng thành về nhân cách mà
về công bằng và bất công, và về các đức không rơi vào chủ nghĩa cá nhân. Mỗi cá
tính khác nữa. Sự phối hợp của các sinh vật nhân muốn có đức hạnh cần phải được giáo
có ý thức này tạo nên gia đình và nhà nước” dục và sự thực hành để trở thành thói quen
[1, tr.47]. Con người là động vật tốt đẹp nhất tốt. Giáo dục thuộc về trách nhiệm quốc gia.
khi sống trong cộng đồng, nếu bị tách ly khỏi Giáo dục cần đồng nhất cho tất cả mọi người
luật pháp và công chính, nó sẽ trở thành động và đó là nền giáo dục công lập do nhà nước
vật xấu xa nhất. Theo Aristotle, con người tự đảm nhiệm. Để có thể thực hành đức hạnh
liên kết lại với nhau không phải xuất phát từ như một thói quen tốt, cần có luật pháp. Sự
mong muốn của họ để dẫn đến xây dựng một tuân thủ luật pháp sẽ giúp con người hình
nhà nước nhân tạo, mà xuất phát từ việc nhân thành nên những thói quen tốt. Từ đó, theo
loại tuân thủ một quy trình cơ bản của bản chất Aristotle: “Đức tính của công dân, do đó, phải
liên quan đến cơ cấu chính trị mà họ là thành
con người. Từ trong cấu trúc của tồn tại người, viên” [1, tr.55].
cả sự tồn tại dưới hình thức cá thể, hay gia
Có thể thấy, trong học thuyết chính trị
đình, con người theo bản tính tự nhiên hướng của các nhà triết học Hy Lạp thế kỷ V TCN,
tới thiết lập nhà nước.
con người được quan niệm là một thực thể
Đối với Aristotle, hạnh phúc của cá nhân xã hội, vì vậy, con người không sống ngoài
chỉ có thể có được khi sống trong cộng đồng. nhà nước. Cả phẩm hạnh, năng lực, hạnh
Con người muốn sống hạnh phúc trước hết phúc của cá nhân chỉ có thể đạt được trong
phải có đức hạnh. Những đức hạnh mà xã hội. Con người cá nhân chưa được đề
Aistotle nói đến phần lớn là những đặc trưng
của con người trong giao tiếp xã hội. Ông cao. Theo đánh giá của I. Berlin: “Không có
viết: “Con người về bản chất được sinh ra để dấu vết nào ở đây của chủ nghĩa cá nhân
sống trong một polis” (khái niệm để chỉ lối tổ đích thực, là cái học thuyết cho rằng có
chức nhà nước độc đáo của người Hy Lạp, những giá trị cá nhân - niềm vui, hay hiểu
vào thời Homere, nó được hiểu như một cụm biết, hay tình bạn, hay đức hạnh, hay tự thể
dân cư, sống có tổ chức, được thành lũy kiên hiện mình trong nghệ thuật, hay trong cuộc
cố xung quanh bao bọc). Aristotle khẳng định sống - và các xếp đặt chính trị và xã hội
con người cá nhân để có một đời sống hạnh phải được xem là thứ yếu, bởi vì chính
phúc trọn vẹn, cần sống trong cộng đồng nhà những giá trị ấy mà các xếp đặt tạo ra một
nước. Đối với ông, chính trị học là sự tiếp nối bệ đỡ, một phương tiện dù không thể thay
của đạo đức học và con người xã hội là khâu thế được nữa, nhưng vẫn chỉ là phương
gắn kết sự thống nhất giữa hai lĩnh vực này, tiện” [3, tr.293-294].
đạo đức có thể được sinh ra từ chính trị, hạnh
phúc trọn vẹn của cá nhân được thực hiện
trong các polis; con người được đảm bảo tự 3. Tư tưởng triết học chính trị của
do cá nhân trong khuôn khổ của luật pháp. Epicurus và trường phái khắc kỷ
Trong quan niệm của Aristotle, công dân và
cộng đồng có mối quan hệ chặt chẽ như một 3.1. Tư tưởng của Epicurus
chỉnh thể thống nhất, công dân là thành viên
của một cộng đồng. Cộng đồng này chính là Đối với Epicurus, nhà nước hầu như không
cơ cấu chính trị. Nhà nước là tiền đề để các tồn tại. Đối với ông, vấn đề là làm sao con 101
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2018
người có thể tránh khỏi bị tổn thương, làm thực hiện điều này bằng cách né tránh
sao tránh khỏi bị khổ đau. Theo ông, hiện những hình thức cam kết. Epicurus chống
thực tự nhiên được chi phối bởi các định lại thái độ say mê chính trị, quá nhiệt tình,
luật sắt đá mà con người không thể thay đổi hăng say với chính trị. Theo ông, mỗi người
được. Con người không thể phá hủy hay né hãy giống như một diễn viên, đóng vai diễn
tránh được tự nhiên, nhưng có thể tránh va dành cho mình, nhưng không đồng nhất hóa
chạm với tự nhiên một cách không cần với vai diễn. Mỗi người làm đầy đủ nghĩa
thiết. Epicurus quan tâm vấn đề: điều gì làm vụ tối thiểu của mình như bầu cử, tham gia
cho con người bị bất hạnh? Theo ông, đó đóng thuế, tuân thủ trật tự, nhưng hãy rút
chính là sự sợ hãi thần linh, sợ hãi cái chết, lui vào đời sống nội tâm của mình, tìm đến
thành kiến, sợ đau đớn; đấy cũng chính là niềm vui của riêng mình và với nhóm người
những lý do sinh ra tôn giáo. Đối với Epicurus, giống mình. Con người về bản chất không
vũ trụ tự thân hoạt động, thần thánh có tồn tại, thích nghi với việc sống trong cộng đồng
nhưng ở một thế giới xa xôi, không can thiệp thành bang. Cuộc sống công cộng là cạm
vào chuyện của loài người, con người không bẫy, con người chỉ nên tham gia cuộc sống
phải sợ thần linh, nhưng cũng không trông chờ công cộng khi cần thiết để tránh khỏi đau
gì ở thần linh. Con người phải nhận biết và đớn. Người có hiểu biết không nên tích cực
tự tìm hiểu để biết rằng, vì linh hồn được tham gia vào đời sống công cộng. Ông viết:
tạo nên bởi các nguyên tử, nên linh hồn là “Chúng ta hãy cố gắng hy sinh bản thân
hữu hình, không thể tồn tại lâu hơn thân một chút để có những thái độ, hành vi đúng
xác, con người được tạo thành từ những đắn thể hiện sự tôn trọng tập tục, luật lệ ở
nguyên tử, khi sống đương nhiên ta không một số nơi cũng như chấp nhận những niềm
biết đến cái chết, còn khi chết, ấy là lúc các tin chung phổ biến về những gì liên quan
nguyên tử phân tán trong chân không, và đến sự cao quí và thiêng liêng của con
như vậy ta không còn là ta, cái chết không người, không nên tự gây phiền phức cho
đáng sợ. Còn đối với những đau đớn thì chính mình. Hơn nữa đừng dính vào việc
một ứng xử khôn khéo, thành thạo cũng làm xem xét ý kiến của họ. Thực hiện những
nó biến mất. Nếu đau đớn quá mạnh thì cái điều này thì một người có thể sống hòa hợp
chết sẽ giải thoát cho con người. Bằng cách với xung quanh” [8, tr.336]. Chỉ có một con
sống thận trọng theo sự hướng dẫn của tự đường đi đến tự do, đó là coi khinh những
nhiên, con người sẽ tránh được đau đớn và gì ở ngoài quyền lực của chúng ta. Tình yêu
bệnh tật. Đối với con người, vấn đề còn lại và bạn bè là nguồn gốc xác thực của niềm
là hạnh phúc, bình an, hài hòa nội tâm. Làm vui, những vui sướng của cuộc sống riêng
thế nào để có được những cái đó? Theo tư. Còn đời sống xã hội không phải là con
Epicurus, con người đạt đến điều đó không đường dẫn đến hạnh phúc. Con đường để
phải bằng sự giàu sang, bằng quyền lực, con người tìm kiếm hạnh phúc là rút lui vào
danh tiếng. Cuộc sống công cộng đem đến thành trì nội tâm của tâm hồn cá nhân, sao
cho con người nhiều đau đớn hơn niềm vui cho tâm hồn chúng ta không bị xáo trộn,
sướng, chỉ nhân lên những mối lo lắng. Con mất cân bằng, đạt đến sự vô ưu nhất. Điều
người nên tránh xa những tình huống khiến thiện cao nhất của con người là sự vui thú,
mình có thể bị đau đớn. Con người có thể cao nhất của sự vui thú là sự thanh thản 102 Nguyễn Thị Thanh Huyền
trong tâm hồn, không có nỗi đau khổ của Vậy nên, trước cái chết hay thảm kịch cá
thể xác và tinh thần. Muốn đạt được cách nhân, chúng ta phải có thái độ chấp nhận,
sống trên đây, con người cần đến tri thức, vì điềm tĩnh.
chỉ có tri thức, con người mới biết nên làm
Những người theo trường phái khắc kỷ
gì và nên tránh điều gì nếu muốn đạt được có khả năng chịu đựng nỗi thăng trầm của
bình an và thỏa mãn. Cuộc sống công cộng cuộc đời với tất cả sự điềm tĩnh và phẩm
không phải là cuộc sống của cá nhân. Nhà cách chịu đựng nghịch cảnh mà không phàn
nước chỉ là phương tiện, chứ không phải là nàn. Nếu trong trường hợp phải chịu đựng
mục đích. Hạnh phúc của cá nhân nào do quá sức, họ có thể chấm dứt cuộc sống bằng
chính người đó quyết định.
tự sát. Tinh thần khắc kỷ là: “Khi anh chấp
nhận một cuộc sống đơn giản, thì đừng tự
3.2. Tư tưởng của trường phái khắc kỷ
hào về điều này, nếu anh là người kiêng
rượu thì đừng luôn mồm nói “tôi là người
Trường phái khắc kỷ (mà người sáng lập là kiêng rượu”, nếu có lúc nào đó, anh muốn
Zeno) cho rằng, tự nhiên tuân theo các qui rèn luyện một cách chăm chỉ, hãy giữ kín
luật của lý tính, mọi cái trong tự nhiên đều điều đó và đừng phô bày nó. Đừng ôm
tuân theo lý tính tất yếu. Con người là một những bức tượng. Nếu anh rất khát nước thì
bộ phận của tự nhiên, con người chỉ cần có hãy uống nhiều nước lạnh sau đó rửa miệng
lý trí để thấu hiểu sự vật và chính mình. và đừng nói với ai cả” [7, tr.363]. Đối với
Mọi người về cơ bản đều như nhau và con người khắc kỷ, người đang đạt được tiến bộ
người có thể rèn luyện lý trí bên trong để thì không đổ lỗi cho ai, không ca ngợi ai,
thấu hiểu những định luật vĩnh cửu của thế không phàn nàn ai, không kết tội ai, không
giới. Điều chúng ta nên làm là hòa hợp bao giờ nói về chính mình như một người
chính mình với thế giới, phục tùng trật tự nào đó, hoặc như người không biết bất cứ
của vũ trụ. Con người đức hạnh và sáng điều gì.
suốt phải học để không quan tâm đến bão tố
Trường phái khắc kỷ quan niệm rằng,
của cuộc sống công cộng, thoát vào bên cuộc đời con người phải hài hòa với tự
trong bản thân mình, bỏ qua những thứ nhiên, nếu tuân theo quy luật và lý trí thì
công cộng chẳng mấy quan trọng. Chỉ có con người sẽ tìm được hạnh phúc; “người
cuộc sống nội tâm mới là cuộc sống đích tuân theo sự cần thiết một cách đúng đắn là
thực, những thứ ngoại tại là thứ mong manh kẻ khéo léo và khôn ngoan” [7, tr.366]. phù du.
Hạnh phúc duy nhất chỉ có thể tìm trong
Cũng như trường phái khoái lạc, trường đức hạnh. Đức hạnh lại chính là tuân theo
phái khắc kỷ chỉ quan tâm đến điều tốt đẹp quy luật, ý thức bổn phận, vượt qua và từ
của cá nhân. Trường phái khắc kỷ quan chối, luôn nghiêm khắc và kỷ cương với
niệm cho rằng, con người là một phần của chính bản thân mình. Con người có chấp
tự nhiên, sau khi chết sẽ trở về với tự nhiên, nhận hay chống đối số phận thì vẫn không
không có một thế giới siêu nhiên hay địa thắng được số phận. Nhiệm vụ quan trọng
ngục chờ đợi con người. Tự nhiên bị chi nhất của con người là phục tùng trật tự của
phối bởi những nguyên lý dựa trên lý trí, vũ trụ, nói cách khác là nhẫn nhục chịu
nên chúng ta không thể thay đổi được nó. đựng số phận càng nhiều càng tốt. Thông 103
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2018
qua hành động như vậy, con người sẽ được bỏ quan niệm đề cao con người xã hội, quay
hạnh phúc cao nhất, bao gồm sự thanh thản về quan niệm đề cao con người cá nhân,
trong tâm hồn. Điều thiện cao nhất gồm sự không quan tâm đến phúc lợi xã hội, mà chỉ
thanh thản trong tâm hồn. Lý tưởng sống quan tâm đến điều tốt đẹp của cá nhân. Đây có
của nhà khắc kỷ là vô cảm xúc. Nhà thông thể coi là một giá trị to lớn của triết học thời kỳ
thái khắc kỷ không cảm xúc, khô khan, Hy Lạp hóa. Việc rút lui khỏi cuộc sống công
không thiên kiến, không thể bị tổn thương. cộng, quay về thành trì nội tâm để tìm kiếm
Những lợi ích bên ngoài cũng như những cuộc sống yên bình, một mặt thể hiện sự bất
cám dỗ vật chất bên ngoài đều vô nghĩa. lực của con người trước thực tiễn xã hội, mặt
Danh giá và ô nhục, ham muốn và đau đớn, khác thể hiện nỗ lực không mệt mỏi của con
giàu và nghèo, sức khỏe và bệnh tật, sự người trong hành trình kiếm tìm hạnh phúc
sống và cái chết cũng không có gì quan của cá nhân. Cho dù dưới hình thức nào, các
trọng. Người có đức hạnh chối bỏ chúng, nhà triết học chính trị Hy Lạp cổ đại đều muốn
thậm chí có thể chối bỏ cả cuộc đời mình. con người có một cuộc sống tự do, công bằng
Quan niệm này của các nhà khắc kỷ khác và hạnh phúc. Đó chính là giá trị nhân văn của
với trường phái khoái lạc khi họ coi mục tư tưởng triết học chính trị Hy Lạp cổ đại.
đích cuộc đời con người là ham muốn
(khoái lạc), đối với các nhà khắc kỷ thì
chính ý nghĩa khách quan về trật tự tự nhiên Tài liệu tham khảo
chỉ dẫn đường đi cho con người.
Như vậy, trong triết học chính trị thời kỳ [1] Aristotle (2013), Chính trị luận, Nxb Thế giới,
Hy Lạp hóa, người ta không quan tâm đến Hà Nội.
cuộc sống công cộng, nếu có thì nhà nước [2] Edward McNall Burns (2008), Văn minh
cũng chỉ là phương tiện không phải là mục
phương Tây - lịch sử và văn hóa, Nxb Từ điển
đích. Vấn đề trọng tâm của triết học chính Bách khoa, Hà Nội.
trị thời kỳ này là đạo đức cá nhân. Giờ đây, [3] I. Berlin (2014), Bốn tiểu luận về tự do, Nxb
con người cá nhân được đề cao, đạo đức là Tri thức, Hà Nội.
đạo đức cá nhân và có thể đạt được thông [4] I. Berlin (2015), Tất định luận và tự do lựa
qua con đường tự nhận thức. Cuộc sống
chọn, Nxb Tri thức, Hà Nội.
công cộng không đem đến hạnh phúc cho [5] Plato (2008), “Cộng hòa”, Plato chuyên khảo,
cá nhân, vì vậy cá nhân tìm đến sự bình
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
thản trong tâm hồn, tránh xa cuộc sống [6] Plato (2008), “Luật pháp”, Plato chuyên khảo,
công cộng và rút lui vào đời sống nội tâm.
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
[7] Saxe Commins, Robert N. Linscott (2005),
“Quyển sách của Epictetus”, Mối quan hệ 4. Kết luận
giữa người với người, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng con người là [8] Saxe Commins, Robert N. Linscott (2005),
thực thể xã hội, không thể sống bên ngoài xã
“Các học thuyết chính”, Mối quan hệ giữa
hội, Platon, Aristotle đã đề ra các mô hình nhà
người với người, Nxb Văn hóa Thông tin,
nước lý tưởng. Epicurus và các nhà khắc kỷ từ Hà Nội. 104 Nguyễn Thị Thanh Huyền 105