Vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận chủ nghĩa xã hội khoa học
Lý do chọn đề tài. Sự hình thành và phát triển của nhà nước pháp quyền (NNPQ) và nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Đặc điểm và chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vai trò của sinh viên. Trách nhiệm của sinh viên. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (CN211)
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA : CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
_____________________________ TIỂU LUẬN
MÔN : CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Đề tài :
Vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : TRẦN THANH GIANG SINH VIÊN : ĐÀO LINH TRANG MSSV : 2051070043
LỚP : TRUYỀN THÔNG QUỐC TẾ K40
Hà Nội, ngày 08 tháng 06 năm 2021 MỤC LỤC I.
MỞ ĐẦU : LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI…………………………………….3 II.
NỘI DUNG……………………………………………………………...4
1. KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
1.1.Sự hình thành và phát triển của nhà nước pháp quyền (NNPQ) và nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam……………………………………4
1.2. Đặc điểm và chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam…………………………………………………………………6
2. TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XHCN Ở VIỆT NAM……………………………………..10
3. VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY…………………………………………….13
3.1.Vai trò của sinh viên………………………………………………..13
3.2. Trách nhiệm của sinh viên…………………………………………16
4. LIÊN HỆ THỰC TẾ TỚI BẢN THÂN LÀ MỘT SINH VIÊN……..18 III.
KẾT LUẬN…………………………………………………………….19
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………21 2 I.
MỞ ĐẦU : LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
- Trong xã hội đương đại, khi nhu cầu dân chủ hóa đời sống xã hội, nhu cầu
được tôn trọng, đề cao, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân
ngày càng tăng cao thì mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và
bình đẳng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
- Một xã hội “Vì con người, cho con người, bảo vệ con người” trở nên phổ
biến ở nhiều nước trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Để xây dựng
được xã hội đáp ứng các mục tiêu đó thì vai trò và trách nhiệm tiên quyết và
nặng nề nhất phải thuộc về Nhà nước - tổ chức quyền lực chung và có nhiều
ưu thế nhất của toàn xã hội. Tuy nhiên, không phải nhà nước nào cũng đủ
khả năng xây dựng được một xã hội lí tưởng. Mà công cụ chủ yếu và quan
trọng nhất để xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh,
một xã hội vì con người, cho con người chỉ có thể thuộc về nhà nước pháp
quyền - nhà nước phục vụ xã hội với những đặc trưng tiến bộ riêng. Do đó,
nhà nước pháp quyền trở thành mẫu hình lí tưởng, thành ước mơ vươn tới
của tất cả các nhà nước dân chủ và tiến bộ trên toàn thế giới.
- Theo xu thế chung của thời đại và xuất phát từ đòi hỏi của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, việc xây dựng nhà nước pháp
quyền là một nhu cầu tất yếu và “Sự đòi hỏi cần phải xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa không phải là ỷ muôn kì quặc của ai đó mà là
mệnh lệnh khách quan của thời đại.”
- Ở Việt Nam bản chất XHCN là dựa vào nhà nước XHCN và sự ủng hộ, giúp
đỡ của nhân dân. Đây là nền dân chủ mà con người là thành viên trong xã
hội với tư cách công dân, tư cách của người làm chủ. Quyền làm chủ của
nhân dân là tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, dân là gốc, là chủ, dân
làm chủ. Điều này đã được Hồ Chí Minh khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân.
Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. 3
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở dân.”
- Kế thừa tư tưởng dân chủ trong lịch sử và trực tiếp là tư tưởng dân chủ của
Hồ Chí Minh, từ khi ra đời cho đến nay, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng
luôn xác định xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vừa là mục
tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Bản thân là một sinh viên, em tự nhận thức được vai trò và trách nhiệm của
toàn thể nhân dân nói chung và bản thân cũng như tập thể sinh viên đại học
nói riêng đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay là thực sự cấp thiết. Vì vậy, em chọn đề tài “vai trò và
trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” để bàn luận một cách sâu sắc hơn trong bài
tiểu luận cuối kì lần này. II. NỘI DUNG.
1. KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
1.1. Sự hình thành và phát triển của nhà nước pháp quyền (NNPQ) và nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
a. Sự hình thành và phát triển nhà nước pháp quyền.
- Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân
chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà
tư tưởng của thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322
Tr.CN), Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư
tưởng chính trị và pháp lý tư bản sau này như John Locke (1632 - 1704),
Montesquieu (1698 - 1755), J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804),
Hêghen (1770 - 1831)… phát triển như một thế giới quan pháp lý mới. Cùng
với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư tưởng vĩ đại
khác cũng đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền như
Tômát Jepphecxơn (1743 - 1826 - tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm
1776), Tômát Pên (1737 - 1809), Jôn A đam (1735 - 1826)…
- Theo quan niệm chung, nhà nước pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp
luật, nhà nước hướng tới những vấn đề về phúc lợi cho mọi người, tạo điều
kiện cho cá nhân được tự do, bình đẳng, phát huy hết năng lực của chính 4
mình. Trong hoạt động của nhà nước pháp quyền, các cơ quan nhà nước
được phân quyền rõ ràng và được mọi người chấp nhận trên nguyên tắc bình
đẳng của các thế lực, giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
- “Nhà nước pháp quyền hình thức Nhà nước cộng hòa trong đó Nhà nước
xây dựng nên pháp luật để quản lý xã hội và tự đặt mình dưới pháp luật. Mọi
cơ quan Nhà nước đều phải được tổ chức và chỉ được phép hoạt động trong
khuôn khổ quy định của pháp luật.” – Wikipedia.
- Trong giai đoạn hiện nay, cách tiếp cận và những đặc trưng về nhà nước
pháp quyền vẫn có những cách hiểu khác nhau. Xong, từ những cách tiếp
cận đó, nhà nước pháp quyền được hiểu là nhà nước mà ở đó, tất cả mọi
công dân đều được giáo dục pháp luật và phải hiểu biết pháp luật, tuân thủ
pháp luật, pháp luật đảm bảo tính nghiêm minh; Trong hoạt động các cơ
quan nhà nước, phải có sự kiểm soát lẫn nhau, Tất cả vì mục tiêu phục vụ nhân dân.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những nội dung khái quát liên quan đến
nhà nước pháp quyền: đề cao vai trò tối thượng của hiến pháp và pháp luật;
đề cao quyền lợi và nghĩa vụ công dân, đảm bảo quyền con người; tổ chức
bộ máy vừa đảm bảo tập trung, thống nhất, vừa có sự phân công giữa các
nhánh quyền lực, phân cấp quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp chính
quyền nhằm đảm bảo dân chủ của nhân dân, tránh lạm quyền. Nhà nước có
mối quan hệ thường xuyên và chắc chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe
ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp
kiểm soát ngăn ngừa và trừng trị tệ quan lieu, tham nhũng, lộng quyền, vô
trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Tổ chức và hoạt động
của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất
quyền lực, có phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
b. Sự hình thành và phát triển nhà nước pháp quyền XHCN.
- Là một giá trị hình thành sớm trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý, tư
tưởng Nhà nước pháp quyền đã được nhân loại thử nghiệm, chọn lọc qua
nhiều thế k•, ngày càng được bổ sung nội hàm mới phát triển thành học
thuyết. Đến thời đại cách mạng tư sản, mô hình NNPQ đã trở thành hiện
thực ở nhiều nước phương Tây và là hình thức phổ biến trong thế giới đương
đại. Tư tưởng về NNPQ đối lập với sự chuyên quyền, độc đoán, áp bức
Nhân dân của các chế độ đương thời, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa
một bên là NNPQ (dựa vào pháp luật để hành động) và một bên là xã hội
công dân (bình đẳng trong việc chấp hành pháp luật). Những yếu tố trung
tâm, cốt lõi lịch sử của ý tưởng về NNPQ là: sự thượng tôn pháp luật, bảo vệ
nhân quyền và phân quyền (không có quyền lực độc đoán, phân lập các 5
quyền lực nhà nước theo các chức năng hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp) và bình đẳng trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Qua từng thời kỳ tư tưởng đó có những bước tiến mới thể hiện sự phát triển
tư duy nhân loại về trình độ tổ chức QLXH, phản ánh nguyện vọng khát
khao của con người sinh ra vốn có quyền tự do, bình đẳng; có quyền làm
chủ bản thân và làm chủ đời sống xã hội.
- Nhà nước pháp quyền XHCN : một mô hình nhà nước mà Việt Nam đang
hướng tới, trong đó kết hợp giữa một số yếu tố cơ bản của “xã hội pháp
quyền” với đặc thù của hệ thống chính trị nước ra, đó là hệ thống chính trị
nhất nguyên, do một đảng chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Khái niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN” lần đầu tiên được nêu ra tại Hội
nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (ngày
29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khoá VII của Đảng năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của
Đảng. Tiếp theo là tại các Đại hội lần thứ X và XI của Đảng đã có bước phát
triển về chất trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
- Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự
khẳng định và thừa nhận nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử; nó
không chỉ là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là tinh hoa, sản phẩm
trí tuệ của xã hội loài người, của nền văn minh nhân loại; chủ trương này
vừa đáp ứng xu thế phát triển tất yếu khách quan của thời đại, vừa phù hợp
với đặc thù của thực tiễn Việt Nam.
- Qua gần ba mươi năm đổi mới, cùng với những thành tựu về kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại... việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng, đánh dấu
một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới -
một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tổ chức bộ máy
nhà nước ngày càng được hoàn thiện hơn, hiệu quả quản lý của nhà nước
được nâng lên. Hệ thống luật pháp ngày càng kiện toàn và vai trò của luật
pháp được nâng cao, pháp chế xã hội chủ nghĩa được tăng cường.
1.2. Đặc điểm và chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. a. Đặc điểm.
Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, có thể thấy nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta có một số đặc điểm cơ bản như sau: 6
- Thứ nhất, xây dựng nhà nước do dân lao động làm chủ, đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Thứ hai, nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của hiến pháp
và pháp luật. Trong tất cả các hoạt động của xã hội, pháp luật được đặt ở vị
trí tối thượng để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rõ rang, có cơ
chế phối hợp nhịp nhàng và kiểm soát giữa các cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Thứ tư, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải do đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, phù hợp với điều bốn hiến pháp năm 2013.
Hoạt động của nhà nước được giám sát bởi nhân dân với phương châm:
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thông qua các tổ chức, các cá
nhân được nhân dân ủy nhiệm.
- Thứ năm, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tôn trọng
quyền con người, coi con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển.
Quyền dân chủ của nhân dân được thực hành một cách rộng rãi: “Nhân dân
có quyền bầu và bãi nhiệm những đại biểu không xứng đáng”; đồng thời
tăng cường thực hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
- Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau,
nhưng bảo đảm quyền lực là thống nhất và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
Như vậy, những đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà
Việt Nam chúng ta đang xây dựng đã thể hiện được tinh thần cơ bản của một
nhà nước pháp quyền nói chung. Bên cạnh đó nó còn thể hiện sự khác biệt
so với các nhà nước pháp quyền khác. Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích cho
nhân dân; nhà nước là công cụ chủ yếu để đảng Cộng sản Việt Nam định hướng đi lên CNXH. b. Chức năng.
- Đề cập đến chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi chú trọng
đến chức năng giai cấp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn
coi chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất của nó.
Nói về vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản không phải chỉ
là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực, mà
mặt cơ bản của nó là không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân cùng với
việc tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Ông viết: “Lần đầu tiên chuyên chính vô sản, tức là thời
kỳ quá độ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho 7
nhân dân, cho số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn
bóc lột”. Như vậy, có thể nói, bản thân chuyên chính vô sản, theo quan điểm
mácxít, tự nó đã thể hiện sự thống nhất giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa, về thực chất, là chính quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân và vì thế, trong nhà nước này, nền dân chủ phải là nền
dân chủ đầy đủ nhất, rộng rãi nhất và thực chất nhất – đó là nền dân chủ bao
quát toàn diện mọi lĩnh vực đời sống xã hội và lấy dân chủ trong lĩnh vực
kinh tế làm nền tảng. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể tồn tại và phát triển
được nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một cách đầy đủ và không ngừng
mở rộng dân chủ. “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của
sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn…” đã
được V.I.Lênin coi là một trong những nhiệm vụ cấu thành cách mạng xã hội
chủ nghĩa, là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hoàn thiện nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có những chức năng cơ bản sau : o
Không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân +
Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân làm chủ và do vậy, nhà nước
của chế độ này có nhiệm vụ tạo điều kiện để cho nhân dân tham gia một
cách tích cực và rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong mọi
hoạt động, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, đồng thời đấu tranh không khoan
nhượng, trừng trị kịp thời mọi hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của
nhân dân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và
chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và
trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm
quyền dân chủ của nhân dân”. +
Dân chủ là bản chất của Nhà nước ta, thực hiện dân chủ là thực chất, là mục
tiêu, động lực của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nói riêng, của
công cuộc đổi mới nói chung. Đây là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp
bách của thực tế xây dựng Nhà nước ta hiện nay. Bởi lẽ, chỉ có như vậy
chúng ta mới có thể giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta
nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy nhà nước. Đây là vấn đề có ý
nghĩa sống còn đối với chế độ ta. Chính quyền có trong sạch, được dân tin
yêu, ủng hộ thì mới vững mạnh và có hiệu lực. Chỉ có dựa vào sức mạnh của
nhân dân thì mới xây dựng được chính quyền trong sạch, giữ vững k• luật,
k• cương, an ninh, quốc phòng để từ đó, tạo động lực cho sự phát triển kinh 8
tế – xã hội. Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng ta đã khẳng định: “Mở rộng dân
chủ phải đi đôi với tăng cường k• luật, k• cương; quyền lợi đi đôi với nghĩa
vụ và trách nhiệm, nghĩa vụ; dân chủ được thể chế hoá thành pháp luật; khắc
phục tình trạng vô k• luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối” o
Tổ chức và quản lý kinh tế +
Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ một nền kinh tế chậm phát
triển, còn phổ biến là sản xuất nhỏ, nên nhiệm vụ tổ chức, quản lý kinh tế
của nhà nước là hết sức khó khăn, phức tạp, chính vì thế mà nhiệm vụ phát
triển kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt và là một nhiệm vụ khá mới mẻ.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, trình độ của lực lượng sản
xuất còn thấp, song song với đó lại phải vừa thực hiện nhiệm vụ giữ vững an
ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội, vừa phải bảo đảm ổn định và cải
thiện không ngừng đời sống nhân dân về mọi mặt, nhiệm vụ tổ chức, xây
dựng của Nhà nước ta càng trở nên nặng nề. Trong các Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII, thứ VIII, thứ IX và mới đây, lần thứ X, Đảng ta
đã ngày càng cụ thể hoá những tư tưởng, quan điểm lớn về phát triển kinh tế
đất nước: phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng về
hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với “những hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(7); thực
hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu; phát huy mạnh mẽ vai trò của khoa học và công
nghệ; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư, kinh tế đối ngoại; v.v.. +
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ
mới, đường lối kinh tế thể hiện rõ nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta xác định là: đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ
nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài; chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;… o
Tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học, giáo dục +
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là “xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn 9
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp
bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”.
Để có thể xây dựng thành công một xã hội như vậy, Nhà nước xã hội chủ
nghĩa đương nhiên phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo dục, văn hoá, phát
triển khoa học và công nghệ – đó được coi là “quốc sách hàng đầu” để phát huy nhân tố con người.
2. TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở VIỆT NAM.
- Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất giai cấp
công nhân, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với dân tộc, với nhân dân. Tổ
chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Hai là, cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước.
Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Quốc Hội để đảm bảo đây là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân.
Quốc Hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở nước ta, là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp., Thực hiện một số nhiệm vụ thuộc quyền
hành pháp tư pháp, quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng
bước hiện đại hóa. Đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm mạnh và bãi bỏ các
thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Nâng cao năng
lực, chất lượng và tổ chức thực hiện các cơ chế chính sách. Đẩy mạnh xã hội
hóa các ngành dịch vụ công phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức về bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, điều hành quản lý đất nước. Có chính sách
đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành tốt nhiệm
vụ; đồng thời cũng phải xây dựng được cơ chế loại bỏ, miễn nhiệm những
người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm k• luật, đạo đức công vụ.
- Bốn là, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
Phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ cấp
bách, lâu dài của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. Với quan điểm đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: tiếp tục hoàn 10
thiện các thể chế và đẩy mạnh cách hành chính phục vụ nhiệm vụ phòng
chống tham nhũng lãng phí; xây dựng và hoàn thiện cơ chế khuyến khích và
bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng; xây dựng các chế tài để
xử lý các cá nhân và tổ chức vi phạm; động viên và khuyến khích toàn
Đảng, toàn dân thực hành tiết kiệm
- Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,
chúng ta cần nắm vững các định hướng lớn sau:
- Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo
đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do
Đảng lãnh đạo; xây dựng, bổ sung các thể chế, cơ chế vận hành cụ thể để
bảo đảm thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân;
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, tạo
thành sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo đó, cần đẩy mạnh
việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội nhằm: một mặt, bảo đảm
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; mặt khác, tạo cơ chế phù
hợp, có hiệu lực, hiệu quả để Quốc hội thực hiện tốt chức năng giám sát tối
cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; đổi mới và nâng
cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, tăng tính khả thi của pháp luật.
- Xác định rõ hơn vị trí, vai trò của Chủ tịch nước trong cơ cấu tổ chức bộ
máy nhà nước, đặc biệt là mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan
lập pháp, hành pháp, tư pháp; trách nhiệm, quyền hạn của Chủ tịch nước
trong việc thực hiện chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt nhà nước về
đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân.
- Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp. Làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của
Chính phủ phù hợp với vị trí, tính chất đó của Chính phủ.
- Xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Xác định Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp;
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư
pháp; cần nghiên cứu thấu đáo cơ chế bảo vệ Hiến pháp, hoàn thiện cơ chế
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp, nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. 11
- Về chính quyền địa phương, cần xác định rõ hơn địa vị pháp lý, mô hình tổ
chức, thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương; quan hệ giữa Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; tăng cường phân cấp, phân quyền giữa
Trung ương và địa phương nhằm bảo đảm sự điều hành, chỉ đạo thống nhất
của Trung ương, đồng thời phát huy tính tự chủ, tăng cường trách nhiệm của
chính quyền địa phương.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ là công việc của Nhà
nước mà là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo
đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội là vấn đề cốt tử, là tiền đề
quan trọng để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam. Đây là một sự nghiệp lớn, là quá trình lâu dài, nhưng phải tiến hành
với nhịp độ khẩn trương, đòi hỏi sự phấn đấu nỗ lực của cả hệ thống chính
trị, của toàn thể cán bộ, công chức và nhân dân, trong đó lực lượng vũ trang
nhân dân có vai trò hết sức quan trọng.
- Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước và xã hội tiếp tục được phát huy. Với bản lĩnh
lãnh đạo đã được tôi luyện, thử thách qua nhiều giai đoạn phát triển của cách
mạng, lấy lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc
làm mục đích tồn tại, Đảng ta đã luôn tự đổi mới tư duy lý luận, tổ chức và
hoạt động, nội dung và phương thức lãnh đạo để ngang tầm nhiệm vụ trong
thời kỳ mới. Với tư cách là đảng cầm quyền, phương thức lãnh đạo của
Đảng phải chủ yếu bằng nhà nước và thông qua nhà nước. Chính vì lẽ đó,
chăm lo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một trong những sứ
mệnh cao cả của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
- Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Đảng ta đã ban
hành 02 nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện khâu đột phá trong tiến
trình hoàn thiện tổ chức quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 48-NQ/TW của
Bộ Chính trị (khóa IX) về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đã đề ra mục
tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch. Trong đó, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực thi pháp
luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội,
giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, mở rộng hội nhập quốc tế; xây
dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; thực hiện quyền con người, quyền
tự do, dân chủ của công dân; góp phần đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW của 12
Bộ Chính trị (khóa IX) về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã
đề ra các giải pháp đồng bộ nhằm vừa giải quyết những vấn đề bức xúc
trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài vì mục tiêu xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, công bằng, phụng sự công lý, phục vụ Tổ quốc và
nhân dân; tạo cơ sở quan trọng cho công cuộc cải cách tư pháp đi vào chiều
sâu, đặc biệt là việc thay đổi về chất các thể chế, nguyên tắc, điều kiện bảo
đảm độc lập xét xử và nâng cao năng lực, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ các chức danh tư pháp.
- Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam được hình
thành trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về xây dựng,
hoàn thiện kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. Trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, cần thiết phải xây dựng các
thiết chế quyền lực phù hợp. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong nền
kinh tế đó, cơ chế thị trường cần được vận hành đầy đủ, linh hoạt để phát
huy mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao
đời sống của nhân dân, xóa đói giảm nghèo, tăng cường đoàn kết, đồng
thuận xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự
chủ. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường với sự tác động của
nhiều yếu tố trong và ngoài nước, với sự tham gia ngày càng nhiều chủ thể
thuộc nhiều thành phần kinh tế như hiện nay, Nhà nước phải bảo đảm và
phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật để mọi công dân có nhu cầu,
có điều kiện đều được tham gia hoạt động kinh doanh; mọi thành phần kinh
tế, mọi chủ thể kinh tế đều được coi trọng, cạnh tranh bình đẳng theo pháp
luật, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
3. VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
3.1. Vai trò của sinh viên.
- Kế thừa những giá trị của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, trong quá trình tìm
đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí, vai
trò và đặt niềm tin sâu sắc vào thế hệ trẻ. Theo Hồ Chí Minh, tương lai của
đất nước, của dân tộc nằm ngay trong tay các thế hệ thanh niên. Người
khẳng định, thanh niên là lực lượng cách mạng hùng hậu, bộ phận quan 13
trọng của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh.
Người cũng nhấn mạnh, muốn hồi sinh một dân tô •
c trước tiên phải hồi sinh
thanh niên. Trong thư “Gửi thanh niên An Nam” năm 1925, Người đã viết:
“Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên
già cỗi của Người không sớm hồi sinh” .
- Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, thanh niên, sinh viên cũng là lực lượng
xã hội quan trọng, một trong những nhân tố quyết định tương lai, vận mệnh
của đất nước. Sinh viên một bộ phận tinh túy, quan trọng trong thanh niên
Việt Nam, là lực lượng kế tục, phát huy nguồn trí tuệ nước nhà, là nguồn lực
chủ yếu trong thời đại kinh tế tri thức, khoa học công nghệ, đóng vai trò then
chốt trong phát triển đất nước, là lực lượng to lớn trong việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Đây là một trong những luận điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về vị trí, vai
trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam. Trong Thư gửi
thanh niên và nhi đồng Tết Nguyên đán năm 1946, Bác Hồ viết: “Một năm
khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân
của xã hội”. Tháng 8/1947, trong Thư gửi thanh niên, Hồ Chí Minh khẳng
định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà
thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên
muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn
luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc chuẩn bị cái tương lai đó”.
- Trong ngày khai trường đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
tháng 9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Non sông Việt Nam có
trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để
sánh vai các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần
lớn ở công học tập của các em”. Cách mạng là sự nghiệp vĩ đại, lâu dài của
nhiều thế hệ nối tiếp nhau, mỗi thế hệ chỉ có thể làm được một phần nhất
định. Ngày 20/12/1961, tại Đại hội Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần
thứ II, Người chỉ rõ: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ
thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương
lai – tức các cháu nhi đồng” .
- Cách đây 60 năm, ngày 07/5/1958, tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ II,
Bác Hồ đã căn dặn sinh viên: “Đổi với thanh niên trí thức như các cháu ở
đây thì cần đặt hai câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Đó là hai câu
hỏi cần phải trả lời dứt khoát thì mới có phương hướng”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đề cao vị trí, vai trò của thanh niên, xác định
thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, công tác thanh niên là vấn đề
sống còn của dân tộc, luôn phát huy vai trò thanh niên trong đấu tranh giải
phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội Đảng toàn 14
quốc lần thứ IV nêu rõ: “Tiền đồ rạng rỡ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa nằm trong tay thanh niên, thiếu niên và nhi đồng”. Nghị quyết số 04-
NQ/HNTW ngày 14/01/1993 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VII) khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất
nước bước vào thế k• XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay
không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa
hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng,
rèn luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân
tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”.
- Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa X) nhấn mạnh: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ
nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi
dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh
niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển
vững bền của đất nước”. Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp
người “vừa hồng vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quan trọng của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, gia đình, nhà trường và xã hội.
- Trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá (CNH, HĐH)ứa đất nước đồng thời hoàn thiện nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa một
cách hoàn chỉnh và toàn diện, sự cần thiết phải phát huy vai trò của sinh
trong việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là vô cùng quan trọng.
- Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (Khóa VIII) và Nghị quyết
Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (Khóa XI), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
- Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, yêu cầu của CNH, HĐH đã đặt
thanh niên, trong đó có sinh viên vào vị trí quan trọng hàng đầu. Điều này đã
được Đảng ta nhấn mạnh tại Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25-7-2008
BCHTW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên
thời kỳ mới: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của
đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, một
trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa 15
hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng CNXH. Thanh niên
được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và
nguồn lực con người. Chăm lo phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là
động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước”.
- Để phát huy được vai trò trên thì thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng
cần tiếp thu những mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại, đồng thời
phát huy tinh thần yêu nước niềm tự hào dân tộc, gìn giữ và phát huy bản
sắc văn hóa của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh đối với những biểu hiện vô
cảm, hoặc những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
- Đảng và Nhà nước ta khẳng định vai trò làm chủ và tiềm năng to lớn của
thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4
(khoá VII) chỉ rõ: "Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước
bước vào thế k• 21 có vị trí xứng đáng trên cộng đồng thế giới hay không,
phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên; vào việc bồi dưỡng, rèn luyện
thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một
trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng".
- Thanh niên là lực lượng xã hội hùng hậu, có sức khoẻ, có trình độ học vấn,
có tiềm năng sáng tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học hiện đại.
Trong giai đoạn cách mạng mới, với bối cảnh thế giới biến động phức tạp,
trước những thách thức to lớn của xu thế toàn cầu hoá về kinh tế, sự phát
triển của kinh tế tri thức, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định:
Thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, là nguồn nhân lực quyết định
thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.2. Trách nhiệm của sinh viên.
- Đảng ta xác định nhiệm vụ cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là: Kiên
định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục
đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phấn
đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Trên cơ sở nhiệm vụ cách mạng của Đảng và thực tiễn công tác Đoàn và
phong trào thanh niên hiện nay, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII đã xác
định nhiệm vụ chính trị của thanh niên Việt Nam là: "Rèn luyện về lý tưởng,
đạo đức cách mạng, về trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp, về thể
chất, xung kích đi đầu tham gia phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc;
xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền
phong Hồ Chí Minh vững mạnh, mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh 16
niên, góp phần xây dựng Tổ quốc Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh".
- Khẩu hiệu hành động là: "Tuổi trẻ Việt Nam thi đua học tập, rèn luyện, lao
động sáng tạo, xung kích, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
- Phong trào thi đua lớn là: "Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", với 4 nội dung:
a. Thi đua học tập, đi đầu xây dựng xã hội học tập và tiến quân vào khoa học công nghệ.
- Trong giai đoạn phát triển nhanh của khoa học, công nghệ và kinh tế tri
thức, việc học tập để đáp ứng với sự phát triển đó trở thành yêu cầu và nhu
cầu thiết thân đối với mỗi thanh niên.
- Tinh thần và thái độ học tập của thanh niên phải là: Học để làm người, học
để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân; học ở trường, học ở sách vở, học
lẫn nhau, học ở nhân dân, học suốt đời, thanh niên phải đi đầu trong một xã hội học tập.
- Học tập toàn diện: Văn hoá, chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin
học… Tích cực nghiên cứu khoa học, tuyên truyền ứng dụng khoa học kỹ
thuật, hăng hái tham gia các hoạt động sáng tạo.
b. Thi đua lập nghiệp, lao động sáng tạo, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu lao động và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện mới.
- Thi đua lập thân, lập nghiệp, xoá đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính
đáng. Phát triển rộng rãi phong trào sản xuất, kinh doanh giỏi; đẩy mạnh
phong trào tiết kiệm, tích luỹ trong thanh niên.
- Đẩy mạnh hoạt động lao động sáng tạo với tri thức và công nghệ mới, với
năng suất và chất lượng sản phẩm cao hơn trước. Đẩy mạnh hoạt động
“Sáng tạo trẻ”, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới.
c.Tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng, xung kích thực hiện nhiệm vụ kinh tế -
xã hội. Đặc biệt ở những lĩnh vực, địa bàn và đối tượng khó khăn.
- Tổ chức và tích cực tham gia các phong trào tình nguyện. Tổ chức thường
xuyên các hoạt động tình nguyện tại chỗ, ngày thứ bảy tình nguyện, chủ nhật
xanh; thành lập các đội hình thanh niên tình nguyện đảm nhận các việc khó,
việc mới, những vấn đề bức xúc; tích cực tham gia bảo vệ môi trường,
phòng chống thiên tai. Tình nguyện giúp đỡ người già, gia đình chính sách,
trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Tích cực và gương mẫu tham gia xây dựng
đời sống văn hoá ở cơ sở.
- Xung kích thực hiện các chương trình dự án. Tham gia thực hiện các dự án
quốc gia về phát triển kinh tế biển đảo, xây dựng đường Hồ Chí Minh, xây 17
dựng cầu nông thôn mới và khu dân cư ở đồng bằng sông Cửu Long. Chủ
động đề xuất đảm nhận các dự án, các công trình, phần việc thanh niên tham
gia phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
d.Xung kích bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội.
- Hăng hái tham gia các hoạt động xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gương
mẫu thực hiện luật nghĩa vụ quân sự, thường xuyên học tập nâng cao nhận
thức về tình hình, nhiệm vụ mới, ý thức cách mạng, nhận rõ âm mưu "diễn
biến hoà bình" của các thế lực thù địch.
- Tích cực tham gia các hoạt động giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, giữ gìn an toàn giao thông, đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội.
- Tham gia có hiệu quả phong trào "Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ
nguồn”, “Khoẻ để giữ nước” và cuộc vận động “Nghĩa tình biên giới, hải đảo".
- Trong thanh niên Quân đội, đẩy mạnh phong trào "Giành 3 đỉnh cao quyết
thắng" và cuộc vận động "Thanh niên Quân đội mẫu mực xây dựng chính
qui” với 5 nội dung: Mẫu mực về đạo đức, lối sống; mẫu mực về hành động
theo điều lệnh; mẫu mực về lễ tiết, tác phong quân nhân; mẫu mực về nội vụ
vệ sinh; mẫu mực về k• luật tự giác, nghiêm minh.
- Trong thanh niên Công an, thi đua thực hiện tốt phong trào "Thanh niên
Công an học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy" cụ thể là phong trào "2 thi
đua, 2 tình nguyện", với 4 nội dung là: Thi đua rèn đức, luyện tài; thi đua
xung kích lập công; tình nguyện tăng cường cho lực lượng trực tiếp chiến
đấu, hướng về cơ sở; tình nguyện chung sức cùng cộng đồng.
4. LIÊN HỆ THỰC TẾ TỚI BẢN THÂN LÀ MỘT SINH VIÊN.
Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, là một sinh viên, thanh niên thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là người có lý tưởng và đạo đức cách mạng; có lối
sống văn hoá; có ý chí tự tôn, tự cường dân tộc, có trình độ học vấn, giỏi về
chuyên môn, nghề nghiệp; có sức khoẻ tốt; có năng lực, tiếp cận và sáng tạo
công nghệ mới, có ý chí chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, phấn đấu vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, mỗi thanh
niên cũng như là sinh viên cần phải:
- Trau dồi về lý tưởng, rèn luyện đạo đức. Sống có văn hoá, chấp hành nghiêm
chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước. Gương
mẫu trong cộng đồng, làm tròn bổn phận của người công dân. 18
- Tích cực học tập nâng cao trình độ về chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp
vụ. Ra sức nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động, trình độ ngoại ngữ, tin học.
Vươn lên nắm vững khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
- Hăng hái tham gia các hoạt động tình nguyện, ngày thứ bảy tình nguyện; tham
gia các đội hình thanh niên tình nguyện, sẵn sàng đảm nhận việc khó, việc mới,
những vấn đề bức xúc; chủ động tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn
quốc phòng, an ninh ở mỗi địa phương, đơn vị.
- Phấn đấu nâng cao chất lượng của người đoàn viên; tích cực tham gia các hoạt
động của Đoàn, Hội, Đội; mỗi đoàn viên gắn hoạt động của mình với hoạt động
của tập thể thanh niên nơi mình sinh sống hoặc công tác.
- Chăm chỉ, sáng tạo, học tập, lao động; có mục đích, động cơ học tập đúng đắn,
học tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu học tập tốt là yêu nước.
- Quan tâm đến đời sống chính trị- xã hội của địa phương, đất nước, đồng thời
Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
đồng thời vận động mọi người xung quanh cùng thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
- Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa
các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực
dụng, xa rời các giá trị văn hoá- đạo đức truyền thống của dân tộc.
- Tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những việc làm thiết
thực, phù hợp khả năng như: tham gia bảo vệ môi trường, phòng chống tệ nạn
xã hội, xoá đói giảm nghèo, chống tiêu cực, tham nhũng, tham gia những hoạt
động mang tính xã hội như hiến máu tình nguyện, làm tình nguyện viên…
- Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. III. KẾT LUẬN
- Là lực lượng tri thức trẻ, năng động, sáng tạo, là trụ cột của nước nhà, thanh
niên, sinh viên có vai trò to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Thế nhưng
hiện nay, nhiều người không nhận thức được điều đó. Và thực tế chúng dễ dàng
nhận thấy, vì thiếu chín chắn, bồng bột trong suy nghĩ và hành động, đặc biệt
trong tiếp thu, học hỏi cái mới nên dễ dàng tiếp nhận thiếu chọn lọc văn hóa
không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đi
ra đường thấy lũ càn quét, côn đồ ít ai dám ngăn cản, thấy bạn bị đánh đập thì
đứng ngoài cỗ vũ, quay phim,... Lối sống thực dụng, ích kỉ, thờ ơ, vô cảm, vô
trách nhiệm, thiếu nhiệt tình, thiếu niềm tin đang là một căn bệnh của thế giới hiện đại.
- Nguy hiểm hơn, là một số sinh viên mới ra trường, chưa có việc làm dễ bị lôi
kéo, lợi dụng tham gia các tổ chức phản động, tuyên truyền chống phá Nhà 19
nước. Một số do yếu kém về nhận thức chính trị hoặc lập trường tư tưởng
không vững vàng nên dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng kích động, mua chuộc,
dụ dỗ tham gia biểu tình, gây rối trật tự công cộng. Bề ngoài các cuộc biểu tình
có hình thức ủng hộ những vấn đề chính trị của Đất nước như vấn đề biển
Đông, vấn đề Dân tộc, tôn giáo,... nhưng thực chất các thế lực thù địch lợi dụng
để kích động gây rối trật tự, chống phá chính quyền.
- Bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất
nhanh, phức tạp và khó lường, Đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thử
thách. Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức
thể hiện những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen,
phức tạp. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ đã làm gia tăng các
tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ
cao và làm phát sinh một số phương thức, thủ đoạn mới. Bên cạnh đó, các thế
lực thù địch không ngừng tiến hành các hoạt động chống phá đất nước ta, đặc
biệt là chúng tấn công phá hoại tư tưởng của tầng lớp thanh niên, sinh viên,
những tương lai của đất nước, làm cho họ mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ,
mất đi ý chí phấn đấu mà thay vào đó là lối sống thực dụng, hưởng thủ của
phương tây. Những vấn đề trên đặt ra nhiều yêu cầu mới trong công cuộc đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi mỗi người dân đặc biệt là thanh niên, sinh viên
cần nhận thức rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước cuối cùng đã xuất hiện trong lịch sử.
Nhà nước ra đời là kết quả của cuộc cách mạng, của quần chúng nhân dân lao
động do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính Đảng của nó là Đảng
Cộng sản. Đi lên CNXH chúng ta phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hôi
chủ nghĩa của dân , do dân, vì dân thực hiện mục tiêu : "Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.". Vì vậy, thế hệ trẻ - thanh niên và sinh
viên, những mầm non tương lai của đất nước phải luôn luôn tự nhắc nhở bản
thân mình về vai trò, trách nhiệm đối với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. 20