-
Thông tin
-
Quiz
Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam | Tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển Đảng và vai trò chính của Đảng đối với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Chủ nghĩa xã hội khoa học (CN211) 138 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam | Tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển Đảng và vai trò chính của Đảng đối với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (CN211) 138 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.5 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
MỤC LỤC MỞ ĐẦU 2
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN SỨ MỆNH
LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 5
1.1. Đảng Cộng sản Việt Nam 5
1.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 7
1.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 11
Chương 2: NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 14
2.1. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển Đảng và vai trò chính của
Đảng đối với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 15
2.2. Mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân 16
2.3. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân Việt Nam 17 KẾT LUẬN 21
Danh mục tài liệu tham khảo 22 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài. Tính cấp thiết của đề tài
Học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong ba phát
hiện vĩ đại của Chủ nghĩa Mác, được thực hiện bởi C.Mác và Ăngghen. Sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân được coi là phạm trù xuất phát của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Phạm trù ấy đã trải qua một quá trình phát triển đầy sáng tạo, được
từng bước thực hiện bởi chính C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin, Hồ Chí Minh
và nhiều thế hệ các nhà lí luận chính trị vô sản trên thế giới và Việt Nam. Trong
các nhân tố, điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò
của Đảng Cộng sản được coi là điều kiện tiên quyết đối với thực hiện thắng lợi
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Vì vậy, nghiên cứu, tổng kết, đánh giá
vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là một việc làm quan trọng, cần thiết. Nghiên cứu nhằm nhận thức
đúng một số vấn đề lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, từ đó
đánh giá vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình lịch sử này.
Trên cơ sở đó, tác giả chọn đề tài “Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam”
làm tiểu luận kết thúc môn học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân cùng vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình hoàn thành sứ mệnh là
hướng nghiên cứu được các nhà lý luận chính trị rất quan tâm. Đã có nhiều công
trình nghiên cứu được công bố và có giá trị tham khảo rất quan trọng có thể liệt kê ra như sau:
Một là, các công trình là các giáo trình, đề cương bài giảng: 1
- Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình Chủ nghĩa
xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, PGS
TS Đỗ Công Tuấn chủ biên (2012), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học, PGS
TS Bùi Thị Kim Hậu chủ biên (2016), Giáo trình Học thuyết sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hai là, các tài liệu tham khảo có liên quan:
- Nhị Lê (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Dương Xuân Ngọc (2004), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Văn Linh (2020), Tư tưởng của Lênin về xây dựng chính đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân và sự vận dụng và thực tiễn Việt Nam, Trang
thông tin điện tử, Hội đồng lý luận trung ương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân - Phạm vi nghiên cứu: ● Không gian: Việt Nam
● Thời gian: Từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập tới nay (1930-2021) 2
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân cùng với những đặc điểm của Đảng Cộng sản dưới góc nhìn chủ
nghĩa xã hội khoa học, tiểu luận làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, tiểu luận tập trung vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ về quá trình thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Hai là, phân tích làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận được thể hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích và tổng hợp: phân tích cái toàn thể, phức
tạp thành những yếu tố cấu thành đơn giản hơn, nhận thức được một cách
sâu sắc từng góc cạnh của vấn đề; tổng hợp nhằm thống nhất các bộ phận, 3
các yếu tố nhằm nhận thức sự vật hiện tượng trong tính tổng thể , tổng hợp
các tài liệu từ sách báo, internet…
Phương pháp logic giúp cho việc trình bày ý tưởng một cách thống
nhất, rành mạch và rõ ràng.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung chính gồm 2 chương 6 tiết. 4 Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1.1. Khái niệm Đảng Cộng sản
Theo từ điển Cộng sản chủ nghĩa, Đảng Cộng sản là tổ chức cao
nhất của giai cấp công nhân, đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân và mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản là tổ chức
chính trị tiên tiến nhất, bao gồm những đại biểu ưu tú, giác ngộ và trung
thành nhất với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đảng được thành
lập để lãnh đạo cuộc đấu tranh thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền. Ở Việt
Nam, Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đảng Cộng
sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. [6, tr.31]
1.1.2. Đặc điểm Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị tiên tiến nhất của giai cấp công
nhân. Tính chất tiên tiến của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện ở
những dấu hiệu cơ bản: Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa 5
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nang
cho mọi hành động; Hai là, trên cơ sở trung thành với các nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, việc không ngừng vận dụng và phát triển
sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là nội dung cơ bản và trọng tâm
của toàn bộ hoạt động lí luận của Đảng ta; Ba là, đảng viên của Đảng là
những đại biểu giác ngộ nhất về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Đảng Cộng sản là một tổ chức có tính kỷ luật chặt chẽ. Tổ chức
Đảng chỉ có thể thực sự là một tổ chức cách mạng, mạnh mẽ, một khi có
kỷ luật nghiêm minh, tự giác [11, tr.250]. Đó là đặc điểm cơ bản làm nên
sự khác biệt căn bản giữa Đảng với các tổ chức chính trị khác của giai cấp,
của nhân dân, của dân tộc; đảm bảo sự thống nhất giữa Đảng với giai cấp,
với nhân dân và dân tộc.
Đảng Cộng sản là đại biểu trung thành cho lợi ích chính trị của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc. Đảng Cộng sản là đại biểu
trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân; thủ tiêu chủ nghĩa tư bản,
xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Lợi ích chính trị cơ bản
của giai cấp công nhân, phù hợp về cơ bản, lâu dài với lợi ích của nhân dân và dân tộc.
Đảng Cộng sản tồn tại, phát triển trong mối liên hệ mật thiết với
quần chúng nhân dân lao động. Đảng Cộng sản là hạt nhân lãnh đạo, Bộ
Tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân; giai cấp công nhân không
thể tự giải phóng mình, nếu không đồng thời giải phóng toàn nhân loại; sự
nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, sự tồn tại, phát triển của
Đảng Cộng sản không thể tách rời mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng
nhân dân. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền 6
trong một thể chế dân là chủ, vì vậy Đảng là người lãnh đạo – người
phụng sự nhân dân, người lãnh đạo – người đầy tớ trung thành của nhân
dân. Rõ ràng, xây dựng và không ngừng chăm lo gìn giữ, phát triển quan
hệ máu thịt với nhân dân là một trong những đặc điểm cơ bản của Đảng Cộng sản.
1.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ
nghĩa xã hội khoa học. Khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là
giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột
trong cuộc đấu tranh từng bước xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội là lập trường của những người Mácxít-Lêninnít chân
chính, là ranh giới phân biệt họ với những người cải lương và những phần tử
cơ hội, xét lại. Việc làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhất
là trong bối cảnh lịch sử mới đang đặt ra một cách bức thiết trên cả phương
diện lý luận lẫn thực tiễn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ
ý nghĩa và nội dung căn bản, cụ thể của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
Việt Nam thể hiện trong giai đoạn mới là: “Lợi ích giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng
xã hội chủ nghĩa…” [2, tr.89] 7
1.2.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Khái niệm giai cấp công nhân (giai cấp vô sản) có nhiều thuật ngữ
biểu đạt khác nhau nhưng C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn chỉ mang hai nội hàm cơ bản:
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất của giai cấp này,
đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ
sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao. [7, tr.11]
Về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp này trong chủ nghĩa tư
bản, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức
lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Đối
diện với nhà tư bản, công nhân là người lao động tự do, những người bán
sức lao động của mình để kiếm sống. [7, tr.12]
Sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành
giai cấp cầm quyền, không còn ở địa vị giai cấp bị bóc lột nữa, mà đã trở
thành giai cấp thống trị, giai cấp lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới, đại diện cho toàn thể nhân dân lao động làm chủ
những tư liệu sản xuất cơ bản đã được công hữu hoá. Trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân đặc trưng chủ yếu thuộc nội hàm
thứ nhất, còn theo nội hàm thứ hai, nếu xét toàn bộ giai cấp, thì giai cấp
công nhân đã là người làm chủ, nhưng trong điều kiện tồn tại nhiều thành
phần kinh tế, thì còn có một bộ phận công nhân làm thuê cho các doanh
nghiệp tư nhân. Những người này về danh nghĩa tham gia làm chủ cùng
toàn bộ giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhưng xét về mặt cá 8
nhân, họ vẫn là những người làm công, ăn lương và với những mức độ
nhất định, họ vẫn bị những chủ sở hữu tư nhân bóc lột giá trị thặng dư.
Những quan điểm của C.Mác và Ăngghen về nội hàm cơ bản của
giai cấp công nhân cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở
phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc
biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời
đại ngày nay. Căn cứ hai nội hàm cơ bản nói trên, chúng ta có thể định
nghĩa: Giai cấp công nhân là một loại giai cấp hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp ngày càng gắn hiện đại
và với lực lượng sản xuất, chủ yếu là sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo
các quan hệ xã hội; là lực lượng lãnh đạo và tổ chức tiến trình lịch sử từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai
cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu
sản xuất phải làm thuê chi giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá
trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân
lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác vì
lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ.
1.2.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định giai cấp
công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có khả
năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải
biến cách mạng, từ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải
phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất công và mọi hình thức bóc lột. Nói
một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: 9
Xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại” [11, t.2, tr.393]. Lênin cũng chỉ
rõ: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai
trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa” [12, t. 2, tr.15]
Ở những nước như nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải làm
công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng đó thông qua đội tiên
phong của mình, giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ
của nhân dân, “phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở
thành dân tộc” [1, t. 4, tr.624]. Không thông qua giai đoạn cách mạng đó
giai cấp công nhân không thể chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân
từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, không có người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi sự
áp bức, bóc lột, bất công.
1.2.3. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
Học thuyết C.Mác – Ph. Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là luận chứng khoa học về địa vị kinh tế - xã hội và vai trò lịch
sử của giai cấp công nhân, về những mục tiêu và con đường để giai cấp đó 10
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Học thuyết ấy chứng minh rằng, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định bởi những điều kiện
kinh tế - xã hội khách quan: Đó là “cùng với sự phát triển của đại công
nghiệp, chính cái nền tảng mà trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm
hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết,
giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp
đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau” [1, t.4, tr,613].
Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại
được nền công nghiệp hiện đại rèn luyện, đoàn kết và tổ chức lại thành
một lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng
nề, họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất
họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư
bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ
chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư
bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng
xích và được cả thế giới về mình.
Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp
công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ
khả năng làm việc đó. Đó là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả
năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của mình, khả năng hành động
chính trị để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Đó là khả năng đoàn kết
các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản. Đó là khả năng đi
đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể 11
giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là
đúng đắn. Thực tế lịch sử cho thấy chưa bao giờ có một tầng lớp trí thức
nào có thể thay thế một giai cấp để lãnh đạo một cuộc cách mạng xã hội
nhằm thay thế chế độ này bằng một chế độ xã hội khác. Tuy nhiên, cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình không phải diễn ra một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió.
1.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Trong quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân
Việt Nam đã khẳng định được vai trò của mình, xứng đáng là bộ phận của
giai cấp công nhân thế giới, tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Ngày nay, công nhân Việt Nam chủ
động tham gia giải quyết các vấn đề là thu hút sự quan tâm hàng đầu của
Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Các vấn đề đó có tính thời sự
cao như môi trường, dân số, di cư, khủng bố,… hay nổi bật trong những
năm gần đây là đại dịch toàn cầu COVID-19.
Giai cấp công nhân là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa; Giai cấp công nhân tham gia đông đảo vào các thành
phần kinh tế, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh để phấn đấu; Giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong
trong đấu tranh phòng chống tiêu cực, tham nhũng, tệ nạn xã hội, là lực 12
lượng chính trị - xã hội quan trọng trong việc bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Nghiên cứu sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam cần
nhấn mạnh hai khía cạnh:
Một là, xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ bóc lột, tự
giải phóng, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp
bức, bóc lột, xây dựng thành công xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hai là, phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và
bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp thực hiện “tri thức hoá
công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ vào sản xuất nhằm
tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc, xứng đáng với vai trò
lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội đúng hướng.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai
cấp công nhân Việt Nam bao gồm những người “lao động chân tay” và
“lao động trí óc” hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp và dịch
vụ công nghiệp thuộc các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hay thuộc
khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài. Họ hình thành một
giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến,
thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bằng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và
phát triển đất nước. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước ta,
là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân – nông dân – trí thức,
nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc. 13
Chúng ta không phủ nhận những nhược điểm của giai cấp công
nhân Việt Nam (như số lượng còn ít, trình độ kĩ thuật – khoa học chưa
cao, tay nghề còn thấp…) mà nguồn gốc sâu xa là ở trình độ phát triển
kinh tế chưa cao ở nước ta trong thời kì quá độ. Nhưng điều đó không thể
là lí do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Để
khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VII của Đảng ta, một nghị quyết trực tiếp vấn đề
công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng phát triển giai cấp
công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta
trong giai đoạn hiện nay là: “Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và
công nghệ theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xây
dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững
vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn, tay nghề cao, có năng lực
tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng,
hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình” [4, tr.98]
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đã thu được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Giai cấp công nhân
đang đi đầu trong việc xây dựng xã hội mới, nhất là trong việc xây dựng
cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là bằng chứng chỉ rõ
năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta, vai trò không thể thay
thế được của nó trong sự nghiệp… “lãnh đạo thành công công cuộc xây
dựng một xã hội mới, trong đó nhân dân lao động làm chủ, đất nước độc
lập và phồn vinh xoá bỏ áp bức, bất công, mọi người đều có điều kiện
phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc” [2, tr.33] 14
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đặc
biệt chú trọng phương thức xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội chỉ rõ: “Đối với giai cấp công nhân, coi
trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hoá công
nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng và tạo công nghệ mới, lao động đạt
năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới…” [2, tr.124-125]
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá X), Đảng ta đưa ra mục
tiêu xây dựng giai cấp công nhân đến năm 2020 có những nội dung đáng chú ý là:
Một là, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, ý thức cộng
sản, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho văn hoá dân tộc…
Hai là, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam
Ba là, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng…, ngày
càng “trí thức hoá”…, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học – công
nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức…, cơ chế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. [2, tr.49-50] 15 Chương 2:
NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan,
song, để biến khả năng khách quan thành hiện thực thì phải thông qua những yếu
tố chủ quan. Trong những yếu tố chủ quan ấy, việc thành lập ra Đảng Cộng sản
nói chung hay đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, tuyệt đối trung thành với sự
nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho giai
cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
2.1. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển Đảng và vai trò chính
của Đảng đối với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
2.1.1. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển Đảng của giai cấp công nhân
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định rằng, thông qua
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp công nhân phát triển từ trình độ tự
phát lên trình độ tự giác. Quá trình đó tất yếu phải diễn ra ở mọi phong trào công
nhân. Tuy nhiên, quá trình đó diễn ra nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn
thì điều đó phụ thuộc vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin diễn ra như thế
nào, chủ nghĩa đó có chiến thắng được các trào lưu xã hội-dân chủ và cơ hội chủ
nghĩa trong phong trào công nhân hay không. “Giai cấp công nhân phải có lí
luận cách mạng soi đường, đó là lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, một học
thuyết khoa học và cách mạng.” [9, tr.135]. Bên cạnh việc nắm vững lí luận ấy,
đồng thời giai cấp công nhân phải biết vận dụng một cách sáng tạo vào điều 16
kiện, hoàn cảnh của từng quốc gia dân tộc; phải kiên quyết đấu tranh chống lại
những trào lưu cơ hội, xét lại, phủ nhận hoặc làm sai lệch chủ nghĩa Mác-Lênin,
phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ nhận sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nước nhà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, ở nước ta thực tiễn lịch sử đã chứng minh
rằng: “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm
1930. Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu
tranh tự phát sang đấu tranh tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai
cấp tự giác và thực sự cách mạng.” [11, tr.281]. C.Mác đã nhấn mạnh rằng, trong
cuộc đấu tranh của mình chống lại quyền lực liên hiệp giữa các giai cấp hữu sản,
chỉ khi nào giai cấp vô sản tự mình tổ chức được thành một chính đảng độc lập
với tất cả mọi chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập ra thì mới có thể hành động
với tư cách là một giai cấp được. [1, tr.392]
2.1.2. Vai trò chính của Đảng đối với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân
Điều kiện cơ bản đảm bảo giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh
lịch sử của mình là Đảng Cộng sản, đội tiên phong của nó luôn được vũ trang bởi
một lí luận cách mạng và khoa học. Trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản đã khẳng định
được khả năng lãnh đạo xứng đáng là lực lượng cách mạng đi đầu của toàn dân,
cụ thể qua những hoạt động như: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn;
Tuyên truyền giáo dục giai cấp công nhân và nhân dân lao động; Tổ chức, thực
hiện cách mạng; Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; Lãnh đạo
công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ cho cách mạng; Xây 17
dựng, củng cố mối liên hệ với quần chúng nhân dân, xây dựng và củng cố khối
đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và củng cố tình đoàn kết giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và nhân loại tiến bộ trên thế giới.
2.2. Mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân
“Không có một giai cấp nào khi giữ vai trò lãnh đạo xã hội mà lại không
thông qua chính đảng của mình” [7, tr.95]. Đảng chính trị đó là tổ chức cao nhất,
đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp. Đối với giai cấp
công nhân, đảng đó là Đảng Cộng sản, không chỉ đại diện cho trí tuệ và lợi ích
của giai cấp công nhân mà còn đại diện cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc.
Cho nên phải có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt, có
đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của toàn giai cấp và
toàn bộ phong trào để giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai cấp của Đảng, là nguồn bổ sung lực
lượng của Đảng, Đảng là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp,
là biểu hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ của giai cấp công
nhân và của dân tộc. Giữa Đảng với giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu cơ,
không thể tách rời. Những đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là
công nhân nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân và đứng trên lập trường của giai cấp này.
Với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự
lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng Đảng có trình độ lí
luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc; vì thế không thể lẫn
lộn Đảng với giai cấp Đảng đem lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh 18
đoàn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai
cấp, trên cơ sở đó lôi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân
tộc đứng lên hành động theo đường lối của Đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình. Để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình; từ bản
thân giai cấp công nhân cho đến mỗi người công nhân cần thường xuyên vươn
lên, trưởng thành về các mặt: tư tưởng, chính trị, lập trường giai cấp, văn hoá,
khoa học kĩ thuật, tay nghề… Các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn thường xuyên
phát triển vững mạnh… ngay trong quá trình phát triển sản xuất công nghiệp hiện đại.
2.3. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam với quá trình thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu đảm bảo chi giai cấp công
nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử; Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng tư tưởng và lấy sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao
động làm mục đích cao nhất của mình. Đảng có mối liên hệ chặt chẽ với giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, là đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân
và của dân tộc Việt Nam [5, tr.37]
Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng tiên
phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân lãnh đạo
là nói đến toàn bộ giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng nhóm, từng
người. Để có thể lãnh đạo, giai cấp công nhân phải có lực lượng, có tổ chức tiêu
biểu cho sự tự giác và bản chất giai cấp của mình, lực lượng đó là Đảng Cộng sản. 19