Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ | Văn mẫu lớp 9
Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ tuyển chọn 6 mẫu hay, ấn tượng nhất, giúp các em học sinh lớp 9 dễ dàng thâu tóm toàn bộ nội dung chính, hóa thân vào nhân vật bé Đản kể lại cuộc đời đầy oan khuất của mẹ thật hay.
Preview text:
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
Dàn ý đóng vai bé Đản kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ Dàn ý 1 a. Mở bài
- Giới thiệu tình huống kể chuyện: Sống thiếu vắng tình yêu và sự chăm sóc của mẹ.
- Nhiều lần hỏi cha, cha hứa lúc khôn lớn cha sẽ kể. b. Thân bài
Kể về cuộc đời của mẹ:
- Kể về mẹ những ngày đầu về làm vợ cha: Nết na, thùy mị, không để thất hòa với cha.
- Kể về những ngày cha đi lính, một mình mẹ vừa sinh và nuôi Đản, chăm sóc
bà nội ốm và lo ma chay chu đáo cho bà.
- Những ngày cha mới trở về, cha buồn vì bà mất, Đản lại vô tình nói chuyện
cái bóng làm cha hiểu lầm mẹ. Thanh minh không được mẹ đi nhảy xuống sông tự vẫn.
- Sau cũng vì vô tình, Đản lại chỉ cái bóng trên vách, giải được nỗi oan cho mẹ
nhưng mẹ lại không còn.
- Cha đau khổ, ân hận, lập đàn giải oan cho mẹ. Mẹ trở về trong chốc lát rồi
quay lại chốn thủy cung cùng Linh Phi. Cha không đi bước nữa mà ở vậy nuôi
Đản trong nỗi day dứt khôn nguôi.
Những cảm xúc và suy nghĩ của Đản (có thể đan xen trong khi kể): 1
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
- Bây giờ thương mẹ, ân hận vì vô tình đẩy mẹ đến cái chết. c. Kết bài
- Khẳng định tình yêu thương và kính trọng với mẹ.
- Bày tỏ mong muốn không ai phải chịu nỗi đau như gia đình Đản. Dàn ý 2 1. Mở bài:
Giới thiệu tình huống kể chuyện, một số gợi ý:
• Giới thiệu bản thân trong vai bé Đản, một cậu bé thiếu thốn tình yêu và sự chăm sóc của mẹ.
• Chợt hiểu ra tất cả mọi chuyện khi đã lớn, hối hận khi chính sự ngây thơ
của tuổi nhỏ là một phần nguyên nhân khiến mẹ mình phải chịu nỗi oan khuất.
• Nhiều lần hỏi cha, cha hứa lúc khôn lớn cha sẽ kể và giờ tôi đã đủ để hiểu
những chuyện gì đã xảy ra, vì sao mẹ tôi không còn ở bên cạnh cha con tôi nữa. 2. Thân bài:
Kể lại câu chuyện và làm rõ nỗi oan khuất của mẹ:
• Được nghe mọi người xung quanh và cha kể về quá khứ của mẹ trong
những ngày đầu về làm vợ cha: Nết na, thùy mị, không để thất hòa với cha.
• Kể về những ngày cha đi lính, một mình mẹ vừa sinh và nuôi mình, vừa
chăm sóc bà nội ốm và sau đó là tất bật lo ma chay chu đáo cho bà. 2
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
• Kể về những ngày cha mới trở về, cha buồn vì bà mất, tôi lại vô tình nói
chuyện cái bóng làm cha hiểu lầm mẹ. Mẹ thanh minh không được nên đã
nhảy xuống sông tự vẫn.
• Sau cũng vì vô tình, Đản lại chỉ cái bóng trên vách, giải được nỗi oan cho
mẹ nhưng mẹ lại không còn.
• Cha đau khổ, ân hận, lập đàn giải oan cho mẹ. Mẹ trở về trong chốc lát
rồi quay lại chốn thủy cung cùng Linh Phi. Cha không đi bước nữa mà ở
vậy nuôi tôi trong nỗi day dứt khôn nguôi.
• Khi kể cần kèm theo những cảm xúc và suy nghĩ của Đản (từ lúc còn bé
chưa hiểu gì đến hiện tại lớn lên)
Cảm xúc ở hiện tại: ân hận vì vô tình đẩy mẹ đến cái chết. 3. Kết bài
• Khẳng định tình yêu thương và kính trọng với mẹ.
• Bày tỏ mong muốn không ai phải chịu nỗi đau như gia đình Đản.
Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
Cũng đã hơn chục năm ngày giỗ của mẹ, tôi nhớ mẹ, tôi cảm thấy ân hận vì
ngày bé mình đã dại khờ để rồi gây nên tội ác, để rồi cũng từ cái tuổi thơ trẻ đó
tôi đã làm mất mẹ, làm gia đình mỗi người một phương. Ngày ấy nghe nhiều
người kể rằng, mẹ tôi là một người phụ nữ đẹp, hiền và tư dung tốt, cha tôi cũng
vì mến hạnh mà lấy mẹ.
Cũng chẳng bao lâu sau nhà nước có lệnh đi đánh dẹp Chiêm Thành, cha tôi dù
trong con nhà dòng danh giá nhưng do không có bằng cấp mà phải ra sung binh
lần đầu tiên như mẹ đã đương thì với bà chỉ được mười ngày sau tôi chào đời.
Ngày qua tháng lại, thoắt cái nửa năm sau do không chịu đựng được cảnh chờ 3
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
đợi con, bà tôi đã qua đời mặc dù mẹ đã hết lòng thuốc thang chăm bẵm. Trước
khi mất bà có căn dặn, khuyên bảo mẹ tôi, và nói rằng người ăn ở phúc đức ắt
được quả báo tốt, con cái đầy đàn. Năm sau cha lại về cũng là lúc tôi mới bắt
đầu học nói. Cha đưa tôi đi hỏi mộ ba, nhưng lúc đó do không biết mùi nên tôi
cứ khóc khăng khăng không theo, cha gạn hỏi tôi mới chịu nói rằng: "Ông cũng
là cha mình ư? Ông cũng biết nói, nhưng không giống cha trước kia là biết khóc.
"Cha tôi sinh nghi đành gạn hỏi tôi, với sự ngây thơ của một đứa trẻ mới chập
chững biết nói rằng đêm nào cha cũng sang ngủ với tôi còn mẹ làm gì cha cũng làm theo.
Sinh lòng ghen tuông, cha không nghe lời tôi, về nhà chửi mắng mẹ thậm tệ
mặc mẹ có gạn hỏi ai nói, có cố gắng thanh minh thế nào đi chăng nữa. Bất đắc
dĩ, mẹ mới tắm rửa trai sạch sẽ rồi ra bến Hoàng Giang thả tôi. Đến tối khi chỉ
còn cha con tôi ở nhà, thấy bóng cha trên vách tôi vẫn tưởng là cha mình nên cất
tiếng gọi, dần dần cha mới hiểu được sự đau khổ và bất hạnh của mẹ, nhưng
liệu còn có thể làm gì hơn khi người đi rồi cũng đã đi xa, người ở lại thì phải
tiếp tục cuộc đời của mình. Mãi sau này tôi mới biết rằng mẹ đã được Linh Phi
cứu giúp và cho đi làm cung nữ dưới thuỷ cung. Gặp lại Phan Lang - một người
cùng làng, nhờ đưa quan tài giúp cha mình, sau khi cha tôi nhận thấy sai lầm,
mở đàn thanh minh thì mẹ cũng chỉ hiện lên trong thế giới mạng rồi dần dần biến mất.
Mong rằng ở một nơi xa mẹ vẫn có thể nhìn thấy tôi sống như nào và dõi theo
tôi. Con xin lỗi vì nếu ngày ấy con không dại khờ, nếu ngày ấy con trưởng
thành hơn thì bây giờ chúng ta đã có một cuộc sống ấm no hạnh phúc rồi.
Bé Đản kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ - Mẫu 1 4
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
Chỉ vì một câu nói ngây ngô của trẻ thơ, mà tôi đã làm mất mẹ, làm gia đình
mỗi người một phương. Vậy là đã 10 năm kể từ khi mẹ tôi đi mất, giờ tôi đã đủ
lớn để hiểu những gì đã xảy ra với gia đình tôi, tại sao tôi lại không có mẹ ở bên cạnh nữa.
Tôi còn thường nghe mọi người kể lại, mẹ tôi là một người phụ nữ đẹp, hiền
lành, tư dung tốt đẹp, cha tôi cũng vì mến dung hạnh mà cưới mẹ. Nhưng chẳng
bao lâu sau triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm, cha tôi dẫu trong con nhà
dòng, nhưng vì không có học nên phải lên đường sung binh đợt đầu. Bấy giờ mẹ
tôi đương thì mang thai tôi, được mười ngày thì tôi ra đời. Ngày qua tháng lại,
thoắt cái nửa năm, vì tuổi già cùng chẳng thể chịu được cảnh đợi chờ con, bà tôi
đã qua đời dù mẹ đã hết sức thuốc thang chăm sóc. Trước khi mất bà có dặn dò,
khuyên nhủ mẹ tôi, và nói rằng người sống phúc đức ắt được giống dòng tươi
tốt, con cháu đông đàn.
Qua một năm sau, cha tôi trở về, vừa lúc tôi mới bi bô học nói. Cha dẫn tôi đi
hỏi mộ bà, nhưng lúc ấy vì chưa nhận biết được cha mình nên tôi cứ khóc nằng
nặc không theo, cha gạn hỏi tôi mới vô tình nói nàng: “Ông cũng là cha tôi ư?
Ông cũng biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ biết nín thin thít.” Cha tôi
sinh nghi đành gạn hỏi tôi, với cái ngây ngô của một đứa trẻ chưa đến 2 tuổi, tôi
đã nói rằng đêm nào cha cũng đến chơi với tôi và mẹ làm gì cha cũng làm theo.
Tôi chẳng ngờ được rằng, chính câu nói đấy đã khiến cha tôi sinh lòng ghen tức.
Vốn tính đa nghi, cha tin lời tôi, về nhà mắng chửi mẹ thậm tệ mặc mẹ có gạn
hỏi ai nói, cố gắng giải thích như thế nào đi chăng nữa. Họ hàng làm xóm khi đó
cũng hết lời bênh vực và biện bạch nhưng cha cũng chẳng tin. Bất đắc dĩ, mẹ tôi
tắm rửa chay sạch, ra bến Hoàng Giang gieo mình. Một đêm phòng không vắng
vẻ, khi chỉ còn cha con tôi, thấy bóng cha trên vách tôi ngỡ là cha mình đến, cất
tiếng gọi, lúc nào cha mới nhận ra nỗi oan khuất của mẹ, nhưng liệu còn có thể
làm gì nữa khi người đi thì cũng đã đi rồi, người ở lại thì phải tiếp tục cuộc sống 5
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
của mình. Mãi sau này tôi mới biết, mẹ tôi được Linh Phi cứu, đưa xuống làm
cung nữ dưới thuỷ cung. Gặp lại Phan Lang- một người cùng làng, nhờ trao kỉ
vật và nói hộ nỗi lòng cho cha tôi, sau đó thì cha đã lập đàn giải oan ở bến sông,
nhưng mẹ tôi cũng chỉ hiện lên mờ mờ ảo ảo nói lời từ biệt, rồi biến mất.
Mẹ cứ vậy mà xa rời cuộc sống của hai cha con tôi. Tôi tin rằng ở dưới thủy
cung, mẹ vẫn dõi theo cuộc sống của chúng tôi. Tôi rất hối hận vì nếu ngày ấy
tôi đã hiểu chuyển, chẳng nói ra lời ngây ngô đó thì sẽ không có sự tình này. Và
tôi cũng mong rằng, sẽ không có gia đình nào gặp phải tình cảnh như gia đình
của chúng tôi nữa. Gia đình chỉ hạnh phúc nhất khi nó đủ trọn vẹn.
Bé Đản kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ - Mẫu 2
Đã bao năm trôi qua, nhưng tôi vẫn không thể nào quên được những việc làm
mà mình gây ra khiến vợ tôi – Vũ Nương chọn con đường bức tử. Một nỗi ân
hận ghê gớm vò xé nỗi lòng. Tôi sẽ kể cho các bạn cùng nghe câu chuyện ấy.
Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương, thuộc tỉnh Hà Nam. Lúc
bấy giờ, trong cùng làng có một người con gái đẹp người đẹp nét, con nhà
nghèo khó, tên là Vũ Thị Thiết, mọi người xung quanh thường gọi là Vũ
Nương. Mến vì dung hạnh đoan trang, nên tôi đã xin mẹ trăm lạng vàng cưới
nàng về làm vợ. Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức
chờ đợi đứa con đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy
ra khắp chốn. Tuy là con nhà giàu nhưng lại kém học học hành nên tôi phải đi
lính ở danh sách đầu tiên.Không còn cách nào khác, tôi đành phải chia tay mẹ
già, vợ trẻ để lên đường ra trận.
Vào ngày tòng quân, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:
- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít
gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn 6
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới
cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.
Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:
- Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo
gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ
rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư
uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn,
khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng
Trường An , nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải
xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về.Nàng nói đến đấy,
mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi
vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh sinh li và mối
tình ngàn dặm quan san cách trở.
Khi tôi đang ở nơi khói lửa chiến trường thì Vũ Nương đến kì đã sinh được một
bé trai. Cháu được đặt tên là Đản. Nhưng mẹ tôi, vì quá nhớ thương tôi mà ốm
đau mòn mỏi. Vũ Nương đã thay tôi hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì
bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Hàng xóm kể lại, Vũ Nương rất mực
thương xót, lo ma chay chu tất như cha mẹ đẻ. Nàng là một người trọn tình, vẹn
nghĩa, trọn đạo hiếu khiến tôi càng yêu thương, nể phục.
Cuối cùng, tôi cũng được bình an trở về sau bao nhiêu gian khổ hiểm nguy.
Mấy năm xa cách nhớ thương, nay đoàn tụ, vợ chồng mừng mừng, tủi tủi. Hay
tin mẹ qua đời, lòng tôi buồn khổ quá. Tôi hỏi thăm mộ mẹ rồi bế con đi viếng.
Dọc đường, bé Đản khóc, tôi dỗ: "Nín đi con, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm
rồi". Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là người trước đây đêm 7
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
nào cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dưới chân tôi như sụp xuống. Tôi
cứ nghĩ Vũ Nương là một người vợ ngoan hiền, đức hạnh, ngờ đâu nàng trở nên
hư hỏng như vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ Nương. Mối nghi ngờ trong
tôi mỗi lúc càng được thổi bùng lên, không có cách gì dập tắt được. Về đến nhà,
tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nương bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa
khóc vừa thanh minh: "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu,
vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp
chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba
năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không
bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng.
Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp...".
Nhưng bao nhiêu lời nói chân thật cũng không làm dịu được mối nghi ngờ trong
tôi. Hàng xóm thương Vũ Nương cũng ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng,
nhưng tôi không nghe ai hết. Ngọn lửa hờn ghen đang đốt cháy mọi cảm xúc, ý
nghĩ của tôi. Tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy
không thể thuyết phục được tôi, Vũ Nương bất đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng:
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự
yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay
đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc
tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu
còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Rồi nàng tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền và gieo
mình xuống sông tự vẫn.
Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nương mà còn làm khổ tôi,
dằn vặt tôi không phút nào yên. Tuy giận Vũ Nương thất tiết nhưng khi nàng tự 8
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi cố vớt thây nàng để chôn nhưng tìm mãi
không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt đứa con
trai bật thốt: “Cha Đản lại đến kia kìa!”, rồi chỉ tay vào bóng tối in trên vách:
“Đây này!”. Tôi ngỡ ngàng và hiểu ra tất cả. Thì ra, ngày thường lúc tôi vắng
nhà, Vũ Nương hay trỏ bóng mình trên tường đùa con và báo đó là cha Đản. Tôi
thấu hiểu nỗi oan động trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn tâm, nhưng mọi
chuyện trót đã qua rồi, không làm sao thay đổi được nữa…
Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đã đánh mất hạnh phúc
của mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi người đừng xử sự
nông nổi, cả giận mất khôn như tôi. Hãy tin yêu con người, thực lòng yêu
thương người thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau đớn.
Bé Đản kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ - Mẫu 3
Tôi sinh ra trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Vừa tới tuổi đôi mươi thì
được cha mẹ cưới vợ cho. Vợ tôi là Vũ Thị Thiết, dung mạo đoan trang, tính nết hiền lành, chăm chỉ.
Chúng tôi sống với nhau hòa thuận, hạnh phúc và cùng háo hức chờ đợi đứa con
đầu lòng sắp ra đời. Bất ngờ, chiến tranh bùng nổ, loạn lạc xảy ra khắp chốn.
Nhận được lệnh sung vào lính, tôi đành chia tay mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận.
Lúc tiễn đưa, mẹ già nắm chặt tay tôi, ngậm ngùi khuyên:
- Con ráng giữ mình nơi mũi tên hòn đạn, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến,
đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn
nhường cho người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được. 9
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và nói rằng:
- Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ấn phong hầu,
mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là
đủ. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân
triều còn gian lao. Rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho
thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi
người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất
thú. Dù thư tín có nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.
Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa nước mắt. Rồi tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo
lên đường. Mọi vật xung quanh vẫn như cũ, nhưng lòng tôi đã bùi ngùi bởi cảnh
sinh li và mối tình ngàn dặm quan san cách trở.Tôi đi được một tuần thì vợ tôi
sinh con trai. Nàng đặt tên cho con là Đản. Có đứa bé, cửa nhà cũng bớt phần
hiu quạnh. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mẹ già nhớ thương, lo lắng
cho tôi đến nỗi lâm bệnh nặng. Biết không sống được, bà nói với vợ tôi rằng:
- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng
con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết, chuông
rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết
không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào,
không thể về đền ơn được, sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống
dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ.
Dứt lời, mẹ tôi nhắm mắt. Vợ tôi khóc lóc xót thương và lo liệu chôn cất cho mẹ
tôi được mồ yên mả đẹp.
Một năm sau, giặc giã đã bị dẹp yên, tôi khăn gói trở về quê cũ. Biết tin mẹ đã
qua đời, tôi đau đớn lắm! Đón đứa con trai từ tay vợ, tôi bế con ra mộ mẹ để 10
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
thắp nhang. Ra đến đồng, nó quấy khóc mãi, tôi dỗ dành sao cũng không chịu nín. Tôi bảo con:
- Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi!
Bất chợt, con tôi bi bô nói:
- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi
trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi ngạc nhiên gặng hỏi thì con tôi kể rằng đêm nào cũng có một người đàn ông
đến nhà. Mẹ nó ngồi cũng ngồi, mẹ nó đi cũng đi theo, nhưng không bao giờ bế nó cả.
Tính tôi vốn đa nghi. Nghe con nói vậy thì cơn ghen chợt bùng lên dữ dội. Tôi
vội về nhà, la hét om sòm cho hả giận. Vợ tôi ôm mặt khóc mà rằng:
- Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum
họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm,
giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu đường hoa,
chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp
được bày tỏ, để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp!
Nhưng mặc cho nàng thanh minh thế nào tôi cũng không tin. Nàng hỏi tôi
chuyện kia do ai nói thì tôi giấu không cho nàng biết. Tôi mắng nhiếc nàng
thậm tệ rồi đuổi ra khỏi nhà, dù hàng xóm hết lời bênh vực. Cuối cùng, nàng
ngậm ngùi vừa nói vừa khóc:
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã
bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc
tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu
còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa? 11
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
Đoạn nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc,
tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan
trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị Nương, xuống đất
xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin
làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói xong, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Tuy giận là nàng thất tiết nhưng
thấy nàng tự vẫn, tôi cũng động lòng thương, cố vớt thây nàng để chôn nhưng
tìm mãi không được. Một đêm, tôi ngồi buồn bã trước ngọn đèn khuya. Chợt
đứa con trai bật thốt: - Cha Đản lại đến kia kìa! rồi chỉ tay vào bóng tối in trên
vách: - Đây này! Tôi chợt hiểu ra tất cả và ân hận vô cùng! Thì ra trong thời
gian tôi vắng nhà, đêm đêm, vợ tôi thường đùa với con, trỏ bóng mình mà bảo
là cha Đản. Tôi thấu hiểu nỗi oan tày trời của vợ và trách mình sao quá nhẫn
tâm, nhưng mọi chuyện trót đã qua rồi!
Ở bến sông cạnh làng, có người giữ chức quan đầu mục tên là Phan Lang, một
đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh xin tha mạng. Sáng ra, có người biếu
ông một con rùa mai xanh. Nhớ lại giấc mơ, ông liền thả con rùa ấy xuống sông.
Mấy năm sau, giặc Minh xâm phạm cửa ải Chi Lăng, dân chúng hoảng sợ lên
thuyền chạy trốn ra ngoài biển, không may gặp bão lớn, chết đuối cả. Thây Phan
Lang dạt vào một động rùa ngoài hải đảo. Có người đàn bà là Linh Phi trông
thấy nói rằng: - Đây là vị ân nhân đã cứu sống ta thuở xưa! Rồi bà ta lấy thuốc
thần cho uống. Lát sau, Phan Lang sống lại.
Linh Phi truyền mở tiệc thết đãi. Trong đám người dự tiệc, có một mĩ nhân chỉ
trang điểm sơ qua, nét mặt rất giống Vũ Nương. Phan Lang bèn hỏi chuyện và 12
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
được nàng cho biết mình là Vũ Thị Thiết, người cùng làng, vì oan khuất mà
phải gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn và được các tiên nữ dưới thủy
cung đưa về đây cùng chung sống với Linh Phi.
Trước khi Phan Lang được đưa ra khỏi thủy cung, Vũ Nương có nhờ ông ta nói
với tôi rằng sẽ có ngày nàng tìm về. Nếu tôi còn nhớ tình xưa nghĩa cũ thì hãy
lập một đàn giải oan ở bến sông.
Về đến làng, Phan Lang tìm gặp tôi, kể lại mọi chuyện, nhưng tôi không tin.
Lúc ông ta đưa ra kỉ vật làm tin là chiếc hoa vàng của vợ tôi thì tôi sợ hãi nhận
rằng đây đúng là vật mà nàng mang theo lúc ra đi.
Sáng hôm sau, tôi làm theo đúng lời nàng dặn, lập đàn giải oan suốt ba ngày
đêm ở bến sông. Quả nhiên, tôi nhìn thấy Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa ở
giữa dòng, theo sau là năm mươi cỗ xe trang trí cờ tán, võng lọng rực rỡ, lúc ẩn
lúc hiện. Tôi vội gọi thật lớn nhưng nàng vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng,
nhưng thiếp không thể trở về nhân gian được nữa!
Trong phút chốc, tất cả tan biến. Tôi gục đầu thổn thức. Một sự ân hận ghê gớm
vò xé lòng tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã làm cho vợ chồng, mẹ
con lâm vào cảnh sinh li tử biệt. Sai lầm của tôi không phương cứu chữa. Tôi
chỉ còn mong ước mọi người hãy nhìn vào thảm cảnh của gia đình tôi mà rút ra
bài học: Đã là vợ chồng thì hãy thương yêu, tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau. Có
như vậy, hạnh phúc mới được bền lâu.
Bé Đản kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ - Mẫu 4
“Cha ơi, mẹ con đâu?”. Câu hỏi của đứa con thơ dại lại vang lên, và một lần nữa
làm con tim tôi đau nhói. “Mẹ đang cùng bà nội sống ở một nơi thật xa, con ạ!” 13
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
… “Thế sao mẹ Đản không về nhà chơi với Đản?” … “Mẹ còn phải chăm sóc
bà mà con. Mẹ Đản về chơi với Đản thì ai sẽ trông nom bà, đúng không nào?”.
Đứa bé suy nghĩ một lúc rồi “dạ” một tiếng rõ to và trở lại nô đùa cùng chúng
bạn sau khi được tôi giải đáp. Còn tôi lại đứng lặng người, chỉ mong con tha lỗi,
vì tôi chỉ có thể trả lời bé như vậy. Nó còn quá nhỏ, quá bé bỏng để có thể hiểu
mọi việc. Tôi đã quyết định đến một ngày nào đó, khi bé đã khôn lớn, tôi sẽ kể
cho nó nghe tất cả những gì mà nó đang thắc mắc – câu chuyện về người mẹ
thùy mị, nết na. Nghĩ đến đây, khóe mắt tôi đã ngấn lệ, và bao nhiêu kí ức lại ùa về…
Một buổi sáng trong lành, từng chú chim nhảy nhót trên cành và líu lo cất tiếng
ca, từng cây lá khẽ đung đưa theo lời ru của chị Gió, mọi vật xung quanh đều
tươi tắn, vui mừng như gửi ngàn lời chúc phúc cho cuộc hôn nhân của tôi -
Trương Sinh – và nàng – Vũ Nương. Tôi cảm thấy thật hạnh phúc và vui sướng
biết bao khi lấy được nàng làm vợ. Nàng tên thật là Vũ Thị Thiết, cùng sống ở
huyện Nam Xương quê tôi. Từ lâu, tôi đã mến mộ tư dung tốt đẹp của nàng. Vẻ
đẹp của cả tâm hồn và vóc dáng ấy đã khiến không biết bao nhiêu chàng trai mơ
ước, và trong đó có tôi. Tôi quyết định bàn việc với bố mẹ và mang trăm lạng
vàng đến hỏi cưới nàng. Cha mẹ hai bên đều ưng thuận, tôi quyết mang đến cho
nàng một cuộc sống êm ấm. Thế nhưng, có lẽ nàng đã không nhận được những
gì mà nàng tưởng tượng và xứng đáng được nhận, bởi tôi là một kẻ vô học, bất
tài vô dụng, và theo như tôi tự nhận thấy thì tôi rất hay ghen. Biết vậy nên cô vợ
khôn khéo của tôi luôn luôn giữ gìn đúng khuôn phép, làm tôi cũng rất yên
lòng. Thế mà ông trời lại không cho chúng tôi được hạnh phúc. Thành thân với
nàng không bao lâu thì tôi lại nhận lệnh phải đi lính, giúp triều đình chống giặc.
Tôi không nỡ nào bỏ lại mẹ già ốm yếu và người vợ mà tôi hết mực yêu thương.
Nhưng số trời nào có thể tránh, tôi đành ngậm ngùi tòng quân giúp nước trong
nỗi buồn chia li vô hạn, bởi tôi biết mình chẳng học hành gì nên không có cách chối từ. 14
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
Ba năm dài dằng dặc ấy rồi cũng trôi qua, tôi được trở về nhà sau khi giặc giã
đã dẹp yên. Ba năm qua, tôi luôn sống trong nỗi nhớ thương và lo lắng về mẹ và
vợ. Tôi quyết nghe theo lời dặn của hai người, không ham danh lợi để quay trở
về được bình an. Không còn lâu nữa, tôi sẽ được gặp đứa con trai đầu lòng,
được gặp lại mẹ và vợ - những người tôi hằng thương nhớ. Thế nhưng, niềm vui
sum họp vừa được nhen nhóm thì tôi đã phải nhận một tin dữ: mẹ tôi đã mất!
Ông trời ơi, sao ông lại bất công thế này? Tôi chưa từng làm điều gì xấu, sao
ông cứ phải gieo rắc cho tôi những nỗi đắng cay và đau đớn đến vậy? Được
nhìn lại khuôn mặt thân yêu của vợ và hình ảnh đứa con bé bỏng, thế nhưng sao
lòng tôi không thể nào vui lên được, cứ nặng trĩu một nỗi buồn mất mát. Tôi dắt
bé Đản – con trai tôi – cùng đi thăm mộ người mẹ hiền mà tôi hết mực tôn kính.
Đứng trước ngôi mộ của mẹ, tôi không kìm nổi nước mắt, cũng bởi tôi quá nhu
nhược và chưa làm được gì để báo hiếu cho mẹ. Sao mẹ lại ra đi trong khi con
chưa thể đền đáp ơn nghĩa sinh thành và dưỡng dục của mẹ? Tôi hối hận và thấy
mình sao quá hờ hững lúc trước, không chăm chỉ học tập, nuôi mộng đỗ đạt, trả
hiếu cho cha mẹ, để rồi giờ đây tất cả đã quá muộn màng. Tôi ôm lấy bé Đản và
cất tiếng bày tỏ nỗi đau của mình cho con nghe. Thế nhưng, than ôi, tất cả như
được sắp đặt để đánh ngã bản thân tôi, con tôi hỏi tôi cũng là cha của nó ư?
Chẳng lẽ người vợ hiền của tôi đã không chung thủy? Không thể thế được, tình
yêu thương mà tôi dành cho nàng là rất chân thật, và nàng cũng hiểu được điều
đó cơ mà! Tôi gặng hỏi thêm thì bé Đản kể rằng đêm nào cũng có một người
đến bên mẹ nó. Đã vậy, mẹ nó còn bảo đó chính là cha của Đản. Quá nóng vội
và để nỗi ghen tuông điều khiển mọi tâm trí lẫn hành động, tôi đùng đùng trở về
nhà, không nói không rằng, mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Giờ đây, khi
đã hiểu rõ nguồn cơn và nghĩ lại, tôi thấy mình hồ đồ quá! Lúc đó tôi đã bỏ
ngoài tai mọi lời phân trần, giải thích của nàng và kể cả những lời khuyên ngăn
của bà con làng xóm. Chỉ vì một lời nói ngây dại của con và bản tính bồng bột
của tôi mà nàng đã phải chịu nỗi oan nhục kêu trời không thấu. Nàng đã phải tự 15
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
trầm mình xuống sông Hoàng Giang để bảo vệ cho tiết hạnh của mình. Tôi chỉ
cảm thấy một chút tiếc thương, và vẫn cho rằng mình đúng. Cho đến một đêm,
tôi cùng bé Đản – lúc này đã ba tuổi rưỡi – ngồi trong căn phòng trống. Dưới
ánh đèn dầu mập mờ, bỗng nhiên bé Đản chỉ tay vào bóng của tôi trên 1 vách và
reo lên: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Không thể nào, cha của nó lại chỉ là một cái
bóng vô tri vô giác thôi ư? Vậy là tôi đã trách nhầm Vũ Nương? Trời ơi, đến giờ
tôi mới rõ được nỗi oan của vợ mình. Hằng đêm, nàng đã mượn bóng mình trên
vách để giải đáp cho con về cha nó – cũng như tôi đang dối nó bây giờ. Tôi
quyết định đi hỏi cặn kẽ từng người thân, hàng xóm và cuối cùng lại phải ân hận
đến tận xương tủy khi biết thêm nhiều điều về nàng trong thời gian tôi đi lính…
Vợ tôi ngày ngày chờ mong tôi quay về trong nỗi buồn tủi mà khó ai thấu hiểu
được. Nàng luôn giữ lòng chung thủy, một mình nuôi dạy con, chăm sóc mẹ tôi
và lo toan mọi việc trong gia đình… Nhưng giờ đây, dù tôi có biết chuyện và
hối hận thì nàng cũng không thể quay trở về được nữa rồi!
Một hôm, trong lúc tôi đang dạy con học bài thì bỗng có một người đàn ông đến
nhà và xin gặp. Anh ta tên là Phan Lang, người cùng làng với tôi. Theo lời anh
ấy kể, anh được Linh Phi – vợ vua Nam Hải – cứu giúp khi bị rơi xuống sông
Hoàng Giang. Anh ta gặp vợ tôi ở đây và nhận gửi lời nhắn của nàng cho tôi.
Lúc đầu, tôi cũng không tin Phan Lang, bởi ở đời làm gì có chuyện lạ kì đến
vậy. Nhưng sau khi anh đưa tôi xem một chiếc hoa vàng lấp lánh, tôi nhận ra
ngay đây là kỉ vật mà tôi đã mua tặng cho nàng trước khi tôi tòng quân đánh
giặc. Tôi nghe theo lời anh, lập đàn giải oan cho vợ bên sông Hoàng Giang,
cúng tế ba ngày ba đêm. Quả thật, đến ngày thứ ba thì Vũ Nương đã trở về.
Nàng ẩn hiện giữa dòng sông, cờ hoa võng lọng rực rỡ. Nàng trao gửi tấm lòng
mình cho tôi và dặn tôi sống tốt. Vì phải chịu ơn Đức Linh Phi nên nàng không
thể về được nữa. Tôi ngậm ngùi nhận lời nàng. Nàng mỉm cười với tôi và biến
mất, để lại tôi bao nỗi tiếc thương và day dứt. Có lẽ tôi sẽ không thể nào tha thứ
cho lỗi lầm mà mình đã gây ra!!! 16
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
Giờ đây, khi nhớ lại những kí ức nghiệt ngã ấy, tôi lại càng vững chắc quyết
tâm sống tốt hơn, nuôi dạy bé Đản nên người. Con ơi, hãy thay cha thực hiện
một ước mong cháy bỏng – cải đổi xã hội phong kiến lạc hậu này, giúp cho đất
nước và cuộc sống tốt đẹp hơn, con nhé!
Đóng vai bé Đản kể lại Chuyện người con gái Nam Xương
Tôi là Trương Đản, cha tôi là Trương Sinh, mẹ là Vũ Thị Thiết, tôi sinh ra và
lớn lên trong một gia đình ở Nam Xương, mẹ tôi mất từ khi tôi còn rất nhỏ, giờ
tôi không thể nhớ ra khuôn mặt của mẹ mình, chỉ còn đâu đó cảm giác về đôi
vòng tay ấm áp cùng tiếng ru lúc ngủ mà thôi.
Tôi lớn lên trong sự thiếu vắng tình yêu và chăm sóc của mẹ, nhiều lần tôi gặng
hỏi cha về cái chết của mẹ nhưng nhiều lần cha tôi nói khi nào lớn cha sẽ kể.
Sau này khi được nghe kể lại mọi chuyện thì tôi vô cùng ngỡ ngàng, tôi nhớ mẹ,
càng ân hận vì ngày ấy mình chỉ vì một lời nói ngây ngô để rồi bi kịch xảy ra,
để giờ đây gia đình chẳng còn trọn vẹn.
Nghe cha tôi trầm ngâm kể lại, mẹ tôi là người phụ nữ thùy mị nết na, hết mực
khuôn phép, không để gia đình thất hòa. Cha cũng vì mến mẹ tôi tư dung tốt đẹp
nên xin cưới về làm vợ. Hai người chung sống với nhau rất hòa thuận nhưng
chưa được bao lâu, triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm, cha tôi vì không có
học nên phải đầu quân. Gia đình phải chia xa đương lúc mẹ tôi đang mang thai
tôi. Cha đi chẳng mấy ngày thì mẹ sinh ra tôi, mẹ một thân một mình nuôi nấng,
dạy bảo, lo mọi việc trong nhà chu toàn. Nhưng tiếc thay, bà tôi vì nhớ cha mà
sinh bệnh mất sớm dù mẹ tôi hết lòng chăm sóc.
Sau khi đánh giặc Chiêm thắng lợi cha tôi trở về. Biết tin bà mất, cha tôi buồn
rất nhiều, cha đã đưa tôi ra thăm mộ bà. Nhưng tôi có đâu ngờ rằng mình lại có
thể nói ra những lời như vậy. Lúc đó thấy cha rất xa lạ nên tôi rất sợ, vừa khóc 17
Văn mẫu lớp 9: Tưởng tượng bé Đản khi đã lớn kể lại cuộc đời oan khuất của mẹ
vừa hỏi: "Ông cũng là cha tôi ư?". Sau đó cha gạn hỏi thì tôi trả lời: "Cha Đản
đêm nào cũng đến, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi
cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả." Lời nói ngây ngô ấy của tôi đã
khiến cha tôi nghi oan mẹ tôi. Cha chửi bới đuổi mẹ ra khỏi nhà, mẹ vì uất ức
nên đã gieo mình xuống sông tự tử.
Không thấy mẹ, tôi khóc đến thất thanh, đòi mẹ mãi mà cha cũng chẳng nói gì.
Đêm đến, nhìn thấy bóng cha trên tường tôi hô to: "Cha Đản lại đến kia kìa".
Lúc đó cha mới biết mình đã trách oan mẹ rồi.
Cha đau khổ, ân hận lắm. Sau này khi gặp được chú Phan Lang - người cùng
làng đến truyền lại lời của mẹ, cha liền lập đàn giải oan bên sông. Mẹ xuất hiện
trên chiếc kiệu hoa lung linh, nổi bật ở giữa sông, lung linh và mở ảo, nhưng mẹ
chỉ nói dăm ba câu rồi biến mất, quay lại chốn thủy cung. Từ đó, cha tôi không
đi bước nữa mà ở vậy nuôi tôi trong nỗi day dứt khôn nguôi.
Mẹ ra đi, tôi vô cùng ân hận và dằn vặt chẳng có thứ gì có thể khiến tôi giải
quyết khúc mắc của tôi. Chỉ vì một lời nói khờ dại tôi đã khiến mẹ tôi rời xa tôi
mãi mãi. Con thật có lỗi với mẹ. Xin mẹ tha thứ cho con, mong rằng ở một nơi
xa mẹ sẽ có một cuộc sống tốt hơn, tôi tin rằng mẹ vẫn sẽ mãi dõi theo tôi. 18