



Preview text:
Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Ví dụ và cách thức giải quyết?
1. Vấn đề cơ bản của triết học là gì?
Như chúng ta đã biết thì triết học là một bộ môn nghiên cứu những vấn đề chung và cơ bản của
con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan. Triết học xuất hiện ở cả
phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỉ VIII- VI trước công nguyên tại một số nền văn
minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập, trung đông... nhưng triết học kinh đển chỉ phát
triển ở Hy Lạp cổ đại.
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, vị trí vai trò của con
người trong thế giới ấy. Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn
đề chung nhất những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ
thống dướng dạng lý luận. Cũng như những khoa học khác thì triết học giải quyết rất nhiều vấn
đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kì quan trọng là nền tảng và là điểm xuất phát giải
quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý
thức, nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề
khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học.
1.1. Chủ nghĩa duy tâm lý luận về vấn đề cơ bản của triết học
Chủ nghĩa duy tâm chính là một trường phái triết học xuất phát từ quan điểm bản chất của thế
giới chính là ý thức. Ý thức sẽ quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm một phần nào đó phản ánh
nguồn gốc xã hội, thể hiện sự xem xét phiến diẹn, tuyệt đối hóa một mặt, một đặc tính nào đó ở
trong quá trình nhận thức, đồng thời nó gắn liền với lợi ích của giai cấp, tầng lớp áp bức bóc lột nhân dân lao động.
Chủ nghĩa duy tâm thì tồn tại 02 hình thức cơ bản đó là duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan
Duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, và khẳng định mọi sự vật hay
hiện tượng chỉ là phức hợp của cảm giác cá nhân mà thôi,. Đại biểu Gioóc giơ Béccli là nhà triết
học duy tâm chủ quan, một vị linh mục người . Đối với Béccli thì ông cho rằng " vật thể trong
thế giới quanh ta chính là sự phức hợp của cảm giác"
Chủ nghĩa duy tâm khách quan thì trái ngược với duy tâm chủ quan, trường phái triết học này
cho rằng ý thức, tinh thần nói chung như " ý niệm" " ý niệm tuyệt đối" " tình thần thế giới" là tồn
tại khách quan bên con người. Tiêu biểu cho quan điểm này là Platon nhà triết học cổ đại Hi lạp
hay là Hegel nhà triết học cổ điển Đức.
1.2. Chủ nghĩa duy vật lý luận về vấn đề cơ bản của triết học.
Chủ nghĩa duy vật hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật lại là trường
phát triết học xuất phát từ quan điểm bản chất của thế giới chính là vật chất. Vật chất có trước và
quyết định ý thức. Chúng có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, gắn liền với
lợi ích của giai cấp cũng như các lực lượng tiến bộ trong ở trong lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật là một hình thức của sự thực hữu luận với quan niệm rằng thứ duy vật được
coi là tồn tại chính là vật chất, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là
những kết quả của những tương tác vật chất.
Kể từ khi ra đời cho đến nay thì chủ nghĩa duy vật đã trải quan 03 giai đoạn chính là chủ nghĩa
duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Và chủ nghĩa
duy vật biện chứng là do C. Mác và Ăngghen xây dựng và sau này là Lênin hoàn thiện và bổ sung.
2. Cách giải quyết của triết học
Về vấn đề cơ bản của triết học thì bao gồm hai mặt cụ thể
- Mặt thứ nhất ( bản thể luận): đi tìm cho câu hỏi giữa vật chất và ý thức cái nào có trước cái nào quyết định cái nào ?
- Mặt thứ hai ( nhận thức luận) : Đi trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Đầu tiên đó là trả lời câu hỏi giữa ý thức và vật chất cái nào có trước cái nào có sau và cai nào
quyết định cái nào? Để trả lời cho câu hỏi này thì chúng ta có 3 phương hướng như sau. Phương
hướng một là vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức, đây là theo chủ
nghĩa duy vật . Phương hướng hai đó là cho rằng ý thức có trước , vật chất có sau, ý thức quyết
định đến vật chất, theo chủ nghĩa duy tâm. Phương hướng ba đó là ý thức và vật chất tồn tại độc
lập với nhau và nó không quyết định lẫn nhau. Như chúng ta có thể nhận thấy rằng thông qua
phương thức giải quyết một và phương hướng giải quyết hai là những phương hướng đối lập
nhau, đều thừa nhận một trong hai vật chất hoặc ý thức là nguồn gốc của thế giới, một cái sẽ
quyết định cái còn lại. Cách giải quyết này thì thuộc về triết học nhất nguyên còn cách giải quyết
ba là triết học nhị nguyên
Triết học nhất nguyên thì bao gồm hai trường phái, trường phái triết học nhất nguyên duy vật và
trường phát triết học duy tâm. Triết học nhị nguyên lại cho rằng vật chất và ý thức tồn tại độc lập
với nhau cả hai nguyên thể đều là nguồn gốc của thế giới.
Ở mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã đưa ra 03 cách giải quyết khác nhau, thông qua
03 cách này đã tóm gọn được nhiều nội dung và vấn đề của mặt thứ nhất của những vấn đề cơ bản của triết học.
Tiếp theo đó là mặt thứ hai ( nhận thức luận) đi trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận
thức được thế giới hay không. Ở khía cạnh này thì các nhà triết học theo chủ nghĩa duy tâm thì
cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới. Tuy nhiên thì các nhà triết học duy vật
họ lại có quan điểm con người mặt dù có khả năng nhận thức thế giới, tuy nhiên do vật chất có
trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định đến ý thức nên sự nhận thức đó phản ảnh thế giới
vật chất vào óc con người. Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng
nhận thức thế giới nhưng sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần tư duy, một nhà triết
học duy tâm khác theo " bất khả tri luận" lại phủ nhận khả nănhg nhận thức thế giới của con
người. Ở mặt nhận thức luận thì ở cách trường phái duy vật và duy tâm đều có những quan điểm
khác nhau về câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Tuy nhiên thì
hầu hết các nhà triết học họ đều cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới xung quanh họ.
Ví dụ về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong thực tiễn:
1. Trước khi thực hiện một trận đánh chúng ta làm quyết tâm thư, thực hiện tự phê bình và phê
bình; rút ra các nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực, thực hiện giáo dục nhận
thức thông qua các phong trào thực tiễn tư tưởng cục bộ địa phương . Hay giữa vật chất và ý
thức chỉ có những mặt đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức luận, bên ngoài lĩnh vực đó sự
phân biệt là tương đối, Vì vậy một chính sách đúng đắn là kết hợp hai điều này với nhau.
2. Thực hiện giáo dục chính trị tư tưởng gắn với đề cao lợi ích vật chất như là đạt danh hiệu thi đua khen thưởng.
Trả lời cho câu hỏi vật chất có trước hay ý thức có trước và cái nào quyết định cái nào? hay là
con người có nhận thức được thế giới hay không? Đây là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến
những vấn khác của triết học, các học thuyết triết học rất đa dạng, song cũng đều phải trả lời các
câu hỏi vật chất và ý thức cái nào có trước cái nào quyết định cái nào và mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức với nhau. Bởi vậy vấn đề quan hệ tư duy giữa tư duy và tồn tại giữa vật chất và ý
thức được coi là những vấn đề cơ bản của triết học.
3. Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Phương pháp là gì? Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản đó là phương pháp là cách thức để chỉ đạo thể giới.
Phương pháp luận biện chứng là gì? Phương pháp luận biện chứng là một trong những phương
pháp luận tồn tại ở cả triết học phương tây và triết học phương đông. Và nó xuất phát từ những
cuộc đối thoại giữa hai hay nhiều người với nguồn tư tưởng và ý kiến khác nhau và những người
này đều có cùng một mục đích đó là thuyết phục người khác.
Phương pháp luận biện chứng thì nhìn nhận sự vật hiện tượng trong mối liên hệ với nhau, chúng
nó ảnh hưởng và ràng buộc với nhau. Bởi vậy mà thấy được đối tượng ở nhiều trạng thái khác
nhau. Và những đối tượng này đều có khuynh hướng phát triển chung đó là thuyết phục được
người khác. Thể hiện rõ nét biện chứng khách quan trong vận động, nhìn sự vật hiện tượng một
cách luôn vận động phát triển
Ví dụ: Dưới tác động của dòng nước thì những hòn đá sẽ bị bào mòn.
Thứ hai là về phương pháp luận siêu hình. Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức thế
giới và cho rằng mọi sự vật hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại độc lập lẫn nhau, cái này
ở bên cạnh cái kia và nó luôn ở trong trạng thái tính không có sự vận động phát triển, ở phương
pháp này thì có quan điểm vô cùng trái ngược với phương pháp luận biện chứng. Phương pháp
luận siêu hình nhìn nhận sự việc một cách chủ quan, phiến diện.... không nhìn sự vật trong sự
vận động phát triển mà cho rằng nó ở trạng thái đứng im.
Ở phương pháp luận siêu hình thì con người chỉ nhìn thấy những sự vật hiện tượng riêng biệt mà
không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự
vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật, chỉ nhìn thấy trạng thái
tĩnh của sự vật mà quên đi sự vận động của những sự vật đó.
Ví dụ chuyện thầy bói xem voi
Một ví dụ nữa để ta có thể thấy sự khác nhau giữa phương pháp luận biện chứng và phương pháp luận siêu hình.
Phương pháp luận biện chứng cho rằng con người tiến hóa từ loài vượn là có cơ sở khoa học và
đã được chứng minh bởi nhiều thế hệ nhà khoa học khác nhau trên thé giới
Còn theo phương pháp luận siêu hình thì con người là do chúa trời tạo ra.